Tải bản đầy đủ (.docx) (72 trang)

Kỹ năng xã hội của học sinh THPT dân lập trên địa bàn thành phố Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.3 KB, 72 trang )

MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài
Xã hội ngày nay phát triển hơn xưa rất nhiều đòi hỏi con người phải có
những kỹ năng thích ứng xã hội tốt để hòa nhập và phát triển. Kỹ năng xã hội
gồm rất nhiều kỹ năng giúp chúng ta có thể tương tác và giao tiếp, ứng xử
một cách có hiệu quả đối với người khác, giúp hòa nhập nhanh chóng với môi
trường mới cũng như xử lý tốt những tình huống có vấn đề trong cuộc sống.
Kỹ năng xã hội được thể hiện qua rất nhiều mặt như kỹ năng tự khẳng định
bản thân, kỹ năng đồng cảm, hợp tác, chia sẻ, biết kiềm chế, tự kiểm soát
hành vi của mình…
Nếu như trước đây xã hội đề cao học vấn, kiến thức, chỉ số thông minh
thì hiện nay kỹ năng xã hội, kỹ năng mềm, kỹ năng giao tiếp ngày càng thể
hiện tầm quan trọng của mình. Người ta nói nhiều đến việc, thành công thực
sự không phải đến từ giá trị của tấm bằng bạn đang cầm, mà là kỹ năng xã
hội, quan hệ giao tiếp của bạn trong cuộc sống ra sao. Hiện nay, có rất nhiều
người đã thấy được tầm quan trọng của kỹ năng xã hội, kỹ năng mềm mang
lại nên đầu tư đi học những khóa đào tạo kỹ năng. Tuy nhiên, để hình thành
và phát triển kỹ năng nhất là kỹ năng xã hội phải có thời gian, trải nghiệm
thực hành. Cho nên, khi mọi người đã đi làm, ra trường thì không phải thời
điểm tốt để hình thành mà chính là khoảng thời gian ngồi trên ghế nhà trường
mới là thời điểm tốt nhất.
Trong môi trường học đường, việc đào tạo kỹ năng xã hội sớm không
chỉ có tác dụng khi các em ra trường, khi bước vào cuộc sống mà nó còn có
tác dụng kích thích năng lực học tập của học sinh, phòng ngừa những khó
khăn học đường có thể xảy ra. Ở một số quốc gia trên thế giới, việc đào tạo
trang bị kỹ năng cũng như tạo điều kiện cho các em học sinh trải nghiệm các
kỹ năng xã hội không phải là mới lạ. Ở Việt Nam, cũng đã bắt đầu quan tâm
đến vấn đề này, thể hiện qua các chương trình rèn luyện kỹ năng cho học sinh,
dành một số giờ mời các chuyên gia đến trang bị kỹ năng sống cho các em.


1


Thông qua đó, các em được thực hành những kỹ năng xã hội cần thiết, biết
cách giúp đỡ chia sẻ với mọi người, tự tin vào bản thân, trân trọng tiếp thu ý
kiến của người khác, kiềm chế hành vi trong các tình huống xung đột, kiềm
chế xúc cảm hay biết cách làm chủ cảm xúc của mình để không bị ngoại cảnh
chi phối. Từ đây có thể thấy được, rèn luyện kỹ năng xã hội là một trong
những nhiệm vụ rất quan trọng của giáo dục để giúp các em học sinh phát
triển toàn diện cả về mặt kiến thức kỹ năng sống.
Học sinh trung học phổ thông (THPT) gồm các em lứa tuổi từ 16-18
tuổi. Giai đoạn này là bước đệm quan trọng để các em thực sự bước sang tuổi
trưởng thành. Ở lứa tuổi này các em phải đối mặt với hàng loạt các vấn đề:
tình bạn - tình yêu, hướng nghiệp, áp lực thi cử, kỳ vọng của gia đình, định
hướng cuộc đời…..Và kèm theo đó có không ít các vấn đề nguy cơ khác gây
nên bất ổn tâm sinh lý, khó khăn học đường nếu các em không có kỹ năng để
ứng phó và bảo vệ mình, như PGS.TS Nguyễn Công Khanh đã nhận định:
“Theo các công trình nghiên cứu ở nước ngoài và một số nghiên cứu dịch tễ
học trong nước thì có khoảng 10% - 20% trẻ em trong lứa tuổi trung học cơ
sở (THCS) và phổ thông trung học (PTTH) có rối nhiễu hành vi và có khó
khăn học đường. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này,
theo đánh giá của nhiều công trình nghiên cứu là do kém thích nghi học
đường mà trước hết là thiếu hụt kỹ năng xã hội”. ( trích chương IV – Công cụ
chẩn đoán tâm lý)
Theo quy chế tuyển sinh vào cấp 3 hiện nay thì vẫn còn một bộ phận
không nhỏ các em học sinh không đủ năng lực vào trường công, dân lập có
điểm chuẩn cao đành phải lựa chọn các trường THPT dân lập có đầu vào thấp.
Các em học ở đây thường có cá tính và gặp vấn đề về kỷ luật, học tập cũng
như các vấn đề lứa tuổi nhiều hơn các trường khác. Vậy thực trạng kỹ năng xã
hội của các em ở những trường THPT dân lập này ra sao, có đặt ra vấn đề cần

thiết phải trang bị kỹ năng xã hội cho các em hay không ?
2


Từ trước đến nay, các đề tài nghiên cứu về Kỹ năng xã hội xuất hiện
không ít. Tuy nhiên, hướng đề tài nghiên cứu về kỹ năng xã hội của học sinh
THPT dân lập tại Hà Nội thì hầu như chưa có.
Vì những lý do trên, tôi chọn đề tài : “Kỹ năng xã hội của học sinh
2.

THPT dân lập trên địa bàn thành phố Hà Nội”.
Mục đích nghiên cứu
Phát hiện thực trạng kỹ năng xã hội của học sinh THPT dân lập tại Hà
Nội, phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến sự thiếu hụt kỹ năng xã hội trên cơ
sở đó đề xuất một số biện pháp hướng đến việc điều chỉnh, rèn luyện, trang bị

3.

