Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 111 trang )

Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất lâu đời nhất, với chức năng
chính là cung cấp lương thực thực phẩm cho con người, do đó cho đến nay
đây vẫn là ngành kinh tế có vai trò không thể thay thế được trong đời sống
kinh tế - xã hội của nhân loại. Đối với nước ta, nông nghiệp đã được xác định
là mặt trận kinh tế hàng đầu. Trong những năm gần đây, Đảng và Chính phủ
luôn quan tâm đến phát triển nông nghiệp và nông thôn, coi đây là một lĩnh
vực có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và tìm hiểu về vấn đề nông nghiệp và
nông thôn có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc.
Nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã có những bước tiến mạnh mẽ,
hiện nay nó không chỉ đảm bảo đủ cung cấp lương thực thực phẩm cho người
dân trong nước mà còn xuất khẩu số lượng lớn nông - lâm - thủy sản. Đặc
biệt, chính sách trao quyền tự chủ kinh doanh được xác định từ Đại hội đảng
khóa 10 đã cho phép nông dân tiếp cận với đất đai và các tài nguyên khác như
rừng, biển, mặt nước, thêm vào đó chính sách tự do hóa thương mại và đầu tư
đã tạo động lực thực sự cho nền nông nghiệp hàng hóa. Từ chỗ thiếu đói và
khủng hoảng lương thực, hiện nay Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đứng
thứ hai trên thế giới về xuất khẩu gạo.
Sự phát triển của ngành nông nghiệp cả nước trong những năm qua có
phần đóng góp không nhỏ của các tỉnh trong vùng đồng bằng sông Hồng.
Trong đó, Nam Định là một trong những tỉnh trọng điểm phát triển nông
nghiệp trong vùng, với tiềm năng phát triển nông nghiệp đa dạng và là tỉnh có
an ninh lương thực cao ở đồng bằng Bắc Bộ. Trong những năm gần đây, quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước phát triển đã tạo ra nhiều yếu tố
thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp của tỉnh như thị trường mở rộng; các
thiết bị, công nghệ hiện đại được sử dụng tuy nhiên vấn đề phát triển nông
nghiệp ở tỉnh cũng gặp không ít những khó khăn. Hiện nay, cùng với xu


Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

1


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

hướng phát triển chung của cả nước, tỉ trọng của ngành nông nghiệp trong cơ
cấu kinh tế của tỉnh đang ngành càng giảm và vấn đề phát triển ngành nông
nghiệp của tỉnh theo một xu hướng mới là một nhu cầu tất yếu.
Để tìm hiểu về vấn đề phát triển nông nghiệp của tỉnh trong hiện tại và
tương lai tôi đã quyết định chọn đề tài “ Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định”
làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của mình.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ và giới hạn của đề tài
2.1. Mục tiêu
Đề tài tập trung đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và
phân bố nông nghiệp tỉnh Nam Định, phân tích thực trạng phát triển nông
nghiệp trên lãnh thổ toàn tỉnh Nam Định. Từ đó, đề xuất những định hướng
và giải pháp phù hợp góp phần đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp của tỉnh.
2.2. Nhiệm vụ
Tổng quan những vấn đề lí luận và thực tiễn địa lí nông nghiệp làm cơ
sở để vận dụng vào địa bàn nghiên cứu.
Phân tích và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân
bố nông nghiệp của tỉnh. Từ đó thấy được những tiềm năng, hạn chế trong
vấn đề phát triển nông nghiệp của tỉnh.
Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp theo ngành và sự phân hóa
theo lãnh thổ của tỉnh trong giai đoạn 2000 – 2012.
Đưa ra một số định hướng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm
phát triển nông nghiệp của tỉnh hiệu quả và bền vững.
2.3. Giới hạn của đề tài

Về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu địa lí nông nghiệp tỉnh Nam
Định theo nghĩa hẹp (trồng trọt – chăn nuôi – dịch vụ nông nghiệp) trên các
khía cạnh:
Phân tích và đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển nông
nghiệp tỉnh Nam Định.

Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

2


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

Phân tích thực trạng phát triển ngành nông nghiệp của tỉnh về vai trò,
GTSX, lao động nông nghiệp, cơ cấu ngành và một số hình thức tổ chức lãnh
thổ nông nghiệp của tỉnh.
Về phạm vi lãnh thổ: Đề tài nghiên cứu trên phạm vi toàn tỉnh Nam
Định, với diện tích là 1.637,4 km 2, gồm 10 huyện, thành phố: TP. Nam Định,
huyện Mỹ Lộc, Vụ Bản, Ý Yên, Nam Trực, Trực Ninh, Nghĩa Hưng, Xuân
Trường, Hải Hậu, Giao Thủy.
Về phạm vi thời gian: Phân tích thực trạng phát triển nông nghiệp trong
giai đoạn 2000 – 2012 và các định hướng phát triển ngành nông nghiệp của
tỉnh từ 2012 đến năm 2020.
3. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
3.1. Quan điểm
3.1.1. Quan điểm lãnh thổ
Bất kì một sự vật, hiện tượng địa lí nào cũng tồn tại trên một không
gian lãnh thổ nhất định. Khoa học Địa lí đã tìm ra mọi sự phân hóa của các sự
vật, hiện tượng và dự kiến sự phân bố của chúng trong không gian.
Vận dụng quan điểm lãnh thổ trong nghiên cứu địa lí nông nghiệp tỉnh

Nam Định nhằm đánh giá tác động của điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội đối
với sản xuất nông nghiệp và sự phân hóa của chúng theo các đơn vị lãnh thổ
khác nhau. Trong nghiên cứu địa lí nông nghiệp sự phân hóa lãnh thổ có ý
nghĩa đặc biệt. Nghiên cứu sự khác biệt này nhằm phát hiện các mối quan hệ
nhiều chiều giữa các bộ phận kinh tế nông nghiệp với nhau và giữa chúng với
các điều kiện sinh thái. Nghiên cứu sự khác biệt lãnh thổ nông nghiệp cũng
tìm ra thế mạnh của từng vùng sản xuất nông nghiệp tỉnh Nam Định để đưa ra
kế hoạch phân vùng sản xuất nông nghiệp một cách hiệu quả.
3.1.2. Quan điểm hệ thống
Quan điểm này cho phép xem xét lãnh thổ nghiên cứu là một hệ thống,
với nhiều khía cạnh có quy mô, bản chất khác nhau cùng tồn tại trong mối

Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

3


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

quan hệ tác động qua lại; mặt khác lãnh thổ đó lại là một bộ phận của hệ
thống cấp cao hơn và có mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận khác.
Trong quá trình nghiên cứu địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định, quan
điểm này được coi là quan điểm quan trọng. Tỉnh Nam Định là một hệ thống
kinh tế - xã hội nhỏ trong hệ thống kinh tế - xã hội của vùng đồng bằng sông
Hồng và cả nước. Vì vậy, quá trình nghiên cứu đề tài phải đảm bảo được tính
hệ thống.
3.1.3. Quan điểm viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng địa lí đều có lịch sử phát sinh, phát triển của riêng
nó. Như vậy, lịch sử là sự vận động có thật của các đối tượng trong thế giới khách
quan. Vận dụng quan điểm lịch sử vào việc nghiên cứu đề tài để thấy được sự

biến đổi của các yếu tố nông nghiệp trong từng giai đoạn phát triển và từ đó xác
định được những triển vọng phát triển ngành trong tương lai.
3.1.4. Quan điểm phát triển bền vững
Phát triển bền vững đã trở thành xu hướng tất yếu trong mọi kế hoạch,
chương trình, chiến lược phát triển của nhân loại trong thời đại ngày nay.
Đối với sản xuất nông nghiệp, một hoạt động chủ yếu dựa vào các điều
kiện tự nhiên, càng phát triển sự tác động vào tự nhiên ngày càng nhiều, nên
cần phải khai thác tài nguyên hợp lí, tuân thủ các quy luật phát triển của tự
nhiên nhằm hướng tới sự phát triển bền vững cho đất nước.
Dựa trên quan điểm này, vấn đề phát triển nông nghiệp tỉnh Nam Định
phải đảm bảo phát triển bền vững cả về 3 mặt: kinh tế nông nghiệp, xã hội và
môi trường. Cụ thể: về kinh tế nông nghiệp, đó là nông nghiệp đạt tốc độ tăng
trưởng cao và ổn định; về xã hội, là sự đảm bảo vấn đề lương thực, xóa đói
giảm nghèo, giảm áp lực dân số đối với nông nghiệp; về môi trường, đó là
vấn đề bảo vệ đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, chống suy
thoái và ô nhiễm môi trường.
Quán triệt quan điểm này, trong quá trình nghiên cứu Địa lí nông
nghiệp tỉnh Nam Định có ý nghĩa định hướng cho công tác phân tích, đánh
giá các thành quả phát triển nông nghiệp cũng như việc đề ra các giải pháp
nhằm khai thác lãnh thổ một cách hợp lí, hiệu quả và bền vững.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

4


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

3.2. Phương pháp nghiên cứu
3.2.1. Phương pháp thu thập, xử lí tài liệu
Đây là phương pháp quan trọng xuyên suốt quá trình thực hiện đề tài.

Các tài liệu, số liệu được thu thập từ nhiều nguồn khác nhau: sách báo, thông
tin từ các trang web, các tài liệu được cung cấp từ Sở Nông nghiệp và phát
triển nông thôn tỉnh Nam Định, Cục Thống kê tỉnh Nam Định. Trên cơ sở đó
tiến hành các phương pháp nghiên cứu trong phòng với các phần mềm xử lí
số liệu để có được hệ thống các số liệu có đủ độ tin cậy để phục vụ cho mục
đích nghiên cứu của đề tài.
Trên cơ sở tập hợp, thu thập các tài liệu liên quan đến đề tài, tác giả đã
tiến hành phân tích, tổng hợp có chọn lọc các nguồn tư liệu, từ đó có những
nhận xét, phân tích và rút ra kết luận cần thiết.
3.2.2. Phương pháp phân tích, so sánh và tổng hợp
Đây là phương pháp sử dụng các số liệu thống kê và các tư liệu liên
quan để tiến hành so sánh, đánh giá và phát triển làm rõ các vấn đề đưa ra.
Trong nghiên cứu địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định cần phân tích, so
sánh và đối chiếu với các tỉnh khác trong vùng Đồng bằng sông Hồng để thấy
rõ bản chất chung nhất, xu hướng phát triển cũng như mối quan hệ giữa
chúng. Mặt khác, nhờ so sánh mà có thể thấy được sự thay đổi giữa các ngành
trồng trọt, chăn nuôi, giữa các huyện trong tỉnh qua các năm. Sau khi phân
tích, so sánh cần tiến hành bước tổng hợp để có được các nhìn tổng quát về
đối tượng nghiên cứu và đưa ra được những đánh giá đúng đắn theo mục tiêu
và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
3.2.3. Phương pháp biểu đồ, bản đồ
Bản đồ là phương tiện hữu hiệu trong việc cụ thể hóa đối tượng địa lí,
thể hiện sự phân bố không gian của đối tượng. Vì thế mà quá trình thực hiện
đề tài đã sử dụng bản đồ như một nguồn tự liệu quan trọng và cũng sử dụng
bản đồ như một phương tiện phản ánh các kết quả nghiên cứu về các yếu tố
của nông nghiệp tỉnh Nam Định. Do đó, dựa trên cơ sở dữ liệu đã thu thập
được, tác giả đã tiến hành thành lập một số bản đồ thể hiện trực quan hơn kết
quả nghiên cứu dưới sự hỗ trợ của phần mềm Mapinfo, Arcgis.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí


5


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

Bên cạnh đó tác giả đã xây dựng một số biểu đồ để phản ánh quy mô,
động thái, cơ cấu, … của các hiện tượng kinh tế theo không gian và thời gian.
Từ đó phân tích, đánh giá về thực trạng cũng như đưa ra những nhận định về
hướng phát triển trong thời gian tiếp theo.
4. Cấu trúc của đề tài
Đề tài “Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định” ngoài phần mở đầu và kết
luận, nội dung gồm 4 chương chính:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của địa lí nông nghiệp
Chương II: Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông
nghiệp tỉnh Nam Định
Chương III: Thực trạng phát triển và phân bố nông nghiệp tỉnh Nam Định
Chương IV: Một số định hướng và giải pháp phát triển nông nghiệp
tỉnh Nam Định đến năm 2020

Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

6


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

PHẦN NỘI DUNG
Chương I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỊA LÍ
NÔNG NGHIỆP
1.1. Cơ sở lí luận

1.1.1. Khái niệm nông nghiệp
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất cơ bản của xã hội, sử dụng đất
đai để trồng trọt và chăn nuôi, khai thác cây trồng và vật nuôi làm tư liệu và
nguyên liệu lao động chủ yếu để tạo ra lương thực thực phẩm và một
số nguyên liệu cho công nghiệp [7]. Nông nghiệp là một ngành sản xuất lớn,
bao gồm nhiều chuyên ngành: trồng trọt, chăn nuôi, sơ chế nông sản,… Trong
đó, nông nghiệp theo nghĩa hẹp là sự hợp thành của trồng trọt và chăn nuôi,
còn theo nghĩa rộng bao gồm cả lâm nghiệp và ngư nghiệp. Trong toàn bộ nền
kinh tế có thể chia thành 3 khu vực: khu vực I, khu vực II, khu vực III, trong
đó khu vực I bao gồm nông – lâm – ngư nghiệp.
1.1.2. Vai trò và đặc điểm của sản xuất nông nghiệp. [7]
1.1.2.1. Vai trò của sản xuất nông nghiệp
Từ khi ra đời cho đến nay, nông nghiệp luôn đóng vai trò quan trọng
trong việc phát triển nền kinh tế nói chung và đảm bảo sự sinh tồn của loài người
nói riêng. Ăngghen đã khẳng định: nông nghiệp là ngành có ý nghĩa quyết định
đối với toàn bộ thế giới cổ đại và hiện nay nông nghiệp ngày càng có ý nghĩa
như thế. Vai trò to lớn của nông nghiệp được thể hiện ở các điểm sau:
 Nông nghiệp cung cấp lương thực, thực phẩm phục vụ nhu cầu cơ bản
của con người.
Nông nghiệp là ngành sản xuất vật chất xuất hiện sớm nhất của xã hội
loài người. Sản phẩm quan trọng hàng đầu mà con người làm ra để nuôi sống
mình là lương thực. Cách đây khoảng một vạn năm, con người đã biết thuần
dưỡng động vật hoang, trồng các loại cây rừng và biến chúng thành vật nuôi,
cây trồng. Sự ổn định bước đầu của dân số thế giới là từ khi loài người biết
trồng trọt và tạo được cơ sở lương thực, thực phẩm.

Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

7



Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

Với sự phát triển của khoa học - kĩ thuật, nông nghiệp ngày càng được
mở rộng, giống các cây trồng, vật nuôi ngày càng đa dạng và phong phú. Các
Mác đã khẳng định, con người trước hết phải có ăn sau đó mới đến các hoạt
động khác. Ông đã chỉ rõ: nông nghiệp là ngành cung cấp tư liệu sinh hoạt
cho con người,… và việc sản xuất ra tư liệu sinh hoạt là điều kiện đầu tiên
cho sự sống của họ và của mọi lĩnh vực sản xuất nói chung. Điều này khẳng
định vai trò đặc biệt quan trọng của nông nghiệp trong việc nâng cao mức
sống dân cư, đảm bảo an ninh lương thực quốc gia cũng như sự ổn định chính
trị - xã hội của đất nước. Từ đó chúng ta có thể khẳng định ý nghĩa to lớn của
vấn đề lương thực trong chiến lược phát triển nông nghiệp và phân công lại
lao động xã hội. Cho đến nay, chưa có ngành nào dù hiện đại đến đâu, có thể
thay thế được sản xuất nông nghiệp.
 Nông nghiệp là một trong những ngành quan trọng cung cấp nguyên
liệu để phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và tạo thêm việc làm cho
dân cư.
Nông nghiệp là nguồn cung cấp nguyên liệu quan trọng cho các ngành
công nghiệp chế biến. Các ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, đồ uống,
công nghiệp dệt, da và đồ dùng bằng da,… đều phải sử dụng nguồn nguyên
liệu từ nông nghiệp.
Đối với các nước đang phát triển, nguyên liệu từ nông sản là bộ phận
đầu vào chủ yếu để phát triển công nghiệp chế biến và nhiều ngành công
nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng. Một số loại nông sản, nếu tính trên đơn vị
diện tích, có thể tạo ra số việc làm sau nông nghiệp nhiều hơn hoặc tương
đương với số việc làm của chính khâu sản xuất ra nông sản ấy. Hơn nữa,
thông qua công nghiệp chế biến, giá trị nông sản được tăng lên và đa dạng
hơn, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu của thị trường trong nước và quốc tế. Vì
thế, trong chừng mực nhất định, nông nghiệp có sự ảnh hưởng đến sự phát

triển và phân bố các ngành công nghiệp chế biến.

Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

8


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

 Nông nghiệp và nông thôn là thị trường rộng lớn tiêu thụ sản phẩm
hàng hóa của nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Đối với các nước đang phát triển, nông nghiệp và nông thôn chiếm tỉ lệ
cao trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội (GDP) và cơ cấu ngành nghề của
dân cư. Đời sống dân cư nông thôn ngày càng được nâng cao, cơ cấu kinh tế
nông thôn càng đa dạng và đạt tốc độ tăng trưởng cao thì nông nghiệp và
nông thôn sẽ trở thành thị trường tiêu thụ rộng lớn và ổn định của nền kinh tế
quốc dân.
 Nông nghiệp là ngành cung cấp khối lượng hàng hóa lớn để xuất khẩu,
mang lại nguồn ngoại tệ cho đất nước.
Nông sản dưới dạng thô hoặc qua chế biến là bộ phận hàng hóa xuất
khẩu chủ yếu của các nước đang phát triển. Trong cơ cấu kim ngạch xuất
khẩu, tỉ lệ nông sản xuất khẩu – nhất là dưới dạng thô, có xu hướng giảm đi,
nhưng về giá trị tuyệt đối thì vẫn tăng lên. Vì vậy, trong thời kì đầu của quá
trình công nghiệp hóa ở nhiều nước, nông nghiệp trở thành ngành xuất khẩu
chủ yếu, tạo ra tích lũy để tái sản xuất và phát triển nền kinh tế quốc dân.
 Nông nghiệp là khu vực cung cấp lao động phục vụ công nghiệp và các
lĩnh vực hoạt động khác của xã hội.
Đây là xu hướng có tính quy luật trong phân công lại lao động xã hội.
Tuy vậy, khả năng di chuyển lao động từ nông nghiệp sang các ngành kinh tế
khác còn phụ thuộc vào việc nâng cao năng suất lao động trong nông nghiệp,

vào việc phát triển công nghiệp và dịch vụ ở thành thị và cả việc nâng cao
chất lượng nguồn lao động ở nông thôn.
 Nông nghiệp trực tiếp tham gia vào giữ gìn cân bằng sinh thái, bảo vệ
tài nguyên thiên nhiên và môi trường
Quá trình phát triển nông nghiệp gắn liền với việc sử dụng thường
xuyên đất đai, nguồn nước, các loại hóa chất,… với việc trồng và bảo vệ
rừng, luân canh cây trồng, phủ xanh đất trống, đồi trọc,… Tất cả điều đó đều
có ảnh hưởng lớn đến môi trường. Chính việc bảo vệ nguồn tài nguyên thiên
nhiên, môi trường sinh thái là điều kiện để sản xuất nông nghiệp có thể phát
triển và đạt hiệu quả cao.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

9


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

1.1.2.2. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp
Nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chủ yếu của xã
hội, với những đặc điểm riêng biệt. Nghiên cứu các đặc điểm của nó có vai
trò quan trọng trong việc xác định phương hướng phát triển, hoạch định chính
sách và tiến hành các biện pháp quản lí có hiệu quả.
 Đất trồng là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt
Trong công nghiệp, giao thông, đất đai chỉ là nơi xây dựng nhà xưởng,
hệ thống đường giao thông. Còn trong nông nghiệp, đất đai trực tiếp tham gia
vào quá trình sản xuất như là tư liệu sản xuất chủ yếu, đặc biệt và không thể
thay thế. Thường thì không thể có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai.
Quy mô sản xuất, trình độ phát triển, mức độ thâm canh, phương hướng sản
xuất và cả việc tổ chức lãnh thổ nông nghiệp lệ thuộc nhiều vào số lượng và
chất lượng của đất đai. Trong quá trình sử dụng, đất đai ít bị hao mòn, bị hỏng

đi như các tư liệu sản xuất khác. Nếu con người biết sử dụng hợp lí, biết duy
trì và nâng cao độ phì trong đất, thì sẽ sử dụng được lâu dài và tốt hơn. Tất
nhiên, việc duy trì, nâng cao độ phì trong đất phụ thuộc vào nhiều yếu tố như
đầu tư vốn và sức lao động, phương tiện sản xuất hiện đại, áp dụng rộng rãi
các thành tựu khoa học kĩ thuật và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến.
Trong lịch sử phát triển nông nghiệp có hai hình thức sử dụng đất là
quảng canh và thâm canh. Quảng canh là biện pháp tăng sản lượng nông
nghiệp chủ yếu do mở rộng diện tích đất trồng trọt (đặc trưng của nền nông
nghiệp ở trình độ thấp), còn mức độ sử dụng máy móc, phân bón, thuốc trừ
sâu, … trên một đơn vị diện tích rất thấp. Hình thức quảng canh phổ biến ở
những nước có nền kinh tế chậm phát triển. Thâm canh là biện pháp tăng sản
lượng nông nghiệp do tăng năng suất cây trồng và sức sản xuất của vật nuôi,
đặc trưng của nền nông nghiệp tiên tiến hiện đại. Nền nông nghiệp thâm canh
áp dụng rộng rãi tiến bộ khoa học kĩ thuật trong nông nghiệp như máy móc,
tưới tiêu khoa học, lai tạo giống, phân bón và thuốc trừ sâu,… Nhìn chung,
hình thức thâm canh phổ biến ở những nơi hạn chế về diện tích đất canh tác, ít
có khả năng khai hoang, mở rộng diện tích, bình quân đất nông nghiệp trên
đầu người thấp.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

