Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Nghiên cứu những biểu hiện xúc cảm tiêu cực trong học tập của học sinh tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.23 KB, 69 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
“Giáo dục tiểu học là bậc học nền tảng của hệ thống Giáo dục quốc
dân…”. Luật giáo dục ban hành năm 2007 đã xác định: "Giáo dục tiểu học
nhằm giúp học sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng
đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mĩ và các kỹ năng cơ bản để
tiếp tục học trung học cơ sở”
Xúc cảm là một mặt quan trọng trong đời sống tâm lý con người nói
chung và nhân cách của HSTH nói riêng.Vấn đề xúc cảm của trẻ em luôn
được coi là quan trọng trong xã hội bởi xã hội càng phát triển, thì đứa trẻ càng
có nhiều nguy cơ phải sống trong môi trường thiếu vắng những xúc cảm tích
cực cần thiết cho sự phát triển cá nhân và xã hội. Trẻ em ngày nay thường
xuyên phải đối mặt với những tình huống kích thích, nguy hiểm. Kết quả của
nhiều nghiên cứu Xã hội học, Giáo dục học, Tâm lý học gần gây đã cho thấy
sự gia tăng các hiện tượng tiêu cực ở trẻ em như: bạo lực, hành vi xâm kích,
biểu hiện trầm cảm …. Trẻ em hiện nay có xu hướng dễ cô đơn, dễ chán nản,
dễ cáu giận và ương bướng hơn. Chúng cũng hay bị căng thẳng, lo lắng, bốc
đồng và dễ gây hấn hơn.
Hoạt động học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh tiểu học, có ý
nghĩa quan trọng trong hình thành cơ sở ban đầu cho sự phát triển toàn diện
nhân cách của trẻ em. Xúc cảm là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến kết
quả học tập của học sinh, đặc biệt là HSTH. "Xúc cảm liên quan mật thiết đến
hầu như mọi khía cạnh của quá trình giảng dạy và học tập, do đó, sự hiểu biết
về bản chất của xúc cảm trong bối cảnh trường học là rất cần thiết"
Vấn đề xúc cảm rất quan trọng đối với hoạt động học tập của học sinh
tiểu học nhưng hầu như ít được nghiên cứu tại Việt Nam. Việc nghiên cứu vấn
đề này có ý nghĩ quan trọng đối với sự phát triển nhân cách toàn diện cho
HSTH. Xuất phát từ những lý do trên, tôi chọn đề tài “Nghiên cứu những biểu
hiện xúc cảm tiêu cực trong học tập của học sinh tiểu học”.


1

1


2.

Mục đích nghiên cứu:
Phát hiện thực trạng biểu hiện xúc cảm tiêu cực (XCTC) trong hoạt
động học tập (HĐHT) của học sinh tiểu học (HSTH), trên cơ sở đó, đề xuất
một số biện pháp tâm lý- giáo dục nhằm hạn chế XCTC trong HĐHT ở
HSTH.

3.
3.1.
3.2.
4.
-

Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu
Biểu hiện xúc cảm tiêu cực trong HĐHT của HS lớp 1 và lớp 2.
Khách thể nghiên cứu.
48 HS lớp 1 VÀ 50 HS lớp 2 trường tiểu học Trung Hòa (Hà Nội)
Giả thuyết khoa học:
Những biểu hiện xúc cảm tiêu cực trong HĐHT của HSTH được biểu hiện
khá rõ qua ngôn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ.
Biểu hiên xúc cảm tiêu cực chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như:
Tính cách, giới tính của HS, cách ứng xử của giáo viên, phong cách
giáo dục của gia đình…. Trong đó yếu tố thuộc về giáo viên (cụ thể là ứng xử

của giáo viên) có ảnh hưởng lớn nhất đến biểu hiện XCTC trong HĐHT của

5.1.

HSTH.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về xúc cảm, HĐHT để xây dựng cơ sở lý

5.2.

luận của đề tài.
Tìm hiểu thực trạng mức độ biểu hiện về xúc cảm tiêu cực trong HĐHT của học

5.

sinh và nguyên nhân của thực trạng. Trên cơ sở đó đề xuất một số biện pháp tâm
6.
-

lý- giáo dục nhằm hạn chế XCTC trong HĐHT ở các em.
Phạm vi nghiên cứu:
Chỉ nghiên cứu những biểu hiện xúc cảm tiêu cực của học sinh lớp 1 trong

-

giờ học trên lớp.
Nghiên cứu những biểu hiện ra bên ngoài của xúc cảm tiêu cực thông qua

7.


ngôn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ.
Chỉ nghiên cứu khía cạnh tâm lý (không nghiên cứu khía cạnh sinh lý)
Phương pháp nghiên cứu:
Để nghiên cứu thực trạng những biểu hiện xúc cảm tiêu cực trong
HĐHT của học sinh lớp 1 và lớp 2 chúng tôi sử dụng những phương pháp
khác nhau. Bao gồm: phương pháp nghiên cứu tài liệu; quan sát; phỏng vấn
2

2


GV (2 GV chủ nhiêm, các giáo viên khác dạy cùng khối và các GV dạy các
môn kỹ năng), HS, phụ huynh; điều tra bảng hỏi.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu, văn bản:

7.1.

Mục đích: khái quát những vấn đề tâm lý liên quan đến xúc cảm, xúc
cảm tiêu cực trong HĐHT của HSTH để xây dựng cơ sở lý luận của đề tài.
Phương pháp điều tra viết
Mục đích: Đánh giá thực trạng và các yếu tố tác động đến biểu hiện

7.2.

XCTC trong HĐHT của HSTH.
Phương pháp quan sát

7.3.

Mục đích: Quan sát những biểu hiện xúc cảm trong HĐHT trên lớp

của học sinh lớp 5 thông qua hành vi ngôn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ (nét
mặt, cử chỉ điệu bộ).
Phương pháp phỏng vấn sâu
Mục đích: Thu thập, bổ sung, kiểm tra và làm rõ hơn những thông tin

7.4.

đã thu được từ các phương pháp khác nhau.
Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình.

7.5.

Mục đích: nhằm minh họa cho kết quả nghiên cứu
Phân tích, miêu tả chân dung cụ thể 1 trường hợp học sinh tiêu biểu có
biểu hiện xúc cảm tiêu cực trong học tập.
Phương pháp thống kê toán học:
Sử dụng để xử lý và phân tích thống kê về mặt định lượng .

7.6.

8.

Cấu trúc của đề tài

Phần mở đầu
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÚC CẢM TIÊU CỰC
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TÂP (HĐHT) CỦA HỌC SINH TIỂU
HỌC (HSTH)
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG BIỂU HIỆN XÚC CẢM TIÊU CỰC
TRONG HĐHT CỦA HỌC SINH LỚP 1 VÀ LỚP 2

Kết luận và kiến nghị
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
3

3


CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ XÚC CẢM TIÊU CỰC
TRONG HOẠT ĐỘNG HỌC TÂP (HĐHT) CỦA HỌC SINH
TIỂU HỌC (HSTH)
1.1.