4.

kỹ năng xã hội cho học sinh THPT.
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là “Kỹ năng xã hội của học sinh
THPT”
Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
4.1 Giới hạn về nội dung nghiên cứu
Kỹ năng xã hội là một phạm trù khá rộng, được thể hiện qua nhiều
nhóm kỹ năng khác nhau. Xét theo điều kiện phạm vi của khóa luận, đề tài chỉ
tập trung vào tìm hiểu sự ảnh hưởng của bốn nhóm kỹ năng xã hội cơ bản: Kỹ
năng hợp tác; Kỹ năng quyết đoán, tự khẳng định; Kỹ năng đồng cảm; Kỹ

năng kiềm chế tự kiểm soát.
4.2 Giới hạn về khách thể nghiên cứu
Trong phạm vi đề tài này lựa chọn hai trường THPT DL là: THPT DL
Đinh Tiên Hoàng và THPT DL Hồng Đức. Đây là hai ngôi trường khá đặc
biệt, đầu vào thấp, tuyển sinh không đặt nặng vấn đề học lực và hạnh kiểm.
Số lượng khách thể: 115 học sinh. Trong đó có 63 học sinh trường
THPT Đinh Tiên Hoàng gồm 01 lớp 10 ( 33 học sinh), 01 lớp 11 ( 30 học
sinh); 52 học sinh trường THPT Hồng Đức gồm 01 lớp 10 ( 30 học sinh); 01

5.

lớp 11 ( 22 học sinh).
Giả thuyết khoa học
Kỹ năng xã hội của học sinh ở trường THPT dân lập có chất lượng đầu
vào thấp có mức độ chưa cao và còn thiếu hụt ở một số mặt kỹ năng xã hội.
Có sự không đồng đều về các mặt kỹ năng xã hội giữa trường THPT ở nông
3


thôn và thành thị. Yếu tố ảnh hưởng đến kỹ năng xã hội chủ yếu đến từ môi
6.
-

trường sống, hoàn cảnh gia đình.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận liên quan đến đề tài như về kỹ năng, kỹ
năng xã hội, kỹ năng xã hội học sinh THPT….; lịch sử nghiên cứu để làm cơ

-


sở lý luận cho đề tài.
Tìm hiểu thực trạng kỹ năng xã hội của học sinh THPT dân lập; biểu hiện của
các mặt kỹ năng xã hội; những yếu tố làm ảnh hưởng đến sự thiếu hụt các mặt

7.
-

kỹ năng xã hội.
Đề xuất những biện pháp tác động nhằm giúp học sinh THPT rèn luyện hoàn
thiện, phát triển kỹ năng xã hội của mình.
Phương pháp nghiên cứu
7.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
Mục đích: Trong đề tài này sử dụng phương pháp nghiên cứu tài liệu nhằm
phân tích tài liệu, tổng hợp và hệ thống hóa các quan điểm lý luận, khái quát
hóa lý thuyết, so sánh phân loại…. các tài liệu có liên quan đến kỹ năng, kỹ
năng xã hội, lứa tuổi thanh niên để xây dựng cơ sở lý luận cho đề tài và định

-

hướng cho việc nghiên cứu.
Cách tiến hành: Đọc, phân tích, hệ thống và khái quát hóa những quan điểm
lý luận.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp trắc nghiệm
Đây là phương pháp chủ yếu được sử dụng trong đề tài.
Sử dụng công cụ đánh giá Kỹ năng xã hội của Gresham và Elliot do
7.2

7.2.1


-

PGS.TS Nguyễn Công Khanh chuẩn hóa. Gồm có 39 item.
Mục đích: Nhằm đánh giá năng lực thích ứng xã hội của học sinh THPT.
Cách tiến hành: Phát cho mỗi học sinh một bản trắc nghiệm gồm 39 câu.
Hướng dẫn học sinh cách làm trắc nghiệm theo đúng chỉ dẫn trong bản trắc
nghiệm. Sau đó sử dụng công cụ SPSS để xử lý số liệu.
7.2.2 Phương pháp trắc đạc xã hội

-

Mục đích: Để kết quả có tính khách quan hơn trong đề tài này có sử dụng
phương pháp trắc đạc xã hội. Thông qua việc lựa chọn lẫn nhau của các thành
viên trong tập thể sẽ giúp ta gián tiếp thấy được biểu hiện KNXH của các cá
nhân trong mối quan hệ với mọi người.
4


-

Cách tiến hành:
+Dựa vào biểu hiện của KNXH của học sinh THPT, xây dựng bảng hỏi
trắc đạc xã hội gồm 7 câu hỏi về sự lựa chọn bạn bè vào nhóm, hoặc nhận
định đánh giá về các thành viên trong tập thể lớp, lý do chọn những bạn đó. 7
câu hỏi này xoay quanh việc đánh giá 4 mặt kỹ năng trong KNXH là kỹ năng
hợp tác, kỹ năng tự khẳng định, kỹ năng đồng cảm và kỹ năng kiềm chế. Học
sinh sẽ trả lời các câu hỏi này theo đúng chỉ dẫn được đưa ra.
+ Xử lý phiếu trắc đạc xã hội bằng cách mã hóa tên học sinh theo thứ
tự, lập ra bảng thống kê xem số lượng những học sinh chọn nhau qua từng kỹ
năng . Sau đó, phân loại thành nhóm học sinh được tập thể lựa chọn nhiều ( >

30% tổng số học sinh của lớp), nhóm học sinh ít được lựa chọn ( < 5% tổng
số học sinh của lớp). Những nhóm học sinh được tập thể lựa chọn nhiều được
coi là nhóm học sinh có biểu hiện KNXH tương ứng tốt còn ngược lại nhóm
học sinh ít được lựa chọn được coi là nhóm học sinh có biểu hiện về KNXH
tương ứng chưa tốt.
Phương pháp quan sát
Phương pháp này được sử dụng để làm mục đích làm rõ hơn những
7.2.3

biểu hiện của KNXH của học sinh THPT và lý do, nguyên nhân của sự thiếu
hụt KNXH; vai trò của các kỹ năng trong các hoạt động học tập, hoạt động
7.3

tập thể.
Phương pháp xử lý thông tin
Xử lý các dữ liệu bằng phần mềm SPSS ( Statistical Products for the
Social Services – Phần mềm thống kê cho các điều tra xã hội)

5


CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ
KỸ NĂNG XÃ HỘI CỦA HỌC SINH THPT
1.1
1.1.1

Sơ lược lịch sử nghiên cứu vấn đề kỹ năng xã hội
Trên thế giới
Kỹ năng là vấn đề được nghiên cứu hệ thống và khoa học từ thế kỷ XX,
khi điều kiện về khoa học kỹ thuật phát triển mạnh mẽ trên toàn thế giới. Các

