Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

vận dụng sự thống nhất giữa lí luận và thực tiễn trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.76 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
PHÒNG SAU ĐẠI HỌC

NGUYỄN THỊ THÚY

VẬN DỤNG SỰ THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG
HIỆN NAY Ở NƯỚC TA
Chuyên ngành: Toán giải tích
Mã số: 60 46 01 02

TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: TS. VI THÁI LANG


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thiện tiểu luận này, tôi đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình của
các thầy cô và tập thể lớp K16 - Toán giải tích. Trước hết tôi xin bày tỏ lòng
biết ơn sâu sắc tới TS. Vi Thái Lang người đã hướng dẫn tôi trong suốt quá
trình nghiên cứu và hoàn thiện tiểu luận. Tôi xin trân trọng cảm ơn Thư viện,
phòng sau đại học, tập thể K16 TGT, các đơn vị liên quan của trường ĐHSP
Hà Nội 2 những người đã trang bị cho tôi những kiến thức quý báu để giúp tôi
hoàn thiện bài tiểu luận này.
Hà Nội, tháng 01 năm 2013
TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Thúy


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong tiểu luận


này là trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam
đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện tiểu luận này đã được cảm ơn và
các thông tin trích dẫn trong tiểu luận này đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà Nội, tháng 01 năm 2013
TÁC GIẢ

Nguyễn Thị Thúy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................1
NỘI DUNG.............................................................................................3
Chương 1: Những nguyên tắc cơ bản của sự thống nhất giữa lí luận
và thực tiễn.............................................................................................3
1.1. Khái niệm thực tiễn và lý luận.........................................................3
1.2. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận,
lý luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu
cầu của thực tiễn......................................................................................6
1.3. Bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm.............................................10
Chương 2. Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta.........................13
2.1. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng như các tri thức khoa học mà nhân loại đã đạt được vào điều kiện
cụ thể ở nước ta.....................................................................................13
2.2. Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để
tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội...........................................................................................15
2.3. Trong giáo dục và đào tạo phải kết hợp nhà trường với xã hội, lý
luận với nhận thức.................................................................................18
KẾT LUẬN..........................................................................................21

TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................22


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực tiễn là phạm trù cơ bản trong lý luận nhận thức mácxít.V.I Lênin
cho rằng : “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất
và cơ bản của lý luận nhận thức”. Việc đưa vấn đề thực tiễn vào lý luận nhận
thức đã góp phần tạo ra bước ngoặt có ý nghĩa cách mạng của triết học mác
xít so với các hệ thống triết học duy vật cũ.
Lý luận xuất phát từ thực tiễn, không xa rời thực tiễn, phản ánh đúng
thực tiễn là lý luận khoa học. Lý luận góp phần thúc đẩy sự phát triển của thực
tiễn, phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội và lý luận khoa học tiến bộ.
Bệnh giáo điều và kinh nghiệm ở nước ta vẫn còn tồn tại, có nguyên
nhân cơ bản là sự yếu kém về lý luận. Sự yếu kém về lý luận khiến cho chúng
ta không có nhận thức đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở nước ta. Việc hiểu một cách đơn giản, xơ cứng, phiến diện lý luận
Mác - Lênin dẫn đến sự vận dụng lý luận ấy vào thực tiễn cách mạng còn
nhiều sai lầm. Chậm đổi mới tư duy lý luận là một nguyên nhân chủ quan dẫn
tới cuộc khủng hoảngtoàn diện ở nước ta thời kỳ trước đổi mới. Chính vì vậy
em đã chọn đề tài: “Vận dụng sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
trong giai đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta”.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Để hội nhập và phát triển, không bị hoà tan trong xu thế toàn cầu hoá
hiện nay, Đảng ta đã chủ động vận dụng lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn cách mạng Việt Nam. Nghiên
cứu đề tài này nhằm đưa ra giải pháp thúc đẩy nhanh quá trình hoàn thiện lý
luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.



2

3. Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu những quan điểm của triết học Mác- Lênin về vấn đề thực
tiễn và lý luận. Nghiên cứu, phân tích những thành tựu đã đạt được trong thời
gian qua ở Việt Nam trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào hoàn cảnh cụ thể của thực tiễn cách mạng Việt Nam hiện nay,
vận dụng trong phát triển giáo dục và đào tạo.
4. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật biện chứng.