Vài nét về lịch sử nghiên cứu xúc cảm tiêu cực trong hoạt động học tập

1.1.1.

của học sinh tiểu học
Ở nước ngoài
Trên Thế Giới, vấn đề nghiên cứu xúc cảm đã và đang thu hút nhiều
công trình nghiên cứu với quy mô khác nhau. Những nghiên cứu liên quan
đến lĩnh vực xúc cảm được thực hiện trên HS ở các cấp học khác nhau và với
các hướng nghiên cứu khác nhau. Cụ thể, có 3 khía cạnh mà các nhà nghiên
cứu đi theo gồm: nghiên cứu về biểu hiện xúc cảm và xúc cảm tiêu cực trong
hoạt động học tập ở nhà trường của học sinh, nghiên cứu xây dựng các công
4

4



cụ đánh giá xúc cảm, xúc cảm tiêu cực dành cho học sinh và nghiên cứu biện
pháp hạn chế xúc cảm tiêu cực và xây dựng chương trình giáo dục xúc cảm
dành cho học sinh.
Một số đại diện nghiên cứu về biểu hiện xúc cảm và xúc cảm tiêu cực
trong hoạt động học tập ở nhà trường của học sinh là:
Gail Gumora and William F. (2002) nghiên cứu điều tra mối quan hệ
giữa khuynh hướng xúc cảm và thành tích học tập của HS trung học. Nội
dung đánh giá gồm các yếu tố:
1) Năng lực học tập;
2)Các khuynh hướng xúc cảm
3) Các xúc cảm tiêu cực trải nghiệm trong các nhiệm vụ liên quan đến
trường học.
Kết quả nghiên cứu cho thấy vai trò hỗ trợ của yếu tố xúc cảm - xã hội
là quan trọng nhất đối với thành tích học tập của HS chứ không phải là các
mối quan hệ hay mục tiêu học tập [dẫn theo 31, tr7].
Một nghiên cứu định lượng dựa trên tự đánh giá của HS và sinh viên
thông qua Bảng hỏi xúc cảm học tập (AEQ) cho thấy, HS trải nghiệm những
xúc cảm học tập khác nhau, bao gồm: thích thú, hy vọng, tự hào, niềm tin,
tức giận, lo lắng, xấu hổ, tuyệt vọng, và chán nản. Ngoài ra, các yếu tố như
động cơ học tập, chiến lược học tập, tự điều chỉnh xúc cảm, thành tích học
tập, cũng như tính cách và môi trường lớp học đều có ảnh hưởng đến xúc cảm
học tập của HS [37].
Hội đồng Nghiên cứu Giáo dục Úc thực hiện nghiên cứu nhằm đánh
giá và phát triển các đặc điểm xúc cảm xã hội tích cực của HS (lứa tuổi trước
tuổi học cho đến lớp 12) năm 2007, theo ngữ cảnh với các chương trình học
khác nhau và hành động tích cực của cha mẹ/ GV hay bạn bè trong các môi
trường: trường học, gia đình và xã hội. Kết quả nghiên cứu cho thấy: HS trải
nghiệm khó khăn về xúc cảm xã hội khác nhau. Bảy trong mười HS nói rằng
5


5


cảm thấy lo lắng. Hai trong mười HS nói em cảm thấy rất tuyệt vọng, chán
nản và đã ngừng học trong một tuần. Một phần ba HS được nghiên cứu nói
rằng, các em mất bình tĩnh khi bị người khác bắt nạt [dẫn theo 31, tr9].
Nhiều nghiên cứu khác đã cho thấy mối liên hệ chặt chẽ giữa mức độ
thiếu khả năng kiểm soát xúc cảm với các biểu hiện rối loạn hành vi khác
nhau ở HS phổ thông như: khuynh hướng sống thu mình lại, lo hãi và trầm
cảm, thiếu tập trung, dễ phạm tội và gây hấn. Chẳng hạn, khi quan sát HSTH
vào những ngày nhận học bạ, các nhà nghiên cứu nhận thấy, những em nhận
được điểm xấu hơn mong đợi thường có biểu hiện tâm lý nặng nề. Những em
tự nhận thấy bị điểm kém là do lỗi của bản thân thường bị trầm cảm nhiều
hơn so với những em cho rằng điều đó có thể sửa được. Tương tự, nghiên cứu
những HS bị bạn bè bỏ rơi cũng cho thấy mối tương quan giữa cách suy nghĩ
của trẻ với khuynh hướng trầm cảm của chúng: Những em cho rằng sự bỏ rơi
đó là do lỗi của cá nhân mình thường dấn sâu vào sự trầm cảm hơn so với
những em có suy nghĩ rằng mình có thể cải thiện được tình thế. Các quan sát
lâu dài trên những HS này cũng cho thấy những bằng chứng về trầm cảm phát
triển dần theo hướng trở thành một thái độ sống bi quan cùng với nhiều rối
nhiễu hành vi khác khi đến tuổi trưởng thành (T. Achenbach & Catherine
Howell, Urie Bronfenbrenner, Judy Garber & cs...) [7].
Qua các nghiên cứu trên cho thấy, ở HSTH trong HĐHT ở trường học
có những xúc cảm tiêu cực như: tức giận, lo lắng, xấu hổ, thất vọng và chán
nản. Những biểu hiện XCTC này xuất hiện do nhiều nguyên nhân:
- Các nguyên nhân chủ quan (từ phía học sinh): tính cách, tự đánh giá
của bản thân, động cơ, chiến lược học tập, khả năng tự điều chỉnh xúc cảm
- Các nguyên nhân khách quan như: Môi trường trường học, GV, gia
đình, mối quan hệ với bạn bè và GV.
Có nhiều nghiên cứu xây dựng các công cụ đánh giá xúc cảm và Thang

đánh giá xúc cảm học tập (Academic Emotions Questionnaire -AEQ)
(Pekrun, Goetz, Perry, 2005) dành cho HS ở Philippines là nghiên cứu thích
6

6


nghi có độ tin cậy và tính hiệu lực cao. Thang đo xúc cảm học tập được cấu
trúc gồm 8 xúc cảm trong bối cảnh học tập: tức giận, lo lắng, chán nản, thích
thú, hy vọng, tuyệt vọng, tự hào và xấu hổ. Kết quả phân tích các yếu tố cho
thấy, tức giận và lo lắng là 2 yếu tố có biểu hiện ở mức độ cao hơn trong 8
yếu tố được đo [dẫn theo 31, tr 12].
1.1.2

Ở Việt Nam
Ở Việt Nam, những cơ sở lý luận của xúc cảm (khái niệm, đặc điểm,
quy luật) và các đặc điểm xúc cảm của HSTH đã được một số tác giả như
Phạm Minh Hạc, Trần Trọng Thủy, Nguyễn Quang Uẩn, Vũ Dũng, Nguyễn
Văn Lũy, Bùi Văn Huệ, Phan Thị Hạnh Mai đề cập đến trong một số giáo
trình [13], [9], [43], [23], [24], [26].
Công trình nghiên cứu của các tác giả Ngô Công Hoàn, Lê Thị Luận về
biểu hiện xúc cảm của trẻ ở độ tuổi nhà trẻ, tuổi mẫu giáo đã cho thấy, mức
độ nhận biết các loại xúc cảm ở bản thân cũng như ở người khác của trẻ còn
thấp, và không đồng đều. Trong đó, mức độ nhận biết xúc cảm của người
khác thấp hơn so với mức độ nhận biết xúc cảm của bản thân. Từ đó, đã đề
xuất các biện pháp tác động phù hợp để hướng dẫn cho trẻ biết nhận dạng
chính xác các xúc cảm của bản thân và của người khác, tạo điều kiện cải thiện
các mối quan hệ của trẻ [4], [11].
Kết quả nghiên cứu của tác giả Nguyễn Thị Vui [27] và Phùng Thị
Hằng [10] về khó khăn học tập của HSTH là người dân tộc thiểu số (dân tộc

Tày, Nùng, Mông, Dao, Cao Lan, Sán Chỉ,...) ở tỉnh Kon Tum và Thái
Nguyên cho thấy: HS gặp khó khăn tâm lý trong học tập ở mức độ tương đối
cao. Những khó khăn tâm lý thể hiện ở nhận thức, kỹ năng học tập và đặc biệt
là về xúc cảm (“lo sợ khi phải trả lời câu hỏi của GV”, “không thích thú với
việc đến trường”, “chưa tích cực học tập”).
Kết quả nghiên cứu của các tác giả Phan Thị Mai Hương, Đào Thị
Oanh về xúc cảm của HS THCS cho thấy: Nhìn chung, trong cuộc sống, học
sinh - thiếu niên có biểu hiện xúc cảm tích cực là chủ yếu, tuy nhiên, ở một số
7