10


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

 Đối tượng của sản xuất nông nghiệp là các sinh vật, cơ thể sống
Trong khi đối tượng của các ngành sản xuất khác phần lớn là các vật vô
tri, vô giác thì nông nghiệp có đối tượng sản xuất là các cây trồng, vật nuôi,
nghĩa là các cơ thể sống. Cây trồng, vật nuôi sinh trưởng và phát triển theo
các quy luật sinh học và đồng thời cũng chịu tác động rất nhiều của quy luật

tự nhiên. Quá trình sản xuất ra sản phẩm nông nghiệp là quá trình chuyển hóa
về vật chất và năng lượng thông qua sự sinh trưởng của cây trồng và vật nuôi.
Quá trình phát triển của sinh vật tuân theo các quy luật sinh học không thể
đảo ngược. Mà các quy luật sinh học và điều kiện ngoại cảnh tồn tại độc lập
với ý muốn chủ quan của con người. Vì vậy, nhận thức và tác động phù hợp
với quy luật sinh học và quy luật tự nhiên là một yêu cầu quan trọng nhất của
bất cứ một quá trình sản xuất nông nghiệp nào.
 Sản xuất nông nghiệp có tính thời vụ
Tính thời vụ là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp,
đặc biệt là ngành trồng trọt bởi: Thời gian lao động không trùng với thời gian
sản xuất của các loại cây trồng; do sự biến đổi của thời tiết, khí hậu, mỗi loại
cây trồng có sự thích ứng khác nhau.
Tính thời vụ của sản xuất nông nghiệp thể hiện ở nhiều mặt khác nhau:
- Trước hết là, quá trình sinh học của cây trồng, vật nuôi diễn ra thông
qua hàng loạt các giai đoạn kế tiếp nhau: giai đoạn này là sự tiếp tục của giai
đoạn trước và tạo tiền đề cần thiết cho giai đoạn sau. Vì vậy, sự tác động của
con người vào các giai đoạn sinh trưởng của chúng hoàn toàn không phải như
nhau. Từ đây nảy sinh tình trạng có lúc đòi hỏi lao động căng thẳng và liên
tục, nhưng có lúc lại thư nhàn, thậm chí không cần lao động. Việc sử dụng lao
động và các tư liệu sản xuất không giống nhau trong suốt chu kì sản xuất và là
một trong các hình thức biểu hiện của tính thời vụ.
- Tính thời vụ thể hiện không những ở nhu cầu về đầu vào như: lao
động, vật tư, phân bón mà còn ở cả khâu thu hoạch, chế biến, dự trữ và tiêu
thụ sản phẩm trên thị trường.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

11


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định


 Nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên
Sản xuất nông nghiệp phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nhất là đất đai
và khí hậu. Đặc điểm này bắt nguồn từ chỗ đối tượng lao động của nông
nghiệp là cây trồng, vật nuôi. Chúng chỉ có thể tồn tại và phát triển được khi
có đủ 5 yếu tố cơ bản của tự nhiên là nhiệt độ, nước, ánh sáng, không khí và
chất dinh dưỡng, trong đó yếu tố này không thể thay thế yếu tố kia. Các yếu
tố trên kết hợp và cùng tác động với nhau trong một thể thống nhất. Chỉ cần
thay đổi một yếu tố là có hàng loạt các kết hợp khác nhau và dĩ nhiên điều đó
sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nông nghiệp.
Mỗi yếu tố và sự kết hợp của các yếu tố thay đổi từ nơi này sang nơi
khác. Những thay đổi ấy phụ thuộc vào tính quy luật theo lãnh thổ và theo
thời gian. Đất, khí hậu, nước với tư cách như tài nguyên nông nghiệp quyết
định khả năng nuôi trồng các loại cây, con cụ thể trong từng lãnh thổ và khả
năng áp dụng các quy trình kĩ thuật để sản xuất ra nông phẩm.
Do những đặc điểm trên, sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên
không gian rộng lớn, liên quan tới khí hậu, thời tiết, đất đai của từng vùng cụ
thể. Trong cơ chế thị trường, việc bố trí sản xuất nông nghiệp sao cho phù
hợp với từng vùng sinh thái sẽ tăng thêm khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
Để nâng cao hiệu quả kinh tế, cần xem xét, vận dụng các đặc điểm trên của
sản xuất nông nghiệp một cách linh hoạt.
1.1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển và phân bố nông nghiệp
1.1.3.1. Vị trí địa lí kết hợp cùng khí hậu, thổ nhưỡng quy định sự có mặt
của các hoạt động nông nghiệp
Vị trí địa lí của lãnh thổ với đất liền, với biển, với các quốc gia trong
khu vực và nằm trong một đới tự nhiên nhất định sẽ có ảnh hưởng tới phương
hướng sản xuất, tới việc trao đổi và phân công lao động trong nông nghiệp.
Ví dụ: Việt Nam nằm trong khu vực nội chí tuyến với khí hậu nhiệt đới
ẩm gió mùa đã quy định nền nông nghiệp nước ta là nền nông nghiệp nhiệt
đới. Chính vì vậy, sản phẩm đặc trưng của nền nông nghiệp nước ta là các

loại rau, quả nhiệt đới.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

12


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

1.1.3.2. Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên là tiền đề cơ bản để
phát triển và phân bố nông nghiệp
Sự phát triển và phân bố của ngành nông nghiệp tùy thuộc vào điều
kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên. Sự phân đới nông nghiệp trên thế giới
phụ thuộc vào sự phân đới tự nhiên. Sự tồn tại của các nền nông nghiệp gắn
liền với các đặc trưng của từng đới tự nhiên. Tính mùa vụ trong sản xuất nông
nghiệp, trong việc sử dụng lao động và các nguồn lực khác, trong việc trao
đổi sản phẩm cũng chịu sự tác động của điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên
nhiên. Tính bấp bênh, không ổn định của nông nghiệp phần nhiều là do tai
biến thiên nhiên và thời tiết khắc nghiệt. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ có
thể sinh trưởng và phát triển trong những điều kiện tự nhiên nhất định. Như
vậy, các nhân tố tự nhiên có vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó quan trọng
nhất là đất, nước và khí hậu.
 Đất đai
Đất trồng là tư liệu sản xuất chủ yếu, là cơ sở để tiến hành trồng trọt và
chăn nuôi. Không thể có sản xuất nông nghiệp nếu không có đất đai. Quỹ đất
và cơ cấu sử dụng đất, các loại đất và độ phì của đất có ảnh hưởng rất lớn đến
quy mô và phương hướng sản xuất, cơ cấu và sự phân bố cây trồng, vật nuôi,
mức độ thâm canh và năng suất cây trồng. Đất đai không chỉ là môi trường
sống mà còn cung cấp các chất dinh dưỡng cho cây trồng đảm bảo cho cây
trồng sinh trưởng và phát triển tốt. Do đó, những vùng đất màu mỡ, phì nhiêu
trên thế giới đều là những vùng nông nghiệp trù phú.