công trình nghiên cứu về kỹ năng ngày càng được phát triển, mang tính thực
tiễn và ứng dụng cao. Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu về KNXH thì khá
ít vì đây là vấn đề khá mới mẻ. Ban đầu hướng nghiên cứu của KNXH tập
trung chủ yếu ở các chương trình giáo dục, đào tạo kỹ năng với mục đích là
cung cấp những kỹ năng cần thiết cho từng đối tượng cụ thể. Sau này, các
nghiên cứu mở rộng hơn đánh giá KNXH ở trên nhiều mặt.
Năm 1986, Hiến chương Ottawa ra đời gồm năm điểm chính, một trong
số đó là phát triển kỹ năng cá nhân, kỹ năng sống. Công ước năm 1989 của
Liên Hợp Quốc về Quyền trẻ em ( Convention on the Right of the Child –
CRC) liên quan đến kỹ năng sống trong giáo dục đã nêu rõ rằng giáo dục cần
phải hướng đến sự phát triển năng lực đầy đủ nhất của trẻ. Tại diễn đàn giáo
dục thế giới ở Dakar, Senegal năm 2000 đã đưa ra 6 mục tiêu, một trong số đó
là “Thúc đẩy học tập và rèn luyện kỹ năng sống cho trẻ em thanh thiếu niên
cũng như người lớn”. Diễn đàn cũng yêu cầu mỗi quốc gia cần đảm bảo cho
người học được tiếp cận chương trình giáo dục kỹ năng sống phù hợp. Trong
giáo dục hiện đại, kỹ năng sống của người học là một tiêu chí về chất lượng
giáo dục. Do đó, khi đánh giá chất lượng giáo dục phải tính đến những tiêu
chí đánh giá kỹ năng sống của người học.
Theo những nghiên cứu của nhà Tâm lý học Dodge, 1893; Parker và
Asher, 1987 khẳng định: nếu một đứa trẻ không phát triển đầy đủ các KNXH
(kỹ năng kết bạn, hợp tác nhóm, kỹ năng đồng cảm, chia sẻ, kỹ năng quyết
đoán, tự khẳng định, kỹ năng kiềm chế, kiểm soát stress, kỹ năng giải quyết
vấn đề, kỹ năng thích ứng hòa nhập với môi trường mới, kỹ năng thuyết

6


phục....) sẽ báo trước rằng đứa trẻ này sẽ gặp những khó khăn như kém thích
nghi học đường [ 12,tr 16].
Hiện nay, các công trình nghiên cứu trên thế giới về KNXH xuất hiện

ngày càng nhiều, nhất là từ những năm 90 trở lại đây. KNXH ban đầu được đề
cập đến trong các chương trình giáo dục của UNICEF, UNESCO. Sau này,
các công trình nghiên cứu KNXH được phổ biến hơn mang tính ứng dụng
cao, có thể kể đến một số đề tài như:
Sharon Vaughn (1990), Đại học Miami với đề tài Giảng dạy KNXH
liên cá nhân cho những học sinh kém hoà đồng. Mục đích của đề tài là xác
định xem liệu giảng dạy KNXH với nhóm học sinh có kỹ năng thấp có tốt
hơn nếu trong nhóm có sự hiện diện của các học sinh có KNXH tốt.
Nhóm nghiên cứu của TS. Peter Marton, TS Jennifer Connolly và các
cộng sự ( 1993) thuộc trường đại học Toronto, Đại học York đã ra đời nghiên
cứu về “ Kỹ năng nhận thức xã hội và kỹ năng tự đánh giá ở thanh thiếu niên
bị trầm cảm”. Nghiên cứu được tiến hành trên 38 thanh thiếu niên bị trầm
cảm trong độ tuổi từ 15 – 19 tuổi. Kết quả cho thấy, những thanh thiếu niên
bị trầm cảm có kỹ năng tự đánh giá thấp hơn nhiều so với thanh niên bình
thường [17]
A.Kheradmand, B.Zamani và các cộng sự ( 2012) với đề tài “ So sánh
kỹ năng xã hội của học sinh nghiện game với học sinh bình thường”. Mục
đích của nghiên cứu này là điều tra so sánh KNXH của học sinh nghiện game
với học sinh bình thường. Kết quả cho thấy có sự khác biệt đáng kể giữa các
KNXH giữa hai nhóm đối tượng. học sinh bình thường có KNXH cao hơn
hẳn so với học sinh bị nghiện game. Nghiên cứu đưa ra kết luận rằng nghiện
trò chơi máy tính có thể ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển KNXH.
[18]
Tác giả Nasram Shayan ( 2012) ở đại học Alzahra thuộc Iran có nghiên
cứu về “ Hiệu quả của việc đào tạo kỹ năng xã hội vào mức độ hạnh phúc của
học sinh”. Theo những phân tích từ nghiên cứu cho thấy có sự khác biệt đáng
kể giữa trước và sau thực nghiệm. Từ đó, có thể nói rằng các chương trình
đào tạo KNXH đã ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc. Kết quả nghiên cứu
7



cũng chỉ ra rằng, không có sự khác biệt đáng kể giữa mức độ hạnh phúc giữa
nam và nữ. [19]
Trên đây là một số đề tài nghiên cứu về KNXH trên thế giới. Qua đó có
thể thấy được rằng, KNXH đã và đang được nghiên cứu ở nhiều mặt và đa
dạng hơn so với trước đây. Các đề tài tập trung nghiên cứu đến mức độ ảnh
hưởng của KNXH đến đời sống, đánh giá các mặt KNXH ở những nhóm đối
tượng đặc thù. Hầu hết các công trình nghiên cứu đều đánh giá cao việc trang
bị KNXH cho học sinh, có KNXH tốt không những nâng cao đời sống tinh
thần mà còn giúp các em thích nghi tốt với môi trường, những em bị thiếu hụt
1.1.2

KNXH đều có khả năng gặp khó khăn trong học đường.
Tại Việt Nam
Thuật ngữ “ kỹ năng xã hội” được manh nha xuất hiện ở Việt Nam vào
những năm 90. Sự ra đời và phát triển KNXH xuất phát từ thực tiễn khi ở Việt
Nam ở giai đoạn này có sự phát triển nhanh trong hầu hết các lĩnh vực kinh
tế, xã hội, giao lưu quốc tế và tạo ra những tác động đa chiều, phức tạp ảnh
hưởng đến nhận thức, suy nghĩ và nhân cách. Từ thực tiễn này, các nhà giáo
dục bắt đầu đặc biệt quan tâm đến vấn đề giáo dục KNXH cho người trẻ, nhất
là đối tượng học sinh sinh viên - những người chịu ảnh hưởng lớn nhất từ sự
biến động xã hội. Họ đang rất cần được chia sẻ và trang bị kỹ năng để đương
đầu với những vấn đề nguy cơ ảnh hưởng đến thể chất, tinh thần và học tập.
Vì vậy, các chương trình giáo dục liên quan đến kỹ năng sống tại Việt Nam
trong thời gian này bắt đầu được triển khai, thực hiện đồng bộ trong hệ thống
các trường học.
Tại Việt Nam, đầu những năm 90, Thủ tướng chính phủ cũng đã có văn
bản tại Quyết định 1363/TTg về việc cần rèn luyện KNXH ở các bậc học, nội
dung của quyết định cũng đã có đề cập đến việc trang bị cho người học những
hiểu biết về văn hóa ứng xử, về thái độ sống….