7


bộ phận học sinh nam có những biểu hiện XCTC như “thụ động”, “không
muốn làm việc”, “không muốn động chân tay”, “đầu óc mụ mẫm”, “không tập
trung được”… GV và cha mẹ HS đều nhận thức được việc giáo dục xúc cảm
cho HS là thực sự cần thiết nhưng còn nhiều lúng túng trong các biện pháp
giáo dục. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến khả năng kiểm soát xúc cảm tiêu
cực ở thiếu niên, trong đó có các đặc điểm nhân cách; hoàn cảnh hiện thực và
sự ổn định tâm lý của con người [29], [19], [20]
Các kết quả thu được trên HS Trung học về một số chỉ số phát triển tâm
sinh lý của các tác giả Trần Trọng Thủy, Nguyễn Huy Tú, Nguyễn Công
Khanh và Trung tâm nghiên cứu Tâm lý học- Sinh lý lứa tuổi cho thấy điểm
yếu của HS được nghiên cứu thể hiện rõ nét ở khả năng đồng cảm và khả
năng kiểm soát xúc cảm của bản thân. Điều này đặt ra cho các nhà nghiên cứu
và các nhà giáo dục sự tiếp tục quan tâm tìm ra những cách thức hiệu quả để
giáo dục xúc cảm cho HS [12].
Trong luận án tiến sĩ “Ảnh hưởng của xúc cảm đối với hoạt động tư duy”,
tác giả Ngô Công Hoàn (1984) bằng thực nghiệm khoa học đã chứng minh:
Dưới tác động của lời khen, sự động viên… (xúc cảm tích cực) nghiệm thể (sinh

viên) giải các bài tập có mức độ khó khác nhau cho kết quả cao hơn, so với kết
quả tác động bởi sự chỉ trích…(những xúc cảm tiêu cực). Hiệu quả bài tập thấp
nhất khi không có những tác động xúc cảm từ phía nhà nghiên cứu đối với
nghiệm thể. Như vậy, dưới tác động hợp lý các xúc cảm tích cực, hiệu quả giải
bài tập đều cao hơn, so với khi không có những tác động gì (im lặng để HS tự
giải bài tập với các mức độ khác nhau) [2], [3].
Tóm lại, các nghiên cứu xúc cảm ở Việt Nam đã được một số nhà nghiên
cứu quan tâm,tuy nhiên nghiên cứu xúc cảm trên học sinh lớp 1 còn hạn chế.
Bên cạnh nghiên cứu về lý luận, các tác giả cũng chú trọng việc đề xuất một số
biện pháp tâm lý- giáo dục để cải thiện mối quan hệ của trẻ, hạn chế các biểu
hiện xúc cảm tiêu cực.
1.2.

Xúc cảm
8

8


1.2.1. Khái niệm “Xúc cảm”
Theo Từ điển tiếng Anh Oxford (Oxford English Dictionary): “Xúc
cảm như một kích động, hay một rối loạn tinh thần tình cảm, đam mê, mọi
trạng thái mãnh liệt hay kích thích” [dẫn theo 7, tr.496].
Hai tác giả Tomkins và J. Watson cho rằng “xúc cảm là phản ứng của
cơ thể đối với những tác nhân kích thích chuyên biệt” [dẫn theo 17].
Theo X.L.Rubinstêin, K.K. Platonov quan niệm xúc cảm là thái độ đối
với các đối tượng có liên quan đến nhu cầu của con người: “Toàn bộ thế giới
xúc cảm – tình cảm của con người về thực chất là toàn bộ thái độ của con
người đối với thế giới và trước tiên là đối với những người khác trong cuộc
sống và trong ấn tượng trực tiếp của cá nhân” [22, tr43]..

Daniel Goleman đã định nghĩa: “xúc cảm vừa là một tình cảm và các ý
nghĩ, các trạng thái tâm lý và sinh học đặc biệt, vừa là thang của các xu
hướng hành động do nó gây ra” [7]
Theo định nghĩa của "Từ điển bách khoa Liên Xô" thì "xúc cảm” là
những phản ứng chủ quan của con người và động vật đối với những tác
động của những kích thích tố bên trong và bên ngoài được thể hiện dưới
dạng thoả mãn hay không thoả mãn, vui mừng, sợ hãi v.v. Đi kèm với bất
kì sự thể hiện nào của hoạt động cơ thể, cảm xúc phản ánh giá trị của
những hiện tượng và tình huống và là một trong những cơ chế chính để
điều tiết nội bộ hoạt động tâm lí và hành vi nhằm làm thoả mãn những nhu
cầu bức thiết" (СЭС, 1983: 1543).
Ở Việt Nam, các nhà tâm lý học đưa ra nhiều khái niệm về xúc cảm,
tuy nhiên phần lớn đều dựa trên quan niệm về xúc cảm của Tâm lý học
Hoạt động.
Theo Vũ Dũng, “Xúc cảm là sự phản ánh tâm lý về mặt ý nghĩa sống
động của các hiện tượng và hoàn cảnh, tức mối quan hệ giữa các thuộc tính
khách quan của chúng với nhu cầu của chủ thể, dưới hình thức những rung
động trực tiếp” [6].
Tác giả Trần Trọng Thủy, Nguyễn Huy Tú, Đào Thị Oanh, Nguyễn Văn
9

9


Lũy cho rằng: "Xúc cảm là những rung động thể hiện thái độ đối với hiện
thực, có liên quan đến sự thỏa mãn hay không thỏa mãn nhu cầu của cá
nhân" [15, tr.758], [21], [23], [24], [25].
Nguyễn Quang Uẩn định nghĩa: “Xúc cảm – tình cảm là những thái độ
thể hiện sự rung cảm của con người đối với sự vật, hiện tượng có liên quan
tới nhu cầu và động cơ của họ” [26, tr.159].

Trong đề tài nghiên cứu về “Những biểu hiện xúc cảm và những biện
pháp giáo dục xúc cảm cho trẻ từ 1 – 3 tuổi”, tác giả Ngô Công Hoàn cho
rằng: “Xúc cảm của con người là những rung động khác nhau, nó mang tính
chất chủ quan, độc đáo của con người đối với hiện thực khách quan và đối
với chính bản thân mình. Trong hiện thực khách quan, các sự vật hiện tượng
tồn tại một cách sinh động xung quanh chúng ta hoặc trong chúng ta, đó
chính là nguồn gốc của xúc cảm, tình cảm. Những sự vật hiện tượng đó tồn
tại liên quan đến sự thoả mãn hay không thoả mãn nhu cầu nào đó của mỗi
cá nhân”[4].
Theo tác giả Vũ Dũng, xúc cảm là sự phản ánh tâm lý về mặt ý nghĩa
sống động của các hiện tượng và hoàn cảnh, tức mối quan hệ giữa các thuộc
tính khách quan của chúng với nhu cầu của chủ thể, dưới hình thức những
rung động trực tiếp” [6,tr.29].
Tóm lại, xúc cảm là quá trình tâm lý, phản ánh các sự vật hiện tượng
trong hiện thực khách quan liên quan đến việc thỏa mãn hay không thỏa mãn
nhu cầu của cá nhân hoặc đáp ứng hay không đáp ứng những yêu cầu của xã
hội và được thể hiện qua hành vi ngôn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ (khuôn
mặt, tư thế, cử chỉ điệu bộ).
1.2.2. Cấu trúc của xúc cảm
Nói về cấu trúc của xúc cảm, tác giả Theodore Kemper (1987) cho rằng
chỉ có bốn xúc cảm được di truyền qua con đường sinh học là sợ hãi, giận dữ,
buồn rầu và thỏa mãn và mỗi người đều trải qua bốn xúc cảm này. Các xúc
cảm này đều bị quy định về mặt sinh học. Các nhà nghiên cứu khác như
10