Tuy nhiên, tài nguyên đất nông nghiệp rất hạn chế, chỉ chiếm
khoảng 12% diện tích tự nhiên của toàn thế giới. Xu hướng bình quân
diện tích đất nông nghiệp trên đầu người ngày một giảm do gia tăng dân
số, do xói mòn, rửa trôi, do hoang mạc hóa và chuyển đổi mục đích sử
dụng sang đất công nghiệp, đất đô thị và đất cho cơ sở hạ tầng. Vì vậy,
con người cần phải sử dụng hợp lí diện tích đất nông nghiệp hiện có, duy
trì và nâng cao độ phì cho đất.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

13


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

 Khí hậu
Khí hậu với các yếu tố nhiệt độ, lượng mưa, ánh sáng, độ ẩm, chế độ
gió và cả những bất thường của thời tiết có ảnh hưởng rất lớn tới việc xác
định cơ cấu cây trồng, vật nuôi; cơ cấu mùa vụ; khả năng xem canh, tăng vụ
và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Tính mùa của khí hậu quy định tính mùa
trong sản xuất và cả trong tiêu thụ sản phẩm. Mỗi loại cây trồng, vật nuôi chỉ
thích hợp với những điều kiện khí hậu nhất định. Vượt quá giới hạn cho phép,
chúng sẽ chậm phát triển, thậm chí bị chết.
Những vùng đồi dào về nhiệt, ẩm và lượng mưa, về thời gian chiếu
sáng và cường độ bức xạ có thể cho phép trồng nhiều vụ trong năm với cơ cấu
cây trồng, vật nuôi phong phú, đa dạng, có khả năng xen canh gối vụ, chẳng
hạn như vùng nhiệt đới. Còn như vùng ôn đới, với một mùa đông tuyết phủ
với ít vụ trong năm.
 Nguồn nước
Nước đối với sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết, như ông cha ta đã
khẳng định: “Nhất nước, nhì phân”. Muốn duy trì hoạt động nông nghiệp cần

phải có đầy đủ nguồn nước ngọt cho cây trồng và cho gia súc, gia cầm.
Nước ảnh hưởng rất lớn đến năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi
và hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Những nơi có nguồn cung cấp nước dồi
dào, thường xuyên đều là những vùng nông nghiệp trù phú. Ngược lại, nông
nghiệp không thể phát triển được ở những nơi khan hiếm nước.
Nguồn nước trên thế giới phân bố không đồng đều và thay đổi theo
mùa. Ở nước ta, nguồn nước có sự phân hoá theo mùa rất rõ rệt thành mùa
mưa và mùa khô. Điều này gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp. Để khắc
phục những khó khăn này, người ta đã xây dựng các công trình thủy lợi, các
hồ chứa nước,… để phục vụ tưới tiêu một cách chủ động. Sự suy giảm nguồn
nước ngọt là một nguy cơ đe dọa sự tồn tại và phát triển nông nghiệp nói
riêng và nền kinh tế nói chung. Vì vậy chúng ta cần sử dụng hợp lí, tiết kiệm
và bảo vệ nguồn nước.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

14


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

 Sinh vật
Sinh vật là cơ sở để thuần dưỡng, tạo nên các giống cây trồng, vật nuôi.
Sự đa dạng về thảm thực vật và hệ động vật là tiền đề hình thành và phát triển
các giống vật nuôi, cây trồng và tạo khả năng chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp
phù hợp với điều kiện tự nhiên và sinh thái.
Các diện tích đồng cỏ, bãi chăn thả gia súc và diện tích mặt nước tự
nhiên là cơ sở thức ăn tự nhiên để phát triển ngành chăn nuôi. Ngày nay, mặc
dù ngành chăn nuôi được đẩy mạnh nhờ ứng dụng phương pháp chăn nuôi
công nghiệp dựa trên nguồn thức ăn được chế biến theo phương pháp công
nghiệp, nhưng nguồn thức ăn tự nhiên vẫn còn vai trò quan trọng.

1.1.3.3. Các nhân tố kinh tế - xã hội có ảnh hưởng quyết định tới sự phát
triển và phân bố nông nghiệp
 Dân cư và lao động
Dân cư và lao động ảnh hưởng tới hoạt động nông nghiệp dưới hai góc
độ: là lực lượng sản xuất trực tiếp và là nguồn tiêu thụ các nông sản.
- Dưới góc độ là lực lượng sản xuất trực tiếp để tạo ra các sản phẩm
nông nghiệp, nguồn lao động được coi là nhân tố quan trọng để phát triển
theo chiều rộng (mở rộng diện tích, khai hoang,… ) và theo chiều sâu (thâm
canh, tăng vụ,…). Các cây trồng, vật nuôi đòi hỏi nhiều công chăm sóc
thường được phân bố ở các vùng đông dân, nhiều lao động.
Nguồn lao động không chỉ được xem xét về mặt số lượng mà còn cả về
mặt chất lượng như trình độ học vấn, tỉ lệ lao động được đào tạo nghề nghiệp,
tình trạng thể lực của người lao động,… Nếu nguồn lao động đông và tăng
nhanh, trình độ học vấn và tay nghề thấp, thiếu việc làm sẽ trở thành gánh
nặng cho nông nghiệp nói riêng và cả nền kinh tế nói chung.
- Dưới góc độ là nguồn tiêu thụ: sự tiêu thụ sản phẩm của nông nghiệp
cần quan tâm đến truyền thống, tập quán ăn uống, quy mô dân số với khả
năng sản xuất lương thực, thực phẩm của vùng.

Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

15


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

 Khoa học – công nghệ
Yếu tố khoa học – công nghệ đã thực sự trở thành đòn bẩy thúc đẩy sự
tăng trưởng và phát triển nông nghiệp. Nhờ nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ
kĩ thuật, con người hạn chế được những ảnh hưởng của tự nhiên, chủ động

hơn trong hoạt động nông nghiệp, tạo ra nhiều giống cây, con mới cho năng
suất và hiệu quả kinh tế cao, tạo điều kiện hình thành các vùng chuyên canh,
thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn theo
hướng công nghiệp hóa.
Các biện pháp kĩ thuật như điện khí hóa (sử dụng điện trong nông
nghiệp và nông thôn), cơ giới hóa (sử dụng máy móc trong các khâu làm đất,
chăm sóc và thu hoạch), thủy lợi hóa (xây dựng hệ thống kênh tưới tiêu hoặc
áp dụng tưới tiêu theo khoa học), hóa học hóa (sử dụng rộng rãi phân hóa học,
thuốc trừ sâu, diệt có, các chất kích thích cây trồng, vật nuôi,…), sinh học hóa
(áp dụng công nghệ sinh học như lai giống, biến đổi gen,…) nếu được áp
dụng rộng rãi thì năng suất trên một đơn vị diện tích và của một người lao
động sẽ thực sự được nâng cao.
 Quan hệ sở hữu và chính sách nông nghiệp
Đây là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn tới con đường phát triển và các hình
thức tổ chức sản xuất nông nghiệp. Ví dụ: trong chính sách khoán 10 ở Việt
Nam từ năm 1988, hộ nông dân được coi là một đơn vị kinh tế tự chủ, được
giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài để phát triển sản xuất, được tự do trao
đổi hàng hóa và mua bán vật tư. Chính vì vậy, kinh tế hộ nông dân đã tạo đà
cho việc khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng sẵn có, sản xuất nông nghiệp ở
nước ta đã tăng lên rõ rệt. Có thể nói chính sách khoán đã tạo động lực cho
tăng trưởng nông nghiệp trong những năm 90 của thế kỉ XX.
Ngoài ra, các chương trình giao đất, giao rừng cho các hộ nông dân đã
thúc đẩy nền nông nghiệp phát triển mạnh mẽ.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