3

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
NHỮNG NGUYÊN TẮC CƠ BẢN CỦA SỰ THỐNG NHẤT
GIỮA LÝ LUẬN VÀ THƯC TIỄN
1.1. Khái niệm thực tiễnvàlý luận
1.1.1. Khái niệm thực tiễn
Theo quan niệm của triết học Mác – Lênin thì hoạt động thực tiễn chỉ
có thể có được ở xã hội loài người, nó ra đời và phát triển cùng với sự ra đời
và phát triển của xã hội loài người. Thực tiễn là phạm trù trung tâm, nền tảng
của triết học duy vật biện chứng.
Trong “Luận cương về Phoiơbắc” C.Mác nhấn mạnh rằng: “Đời sống
xã hội về thực chất là có tính thực tiễn. Tất cả những sự thần bí đang đưa lý
luận đến chủ nghĩa thần bí, đều được giải đáp một cách hợp lý trong thực tiễn

của con người và trong sự hiểu biết thực tiễn ấy”.
Khác biệt với các nhà triết học duy tâm đã giải thích, xem xét các hiện
tượng trong đời sống xã hội xuất phát từ yếu tố ý thức, tư tưởng, tinh thần,
Mác phải xuất phát từ con người hiện thực, từ hoạt động vật chất của con
người. Mác xác định: “tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ
nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống”.
Để tồn tại và phát triển trước hết con người phải chế tác và sử dụng
công cụ lao động, tác động vào tự nhiên nhằm cải biến tự nhiên tạo ra của cải
vất chất nhằm thỏa mãn các các nhu cầu vật chất của con người như ăn, mặc,
đi lại… Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động đầu tiên cơ bản của con
người. Nhờ đó, tất cả các mặt của đời sỗng xã hội được hình thành, phát triển,


4

được tái tạo lại. Xã hội chính là “giới tự nhiên thứ hai” được tạo ra thông qua
hoạt động thực tiễn của con người.
C.Mác phê phán Phoiơbắc là không chú trọng tư duy trừu tượng, mà
coi trọng trực quan cảm tính của con người. Phoiơbắc đã tách nhận thức ra
khỏi hoạt động thực tiễn của con người.
Thực ra, nhận thức là một quá trình biện chứng từ thấp đến cao, từ trực
quan sinh động (nhận thức cảm tính) đến tư duy trừu tượng (nhận thức lý
tính) đến thực tiễn.
Mác cho rằng, thực tiễn chính là hoạt động vật chất mà tất cả các hoạt
động khác như hoạt động tinh thần, hoạt động chính trị, hoath động tôn giáo
đều phụ thuộc vào nó.
Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất cảm tính, có mục đích,
có tính lịch sử xã hội của con người, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Nói một
cách cụ thể hơn, thực tiễn là hoạt động có suy nghĩ, có ý thức, có tính toán,
hoạt động có đối tượng cảm tính của con người.

Hoạt động thực tiễn có tính năng động sáng tạo, là quá trình chuyển
hóa cái tinh thần thành cái vật chất. Hoạt động thực tiễn là qua trình tương tác
giữa chủ thể và khách thể nhận thức, trong đó chủ thể hướng vào việc cải tạo
khách thể, trên cơ sở đó nhận thức khách thể. Do vậy thực tiễn trở thành mắt
khâu trung gian nối liền ý thức của con người với thế giới bên ngoài. Thông
qua hoạt động thực tiễn, con người làm biến đổi tự nhiên, biến đổi hình ảnh
sự vật trong nhận thức và đồng thời biến đổi chính bản thân mình.
Hoạt động thực tiễn là hoạt động bản chất của con người, chỉ có con
người mới có các hoạt động thực tiễn, còn con vật chỉ hoạt động theo bản
năng. Theo Ph.Ăngghen, lịch sử xã hội loài người chẳng qua là lịch sử con
người theo đuổi các mục đích khác nhau. Hoạt đông có ý thức, có mục đích
chính là hoạt động đặc trưng, là cái để phân biệt sự khác nhau về chất giữa


5

người với động vật. Con người thông qua hoạt động lao động sản xuất đã
không những khai thác những cái sẵn có trong tự nhiên mà còn tạo ra những
cái không có sẵn, những “cái nhân tạo” để thỏa mãn những nhu cầu ngày càng
cao của mình. Do vậy, thực tiễn chính là phương pháp tồn tại cơ bản của con
người và xã hội, là phương thức đầu tiên và chủ yếu của mối quan hệ giữa
con người và thế giới.
Thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội vì: Hoạt động thực tiễn là dạng
hoạt động cơ bản của loài người. Đó là hình thức hoạt động đặc thù của con
người, luôn diễn ra trong một bối cảnh văn hóa xã hội nhất định. Là một sản
phẩm lịch sử, hoạt động thực tiễn luôn vận đông và phát triển không ngừng
theo các giai đoạn lịch sử. Trình độ phát triển của thực tiễn được đánh giá ở
trình độ, khả năng trinh phục, khai thác, tái tạo giới tự nhiên, trình độ làm chủ
xã hội của con người. Hoạt động thực tiễn không phải là hoạt động của cá
nhân người mà là hoạt hoạt động của loài người, trước hết là của đông đảo