10


Shaver, Schwarts, Kirson và O’Connor, (1987); Izard, (1991); Shaver, Wu, &
Schwartz, (1992) không nhất trí với ý kiến của Kemper mà cho rằng bốn xúc

cảm trên là các xúc cảm nền tảng. Bên cạnh đó, một số nhà nghiên cứu khác
như Ekman và Davision (1994) không đồng ý với ý kiến cho rằng một số xúc
cảm là nền tảng, còn một số khác là được học [36].
Từ quan sát của mình, tác giả Arnold cho rằng trước khi xúc cảm nảy
sinh, chủ thể phải được tri giác và nó đánh giá đối tượng tri giác trên cơ sở
nhu cầu của mình. Chính sự phản ứng đáp lại sự đánh giá đối tượng đã ảnh
hưởng tới chủ thể tri giác làm nẩy sinh xúc cảm ở chúng như là sự chấp nhận
hay bác bỏ, là sự thỏa mãn hay không thoả mãn. Như vậy theo Arnold, xúc
cảm bao gồm ba thành tố là tri giác, đánh giá và nhu cầu.
Trên cơ sở quan niệm của Arnold, năm 1972 tác giả R.S. Lazarus và
các cộng sự đã trình bày một cấu trúc lý thuyết của xúc cảm, theo đó mỗi xúc
cảm là một phản ứng đáp lại phức hợp gồm ba thành tố khác nhau: 1) Các tín
hiệu hay kích thích; 2) Sự đánh giá: được coi như là chức năng của bộ não mà
nhờ đó cá thể đã đánh giá được tình huống kích thích so với nhu cầu của bản
thân; 3) Một phản ứng phức hợp gồm ba loại phản ứng: phản ứng nhận thức,
phản ứng biểu cảm và phản ứng phương thức [13, tr.56].
+ Loại phản ứng nhận thức là những cơ chế tự vệ như: dồn nén, từ chối.
+ Loại phản ứng biểu cảmmà quan trọng nhất là biểu cảm ở nét mặt thường
chia ra hai kiểu: biểu cảm sinh vật và biểu cảm tự tạo (biểu cảm văn hóa).
+ Loại phản ứng phương thức (phản ứng công cụ) có chức năng thông
báo, đưa ra tín hiệu về sự tồn tại, hiện diện một xúc cảm nào đó hoặc che đậy
một xúc cảm nào đó. Loại phản ứng phương thức thể hiện ở những hành động
phức tạp và có hướng, chẳng hạn sự gây hấn và bỏ chạy
Một số nhà khoa học, trước hết là Darwin, Ekman và Tomkins cho rằng
xúc cảm được tạo bởi ba thành tố: 1) Cơ chế thần kinh chuyên biệt bị quy
định, chế ước ở bên trong; 2) Những phức hợp biểu cảm bằng nét mặt đặc
trưng hay là những phức hợp biểu hiện thần kinh cơ; 3) Sự thể hiện chủ quan
của hiện thực bên ngoài.
11


11


Các nhà khoa học này thống nhất rằng:
- Các cơ chế thần kinh - cơ của bộ mặt là cần thiết để thực hiện những
biểu hiện xúc cảm và chúng giống nhau ở động vât và người.
- Sự biểu hiện của bộ mặt con người giống với phản ứng của động vật bậc cao.
- Biểu cảm bộ mặt là thuộc tính chung của loài, có nguồn gốc từ sự tiến
hoá động vật.
- Xúc cảm là một phương thức thích nghi của con người với môi trường
[13, tr.70-93].
Phần lớn các nhà nghiên cứu tin rằng một phần hoặc tất cả xúc cảm
được hình thành dưới ảnh hưởng của xã hội.
Tác giả Daniel Goleman, khi bàn đến cấu trúc của xúc cảm đã chỉ ra
rằng: “có hàng trăm xúc cảm với những kết hợp, những biến thể và những
biến đổi của chúng. Những sắc thái của chúng trên thực tế nhiều đến mức
chúng ta không có đủ từ để chỉ”. Ông đã chỉ ra một số xúc cảm rất thường
được nhắc tới đối với một số thành phần của chúng:
- Giận: Cuồng nộ, phẫn nộ, oán giận, nổi giận, bực tức, gay gắt, hung
hăng, bất mãn, cáu kỉnh, thù địch và có thể đạt tới độ tột cùng, thù hằn và bạo
lực bệnh lý.
- Buồn: buồn phiền, sầu não, rầu rĩ, u sầu, thương thân, cô đơn, ủ rũ,
thất vọng và trầm cảm sâu.
- Sợ: Lo hãi, e sợ, bị kích thích, lo âu, rụng rời, sợ sệt, rón rén, bải hoải,
khiếp hãi, khủng khiếp, ghê sợ, và khi trở thành bệnh lý là chứng sợ và chứng
hoảng hốt.
- Khoái: Sung sướng, vui vẻ, nhẹ nhõm, bằng lòng, rất hạnh phúc,
khoái trá, hoan hỉ, tự hào, khoái cảm, nhục dục, rung lên (vì vui), mê ly, hài
lòng, sảng khoái, ngông, ngây ngất và ở mức độ tột cùng, tật mê si.
- Yêu: ưng ý, tình bạn, tin cậy, dễ ưa, cảm tình, tận tụy, sùng kính, hâm mộ

- Ngạc nhiên: choáng váng, ngơ ngác, kinh ngạc.
- Ghê tởm: Khinh miệt, coi thường, kinh tởm, chán ghét, phát ngấy.
- Xấu hổ: ý thức phạm tội, phật ý, ăn năn, nhục nhã, hối tiếc
12

12


Các tác giả D. Goleman, P.Ekman và một số nhà tâm lý học xem xét
các xúc cảm theo các họ (familles) hay theo các chiều (dimensions). D.
Goleman cho rằng những xúc cảm tiêu cực nền tảng chính là: sợ hãi, giận dữ,
buồn rầu, thỏa mãn, xấu hổ...[10].
Trên cơ sở phân tích cấu trúc tâm lý của xúc cảm ở trên, chúng tôi hiểu
cấu trúc tâm lý của xúc cảm bao gồm 3 thành tố:
- Tiếp nhận kích thích (đầu vào- từ môi trường hoặc từ bên trong cá nhân)
- Đánh giá của cá nhân về kích thích
- Hành vi biểu cảm (biểu hiện ra bên ngoài gồm hành vi ngôn ngữ và
hành vi phi ngôn ngữ).
1.2.3. Phân loại xúc cảm
*Theo cấu trúc tầng bậc
C.E.Izard đưa ra Thuyết các xúc cảm phân hóa và cho rằng xúc cảm có
cấu trúc tầng bậc bao gồm: Cấp bậc thứ nhất gồm mười xúc cảm nền tảng, đó
là [13, tr.107-112]:
- Hồi hộp – xúc cảm tích cực được thể nghiệm thường xuyên nhất tạo
động cơ học tập, phát triển các kỹ xảo, kỹ năng và các khát vọng sáng tạo.
- Vui sướng – là xúc cảm mong muốn tối đa, mặc dù không bắt buộc và
thường xuyên.
- Ngạc nhiên – luôn là trạng thái ngắn ngủi, nó xuất hiện nhờ nâng cao
đột ngột của kích thích thần kinh do xuất hiện sự kiện bất ngờ nào đó.
- Đau khổ, đau xót – là xúc cảm mà khi trải nghiệm con người nản

lòng, cảm thấy cô độc, không tiếp xúc với người khác, tự thương thân.
- Căm giận – là xúc cảm nền tảng mà việc kiểm soát sự biểu hiện của
nó phảiđược chú ý đặc biệt trong qúa trình xã hội hóa, căm giận thúc đẩy sự
tấn công.
- Ghê tởm – thường biểu hiện cùng với căm giận; phối hợp với căm
giận, sự căm giận có thể kích thích hành vi phá hoại, ghê tởm thúc đẩy mong
muốn “thoát khỏi một người nào đó hay một cái gì đó”.
- Khinh bỉ thường xuất hiện cùng với căm giận hoặc cùng với ghê tởm
13