Tầm quan trọng của những KNXH cũng được đề cập đến trong chỉ thị
10/GD&ĐT năm 1995 hay Chỉ thị 24/CT&GD năm 1996 của Bộ trưởng Bộ
Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo về công tác phòng chống HIV/AIDS hay tăng
cường công tác phòng chống ma túy tại trường học.
8


Năm 1996, các nội dung của giáo dục KNXH được thông qua trong
chương trình “ Giáo dục kỹ năng sống để bảo vệ sức khỏe và phòng chống
HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và ngoài trường” của UNICEF. Giai
đoạn một của chương trình chỉ dành cho một số đối tượng của ngành giáo dục
và Chữ thập đỏ. Họ được trang bị một số kỹ năng như: kỹ năng tự nhận thức,
kỹ năng giao tiếp, kỹ năng kiên định, kỹ năng đặt mục tiêu, kỹ năng xác định
giá trị...Sang giai đoạn 2 của chương trình đối tượng tập huấn được mở rộng
và thuật ngữ KNXH được hiểu một cách rộng rãi hơn trong nội dung giáo dục
sống khỏe mạnh và an toàn [ 14].
Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, một số bộ Luật của nước ta sửa
đổi cũng đã có những định hướng và điều khoản liên quan đến giáo dục trẻ
em năm 2004 hay Luật giáo dục năm 2005. Mặt khác, giáo dục Việt Nam bắt
đầu quan tâm nhiều đến vấn đề liên quan đến người học - đặc biệt vấn dề phát
triển toàn diện cho người học nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của xã hội
và của nền kinh tế tri thức. Thông qua dự án “Giáo dục sống khoẻ mạnh, kỹ
năng sống cho trẻ và vị thành niên”, với sự hỗ trợ của UNICEF tại Việt Nam,
từ năm 2001, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã thực hiện giáo dục kỹ năng sống cho
học sinh phổ thông các tỉnh: Lào Cai, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Hà
Nội, Gia Lai, Kon Tum, TP Hồ Chí Minh, An Giang, Kiên Giang. Các em
được rèn luyện kỹ năng ứng phó với những tác động ảnh hưởng đến cuộc
sống như: phòng chống HIV/AIDS, ma tuý, sức khoẻ sinh sản, vấn đề quan
hệ tình dục sớm… Dự án khá thành công, hình thành thái độ tích cực của học
sinh đối với việc xây dựng cuộc sống khoẻ về thể chất, mạnh về tinh thần,

hiểu biết về xã hội, đồng thời nâng cao nhận thức của cha mẹ học sinh để họ
chủ động trong việc truyền thụ kiến thức kỹ năng cho con em mình. Tuy
nhiên, những chương trình như thế này chưa nhiều. [20]
Năm học 2007 – 2008, Bộ giáo dục và Đào tạo đưa ra phong trào thi
đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Phong trào này
được triển khai mạnh mẽ trong hầu hết các bạc học từ mầm non đến đại học.
9


Ngày 22/7/2008, một lần nữa Bộ giáo dục và đào tạo đã ra chỉ thị phát động
với mục tiêu “Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc
sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm; rèn luyện sức khỏe
và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng chống tai nạn giao thông, đuối
nước và các tai nạn thương tích khác; Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa,
chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội”
Ngày 20/5/2009, Bộ GD&ĐT tổ chức hội thảo Giáo dục kỹ năng sống
cho học sinh phổ thông, với sự tham gia của lãnh đạo Bộ và nhiều giảng viên,
chuyên gia. Khẳng định kỹ năng sống giúp cho mỗi cá nhân tồn tại và vững
vàng trong cuộc sống, theo PGS TS Nguyễn Võ Kỳ Anh, Giám đốc Trung tâm
Giáo dục môi trường và Sức khỏe cộng đồng ( Hội khuyến học Việt Nam) lo
lắng rằng, giới trẻ nói chung và học sinh nói riêng hiện còn rất thiếu các kỹ
năng sống cần thiết. Theo Vụ trưởng Vụ Công tác HSSV ( Bộ GD&ĐT)
Phùng Khắc Bình, về lâu dài cần xây dựng chương trình môn học giáo dục kỹ
năng sống cho học sinh lớp 1 đến lớp 12. [21]
Trong quãng thời gian 10 năm trở lại đây, các công trình nghiên cứu về
KNXH bắt đầu xuất hiện ngày một nhiều thể hiện sự cần thiết của KNXH đến
sự phát triển con người hiện nay. Có thể kể đến một số đề tài tiêu biểu như:
PGS.TS Nguyễn Công Khanh (2004) nghiên cứu về KNXH của học
sinh phổ thông đã sử dụng trắc nghiệm SSQ-SF ( phiên bản tự đánh giá dành
cho học sinh lớp 6-12) của tác giả Gresham và Elliot nhằm đo lường KNXH

trên 3607 học sinh THPT của 6 tỉnh: Hà Nội, Nam Định, Bắc Cạn, Huế,
Tp.Hồ Chí Minh và Sóc Trăng ở 4 mặt kỹ năng: kỹ năng hợp tác; kỹ năng
quyết đoán, tự khẳng định; kỹ năng đồng cảm; kỹ năng kiềm chế, tự kiểm
soát. Kết quả nghiên cứu cho thấy không có sự khác biệt lớn giữa lứa tuổi,
khối lớp; có sự khác biệt giữa nam và nữ, với học sinh thành phố và nông
thôn nhưng thì sự chênh lệch không lớn. Tuy nhiên, có sự chênh lệch rất lớn
được phát hiện khi so sánh giữa các trường, điều này chứng tỏ nhà trường có
vai trò quan trọng số một trong việc phát triển KNXH cho học sinh. Sự phát
10


triển tốt các KNXH có ảnh hưởng rất lớn đến hứng thú học tập, ảnh hưởng
đáng kể đến sự thành công học đường. [11, tr102,tr 108]
Huỳnh Minh Như Hương ( 2011) với đề tài “ Kỹ năng xã hội của học
sinh THCS thành phố Trà Vinh”. Trong đề tài này, tác giả cũng sử dụng thang
đánh giá KNXH của Gresham & Elliot nhằm đo lường KNXH của 388 học
sinh ở 3 trường THCS ở thành phố Trà Vinh về 5 mặt KNXH: Kỹ năng hợp
tác; kỹ năng quyết đoán, tự khẳng định; kỹ năng đồng cảm; kỹ năng kiềm chế,
tự kiểm soát; kỹ năng giải quyết vấn đề. Kết quả của nghiên cứu chỉ ra rằng
KNXH của học sinh phát triển không đồng đều, KNXH ở lớp trên thường tốt
hơn các lớp dưới, học sinh có học lực giỏi hơn thường có điểm KNXH cao
hơn, kinh tế gia đình có ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển KNXH của
học sinh. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cho thấy mặt hành vi của kỹ năng phát
triển tốt hơn mặt thái độ của học sinh THCS, ít có sự chênh lệch giữa nam và
nữ, giữa các học sinh với nhau. Một đóng góp quan trọng của đề tài là chỉ ra
một yếu tố nữa ảnh hưởng đến sự phát triển KNXH của học sinh có liên quan
đến điều kiện kinh tế gia đình [3].
Bùi Bích Liên ( 2012) với đề tài “ Kỹ năng xã hội của học sinh trung
học phổ thông” sử dụng bảng hỏi để đánh giá KNXH của học sinh THPT trên
ba mặt: Kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thương thuyết, kỹ năng làm chủ