quần chúng nhân dân - những người trực tiếp tham gia hoạt động sản xuất ra
của cải vật chất.
Thực tiễn là hoạt động có ý thức,có mục đích cuả con người. Hoạt động
thực tiễn nhằm mục đích cao nhất là cải tạo hiện thực. Con người nhận thức
thế giới hiện thực và tích cực tác động một cách có mục đích để cải tạo
nó.Trên cơ sở đó, thế giới mới bộc lộ những đặc tính, bản chất, nội dung, qui
định,...nhờ đó con người mới có tri thức về thế giới. Có như vậy, con người
mới có thể cải tạo hiện thực theo điều kiện của sự phát triển tự nhiên và xã hội.
Nếu xem thực tiễn tồn tại dưới dạng một chính thể thì nó bao gồm
nhiều yếu tố như : nhu cầu, lợi ích, mục đích, phương tiện và kết quả. Các yếu
tố đó góp phần tạo nên hoạt động thực tiễn của con người. Nếu con người
không có nhu cầu vật chất và tinh thần, không theo đuổi các mục đích khác
nhau, gắn liền lợi ích với các hoạt động của mình, không có công cụ và


6

phương tiện vật chất để thực hiện các hoạt động và hoạt động không có kết
quả thì đương nhiên không thể hoạt động thực tiễn.
Hoạt động thực tiễn có ba dạng cơ bản: Hoạt động sản xuất vật chất,
hoạt động thực nghiệm khoa học; hoạt động chính trị - xã hội.Ngoài ba dạng
hoạt động thực tiễn cơ bản này còn có dạng phát sinh, không cơ bản đó là các
hoạt động trong lĩnh vực đạo đức, tôn giáo, nghệ thuật, giáo dục… Các dạng
hoạt động này được hình thành và phát triển trên cơ sở, nền tảng của hoạt
động sản xuất vật chất, suy đến cùng chịu sự quy định của hoạt động sản xuất
vật chất.
1.1.2. Khái niệm lý luận
Lý luận, tiếng Hy Lạp là theo Ria, có nghĩa là sự quan sát, nghiên cứu,
nhận ra, thảo luận.
Lý luận là hệ thống tri thức chung, đáng tin cậy về một lĩnh vực nào đó

trong thế giới. Nói cách khác, lý luận là hệ thống các luận điểm nhất định gắn
bó chặt chẽ với nhau về mặt lôgic và phản ánh bản chất, các quy luật, hoạt
động và phát triển của khách thể được nghiên cứu.
Lý luận khác với giả thuyết ( Hypôthesis) ở chỗ, giả thuyết là những
hiểu biết mang tính giả định chưa được kiểm định. Lý luận khác với thực tiễn
ở chỗ nó thuộc lĩnh vực ý thức, tư duy, là sự phản ánh, tái hiện khách quan.
Lý luận có chức năng phản ánh hiện thực khách quan và phục vụ thực tiễn.
1.2. Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức, của lý luận, lý
luận hình thành, phát triển phải xuất phát từ thực tiễn, đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn
Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận là hai giai đoạN phát
triển kết tiếp nhau của quá trình nhận thức. Giữa chúng có mối liên hệ biện
chứng với nhau.


7

Nhận thức kinh nghiệm là nền tảng, cơ sở của nhận thức lý luận . Nó
cung cấp cho nhận thức lý luận những dữ liệu cụ thể, đa dạng, phong phú.
Nhận thức kinh nghiệm là sự phản ánh trực tiếp thực tiễn đời sống xã hội,
cho ta những hiểu biết ban đầu về sự vật hiện tượng, là cơ sở hiện thực để
kiển tra, đánh giá, sửa chữa, bổ sung cho lý luận.
Lý luận được hình thành và phát triển trên cơ sở của kinh nghiệm, thực
tiễn. Quá trình phát triển của thực tiễn đã đặt ra những vấn đề đòi hỏi lý luận
phải giải đáp. Lý luận phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan song lại đáng
tin cậy hơn kinh nghiệm. Lý luận thông qua hệ thống các khái niệm, phạm
trù, quy luật thể hiện tâm lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn. Do đó
phạm vi ứng dụng của nó mang tính phổ biến hơn so với tri thức kinh nghiệm.
Lý luận được hình thành và phát triển trên nền tảng thực tiễn song nó
có tính độc lập tương đối. Điều đó được biểu hiện ở chỗ, không phải lý luận

nào cũng xuất phát từ kinh nghiệm , có lý luận được xây dựng không trên cơ
sở những kinh nghiệm có trước . Điều này chỉ có thể lý giải bởi tính ưu việt,
vượt trội của tư duy trừu tượng của con người. Lý luận được hình thành và
phát triển, trở lại chỉ đạo hoạt động thực tiễn, kiểm nghiệm trong thực tiễn, bổ
sung, phát triển trong thực tiễn.
Mác cho rằng, “lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó
thâm nhập vào quần chúng”. Lý luận được xem như “kim chỉ nam cho hành
động”. Nó có thể dự kiến được phương thức vận động phát triển của sự vật
hiện tượng, phương hướng phát triển của thực tiễn .V.I Lênin cho rằng, không
có sách thì không có tri thức. Không có tri thức cách mạng thì không có lý
luận cách mạng. Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào
cách mạng.