13


hoặc cùng với cả hai một lúc. Khinh bỉ là xúc cảm “lạnh lùng” dẫn đến sự mất
nhân tính cá nhân hay của cả nhóm có quan hệ với sự khinh bỉ.
- Khiếp sợ là xúc cảm mà trong cuộc sống của mỗi người đều đã trải
nghiệm. Sự khiếp sợ mạnh đi kèm với sự thiếu tin tưởng và những linh cảm xấu.
- Xấu hổ thúc đẩy sự mong muốn trốn tránh; cũng có thể khiến con
người ta có cảm giác vụng về, xúc cảm này thường tạo ra khả năng bảo toàn
sự tự trọng.
- Tội lỗi, thường liên quan đến xấu hổ, xấu hổ, sợ sệt và tội lỗi là những
khía cạnh khác nhau của cùng một xúc cảm, song giữa chúng có sự khác biệt
căn bản. Xấu hổ xuất hiện do bất cứ lỗi lầm nào; tội lỗi xuất hiện khi có
những vi phạm các tính chất đạo đức, trong những tình huống mà chủ thể cảm
nhận được trách nhiệm riêng của mình.
Cấp bậc thứ hai theo Izard, là các phức hợp xúc cảm được tạo nên từ
“những tổ hợp có biến thiên của các xúc cảm nền tảng và các quá trình xúc
động”, đó là: lo lắng, trầm uất, tình yêu và lòng thù địch.
*Các tác giả Phạm Minh Hạc, Lê Khanh, Trần Trọng Thủy,Phạm
Hoàng Gia, căn cứ vào mức độ biểu hiện, thời gian tồn tại của tình cảm phân

thành các loại sau:
- Màu sắc xúc cảm của cảm giác: đó là các sắc thái xúc cảm đi kèm
theo quá trình cảm giác nào đó.
- Xúc cảm là những rung cảm xảy ra nhanh, mạnh, rõ rệt hơn so với màu
sắc xúc cảm của cảm giác. Xúc động là một dạng xúc cảm có cường độ rất
mạnh, xảy ra trong thời gian ngắn, có khi chủ thể không làm chủ được bản thân.
Say mê là một trạng thái tình cảm mạnh, sâu sắc và bền vững. Tâm trạng là một
dạng xúc cảm có cường độ vừa phải hoặc yếu, tồn tại trong thời gian tương đối
lâu dài. Stress – một trạng thái căng thẳng về xúc cảm và trí tuệ.
- Tình cảm là thuộc tính tâm lý ổn định bền vững của nhân cách, nói
lên thái độ của cá nhân [9, tr202-204].
* Xuất phát từ tính chất và tác dụng của xúc cảm đối với đời sống, hoạt
động của con người và căn cứ vào mục tiêu giáo dục nói chung, các tác giả
14

14


Trần Trọng Thủy, Ngô Công Hoàn, Đào Thị Oanh đã chia xúc cảm thành 2
loại: Xúc cảm tích cực và Xúc cảm tiêu cực [21][30].
- Theo cách phân loại này, các xúc cảm tích cựclà những xúc cảm có
tác dụng thôi thúc con người hoạt động, mang đến cho con người sức khỏe
thể chất và tâm lý như làm tăng nghị lực, lòng tự tin, sự lạc quan tin tưởng,
củng cố ý chí. Những xúc cảm tích cực làm con người có sức làm việc tốt
hơn, sức sáng tạo mạnh mẽ hơn, năng suất lao động cao hơn. Đồng thời nhanh
nhẹn, linh hoạt hơn trong giải quyết các vấn đề, động viên con người vượt qua
mọi khó khăn, thử thách. Đặc biệt làm cho mối quan hệ người - người trở nên
tốt đẹp hơn: con người trở nên vị tha hơn, nhân ái hơn, quan tâm đến nhau
hơn và sống chân thành hơn.
- Xúc cảm tiêu cựclà những xúc cảm làm cản trở hoạt động của con

người, làm cá nhân trở nên yếu đuối, tự ti, bi quan, chán nản, thiếu sáng suốt
dẫn đễn chỗ thụ động, bất lực, không thể hiện được hành động. Hay có thể
dẫn đến những cơn tức giận, nỗi sợ hãi và sự khổ tâm.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài này, chúng tôi sử dụng cách phân loại
xúc cảm của các tác giả Trần Trọng Thủy, Ngô Công Hoàn, Đào Thị Oanh.
1.2.4. Ảnh hưởng của xúc cảm đến đời sống và hoạt động của con
người nói chung và HSTH nói riêng.
Xúc cảm có vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống và hoạt động của
con người. “Nếu không có những “cảm xúc của con người” thì trước đây, hiện
nay và sau này sẽ không có và không thể có sự tìm kiếm của con người về
chân lý”.- V.L Lê-nin.
Xúc cảm ảnh hưởng đến tri giác: Các xúc cảm cũng như các trạng thái
động cơ khác, ảnh hưởng đến sự tri giác của con người. Một con người đang
vui sướng có khuynh hướng tri giác thế giới qua “lăng kính màu hồng”. Còn
nét đặc trưng của người đang đau khổ hay buồn phiền là khuynh hướng lí giải
những nhận xét của những người khác như là những lời chê bai, trách cứ.
Tri giác là một hiện tượng tâm lý phức tạp. Trong tri giác bao gồm các
15

15


quy luật lựa chọn, tách hình và nền, qúa trình xác định độ lớn, độ sáng, độ sâu
của sự vật, các thành phần của vật thể. Xúc cảm có thể ảnh hưởng đến các quá
trình tri giác.
Ảnh hưởng của xúc cảm đối với quy luật lựa chọn tách hình và nền:
Trong những nghiên cứu của Sapher, Murphy, Smit, Hohberg (1960) đã yêu
cầu nghiệm thể chỉ ra đường viền của khuôn mặt, cùng lúc đó yêu cầu gọi tên
của nó. Kết qủa cho thấy những hình có tên gọi quen thuộc gắn liền với xúc
cảm tích cực thì nghiệm thể chỉ ra nó nhanh hơn khi nó ở trong hình hai

nghĩa. B. Kon cũng làm thực nghiệm yêu cầu nghiệm thể xác định những câu
có nội dung khen thưởng và trừng phạt trong một bài luận. Kết quả cho thấy
nghiệm thể chỉ ra số lượng những câu có nội dung khen thưởng quen thuộc
nhiều hơn so với số lượng câu có nội dung trừng phạt. Trong nghiên cứu của
mình, B. Kon còn khẳng định trạng thái xúc cảm có ảnh hưởng tới quá trình
tri giác của con người.
Xúc cảm có thể ảnh hưởng đến nội dung của tri giác. Vào những năm
50 của thế kỷ 20, Murray (1958) đã làm thực nghiệm với 5 trẻ em gái 15 tuổi,
nghiệm thể cần đánh giá theo thang điểm 9 về ảnh hưởng của những người
không quen biết. Thực nghiệm tiến hành 3 lần trong 2 ngày; buổi sáng thứ 7,
sau khi đi tàu điện đến; buổi chiều thứ 7, sau khi chơi “trò chơi giết người
khủng khiếp” xuất hiện sự hưng phấn mạnh và sự sợ hãi; vào ngày chủ nhật,
sau khi đi dạo chơi. Nghiệm thể cần đánh giá qua những khuôn mặt của
những người trong ảnh là người tốt hay người xấu. Kết qủa nghiên cứu cho
thấy, đánh giá của buổi chiều thứ 7 có sự thay đổi so với đánh giá của buổi
sáng thứ 7 là 70%, dưới ảnh hưởng của xúc cảm mạnh và sợ hãi, nghiệm thể
đánh giá qua các khuôn mặt phần lớn là người xấu.
Các thực nghiệm của Postman, Brown (1952), của Atkinson (1954) và
Bruner (1948) về tâm trạng thành công và thất bại, trạng thái đói, hẫng hụt
của nghiệm thể khi tri giác đều cho thấy xúc cảm là một trong những yếu tố
16