cảm xúc. Kết quả nghiên cứu cho thấy chưa có sự thống nhất giữa việc thực
hiện và hiệu quả thực hiện trong mỗi kỹ năng. Trong ba kỹ năng, Kỹ năng làm
việc nhóm được học sinh THPT thực hiện nhiều nhất, kỹ năng đem lại hiệu
quả tốt nhất là kỹ năng thương thuyết, kỹ năng làm chủ cảm xúc còn gặp
nhiều hạn chế trong việc thực hiện của học sinh THPT. Đề tài nghiên cứu
cũng chỉ ra rằng có nhiều yếu tổ ảnh hưởng đến KNXH của học sinh THPT
trong đó yếu tố chủ quan có ảnh hưởng lớn nhất sau đó là giáo dục gia đình,
cuối cùng là giáo dục trong nhà trường. [1]
Tóm lại, các công trình nghiên cứu về KNXH ở Việt Nam ngày càng
được quan tâm nhất là trong những năm gần đây. Đối tượng mà các công trình
hướng đến chủ yếu là học sinh, chứng tỏ sự cần thiết phải trang bị KNXH từ
11


khi còn ngồi trên ghế nhà trường. Ngoài ra, các kết quả nghiên cứu đã chỉ ra
rằng không có sự khác biệt nhiều giữa giới tính, giữa khu vực sống nhưng có
sự khác biệt rõ ràng ở các nhóm trường khác nhau, ở những học sinh có điều
kiện kinh tế gia đình khác nhau. Điều này cho thấy những yếu tố ảnh hưởng
đến kỹ năng của học sinh liên quan nhiều đến sự giáo dục nhà trường và điều
kiện gia đình. Tuy nhiên, với đối tượng học sinh THPT đặc thù hơn là học
sinh ở các hệ thống trường dân lập có chuẩn đầu vào thấp thì chưa có nhiều
kết quả nghiên cứu. Trong khi đó, học sinh ở nhóm trường này có nhiều vấn
đề liên quan đến khó khăn học đường nhiều hơn các trường khác. Vì thế
1.2
1.2.1

nghiên cứu KNXH của học sinh thuộc nhóm trường này là hết sức cần thiết.
Một số vấn đề lý luận về Kỹ năng và KNXH
Một số vấn đề về kỹ năng
1.2.1.1 Khái niệm

Theo cách hiểu thông thường phổ biến nhất trong từ điển tiếng Việt thì
“ Kỹ năng là khả năng vận dụng những kiến thức thu nhận được trong một
lĩnh vực nào đó vào thực tế”, còn trong các công trình nghiên cứu về kỹ năng
đến nay có rất nhiều các quan điểm khác nhau về nó. Khi xem xét một cách
có hệ thống chúng tôi thấy tất cả những quan điểm chủ yếu đó tập trung vào
ba khuynh hướng cơ bản và nổi bật sau:
- Khuynh hướng thứ nhất xem xét kỹ năng nghiêng về mặt kỹ thuật của
thao tác, hay kỹ thuật hành động. Các đại điện cho khuynh hướng này có các
tác giả như V.A Krutretxki, A.G Kovaliov, P.A Rudich, Trần Trọng Thủy,
Ph.N Gônôbôlin…Các tác giả đi theo xu hướng này coi kỹ năng như sự nắm
vững và vận dụng phương thức hành động vào thực tiễn trên cơ sở tri thức và
những kỹ năng được hình thành trước đó.
Theo V.A Krutretxki: “ Kỹ năng là phương thức thực hiện hoạt động –
cái mà con người lĩnh hội được. Trong một số trường hợp thì kỹ năng là
phương thức sử dụng các tri thức vào trong thực hành, tức là khi có tri thức
con người phải sử dụng chúng vào trong cuộc sống, trong thực tiễn. Và cũng
trong quá trình ấy, các kỹ năng được hoàn thiện hơn trước, hoạt động của con
người cũng trở nên hoàn hảo hơn”. Theo tác giả chỉ cần nắm vững phương
12


thức hoạt động thì con người đã có kỹ năng, không cần đến kết quả của hành
động. Quan điểm này của tác giả đã bộc lộ một hạn chế là để đạt được kết quả
cho mỗi hành động còn phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố, nếu chỉ nắm phương
thức hành động trong hoạt động cụ thể liệu có chắc chắn mang lại kết quả hay
không?
Trong cuốn “ Tâm lý học cá nhân” của A.G.Kovaliov cũng xem “ Kỹ
năng là phương thức thực hiện hành động phù hợp với mục đích và điều kiện
của hành động”. Ở đây, tác giả không đề cập đến kết quả của hành động. Theo
ông kết quả của hành động phụ thuộc vào nhiều yếu tố mà trong đó quan

trọng hơn cả là năng lực thực hiện hành động nào đó của con người chứ
không chỉ là con người có cách thức thực hiện hành động tốt thì sẽ thu được
kết quả tương ứng, ông cũng đặc biệt nhấn mạnh là khi cá nhân tìm được
phương thức hành động thích hợp với mục đích nhất định nào đó trong những
điều kiện xác định của hoạt động chính là kỹ năng.
Theo P.A Rudich cho rằng: “ Kỹ năng là động tác mà cơ sở của nó và
sự vận động thực tế các kiến thức đã tiếp thu được để đạt hiệu quả trong một
hình thức hoạt động cụ thể. Như vậy, tác giả đề cao khía cạnh kỹ thuật của kỹ
năng và xem đó như là kết quả của những kiến thức đã tiếp thu được từ vận
động thực tế.
Còn tác giả Trần Trọng Thủy, Đào Thị Oanh cũng nhấn mạnh rằng “
Kỹ năng là mặt kỹ thuật của hành động con người nắm được cách thức hành
động tức là có kỹ thuật hành động, có kỹ năng”
Tổng hợp, đánh giá các quan điểm trên có thể nhận thấy một điểm
chung trong các quan niệm của các tác giả là sự nhấn mạnh phương thức hành
động, đặt kỹ năng trong mối quan hệ với hành động và khía cạnh kỹ thuật của
hành động.
- Khuynh hướng thứ hai xem xét kỹ năng như một biểu hiện của năng
lực con người. Theo quan niệm này thì kỹ năng vừa có tính ổn định, vừa có
tính mềm dẻo, linh hoạt, sáng tạo, vừa có tính mục đích. Đại diện theo quan
điểm này là các tác giả như: N.D.Levitov; G.G Golobev; K.K Platonov;
Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Ánh Tuyết, Nguyễn Thạc, Vũ Dũng…
13