16


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định


 Nguồn vốn và thị trường tiêu thụ
Yếu tố này có tác động mạnh đến sản xuất nông nghiệp và giá cả nông
sản. Cụ thể:
Nguồn vốn có vai trò to lớn đối với quá trình phát triển và phân bố
nông nghiệp, nhất là đối với các nước phát triển như Việt Nam. Nguồn vốn
tăng nhanh, được phân bố và sử dụng một cách có hiệu quả sẽ tác động đến
tăng trưởng và mở rộng sản xuất, đáp ứng các chương trình phát triển nông
nghiệp, đưa tiến bộ khoa học – công nghệ vào nông nghiệp.
Sự phát triển của thị trường trong nước và ngoài nước không chỉ thúc
đẩy sự phát triển nông nghiệp và giá cả nông sản mà còn tác động điều tiết
đối với sự hình thành và phát triển các vùng nông nghiệp chuyên môn hóa.
Ngoài các nhân tố kể trên, còn có nhiều nhân tố khác nữa như cơ sở hạ
tầng và cơ sở vật chất kĩ thuật phục vụ nông nghiệp,… Tất cả đã tạo thành
một hệ thống cùng thúc đẩy sự phát triển của ngành kinh tế quan trọng này.
1.1.4. Các tiêu chí đánh giá phát triển nông nghiệp
Để đánh giá sự phát triển của ngành nông nghiệp, người ta căn cứ vào
nhiều chỉ tiêu khác nhau. Trong đó, các chỉ tiêu cơ bản bao gồm:
1.1.4.1. GTSX và cơ cấu GTSX nông nghiệp
GTSX nông nghiệp là tổng GTSX của ngành trồng trọt, ngành chăn
nuôi và ngành dịch vụ nông nghiệp được tạo ra trên một đơn vị lãnh thổ trong
một thời kì nhất định, tính theo giá cố định hoặc giá hiện hành.
Cơ cấu GTSX nông nghiệp là tương quan về GTSX giữa các bộ phận
(trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ nông nghiệp) trong tổng thể hoạt động nông
nghiệp, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và tác động qua lại cả về số lượng và
chất lượng giữa các bộ phận đó với nhau.
Cơ cấu GTSX nông nghiệp tùy thuộc vào chiến lược phát triển và
điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia. Tuy nhiên, xu hướng
chung là giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi và
dịch vụ nông nghiệp.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí


17


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

Như vậy, chỉ tiêu giá trị sản xuất và cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp
vừa phản ánh sự tăng lên về sản lượng nông nghiệp, vừa thể hiện chuyển biến
về chất của sự phát triển nông nghiệp.
1.1.4.2. GDP nông nghiệp và tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp
GDP nông nghiệp phản ánh sức đóng góp của sản xuất nông nghiệp đối
với nền kinh tế quốc dân.
Tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp phản ánh mức độ phát triển, hiệu
quả của sản xuất nông nghiệp. Tốc độ này thường thấp hơn nhiều so với tốc
độ tăng trưởng của công nghiệp và dịch vụ. Nguyên nhân chính là do nông
nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên và giá trị của các sản phẩm
nông nghiệp thường thấp hơn nhiều so với giá trị của các sản phẩm ngành
nông nghiệp và ngành dịch vụ. Chính vì vậy, để GDP nông nghiệp tăng lên
được 1% thì khó khăn hơn nhiều so với việc tăng 5% - 6% GDP của ngành
nông nghiệp hay dịch vụ. Do đó, trong đánh giá thực trạng phát triển nông
nghiệp, chỉ tiêu tốc độ tăng GDP nông nghiệp còn phản ánh trình độ cơ giới
hóa, hiện đại hóa và hiệu quả của việc ứng dụng khoa học kĩ thuật trong sản
xuất nông nghiệp.
Để tính tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp, người ta thường lấy giá
so sánh của một năm cố định hoặc so với năm gốc – năm mà nền kinh tế đất
nước có biến động nhất, nhưng không nên quá cách xa thời điểm sánh. Ở
nước ta, tốc độ tăng trưởng được tính theo giá so sánh năm 1994.
1.1.4.3. Năng suất lao động nông nghiệp
Năng suất lao động nông nghiệp là chỉ tiêu phản ánh hiệu quả của
việc sử dụng lao động và khả năng áp dụng khoa học kỹ thuật trong sản

xuất nông nghiệp, cần nhiều sức lao động của con người nhưng giá trị tạo
ra lại không cao nên năng suất lao động nông nghiệp thường thấp hơn so
với các ngành kinh tế khác. Mặt khác, tỷ lệ dùng thời gian trong lao động
nông nghiệp cũng thấp hơn so với công nghiệp và dịch vụ do tính chất
thời vụ cao của sản xuất dược tạo ra trong nông nghiệp càng mặc dù số
lượng lao động ngày càng giảm.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

18


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

Công thức tính: N = P/L. Trong đó:
P: là giá trị sản xuất nông nghiệp (triệu đồng)
L: số lao động nông nghiệp (người)
N: năng suất lao động nông nghiệp
1.1.4.4. Giá trị được tạo ra trên 1ha đất canh tác
Đây là chỉ tiêu cụ thể phản ánh hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, thể hiện
khả năng tăng năng suất bằng việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, cải
tiến kỹ thuật sản xuất, cải tạo đất. Tiềm năng về việc diện tích đất cũng như độ phì
của đất có hạn, vậy nên, trên cùng một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, giá trị sản
phẩm nông nghiệp được tạo ra càng nhiều khi càng sử dụng có hiệu quả các biện
pháp khoa học kỹ thuật, thâm canh, tăng vụ, tăng năng suất và việc lựa chọn cơ
cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý. Chính vì vậy, ở các nước phát triển, tuy diện tích
đất nông nghiệp không còn nhiều và ngày càng bị thu hẹp nhưng giá trị mà ngành
nông nghiệp tạo ra lại ngày một tăng, đó chính là kết quả của sự phát triển một
nền nông nghiệp hiện đại, công nghệ cao.
Công thức tính: G=P/S
Trong đó:

P: Giá trị sản xuất(trịêu đồng).
S: Diện tích gieo trồng(ha).
G: Giá trị sản xuất/ha đất nông nghiệp(triệu đồng/ha).
1.1.5. Các hình thức tổ chức lãnh thổ nông nghiệp chủ yếu. [7]
TCLTNN được hiểu là một hệ thống liên kết không gian của các ngành,
các xí nghiệp nông nghiệp và các lãnh thổ dựa trên cơ sở các quy trình kĩ
thuật mới nhất, chuyên môn hóa, tập trung hóa, liên hợp hóa và hợp tác hóa
sản xuất: cho phép sử dụng có hiệu quả nhất sự khác nhau theo lãnh thổ về
các điều kiện tự nhiên, kinh tế, nguồn lao động và đảm bảo năng suất lao
động xã hội cao nhất.
TCLTNN luôn thay đổi, phù hợp với các hình thái kinh tế - xã hội.
Trong điều kiện hiện nay, TCLTNN gắn liền với khoa học công nghệ, với quá
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