8

Lý luận khoa học phản ánh đúng hiện thực khách quan. Nó góp phần
hạn chế tính mò mẫn, tự phát, tăng cường tính tự giác, chủ động tích cực
trong hoạt động của con người.
Tuy nhiên, lý luận do phản ánh gián tiếp hiện thực khách quan, mang
tính trừu tượng cao nên không phải lúc nào nó cũng mang lại nhận thức đúng
đắn, chính xác. Nếu nó phản ánh hư ảo hiện thực thì trở thành lý luận tôn
giáo. Nếu nó phản ánh sai, bóp méo hiện thực thì trở thành lý luận duy tâm
trong triết học. Nếu nó lạc hậu, không phù hợp với hiện thực, phản ánh xa rời
hiện thực, thành ảo tưởng, giáo điều thì trở thành sức cản đối với sự phát triển
của xã hội, thậm chí trở thành lý luận phản động, phản tiến bộ nếu nó được
giai cấp phản động sử dụng.
Do vậy cần phân biệt lý luận nói chung với lý luận khoa học, lý luận
phản khoa học, lý luận tiến bộ với lý luận phản tiến bộ.
Lý luận xuất phát từ thực tiễn, không xa rời thực tiễn, phản ánh đúng

thực tiễn là lý luận khoa học. lý luận góp phần thúc đẩy sự phát triển của thực
tiễn, phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội và lý luận khoa học tiến bộ .
V.I.Lênin trong “Bút ký triết học” cho rằng, thực tiễn cao hơn nhận
thức (lý luận) vì nó có ưu điểm không những của tính phổ biến, mà còn của
tính hiện thực trực tiếp. Thực tiễn của con người được lặp đi lặp lại hàng
nghìn triệu lần được in vào ý thức thành những cách logic.
Do vậy giữa lý luận và thực tiễn phải thống nhất với nhau. Coi trọng lý
luận, song không cường điệu, tuyệt đối hoá vai trò của lý luận, xem thường
thực tiễn, tách lý luận khỏi thực tiễn . Lênin cho rằng, bản thân ý chí của con
người, thực tiễn của con người, đối lập với sự thực tiễn của mục đích của con
người…Do chúng tách rời khỏi nhận thức và không thừa nhận hiện thực bên
ngoài là tồn tại chân thực (chân lý khách quan). Phải có sự thống nhất giữa
thực tiễn và nhận thức. Lênin xem đây chính là một nguyên tắc của lý luận


9

nhận thức, sự thống nhất của lý luận (của nhận thức ) và của thực tiễn chính là
trong lý luận nhận thức. Mác trước đó cũng đã nhấn mạnh rằng, chính trong
thực tiễn mà con người chứng minh được chân lý, chứng minh tính hiện thực.
Do đó tư duy không tách rời hiện thực. Nếu tách rời hiện thực, thực tiễn khỏi
tư duy là vấn đề thuần tuý kinh viện.
Thực tiễn có vai trò quan trọng đối với nhận thức. Nó vùa là cơ sở,
nền tảng, động lực, mục đích của nhận thức . Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của
chân lý.
Hồ Chí Minh cũng đã chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và
thực tiễn rằng: “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn
bản của chủ nghĩa Mac- Lênin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì
thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận
suông”.

Chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận khoa học của giai cấp công nhân
được hình thành và phát triển trong phong trào đấu tranh cách mạng. Là ngọn
hải đăng soi đường cho tiến trình cách mạng của giai cấp công nhân. Mác
viết: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình,
giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”. Thứ triết học
ấy - vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản - chính là triết học Mác.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mang tính cách mạng. Nó
xuất phát từ thực tiễn đồng thời không bao giờ chịu chấp nhận thực tiễn đã lạc
hậu đó là chủ nghĩa tư bản, nó mở ra con đường phát triển cho thực tiễn tương
lai - chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là một học thuyết mở, linh hồn của học thuyết
đó là phép biện chứng Macxít. Thực tiễn luôn vận động và biến đổi không
ngừng, do đó tư duy lý luận cũng phải vận động biến đổi và phát triển để có