N.D Levitov, G.G Golobev cho rằng “ Kỹ năng là năng lực của người
thực hiện công việc có kết quả với một chất lượng cần thiết trong những điều
kiện khác nhau và trong khoảng thời gian tương ứng”. Các tác giả cũng đồng
thời nhấn mạnh bất kỳ một kỹ năng nào cũng bao hàm trong đó cả biểu tượng,
khái niệm, vốn tri thức, kỹ xảo tập trung và phân phối, di chuyển chú ý, kỹ

xảo tri giác, quan sát, tư duy sáng tạo, tự kiểm tra, điều chỉnh quá trình hoạt
động cũng như kỹ xảo hành động.
Theo K.K.Platonov đã khẳng định rằng người có kỹ năng không chỉ
hành động có kết quả trong một hoàn cảnh cụ thể mà còn phải đạt được kết
quả tương tự trong những điều kiện khác nhau. Do vậy, theo ông “ Kỹ năng là
khả năng con người thực hiện một hành động bất kì nào đó hay các hành động
trên cơ sở kinh nghiệm – những cái đã được lĩnh hội từ trước. Hay nói cách
khác, kỹ năng được hình thành trên cơ sở các tri thức và các kỹ xảo”.
Tác giả A.V. Petropxki đã định nghĩa: “ Kỹ năng chính là năng lực sử
dụng các dữ kiện, các tri thức hay khái niệm đã có vận dụng chúng để phát
hiện những thuộc tính bản chất của các sự vật và giải quyết thành công những
nhiệm vụ lí luận hay thực hành xác định”
Một số các tác giả khác như Nguyễn Quang Uẩn, Ngô Công Hoàn,
Nguyễn Ánh Tuyết, Trần Thị Quốc Minh cũng quan niệm “ Kỹ năng là một
mặt của năng lực con người thực hiện một công việc có hiệu quả”. Trong từ
điển tâm lý học do Vũ Dũng chủ biên đã định nghĩa: “ Kỹ năng là năng lực
vận dụng có kết quả tri thức về phương thức hành động đã được chủ thể lĩnh
hội để thực hiện những nhiệm vụ tương ứng” .Như vậy, các tác giả quan niệm
kỹ năng không chỉ đơn thuần là khía cạnh kỹ thuật của hành động mà còn là
sự gắn với hiệu quả của công việc, khả năng vận dụng tri thức trong những
điều kiện nhất định.
Tác giả X.I.Kixegov, Lê Văn Hồng cũng có quan niệm coi kỹ năng là
khả năng thực hiện có hiệu quả hệ thống hành động phù hợp với mục đích và
điều kiện thực hiện hệ thống hành động.
- Khuynh hướng thứ ba xem xét kỹ năng là hành vi ứng xử.
14


Gần đây khi đề cập đến kỹ năng có một cách tiếp cận khá mới và được
nhiều nhà nghiên cứu chú ý, đó là xem xét kỹ năng là hành vi ứng xử cá nhân.

Cách tiếp cận này đặt kỹ năng trong mối quan hệ với các yếu tố kiến thức, kỹ
thuật và giá trị ( thái độ, niềm tin) ở mỗi hành vi của một hoạt động nhất định.
J.N. Richard ( 2003) cho rằng mọi hành vi của con người đều xuất phát từ
cách mà con người ta suy nghĩ, kỹ năng là hành vi được thể hiện ra hành động
bên ngoài và chịu sự chi phối cách thức con người cảm nhận và suy nghĩ.
Kurt Fischer ( Fischer, 1980; Fischer & Bidell, năm 1998; Mascolo
& Fischer, 1999) đưa ra quan điểm kỹ năng là đại diện sống động cho
năng lực, thái độ, cảm xúc của mỗi cá nhân. Tác giả nhấn mạnh mỗi kỹ năng
liên quan đến năng lực của cá nhân để kiểm soát các yếu tố của hành vi, suy
nghĩ và cảm giác trong bối cảnh nhất định và trong phạm vi lĩnh vực công
việc cụ thể. Như vậy, kỹ năng là một loại cấu trúc điều khiển, nó đề cập đến
việc tổ chức các hành động mà một cá nhân có thể mang lại dưới sự kiểm soát
của chính mình trong một bối cảnh cụ thể.
Về thực chất, các quan niệm nói trên không phủ định lẫn nhau. Sự khác
nhau giữa các khuynh hướng chủ yếu ở chỗ thu hẹp hay mở rộng thành phần cấu
trúc của kỹ năng mà thôi. Bất kỳ kỹ năng về một hoạt động nào cũng cần phải có
tri thức, kinh nghiệm và biết vận dụng vốn tri thức và kinh nghiệm đó vào hành
động thực tiễn. Có tri thức và kinh nghiệm về hành động không chỉ nắm được
mục đích, yêu cầu của hành động mà cả cách thức, phương thức hành động. Bất
kỳ một hoạt động nào cũng có những yêu cầu, cách thức tiến hành, nó chứa
đựng ngay trong hành động đó. Người có kỹ năng phải lĩnh hội được những cách
thức mới để hành động có kết quả. Tuy vậy, dù theo quan điểm nào, nhưng khi
-

nói đến kỹ năng hầu hết các tác giả đều xác định như sau:
Mọi kỹ năng đều phải dựa trên cơ sở của tri thức, muốn thao tác trước hết

-

phải có sự hiểu biết về nó.

Khi nói tới kỹ năng của con người là nói tới hành động có mục đích tức là khi
hành động, khi thao tác con người luôn hình dung kết quả đạt tới.

15


-

Con người để có được kỹ năng thì cần phải biết cách thực hiện hành động
trong những điều kiện cụ thể và hành động theo quy trình với sự tập luyện

-

nhất định.
Kỹ năng liên quan mật thiết đến năng lực của con người, nó được xem là biểu
hiện cụ thể của năng lực.
Trên cơ sở những quan niệm của tác giả về kỹ năng, theo hướng nghiên
cứu KNXH trong đề tài này chúng tôi đồng ý với khuynh hướng kỹ năng thứ
hai các tác giả X.I. Kixegov và Lê Văn Hồng coi: “ Kỹ năng là khả năng thực
hiện có hiệu quả hệ thống các hành động phù hợp với mục đích và điều kiện
của hệ thống này”. Việc xem xét kỹ năng với tư cách là năng lực hành động
của cá nhân yêu cầu ta không chỉ phân tích mặt kỹ thuật của hành động mà
còn phải nghiên cứu các yếu tố nhân cách khác có liên quan tới việc triển khai