16


ảnh hưởng tới qúa trình hình thành hình ảnh tri giác. Nội dung của những
hình ảnh tri giác tương ứng với nội dung của xúc cảm.
Xúc cảm ảnh hưởng đến tưởng tượng và tư duy: Các tác giả Saul
(1960), Mc Clelland, Reykobxky (1966), Obuchovski (1967)… nghiên cứu về
ảnh hưởng của xúc cảm lên các quá trình tưởng tượng và tư duy, đã đưa ra

những điểm chủ yếu: Xúc cảm ảnh hưởng đến nội dung của quá trình tư duy,
nội dung của xúc cảm liên quan đến nội dung của tưởng tượng và tư duy. Xúc
cảm làm tích cực hóa quá trình tư duy, hoặc ngược lại, làm hạn chế nó.
Các nhà nghiên cứu cũng thấy rằng những thông tin, nhận thức do xúc
cảm đem lại là nhanh hơn và thường không đầy đủ, chính xác bằng những thông
tin do trí tuệ đem lại. Vì thế, khi bị các xúc cảm xâm chiếm chúng ta thường
thiếu xét đoán. Gần đây, khi nói về mối quan hệ giữa trí tuệ và tình cảm, Edgar
Morin cho rằng có một mối liên hệ khăng khít giữa trí thông minh và tình cảm.
Điều này thể hiện ở chỗ: khả năng suy luận có thể bị suy giảm, thậm chí bị hủy
diệt nếu thiếu vắng cảm xúc. Sự suy yếu của khả năng cảm xúc có thể là nguồn
gốc của những hành vi bất hợp lí và trong chừng mực nào đó, để tạo dựng một
hành vi hợp lí thì không thể thiếu được khả năng cảm xúc.
Xúc cảm ảnh hưởng đến trí nhớ: xúc cảm không chỉ thể hiện qua nét
mặt, điệu bộ cơ thể mà nó còn được biểu hiện, được lưu giữ trong các biểu
tượng, trong trí nhớ và trong tưởng tượng của con người. Chính các biểu
tượng của trí nhớ và tưởng tượng đã kích thích tạo nên xúc cảm riêng biệt nào
đó. Ngược lại, cường độ của xúc cảm hiện thời có ảnh hưởng trực tiếp đến độ
bền của trí nhớ. Trong cuộc sống có những xúc động mà con người lưu giữ
mãi trong trí nhớ của mình.
Vai trò của xúc cảm đối với hoạt động nhận thức, hoạt động trí tuệ của cá
nhân đã được đề cập trong các công trình của nhiều nhà tâm lý học lớn như
P.Janet, Claparede, G.Piaget,...Piaget quan niệm, mỗi ứng xử bao gồm hai mặt:
mặt năng lượng và mặt nhận thức – sơ cấu. Mặt năng lượng là do xúc cảm tạo ra,

17

17


còn sơ cấu hay nhận thức là kết quả của trí tuệ. Như vậy, xúc cảm và nhận thức

không thể tách rời nhau, mặc dù chúng khác biệt nhau [dẫn theo 21].
Xúc cảm và hành động: Có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa xúc cảm
và hành động. Theo Goleman, về căn bản, tất cả những xúc cảm đều là những sự
kích thích hành động; đó là những kế hoạch tức thì để đối phó với sự sinh tồn mà
sự tiến hóa đã truyền cho chúng ta. Vả từ “emotion” (xúc cảm) được tạo ra từ
tiếng Latin (motore) nghĩa là “cử động” và tiền tố ”é” chỉ một sự vận động ra bên
ngoài, và từ cái gốc ấy gợi lên rõ ràng một khuynh hướng hành động. Việc các
xúc cảm thúc đẩy tới hành động là đặc biệt rõ ràng khi người ta quan sát các con
vật hay trẻ em [7].
Trong thực tế, xúc cảm tham gia vào hoạt động trí tuệ trên hai phương
diện: là động lực thúc đẩy hoặc kìm hãm một hành động trí tuệ nào đó và yếu
tố định hướng cho hành động đó. Vai trò định hướng của xúc cảm được biểu
hiện ít nhất trên 3 phương diện sau:
-Thứ nhất: xúc cảm như là yếu tố bên trong xâm nhập vào toàn bộ quá
trình hoạt động của trí tuệ, từ tri giác sự vật đến các quá trình tư duy trừu
tượng. Toàn bộ quá trình trí tuệ này bị ảnh hưởng và bị chi phối bởi xúc cảm
của cá nhân, trong từng trạng thái xúc cảm cụ thể hoặc tùy thuộc đặc trưng
tình cảm của cá nhân đó.
-Thứ hai: trong suốt quá trình hành động trí tuệ, ngay từ những thao tác
đầu tiên cho tới thao tác cuối cùng, mỗi khi xuất hiện một thao tác, thì liền
ngay đó xuất hiện một xúc cảm tương ứng và xúc cảm này trở thành tâm thế,
dẫn dắt chuỗi thao tác tiếp theo đi theo hướng phù hợp với tâm thế đó.
-Thứ ba: kết quả của mỗi thao tác, mỗi hành động trí tuệ sẽ chi phối các
quyết định tiếp theo của chủ thể, đặc biệt là trong việc lựa chọn các phương
án, các kế hoạch hành động trí tuệ [16].
1.3. Xúc cảm tiêu cực trong hoạt động học tập của học sinh tiểu học
1.3.1. Xúc cảm tiêu cực
18

18



Trong tiếng Việt, tiêu cực được hiểu theo 3 nghĩa:
-

Có tác dụng phủ định (làm trở ngại sự phát triển, làm cản trở hoạt động) trái
với tích cực.

-

Chỉ chịu tác động mà không có phản ứng hoặc phản ứng yếu ớt không có
những hành động có tính chất chủ động.

-

Không lành mạnh, có tác dụng không tốt với quá trình phát triển của xã hội.
Trong tiếng Anh, tiêu cực được dịch là “negative” còn có nghĩa là xấu
và nguy hiểm, tiêu cực, bi quan, thụ động, lơ là, thiếu trách nhiệm. Ngoài ra
nói về thái độ của con người nó còn hàm ý “bi quan”, tiêu cực về cuộc sống,
có cái nhìn “tiêu cực” về xã hội, tiêu cực với chính mình.
Theo từ điển Tâm lý học, tính tiêu cực được sử dụng trong giáo dục học
và trong tâm lý học để biểu thị: 1) Sự phản kháng bất kỳ không có nguyên do
chính đáng đối với người khác; 2) Tính tiêu cực xuất hiện như là phản ứng
bảo vệ với những tác động mâu thuẫn với nhu cầu của chủ thể và 3) Tính tiêu
cực thường thấy ở những trẻ do thái độ đối với những yêu cầu của người lớn
không tính đến những nhu cầu của trẻ [15, tr.635].
Chúng tôi tiếp cận khái niệm “tiêu cực” theo nghĩa thụ động, thờ ơ hoặc
làm cản trở, có tác động xấu đến hoạt động, thể chất, tinh thần của cá nhân học
sinh và có ảnh hưởng đến cả các học sinh khác trong lớp trong giờ học.
Tác giả Nguyễn Quang Uẩn và Trần Trọng Thủy cho rằng: Khi xúc

cảm gây ra trạng thái dửng dưng, thờ ơ ở con người thì gọi là xúc cảm tiêu
cực [26]
Tác giả Đào Thị Oanh quan niệm: “Xúc cảm tiêu cực là những xúc cảm
làm cản trở hoạt động của con người, làm cá nhân trở nên yếu đuối, tự ti, chán
nản, thiếu sáng suốt dẫn đễn chỗ thụ động, bất lực, không thể hiện được hành
động” [19].
Xúc cảm tiêu cựccó ảnh hưởng xấu đến các cơ quan, các tổ chức trong
cơ thể con người và gây ra những hậu quả tồi tệ như: làm giảm sút sức làm
việc của cá nhân, làm mất khả năng linh hoạt trong hoạt động, làm thay đổi
19