10

thể phản ánh kịp thời, phản ánh đúng, hơn nữa còn định hướng cho thực tiễn
phát triển.
Chúng ta còn nhớ mỗi lần tái bản các tác phẩm kinh điển, Mác và
Ăngghen chủ trương vẫn giữ nguyên nội dung, chỉ bổ sung trong lời tựa
những dữ liệu thông tin mới từ thực tiễn nóng bỏng của cuộc đấu tranh cách
mạng của giai cấp công nhân. Lênin cũng là tấm gương sáng về sự phát triển
chủ nghĩa Mác trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử mới. Việc chuyển đổi từ
chính sách cộng sản thời chiến sang chính sách kinh tế mới cho phù hợp với
giai đoạn cách mạng mới là một ví dụ điển hình. Ở đây, Lênin đã vận dụng
sáng tạo học thuyết Mác vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước Nga.
Tuy nhiên, không phải lúc nào những người cộng sản và phong trào
cộng sản quốc tế cũng vận dụng đúng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và
thực tiễn. Họ, hoặc là quá đề cao lý luận mà xa rời thực tiễn, hoặc là quá đề

cao kinh nghiệm, thực tiễn mà không chịu học tập phát triển lý luận, vận
dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin vào thực tiễn cuộc sống. Bệnh giáo điều và
bệnh kinh nghiệm trở thành khá phổ biến đối với nhiều đảng viên cộng sản ở
nhiều nước trong thời gian qua.
1.3. Bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm
Bệnh giáo điều và bệnh kinh nghiệm hình thành và trở thành phổ biến
trong các nước xã hội chủ nghĩa trước đây là vì ở đó nhiều đảng viên cộng sản
đã vi phạm nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn .
Bệnh giáo điều có nguyên nhân là do cường điệu, tuyệt đối hoá vai trò
của lý luận đối với thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn .
Biểu hiện của bệnh giáo điều là bệnh kinh viện, sách vở. Xem lý luận,
sách vở như là cái gì tuyệt đối đúng không cần phải bổ sung, phát triển. Học
tập lý luận Mác- Lênin thì không chú ý tới nội dung và bản chất cách mạng
của nó, chỉ chú ý tới câu chữ và vận dụng câu chữ của các nhà kinh điển vào
bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào. Hoặc học tập lý luận Mác - Lênin theo kiểu


11

thuộc lòng, không chú ý tới những đổi thay đang diễn ra trong cuộc sống.
Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin một cách phiến diện, vận dụng một cách rập
khuôn những mô hình chủ nghĩa xã hội ở nước ngoài mà không chú ý tới đặc
thù của nước mình. Các chủ trương, chính sách lại thường xuất phát từ ý
muốn chủ quan, không thấy được hiện thực sinh động và phù hợp với thực
tiễn cuộc sống.
Ở nước ta, bệnh giáo điều còn được biểu hiện ở chỗ vận dụng những
kinh nghiệm trong chiến tranh cách mạng vào công cuộc xây dựng hoà bình,
kiến thiết đất nước trong thời bình. Học tập, áp dụng máy móc kinh nghiệm
của địa phương này vào địa phương khác mà không thấy đặc điểm riêng biệt
của từng địa phương. Đó, chính bệnh “giáo điều kinh nghiệm”.

Như vậy, nhìn chung bệnh giáo điều là khuynh hướng tư tưởng quá coi
trọng vai trò của lý luận, coi nhẹ thực tiễn, tách rời lý luận khỏi thực tiễn,
thiếu quan điểm lịch sử cụ thể, vận dụng lý luận, áp dụng kinh nghiệm một
cách máy móc, rập khuôn.
Đối lập với bệnh giáo điều là bệnh kinh nghiệm. Bệnh kinh nghiệm là
khuynh hướng tư tưởng quá coi trọng kinh nghiệm, thực tiễn, xem thường lý
luận.
Biểu hiện của bệnh kinh nghiệm là tư tưởng “kinh nghiệm chủ nghĩa”
theo kiểu “sống lâu lên lão làng” thoả mãn với những thành tích đã đạt được.
Trong công việc, chủ yếu dựa vào kinh nghiệm đã tích luỹ được, chủ quan,
lười hoặc không chịu khó tích cực học tập để không ngừng nâng cao trình độ
tư duy lý luận. Không thấy được vai trò quan trọng của giáo dục và khoa học
kỹ thuật. Không tôn trọng và sử dụng người tài, có tư tưởng bảo thủ, trì trệ
không chịu tiếp thu và vận dụng cái mới, cái tiến bộ.
Nguyên nhân của bệnh kinh nghiệm ở nước ta là tồn tại khá lâu nền
sản xuất nhỏ, chưa có nền sản xuất công nghiệp hiện đại. Trình độ dân trí còn