1.2.1.2

hoạt động, hiệu quả của công việc.
Quá trình hình hình kỹ năng
Kỹ năng được hình thành và phát triển theo từng giai đoạn với các mức
độ từ thấp đến cao, từ chỗ có nhận thức về kỹ năng đến chỗ vận dụng và

luyện tập để thực hiện thành thạo. Nó có thể là kỹ năng nguyên phát - dạng kỹ
năng đơn giản, tương ứng với những thao tác của hành động nhất định. Nó có
thể là kỹ năng thứ phát ( kỹ năng thứ sinh - theo cách gọi của X.I.Kixegov) tập hợp của nhiều yếu tố để tạo nên kỹ năng phức hợp, nâng cao.
G.Theodorson ( 1969), P.A.Rudic (1974) cho rằng, ban đầu kỹ năng
mới chỉ là thao tác riêng lẻ chưa được hoàn thiện. Trong quá trình rèn luyện,
chúng trở thành hành động nhanh chóng chính xác và sau đó trở thành kỹ xảo
( không có sự kiểm soát của ý thức )
- K.K.Platonov và G.G.Golobev đưa ra 5 giai đoạn phát triển kỹ năng
như sau:
Giai đoạn 1: KN ban đầu còn rất sơ đẳng. Ở giai đoạn này nhận thức
mục đích của hành động và tìm kiếm các phương thức thực hiện hành động.
Các phương thức này được lựa chọn trên cơ sở các tri thức và các kỹ năng đã
được lĩnh hội từ trước ( thường là cái tri thức và kỹ năng thuộc về đời sống
hằng ngày) dưới dạng “ thử và sai”.

16


Giai đoạn 2: Kỹ năng đã có nhưng chưa đầy đủ. Hoạt động còn thiếu sự
sáng tạo. Ở giai đoạn này có tri thức về các phương thức thực hiện hành động
và việc sử dụng các kỹ xảo đã lĩnh hội từ trước. Những kỹ năng này là những
kỹ năng không chuyện biệt đối với một hoạt động nào đó.
Giai đoạn 3: Kỹ năng chung chuyên biệt. Ở giai đoạn này, một loạt các
kỹ năng chuyên biệt đã được phát triển ở mức độ cao nhưng vẫn là kỹ năng ở
phạm vi hẹp - những cái cần thiết cho một loạt các dạng hoạt động. Ví dụ: Kỹ
năng ra quyết định, kỹ năng làm việc nhóm…
Giai đoạn 4: Kỹ năng ở trình độ cao, lúc này cá nhân sử dụng thành
thạo các thao tác kỹ thuật, cách thức thực hiện để đạt được mục đích.
Giai đoạn 5: Sự thành thạo. Giai đoạn này cá nhân vừa thành thạo vừa
sáng tạo trong sử dụng các kỹ năng ở những điều kiện khác nhau

Theo cách phân chia này thì kỹ năng hình thành và phát triển theo từng
giai đoạn, từ kỹ năng còn sơ đẳng, kỹ năng chưa đầy đủ rồi đến có kỹ năng
đầy đủ, sử dụng thành thạo, linh hoạt trong điều kiện của cuộc sống. Sự phân
chia kỹ năng thành nhiều giai đoạn giúp cho việc hình thành nghiên cứu kỹ
năng được thuận lợi.
Khi nghiên cứu về kỹ năng, tác giả Trần Quốc Thành đưa ra quan niệm
quá trình hình thành kỹ năng đi từ hình thành nhận thức về mục đích, cách
thức, điều kiện hành động tới việc quan sát và làm thử, cuối cùng là luyện tập
để tiến hành hành động theo đúng yêu cầu nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Nhận thức về mục đích, kế hoạch hành động. Tức là khi muốn xây
dựng một kỹ năng nào đó, chủ thể phải biết mình sẽ làm gì và sẽ phải đạt
được đến kết quả nào. Từ đó, chủ thể cũng phải biết cách thức để đi tới đó
như thế nào. Những cách thức này có thể chủ thể tự xây dựng nhưng cũng có
thể do người hướng dẫn.
Làm thử: Sau khi nắm được phương thức hành động, cần theo đó để
làm thử vài lần dưới sự kiểm soát của người hướng dẫn. Lúc này, động tác
chậm, không tự tin, các khâu của động tác không gắn với nhau vì luôn phải
dừng lại để đối chiếu với các tri thức đã có, với lời hướng dẫn xem khâu tiếp
sau là gì. Vận động của các cơ quan tham gia hoạt động còn quá căng thẳng,
17


còn nhiều động tác thừa. Tùy theo khả năng của từng người mà độ sai sót
nhiều hay ít, giai đoạn làm thử dài hay ngắn.
Luyện tập: Làm đi làm lại động tác cần học: Lúc mới luyện tập, người
học mới chỉ chú ý đến từng khâu riêng lẻ của hành động, chưa chú ý đến toàn
bộ. Sau nhiều lần luyện tập, người học biết liên kết nhiều hành động riêng lẻ
lại, hành động lúc này liên tục, không bị ngắt quãng, tự tin hơn. Quá trình
luyện tập cũng là quá trình làm cho động tác chính xác hơn, ít sai lầm hơn.
Đến giai đoạn này, người học có thể phát hiện ra lỗi sai của mình và tự sửa.

Kỹ năng thực sự ổn định khi người học hành động có kết quả trong những
điều kiện khác nhau. Việc luyện tập có hiệu quả cao hay thấp phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: điều kiện luyện tập, tính hệ thống của quá trình luyện tập,
đặc biệt là sự nỗ lực cá nhân…[6].
Tác giả Nguyễn Phương Huyền chia quá trình hình thành kỹ năng
thành các giai đoạn như sau:
Giai đoạn 1: Nhận biết sơ bộ về hành vi kỹ năng.
Giai đoạn 2: Phân tích để hiểu được yêu cầu thao tác, kỹ thuật hành
động, phương thức hành động, mục đích thực hiện kỹ năng. Tổng hợp các
yếu tố nói trên để hiểu được yêu cầu thực hiện kỹ năng.
Giai đoạn 3: Vận dụng tri thức, kinh nghiệm, hiểu biết để có thể tiến
hành thao tác trong những tình huống cụ thể.
Giai đoạn 4: Luyện tập để tiến hành thuần thục các thao tác, thực hiện
thành thạo kỹ năng [ 7, tr 21].
Tóm lại, trong mỗi giai đoạn kỹ năng đều có những đặc điểm riêng
biệt, qua mỗi giai đoạn kỹ năng được hoàn thiện và phát triển cao hơn, giai
đoạn cuối cùng kỹ năng sẽ đạt đến độ linh hoạt và thuần thục, phát huy tính
sáng tạo trong việc sử dụng kỹ năng. Như vậy, để đạt đến điều này đòi hỏi
mỗi cá nhân phải luôn luyện tập và trau dồi kỹ năng của mình.
Từ các quan điểm của các tác giả về quá trình hình thành kỹ năng,
chúng tôi đồng ý với quan niệm của tác giả Trần Quốc Thành. Việc hình thành
kỹ năng diễn ra trên hai cấp độ chính: cấp độ nhận thức và cấp độ thao tác
18


hành động. Ở cấp độ nhận thức, chủ thể phải có được tri thức, hiểu biết về
mục đích, yêu cầu và cách thức của hoạt động. Ở cấp độ thao tác hành động,
chủ thể cần thực hiện kỹ năng trong thực tiễn ổn định, sau đó vận dụng kỹ
năng vào các điều kiện khác nhau của hoạt động.
1.2.1.3