19


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Cùng với sự phát triển của nền sản xuất
xã hội, của khoa học công nghệ, nhiều hình thức TCLTNN đã và đang xuất
hiện, mang lại hiệu quả cao về các mặt kinh tế - xã hội và môi trường.
TCLTNN có nhiều hình thức từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Về đại thể, có ba hình thức TCLTNN quan trọng nhất. Đó là xí nghiệp nông
nghiệp, thể tổng hợp nông nghiệp và vùng nông nghiệp.
1.1.5.1. Xí nghiệp nông nghiệp
Là một trong các hình thức của TCLTNN, trong đó có sự thống nhất
giữa lực lượng lao động với tư liệu lao động (đất đai) và đối tượng lao động
(cây trồng, vật nuôi) để tạo ra lương thực, thực phẩm cho con người và
nguyên liệu cho các ngành kinh tế. Các nông hộ, trang trại, hợp tác xã, nông

trường quốc doanh, đồn điền,… được coi là xí nghiệp nông nghiệp.
 Hộ gia đình (nông hộ)
Hộ là một đơn vị kinh tế - xã hội tự chủ cùng một lúc thực hiện nhiều
chức năng mà ở các đơn vị kinh tế khác không thể có được. Hộ là một tế bào
của xã hội với sự thống nhất của các thành viên có cùng huyết tộc, mỗi thành
viên đều có nghĩa vụ và trách nhiệm làm tăng thu nhập, đảm bảo sự tồn tại.
Hộ còn là một đơn vị sản xuất và tiêu dùng.
Hộ gia đình là hình thức vốn có của sản xuất nhỏ, tồn tại phổ biến ở các
nước đang phát triển thuộc Châu Á, trong đó có Việt Nam. Các thành viên
trong gia đình có mối quan hệ gắn bó về huyết thống cũng như về kinh tế,
cùng chung sống trong một mái nhà, cùng tiến hành sản xuất và có chung
nguồn thu nhập.
Các đặc điểm cơ bản của hộ gia đình là:
- Về đất đai, quy mô canh tác nhỏ bé, biểu hiện rõ tính chất tiểu nông.
- Về vốn, đại bộ phận rất ít, quy mô thu nhập nhỏ, khả năng tích lũy
thấp làm hạn chế khả năng đầu tư tái sản xuất. Vật tư được mua phục vụ cho
sản xuất từ tiền bán nông phẩm.

Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

20


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

- Về lao động, chủ yếu sử dụng lao động gia đình. Sức lao động của
nông hộ không phải hàng hóa mà là tự phục vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu của
gia đình.
- Kỹ thuật canh tác và công cụ sản xuất ít biến đổi, mang nặng tính
truyền thống.

- Quy mô sản xuất (đất đai, vốn, lao động) rất nhỏ bé.
Đối với các nước đang phát triển, hộ gia đình đóng vai trò quan trọng
trong việc bảo tồn xã hội, phát triển kinh tế nông thôn, là cơ sở đảm bảo cho
kinh tế tập thể tồn tại và thúc đẩy nông thôn quá độ tiến lên một quá trình độ
cao hơn: nông thôn sản xuất hàng hóa.
 Trang trại
Trang trại có nguồn gốc từ hộ gia đình được phát triển dần dần trong
quá trình chuyển dịch của nền kinh tế tiểu nông tự cấp tự túc sang nền kinh tế
hàng hóa. Trang trại là hình thức tổ chức sản xuất cao hơn hộ gia đình, là sự
phát triển tất yếu của nền nông nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa. Chính
công nghiệp hóa đã tạo ra yêu cầu khách quan cho việc phát triển sản xuất
nông sản hàng hóa, tạo điều kiện cho kinh tế trang trại hình thành và phát
triển. Trang trại là kết quả tất yếu của hộ gia đình gắn với sản xuất hàng hóa,
là hình thức tiến bộ của sản xuất nông nghiệp thế giới.
Hoạt động của kinh tế trang trại chịu sự chi phối của nền kinh tế thị
trường và tuân theo quy luật cung cầu, chấp nhận cạnh tranh. Các đặc điểm
nổi bật của trang trại bao gồm:
- Mục đích chủ yếu của trang trại là sản xuất nông phẩm hàng hóa theo
nhu cầu của thị trường. Đây là bước tiến bộ từ kinh tế hộ tự cấp tự túc lên các
hộ nông nghiệp hàng hóa.
- Tư liệu sản xuất thuộc quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng của một
người chủ độc lập.
- Quy mô đất đai tương đối lớn, tuy có sự khác nhau giữa các nước.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

21


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định


- Cách thức tổ chức sản xuất tiến bộ, đẩy mạnh chuyên môn hóa, tập
trung vào những nông sản có lợi thế so sánh và khả năng sinh lợi cao hơn và
vào việc thâm canh.
- Các trang trại đều có thuê mướn lao động.
Trang trại có vai trò to lớn trong sản xuất nông nghiệp ở các nước phát
triển bởi vì phần lớn nông phẩm cung cấp cho xã hội được sản xuất ra từ các
trang trại. Còn tại các nước đang phát triển, vai trò tích cực và quan trọng của
trang trại thể hiện rõ nét ở cả ba mặt: kinh tế (phát triển cây trồng, vật nuôi có
giá trị hàng hóa cao, tạo nên vùng chuyên môn hóa, tập trung hàng hóa,… ),
xã hội (tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động) và môi trường
(sử dụng hiệu quả tài nguyên đất, trồng rừng và bảo vệ rừng, cải tạo và bảo vệ
môi trường sinh thái).
 Hợp tác xã nông nghiệp
HTXNN là hình thức phổ biến trong nền nông nghiệp thế giới ở cả các
nước phát triển và đang phát triển. Đây là một tổ chức kinh tế do nông dân tự
nguyện lập ra với nguồn vốn hoạt động do chính họ góp cổ phần và huy động
từ các nguồn khác nhằm duy trì, phát triển kinh tế hộ gia đình và tăng nhanh tỉ
suất hàng hóa, đạt hiệu quả kinh tế cao cho các chủ trang trại.
HTXNN là nhu cầu tất yếu của nông dân vì trong cơ chế thị trường
nhiều thành phần, có cạnh tranh để tồn tại và phát triển đòi hỏi các hộ gia
đình, các chủ trang trại phải hợp tác với nhau trên các lĩnh vực cần thiết để
đấu tranh bảo vệ lợi ích của chính mình. Kinh tế hộ và trang trại càng phát
triển thì nhu cầu hợp tác càng cao.
Mục tiêu hoạt động của HTXNN không chỉ vì lợi nhuận cho các thành
viên góp vốn vào HTX mà là nhằm phục vụ tốt nhất các dịch vụ để mang lại
thu nhập và lợi nhuận cao nhất cho các hộ, các chủ trang trại.
Có hai loại hình HTXNN: HTX đơn ngành (cung ứng từng loại hình
dịch vụ), HTX đa ngành (nhiều loại dịch vụ).
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí


22


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

 Nông trường quốc doanh
NTQD là cơ sở kinh doanh nông nghiệp trên một quy mô lớn về đất đai
nhằm cung cấp nông sản cho thị trường trong nước hoặc cho xuất khẩu.
NTQD có những đặc điểm sau đây:
- Là xí nghiệp nông nghiệp của nhà nước, thuộc thành phần kinh tế
quốc doanh.
- Quy mô đất đai lớn, được trang bị cơ sở vật chất kĩ thuật tốt, có hướng
chuyên môn hóa rõ, khả năng cơ giới hóa cao.
- Mỗi nông trường có bộ máy riêng về quản lí và điều hành sản xuất
kinh doanh. Lao động làm việc trong nông trường được gọi là công nhân
nông nghiệp, được hưởng lương do nhà nước trả.
Ở Việt Nam, NTQD được thành lập chủ yếu ở vùng trung du, trên các
cao nguyên hay vùng mới khai hoang. Các NTQD hiện nay có sự thay đổi về
hình thức và chức năng. Nhiều nông trường đã giao khoán đất đai, vườn cây,
đồi rừng cho các hộ gia đình.
1.1.5.2. Thể tổng hợp nông nghiệp
TTHNN là một hình thức cao của TCLTNN, trong đó áp dụng rộng rãi
phương pháp công nghiệp, vì thế, nông nghiệp có điều kiện kết hợp với công
nghiệp chế biến và các hoạt động dịch vụ.
Loại hình phổ biến nhất của TTHNN là các TTHNN ngoại thành. Đặc
trưng cho các thể tổng hợp này là ở chỗ: sản phẩm hàng hóa chủ yếu của
chúng do nhu cầu thực phẩm của dân cư thành phố chi phối. Các TTHNN
ngoại thành hình thành chủ yếu ở xung quanh các thành phố, trung tâm công
nghiệp lớn. Ở đây, yếu tố nhu cầu đóng vai trò chủ yếu, còn các yếu tố tự
nhiên tuy được tính đến nhưng thường giữ vai trò thứ yếu. Quy mô của các

TTHNN có thể rất khác nhau tùy thuộc vào quy mô dân số của thành phố.
TTHNN ngoại thành gồm các xí nghiệp nông nghiệp chuyên trồng rau
xanh, cây thực phẩm, chăn nuôi gia súc, gia cầm lấy trứng, thịt, sữa và các xí
nghiệp chế biến các sản phẩm này nhằm cung cấp cho nhu cầu ăn uống hàng
ngày của dân cư thành phố.
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

23


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

1.1.5.3. Vùng nông nghiệp
Vùng nông nghiệp là hình thức cao nhất của TCLTNN, bao gồm trong
đó là các HTTCLT ở cấp thấp hơn. Được hình thành với mục đích phân bố
hợp lí và chuyên môn hóa đúng đắn sản xuất nông nghiệp trên cơ sở sử dụng
đầy đủ và có hiệu quả nhất các điều kiện sản xuất của các vùng trong cả nước
cũng như trong nội bộ từng vùng.
Việc phân chia các vùng nông nghiệp có ý nghĩa to lớn nhằm phân bố
hợp lí cây trồng, vật nuôi sao cho phù hợp với các điều kiện sinh thái nông
nghiệp, điều kiện kinh tế - xã hội và hình thành các vùng chuyên môn hóa
nông nghiệp sản xuất hàng hóa.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Tổng quan về phát triển nông nghiệp ở Việt Nam
1.2.1.1. Những thành tựu
 Ngành nông nghiệp phát triển tương đối ổn định và giá trị sản xuất
của ngành tăng liên tục trong những năm qua.
- Tổng sản phẩm trong nước của nông nghiệp từ sau đổi mới đến nay
tăng liên tục trong khi tỷ trọng của nó trong tổng GDP toàn bộ nền kinh tế lại
liên tục giảm. Đó là sự chuyển dịch hợp quy luật theo hướng hiện đại hóa.

Bảng 1.1. Tổng sản phẩm trong nước của nông nghiệp và tỷ trọng của nó
so với GDP cả nước (theo giá hiện hành)
Năm
2000
2003
2005
2007
2009
2010
2012

Tỷ đồng
108.356
138.285
176.402
232.5 86
346.786
407.647
638.368

% so với GDP cả nước
24,53
22,54
19,30
18,66
19,17
18,89
19,67
Nguồn: [21]


Trong giai đoạn 2000 – 2012, tổng sản phẩm trong nước của ngành
nông nghiệp tăng liên tục từ 108.356 tỷ đồng năm 2000 lên 638.368 tỷ đồng
năm 2012, tăng 5,9 lần. Để có được thành tựu đó, phải kể đến những điều
kiện thuận lợi về mặt tự nhiên cũng như kinh tế - xã hội, đặc biệt là điều kiện
Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

24


Địa lí nông nghiệp tỉnh Nam Định

tự nhiên thuận lợi cho thâm canh tăng vụ và đa dạng hóa sản phẩm cây trồng,
vật nuôi. Mặt khác, đất nước ngày càng phát triển, việc áp dụng các thành tựu
của khoa học kĩ thuật vào sản xuất nông nghiệp ngày càng phổ biến. Do đó,
tổng sản phẩm trong nước của ngành đạt giá trị cao. Tuy nhiên tốc độ tăng
trưởng hàng năm của ngành chưa cao. Tốc độ tăng trưởng GDP nông nghiệp
hàng năm từ 3 – 5%. So với các khu vực kinh tế khác, con số này thấp hơn
nhiều. Nguyên nhân: một là, tính chất chuyên môn hóa trong sản xuất hàng
hóa còn yếu, trồng trọt và chăn nuôi phát triển chưa đều ở nhiều vùng; hai là,
chăn nuôi chưa thực sự trở hành một ngành chính, kinh doanh độc lập; ba là,
kĩ thuật còn hạn chế trong khi nền kinh tế nông nghiệp lại phụ thuộc nhiều
vào tự nhiên.
- Giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp tăng nhanh trong thời gian qua
Bảng 1.2. Giá trị sản xuất nông nghiệp theo giá thực tế phân theo
ngành hoạt động (Đơn vị: tỷ đồng)
Năm
2000
2001
2002
2003

2004
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
2012

Tổng
129.087,9
130.115,3
144.947,2
153.865,6
172.387,5
183.213,6
197.700,7
236.750,4
377.238,6
430.221,6
540.162,8
787.196,6
749.325,4

Trồng trọt
101.043,7
101.403,1
111.171,8
116.065,7

131.551,9
134.754,5
145.807,7
175.007,0
269.337,6
306.648,4
396.733,7
577.749,0
534.284,8

Chăn nuôi
24.907,6
25.439,1
30.500,7
34.376,2
37.236,2
45.096,8
48.33,1
57.618,4
102.200,9
116.576,6
135.137,1
199.171,8
200.849,2

Dịch vụ
3.136,6
3.273,1
3.274,7
3.432,7

3.599,4
3.362,3
3.559,0
4.125,0
5.700,1
6.996,0
8.292,0
10.275,8
14.191,4
Nguồn: [21]

Trong giai đoạn 2000 – 2012, giá trị sản xuất của ngành nông nghiệp
nhìn chung là tăng, đạt giá trị lớn nhất vào năm 2011 với 787.196,6 tỷ đồng,
tăng gấp 6 lần so với năm 2000 (129.807,9 tỷ đồng) và bình quân mỗi năm
tăng 59.762,6 tỷ đồng. Năm 2012, giá trị sản xuất ngành nông nghiệp giảm
nhẹ so với năm 2011, đạt 749.325,4 tỷ đồng, giảm 37.787,2 tỷ đồng. Nguyên

Nguyễn Thị Dung – K60TN – Khoa Địa lí

25


×