12

thấp, nền giáo dục còn nhiều bấp cập, khoa học - kỹ thuật phát triển còn hạn
chế. Mặt khác, do ý thức hệ phong kiến, các phong tụ c, tập quán, truyền
thống, thói quen của người dân còn mang những dấu vết của xã hội cũ. Đó
chính là mảnh đất thuận lợi để hình thành, tồn tại và phổ biến bệnh kinh
nghiệm chủ nghĩa.
Bệnh giáo điều và kinh nghiệm ở nước ta còn có nguyên nhân cơ bản là
sự yếu kém về lý luận. Sự yếu kém về lý luận khiến cho chúng ta không có
nhận thức đầy đủ về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
nước ta. Việc hiểu một cách đơn giản, xơ cứng, phiến diện lý luận Mác Lênin dẫn đến sự vận dụng lý luận ấy vào thực tiễn cách mạng còn nhiều sai
lầm. Chậm đổi mới tư duy lý luận là một nguyên nhân chủ quan dẫn tới cuộc

khủng hoảng toàn diện ở nước ta thời kỳ trước đổi mới.


13

CHƯƠNG 2
VẬN DỤNG NGUYÊN TẮC THỐNG NHẤT GIỮA LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN TRONG GIAI ĐOẠN CÁCH MẠNG HIỆN NAY
Ở NƯỚC TA
2.1. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
cũng như các tri thức khoa học mà nhân loại đã đạt được vào điều kiện
cụ thể ở nước ta
Vận dụng lý luận hình thái kinh tế - xã hội của triết học Mác - Lênin,
Đảng ta cho rằng con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Bỏ qua ở đây không có nghĩa là
bỏ qua tất cả, mà chỉ bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa. Đồng thời có tiếp thu, kế thừa
những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc
biệt về khoa học và công nghệ để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại.
Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là sự nghiệp
rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với
nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ.
Vận dụng lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác
-Lênin, Đảng ta cho rằng, nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai
đoạn hiện nay là thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội,
chống áp bức bất công. Đấu tranh, ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và
hành động tiêu cực, sai trái, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động



14

chống phá của các thế lực thù địch bảo vệ độc lập dân tộc, kiên định con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Vận dụng các quy luật kinh tế của thời kỳ quá độ, Đảng ta chủ trương
thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta kiên định mục tiêu của cách mạng Việt Nam là độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
Đại hội Đảng lần thứ IX và dự thảo văn kiện đại hội Đảng lần thứ X
vẫn khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân
dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần triết học lớn của Đảng và dân tộc ta.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc
về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng
và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta,
kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh
hoa văn hoá nhân loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp, giải phóng con người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,
kết hợp sức mạnh của nhân dân, của khối đoàn kết dân tộc, về quyền làm chủ
của nhân dân, xây dựng nhà nước thật sự là của dân, do dân, vì dân, về quốc
phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, về phát triển kinh tế
và văn hoá, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Về chăm
lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, về xây dựng Đảng trong sạch,
vững mạnh, cán bộ đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân…
Thời đại ngày nay là thời đại kinh tế tri thức. Cuộc cách mạng khoa học
- công nghệ ảnh hưởng sâu sắc tới mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tế
những thành tựu của công cuộc đổi mới của Đảng gần 20 năm qua cho thấy



15

rằng, Đảng đã vận dụng sáng tạo các tri thức khoa học nhân loại vào điều kiện
cụ thể ở nước ta.
Để có thể phát triển lực lượng sản xuất, thực hiện mục tiêu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp phát triển, Đảng ta xem phát
triển khoa học và công nghệ cùng với phát triển giáo dục là nền tảng, động
lực đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Đảng chủ trương tiếp thu tinh hoa, trí tuệ của nhân loại bằng cách tăng
cường giao lưu hợp tác quốc tế trong lĩnh vực khoa học, công nghệ. Thực
hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ. Ưu tiên, quan tâm và tạo điều kiện
cho đội ngũ trí thức, khuyến khích các nhà khoa học có nhiều công trình
nghiên cứu xuất sắc. Với phương châm “ đi tắt đón đầu” Đảng chủ trương đi
sâu, phát triển nhanh một số ngành, lĩnh vực sử dụng công nghệ hiện đại,
công nghệ cao như tin học, sinh học, vật liệu mới, tự động hóa.
Đảng cũng chỉ rõ, khoa học xã hội nhân văn tập trung hướng vào giải
đáp các vấn đề lý luận và thực tiễn, dự báo các xu thế phát triển, cung cấp
luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát
triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người, sáng tạo những giá trị văn hoá mới
của Việt Nam.
Khoa học tự nhiên hướng vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn, xây
dựng cơ sở khoa học để phát triển khoa học, công nghệ trọng điểm, khai thác
các nguồn tài nguyên, bảo vệ môi trường sống, phòng chống thiên tai.
2.2. Nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Việt Nam và quốc tế để
tiếp tục hoàn thiện lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội
Tình hình thế giới và trong nước hơn 30 năm qua là cơ sở để Đảng ta
tổng kết kinh nghiệm thực tiễn hoàn thiện mô hình chủ nghĩa xã hội.