19


nhịp sinh học, làm giảm sút sức khỏe. Cảm xúc tiêu cực còn làm rối loạn các
quá trình tâm lý của con người: giảm hứng thú cũng như chất lượng nhận thức
về thế giới xung quanh, các hành động thiếu chính xác, linh hoạt, thiếu sự
quan tâm chú ý đến những người xung quanh… (thờ ơ, lạnh nhạt, hời hợt, thô
bạo…). Phần lớn những xúc cảm tiêu cực hoặc ở trạng thái kích động mạnh,
nhịp độ hoạt động sinh lý thần kinh tăng đột ngột, nếu quá căng thẳng sẽ dẫn
đến stress làm cho khả năng kiểm soát của ý thức yếu đi, dễ có hành động bột
phát, hành động mất tính cân bằng, nhịp điệu hoặc trạng thái sụt giảm đáng
kể, nhịp độ sinh lý thần kinh, sự chuyển hóa năng lượng kém, ăn không thấy
ngon miệng, ngủ không sâu, không muốn vận động hoặc hành động kém hiệu
quả, năng suất làm việc kém.
Theo chúng tôi, xúc cảm tiêu cực là những rung động thể hiện thái độ của
chủ thể đối với đối tượng có liên quan đến sự không thỏa mãn nhu cầu của bản
thân hoặc không đáp ứng những yêu cầu của xã hội và được thể hiện qua hành
vi ngôn ngữ và hành vi phi ngôn ngữ.
1.3.2. Hoạt động học tập của học sinh tiểu học

1.3.2.1. Khái niệm hoạt động học tập:
Hoạt động học tập là một dạng hoạt động đặc thù của con người. Nó
chỉ có thể thực hiện ở một trình độ khi mà con người có được khả năng điều
chỉnh những hành động của mình bởi một mục đích đã được ý thức. Chỉ có
thông qua hoạt động học tập mới hình thành ở cá nhân những tri thức khoa
học cũng như cấu trúc tương ứng của hoạt động tâm lý, sự phát triển toàn diện
nhân cách của người học.
"Hoạt động học tập là khái niệm dùng để chỉ việc học diễn ra theo phương
thức nhà trường, nhằm lĩnh hội các hiểu biết mới, kỹ năng, kĩ xảo mới".
Hoạt động học tập bắt đầu nảy sinh và hình thành với tư cách là hoạt
động chủ đạo, khi đứa trẻ tròn 6 tuổi và bắt đầu bước chân tới trường. Hoạt
động học tập là hoạt động chủ đạo của lứa tuổi học sinh Tiểu học.
20

20


Là một hoạt động đặc thù của con người, hoạt động học tập có đầy đủ
các đặc điểm cơ bản của hoạt động con người, đó là:
- Có đối tượng: là các tri thức, kĩ năng, kĩ xảo…
- Do chủ thể tiến hành: Chính là học sinh. Nói đến tính chủ thể là muốn
bao hàm trong đó tính tích cực, khả năng làm chủ bản thân.Để chủ thể thực
hiện hoạt động, cần có các điều kiện khách quan tương ứng (điều kiện xã hội
và công cụ/phương tiện phù hợp). Tính chủ thể thể hiện ở chỗ: mỗi học sinh
phải tự mình hoạt động, biến vốn kinh nghiệm xã hội - lịch sử của loài người
thành phẩm chất, năng lực hoạt động của cá nhân mình.
- Được vận hành theo nguyên tắc gián tiếp: thông qua bộ máy công cụ
lao động giữ vai trò trung gian giữa chủ thể lao động và đối tượng lao động,
gồm: công cụ kĩ thuật (tri thức về kĩ thuật, máy móc, kĩ năng công nghệ) và
công cụ tâm lí (tiếng nói, chữ viết, con số, kí hiệu, hình ảnh…). Cá nhân học

sinh dùng bộ máy công cụ này để điều khiển hoạt động học tập của mình.
- Có mục đích xác định: để lĩnh hội tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, thỏa mãn
nhu cầu nhận thức, hình thành các năng lực chuẩn bị hành trang bước vào
cuộc sống.
- Có bản chất xã hội – lịch sử: hoạt động học tập vận hành trong các
mối quan hệ xã hội. Các quan hệ này chứa đựng nội dung lịch sử do các thế
hệ trước để lại, đồng thời cũng là các quan hệ đang diễn ra trong môi trường
sống của cá nhân học sinh. Ngoài ra, còn có mối quan hệ với thế hệ sau –
trách nhiệm tương lai. Hoạt động học tập của học sinh trong nhà trường do
thầy và trò là chủ thể cùng nhau tiến hành, tức là do một tập thể/nhóm cùng
thực hiện.
- Có cơ sở tự nhiên (vật chất) là bộ não và hoạt động thần kinh cấp cao
của não: là một hoạt động trí óc/tâm lí, học tập là quá trình tiêu hao năng
lượng thần kinh, quá trình huy động các chức năng của não, của các giác
quan…Hoạt động thần kinh cấp cao của não là cơ sở sinh lí thần kinh của
hoạt động tâm lí, trong đó có học tập.
21

21


- Là một hoạt động mang tính xã hội, có tính tương tác cao: quá trình
học tập diễn ra và được thực hiện trong các mối quan hệ người – người đa
dạng, phong phú.
Những đặc điểm nêu trên cho thấy, để thực hiện hoạt động học tập theo
phương pháp nhà trường, học sinh cần đáp ứng các yêu cầu nhất định về phát
triển mặt sinh lí, tâm lí, xã hội, trong đó khía cạnh xúc cảm - ý chí cần được
quan tâm đặc biệt.
1.3.2.2.Đặc điểm hoạt động học tập của học sinh tiểu học
Vào tiểu học, trẻ bắt đầu hình thành một bước “chuyển” vĩ đại nhất

trong cuộc đời. Đó là chuyển từ hoạt động vui chơi - hoạt động chủ đạo của
lứa tuổi mẫu giáo sang hoạt động chủ đạo mới - hoạt động học với đối tượng
mới lần đầu tiên xuất hiện trong cuộc đời trẻ. Với tư cách là hoạt động chủ
đạo, sự hình thành hoạt động học của học sinh tiểu học là cơ sở cho sự phát
triển tâm lý của trẻ. Chính việc tuân thủ, thực hiện những yêu cầu của hoạt
động học tập đòi hỏi ở trẻ những cấu tạo tâm lý mới chưa từng có, đồng thời
những cấu tạo tâm lý này lại được hình thành từ chính hoạt động học tập ở
trẻ. Hoạt động học tập của học sinh tiểu học có đặc điểm sau:
-

Thứ nhất, hoạt động học tập có đối tượng (nội dung) là tri thức khoa học và
các kỹ năng tương ứng được phản ánh thông qua các môn học. Ở lứa
tuổi mẫu giáo, trẻ tiếp thu các tri thức kinh nghiệm thông qua các trò chơi,
thông qua những mối quan hệ với cha, mẹ, bạn bè và cô giáo. Còn ở các lớp
tiểu học, trẻ lĩnh hội các tri thức khoa học một cách có hệ thống qua các môn
học. Để có thể tiến hành hoạt động với đối tượng mới này, trẻ buộc phải có
những phẩm chất, năng lực và hành vi mới mà trước đó trẻ chưa có.