16

Khi hầu hết các nước XHCN lâm vào tình trạng khủng hoảng kinh tế xã hội trầm trọng do mô hình chủ nghĩa xã hội tập trung quan liêu, bao cấp
được duy trì quá lâu. Trong khi đó, CNTB do điều chỉnh được mâu thuẫn xã
hội, sử dụng thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, sử dụng
các học thuyết xã hội … đã tỏ ra ổn định và phát triển. Công cuộc cải tổ ở
Liên Xô cũ và các nước XHCN ở Đông Âu thất bại, Trung Quốc, Cu Ba thực
hiện đường lối cải cách, mở cửa từng bước đã thu được thắng lợi đáng kể.
Sau thắng lợi năm 1975, do chủ quan, nóng vội, duy ý chí muốn tiến
nhanh lên chủ nghĩa xã hội, mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập trung quan liêu
bao cấp không còn phù hợp, gây cản trở tới tiến trình phát triển xã hội. Mặt
khác, ở bên ngoài bị các thế lực thù địch bao vây, cấm vận, hai cuộc chiến
tranh biên giới xảy ra… nước ta lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội .
Trước tình hình đó, Đảng ta chủ trương đổi mới toàn diện, trước hết là
đổi mới tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta.
Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một dịp để Đảng ta tổng kết kinh nghiệm thực
tiễn bổ sung, phát triển lý luận Mác - Lênin.
Đại hội IV (năm 1986), Đảng đề ra chủ trương đổi mới toàn diện đất
nước. Đại hội VII (năm 1991) đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Trong đó nêu rõ những nét khái
quát nhất về xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của
Đảng, khẳng định phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội
chủ nghĩa.
Đại hội VIII của Đảng (năm 1996) đưa ra nhận định nước ta đã ra khỏi
khủng hoảng kinh tế - xã hội, chỉ rõ hơn quan niệm về chặng đường đầu tiên



17

và chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ, tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành nước
công nghiệp vào năm 2020. Xác định đổi mới kinh tế là nhiệm vụ trung tâm,
kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ; coi phát triển giáo dục - đào tạo và khoa
học - công nghệ là quốc sách hàng đầu.
Đại hội IX của Đảng (năm 2001) xác định mục tiêu của các mạng Việt
Nam là: “Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa…”.
Dự thảo đề cương báo cáo chính trị Đại hội X của Đảng đã thẳng thắn
chỉ ra những yếu kém, khuyết điểm trong 20 năm đổi mới, rút ra những bài
học bổ ích từ những yếu kém và thành tựu trong công cuộc đổi mới. Trong đó
bài học lớn số 1 là, trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập, dân
tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh, đồng thời luôn luôn nhạy bén với cái mới, với những phát triển của
thực tiễn.
Như vậy, có thể nói Đảng ta đã vận dụng sáng tạo lý luận Mác - Lênin
vào thực tế công cuộc đổi ở nước ta. Đến nay, về cơ bản hệ thống quan điểm
lý luận về công cuộc đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
đã hình thành, nhận thức về chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ hơn. Đó là cơ
sở cho việc xây dựng và phát triển đường lối của Đảng góp phần bổ sung,
phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
chủ nghĩa xã hội.
Qua 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, liên tục tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn, chúng ta ngày càng thấy rõ hơn con đường đi lên chủ nghĩa

xã hội ở nước ta.


18

Để đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa chúng ta
phải tiếp tục phát triển kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa. Nhiệm vụ trung
tâm của thời kỳ quá độ là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Từng
bước xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, hoàn thiện nhà nước pháp
quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chú trọng
tăng trưởng kinh tế bền vững đi đôi với phát triển văn hoá, xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, coi văn hoá là nền tảng tinh thần của xã
hội, thực hiện công bằng xã hội. Vừa xây dựng vừa bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa. Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế.
Những vấn đề lý luận trên đây là kết quả của quá trình đổi mới tư duy
lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn của Đảng, là minh chứng cho việc Đảng
vận dụng sáng tạo lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
2.3. Trong giáo dục và đào tạo phải kết hợp nhà trường với xã hội, lý
luận với nhận thức
Đảng ta đã xác định: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những
động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều
kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội,
tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, Đảng chủ
trương giáo dục, đào tạo phải đáp ứng được nhu cầu phát triển của xã hội, kết
hợp giữa lý luận với thực tiễn, học đi đôi với hành.
Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hoá đòi hỏi sự nghiệp giáo dục,

đào tạo phaỉ có những biến đổi mạnh mẽ về quy mô và chất lượng. Thực hiện
phương châm “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở thành một xã hội học


19

tập” ngành giáo dục, đào tạo đã chú ý nâng cao chất lượng giáo dục, toàn
diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện “chuẩn hoá, hiện
đại hoá, xã hội hoá” hệ thống trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục.
Đảng cũng chỉ đạo ngành giáo dục & đào tạo coi trọng công tác hướng
nghiệp, phát triển mạnh việc đào tạo nghề sao cho phù hợp với sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế trong phạm vi cả nước. Bồi dưỡng đào tạo cho lớp trẻ
những kiến thức sản xuất, kỹ năng lao động và năng lực tiếp thu công nghệ
mới của các nước phát triển. Trong dự thảo văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X,
Đảng ta một lần nữa nhấn mạnh sự nghiệp giáo dục đào tạo phải khắc phục
những yếu kém, bất cập, phát huy những thành tựu đã đạt được để đáp ứng
yêu cầu phát triển đất nước trong tình hình mới.
Khắc phục bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều trong lĩnh vực giáo dục
và đào tạo, Đảng chủ trương thực hiện phương châm giáo dục: “học đi đôi với
hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội”.
Nhà trường là một thiết chế xã hội đặc biệt có chức năng đặc biệt là
giáo dục kiến thức, văn hoá, khoa học cho con người đặc biệt là thế hệ trẻ.
Nhà trường ngoài việc trang bị kiến thức văn hoá, khoa học giáo dục còn phải
giáo dục ý thức, kỹ năng lao động, thực hành cho học sinh. Học sinh không
chỉ nắm vững lý thuyết mà còn giỏi thực hành, khi ra trường có thể hoà nhập
ngay với thực tiễn sản xuất, không bị lạc hậu, ngỡ ngàng trước những yêu cầu
ngày càng cao của nền kinh tế thị trường. Những kiến thức trong nhà trường
học sinh thu nhận được phải bổ ích trực tiếp cho nghề nghiệp và cuộc sống
của họ sau này.
Một trong những yếu kém, bất cập của nền giáo dục nứơc ta là chưa

thường xuyên cập nhật những vấn đề thực tiễn của xã hội hiện đại vào trong
giảng dạy lý luận, lý thuyết. Bệnh học chay còn khá phổ biến lối học truyền
thống không động viên được tính năng động, chủ động trong tư duy của người


20

học. Nội dung, chương trình học tập “quá tải” đối với học sinh, nội dung chưa
phù hợp với thực tiễn cuộc sống xã hội.
Mục tiêu giáo dục của ta là đào tạo thế hệ trẻ không những giỏi về lý
luận mà còn giỏi về thực hành, “về đạo đức phẩm chất tư cách, “chuyên” về
nghề nghiệp kỹ thuật, có thể đảm đương được sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hóa. Để đạt được mục tiêu đó chúng ta càng phải quán triệt và vận
dụng tốt phương châm “giáo dục phải kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, học
đi đôi với hành”.
Thực tiễn đất nước đang đòi hỏi rất nhiều ở đội ngũ trí thức - những
người đi tiên phong trong lĩnh vực đổi mới tư duy lý luận. Chính vì vậy, trong
tình hình hiện nay lý luận có vai trò hết sức quan trọng. Đổi mới và phát triển
lý luận là một yếu tố góp phần tạo nên thắng lợi của công cuộc xây dựng và
phát triển đất nước. Lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cần được
hiểu và vận dụng một cách đúng đắn, sáng tạo. Đồng thời Đảng phải không
ngừng tự chỉnh đốn, nâng cao trình độ lý luận, nâng cao trí tuệ. Chỉ có như
vậy sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo mới đạt được những thắng lợi to lớn
hơn nữa.


21

KẾT LUẬN
Những vấn đề lý luận trên đây là kết quả của quá trình đổi mới tư duy

lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn của Đảng, là minh chứng cho việc Đảng
vận dụng sáng tạo lý luận Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Mục tiêu giáo dục của ta là đào tạo thế hệ trẻ không những giỏi về lý
luận mà còn giỏi về thực hành, “về đạo đức phẩm chất tư cách, “chuyên” về
nghề nghiệp kỹ thuật, có thể đảm đương được sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hóa. Để đạt được mục tiêu đó chúng ta càng phải quán triệt và vận
dụng tốt phương châm “giáo dục phải kết hợp giữa lý luận với thực tiễn, học
đi đôi với hành”.
Việc vận dụng guyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong giai
đoạn cách mạng hiện nay ở nước ta có ý nghĩa rất lớn, đã được đảng ta quán
triệt, vận dụng sâu sắc trong quá trình phát triển đất nước, đưa Việt Nam hòa
nhập với thế giới.


×