-

Thứ hai, hoạt động học tập còn hướng vào việc lĩnh hội cách học. Khác với lứa
tuổi mẫu giáo “học mà chơi, chơi mà học”, học sinh tiểu học phải tiến hành hoạt
động học theo một phương thức mới- phương thức nhà trường

-

Đối với hoạt động học tập của học sinh tiểu học, xúc cảm tình cảm giữ một vị
trí vô cùng quan trọng bởi vừa là điều kiện, vừa là nội dung, vừa là phương
22


22


tiện giáo dục. Xúc cảm có liên quan với hoạt động nhận thức, là động cơ, là
nguồn động lực mạnh mẽ kích thích sự tìm tòi, sự khám phá sáng tạo của trẻ
trong quá trình nhận thức. Đối với cấp tiểu học, vì HS còn nhỏ ở trong giai
đoạn thích nghi với HĐHT ở nhà trường, trẻ cần sự hỗ trợ về mặt tinh thần
của các đối tượng tham gia giáo dục, đặc biệt ở trường, giáo viên là người rất
cần thiết để hỗ trợ cho trẻ về xúc cảm thuận lợi và điều này tác động trực tiếp
đến sự phát triển của trẻ và hoạt động học tập. Trẻ có xúc cảm tích cực, thích
đến trường, đây là động lực khiến trẻ học tốt, nếu không được giáo viên hỗ
trợ, trẻ dễ bị hẫng hụt và ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động của trẻ, trong đó
HĐHT là hoạt động đầu tiên bị ảnh hưởng.
Tóm lại, về bản chất, hoạt động học tập làm thay đổi chính bản thân
chủ thể của hoạt động học (HSTH). Hoạt động học tập chiếm vị trí chủ đạo
trong đời sống của trẻ. Hoạt động học tập là hoạt động có tính tự giác cao,
được điều khiển một cách có ý thức nhằm lĩnh hội nền văn minh nhân
loại.Xúc cảm tình cảm giữ một vị trí quan trọng đối với hoạt động học tập
của học sinh tiểu học.
1.3.3. Khái niệm xúc cảm tiêu cực trong hoạt động học tập của học
sinh tiểu hoc
Xúc cảm tiêu cực trong HĐHT của HSTH là những rung động thể hiện
thái độ của HS đối với đối tượng có liên quan đến sự không thỏa mãn nhu
cầu của bản thân trong HĐHT hoặc yêu cầu học tập của GV và nhà trường
và được thể hiện qua hành vi ngôn ngữ, hành vi phi ngôn ngữ (nét mặt, cử chỉ
điệu bộ).
Từ cách hiểu như trên về khái niệm “Xúc cảm tiêu cực trong HĐHT của
HSTH”, có thể đưa ra cấu trúc tâm lý của XCTC trong HĐHT của HSTH gồm:
- Tiếp nhận kích thích (từ môi trường xã hội như giáo viên, nhà trường,
bạn bè,…hoặc từ bản thân HS)


23

23


- Đánh giá kích thích (thái độ của HS đối với đối tượng có liên quan
đến sự không thỏa mãn nhu cầu của bản thân trong HĐHT hoặc yêu cầu học
tập của GV và nhà trường)
- Hành vi biểu cảm (biểu hiện ra bên ngoài gồm hành vi ngôn ngữ và
hành vi phi ngôn ngữ (nét mặt, tư thế, cử chỉ điệu bộ)làm cản trở hoạt động
học tập, có ảnh hưởng xấu đến thể chất và tinh thần của cá nhân học sinh).
Xúc cảm tiêu cực trong HĐHT của HSTH có các đặc điểm sau:
- Có sự trải nghiệm trực tiếp. Cá nhân cảm nhận được xúc cảm và
những rung động của bản thân.
- Có tính chất tình huống rõ ràng, tức là thể hiện thái độ đánh giá của
học sinh đối với hiện tượng và sự vật với hoạt động học tập của bản thân và
với các biểu hiện của bản thân trong các tình huống học tập.
- Có tính yêu cầu, xúc cảm có liên quan đến sự không thỏa mãn nhu cầu
của của bản thân trong HĐHT hoặc yêu cầu học tập của GV và nhà trường.
- Có tính bộc lộ, xúc cảm được thể hiện qua hành vi ngôn ngữ và hành
vi phi ngôn ngữ (khuôn mặt, tư thế, cử chỉ điệu bộ).
- Có tính tiêu cực làm cản trở hoạt động học tập và làm cho học sinh
không lĩnh hội được kiến thức, kỹ năng và trở nên thờ ơ, chán nản.
1.3.4. Đặc điểm phát triển tâm lý- xúc cảm của học sinh tiểu học
Học sinh tiểu học là những trẻ có tuổi từ 6-11, 12 tuổi. Đây là lứa tuổi
lần đầu tiên đến trường - trở thành HS và có hoạt động học tập là hoạt động
chủ đạo. Trong giới hạn của đề tài xin chú trọng đến đặc điểm tâm lý- xúc
cảm của học sinh giai đoạn đầu bậc tiểu học: lớp 1 và lớp 2.
1.3.3.1.Về nhận thức

- Tri giác: Tri giác của học sinh tiểu học mang tính đại thể, ít đi vào chi
tiết và mang tính không ổn định, khả năng phân tích một cách có tổ chức và
sâu sắc ở các em còn yếu, chưa phân biệt được sự khác nhau của sự vật, tri
giác về thời gian phát triển hơn tri giác về không gian,tri giác của học sinh
tiểu học còn trực quan và mang tính xúc cảm nhiều, trẻ thích quan sát các sự
24

24


vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn và mới lạ so với bình thường.
- Tư duy: Mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực
quan hành động. Do đó HS lớp 1, 2 thường không phân biệt được đúng- sai,
nguyên nhân- kết quả, tư duy còn mang tính cảm giác.Tuy nhiên khả năng
khái quát hóa sẽ phát triển dần theo lứa tuổi,các phẩm chất tư duy chuyển dần
từ tính cụ thể sang tư duy trừu tượng.
- Tưởng tượng:Tưởng tượng của học sinh tiểu học đã phát triển phong
phú hơn so với trẻ mầm non nhờ có bộ não phát triển và vốn kinh
nghiệm ngày càng phong phú. Tuy nhiên, tưởng tượng của các em vẫn mang
đặc điểm là: Ở đầu tuổi tiểu học thì hình ảnh tưởng tượng còn đơn giản, chưa
bền vững và dễ thay đổi.
- Ngôn ngữ:Ngôn ngữ của HSTH phát triển nhanh cả về số lượng và
chất lượng. HS lớp 1,2 có ngôn ngữ nói tốt hơn ngôn ngữ viết. Đến lớp 5 thì
ngôn ngữviết đã thành thạo và bắt đầu hoàn thiện về mặt ngữpháp, chính tả và
ngữ âm.Vốn từ phong phú và trẻ có khả năng tự học, tự nhận thức thế giới
xung quanh và tự khám phá bản thân thông qua các kênh thông tin khác nhau.
- Chú ý:Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ còn yếu, khảnăng
kiểm soát, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này, chú ý không chủ
định chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Trẻ lúc này chỉ quan tâm chú ý đến
những môn học, giờ học có đồ dùng trực quan sinh động, hấp dẫn có nhiều

tranh ảnh,trò chơi hoặc có cô giáo xinh đẹp, dịu dàng,…Sự tập trung chú ý
của trẻ còn yếu và thiếu tính bền vững,tính hưng phấn cao nên dễ quên, chưa
thể tập trung lâu dài và dễ bị phân tán trong quá trình học tập. Trẻ lớp 1,2
thường tập trung tôt nhất trong khoảng 20- 25 phút.
- Ghi nhớ:Loại trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí
nhớtừ ngữ- logic. Giai đoạn lớp 1, 2 ghi nhớ máy móc phát triển tương đối tốt
và chiếm ưu thế hơn so với ghi nhớ có ý nghĩa (ghi nhớ từng câu, từng chữ).
Nhiều học sinh chưa biết tổ chức việc ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết dựa vào
các điểm tựa để ghi nhớ, chưa biết cách khái quát hóa hay xây dựng dàn bài
25

25


×