Phân loại kỹ năng
Trong quá trình nghiên cứu, các tác giả đưa ra nhiều cách phân loại kỹ
năng khác nhau. Trong tâm lý học phân thành kỹ năng nguyên sinh và kỹ
năng thứ sinh. Kỹ năng nguyên sinh là những kỹ năng được hình thành lần
đầu qua các hành động đơn giản, những kỹ năng này là cơ sở để hình thành
kỹ xảo. Kỹ năng thứ sinh hay kỹ năng bậc cao là những kỹ năng được hình
thành trên cơ sở của tri thức và kỹ xảo. Dựa vào mức độ kỹ năng, V.V
Bogxloxki chia làm hai loại kỹ năng: Kỹ năng sơ đẳng và kỹ năng thành thạo.
Một quan niệm khác dựa trên tính chất của hoạt động chia kỹ năng ra thành
kỹ năng hoạt động chân tay và kỹ năng hoạt động trí óc. Trong phạm vi đề tài
nghiên cứu này, chúng tôi quan tâm đến việc phân loại kỹ năng thành hai
nhóm: Kỹ năng hoạt động và kỹ năng sống:
Kỹ năng hoạt động: Mỗi hoạt động bao gồm trong đó nhiều hành động,
với nhiều cách thức thực hiện khác nhau. Kỹ năng về một hành động nào đó
là một phức hợp bao gồm nhiều kỹ năng thành phần, có quan hệ chặt chẽ với
nhau, giúp con người hoạt động có hiệu quả. Có thể có nhiều kỹ năng hoạt
động, căn cứ vào tính chất của mỗi loại hoạt động, người ta có thể chia thành
các loại kỹ năng sau:1) Kỹ năng hoạt động trí tuệ là loại kỹ năng giúp con
người tiến hành các hoạt động trí tuệ có kết quả. Nó được hình thành trong
những loại hoạt động trí óc như học tập, nghiên cứu để tạo ra sản phẩm tinh
thần; 2) Kỹ năng hoạt động lao động trong lao động sản xuất bao gồm các kỹ
năng hoạt động trí tuệ và hoạt động chân tay, tác động vào thế giới đối tượng,
tạo ra sản phẩm vật chất; 3) Kỹ năng hoạt động tổ chức là loại kỹ năng phức
tạp nhất, tác động đến cả hệ thống con người và hệ thống các mối quan hệ
giữa con người với công việc do con người đảm nhiệm.
19


Kỹ năng sống là các kỹ năng thiết thực mà con người cần có để có

được cuộc sống an toàn, khỏe mạnh và hiệu quả. Theo tổ chức Y tế thế giới
WHO, kỹ năng sống là “ Khả năng thích nghi và những hành vi tích cực cho
phép cá nhân có khả năng đối phó giải quyết hiệu quả với nhu cầu và thách
thức trong cuộc sống hằng ngày” ( UNESCO: Introduction to Life skill ).
Cũng theo WHO, kỹ năng sống được chia thành hai loại là kỹ năng tâm lý xã
hội và kỹ năng cá nhân, lĩnh hội và tư duy với 10 yếu tố như: Kỹ năng tự ý
thức là kỹ năng tự đánh giá, xác định điểm mạnh điểm yếu của bản thân
mình; Kỹ năng ứng phó với các tình huống căng thẳng là kỹ năng tự kiểm
soát bản thân và đối phó với những căng thăng, ứng xử trước những âu lo,
những tình huống khó khăn; Kỹ năng giao tiếp thể hiện bằng ngôn ngữ có lời
và không lời; Kỹ năng ra quyết định là kỹ năng suy nghĩ mang tính phê phán
và sáng tạo, đánh giá và thu thập những thông tin để đưa ra quyết định; Kỹ
năng tự khẳng định biết cách nói “không”, đối phó với những lời mời mọc,
khả năng thuyết phục người khác; Kỹ năng thiết lập mục tiêu lên kế hoạch,
xác định điểm mạnh, điểm yếu cũng như thuận lợi và khó khăn trong quá
1.2.2
1.2.2.1

trình thực hiện mục tiêu…
Một số vấn đề về KNXH
Khái niệm KNXH
KNXH là một vấn đề mới, do đó khái niệm chưa có sự thống nhất, các
nhà nghiên cứu thường có xu hướng đưa ra những khái niệm khác nhau dựa
trên mục đích nghiên cứu của mình.
Theo tác giả Gresham và Elliot ( 1990), khái niệm KNXH ( social
skills): “ Là những mẫu ứng xử tập nhiễm hay học được, được chấp nhận về
mặt xã hội, giúp một cá nhân có thể quyết định hành động và ứng xử một
cách có hiệu quả với người khác, giúp người đó nhanh chóng thích nghi với
hoàn cảnh, tránh được những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội”. [tr96, 11]. Khái
niệm này cũng được tác giả Nguyễn Công Khanh và Huỳnh Minh Như

Hương đồng tình.
Tác giả Tạ Thị Ngọc Thanh cho rằng: “ KNXH là những kỹ năng tinh
thần hay những kỹ năng tâm lý – xã hội giúp cho cá nhân tồn tại và thích ứng
20


trong cuộc sống xã hội. KNXH còn được xem như một biểu hiện quan trọng
của năng lực tâm lý – xã hội giúp cho cá nhân vững vàng trong cuộc sống
thực tại có nhiều thách thức nhưng cũng có nhiều cơ hội phát triển”. [ 13,
tr29].
Theo tổng hợp của tác giả Nguyễn Thanh Bình, nhóm KNXH ( hay kỹ
năng tương tác) là các kỹ năng thành phần: giao tiếp, quyết đoán, thương
thuyết, từ chối, sự cảm thông chia sẻ, khả năng nhận thấy thiện cảm của người
khác [ 9].
Theo Bùi Bích Liên, “KNXH là tập hợp những kỹ năng của chủ thể
tương tác tích cực với các tình huống xã hội, được xã hội chấp nhận, giúp chủ
thể tồn tại và thích ứng trong những điều kiện khác nhau của cuộc sống”. Tác
giả cho rằng ở khái niệm này, cần lưu ý đến một số nội dung như sau: 1)
KNXH là tập hợp những kỹ năng của chủ thể tương tác tích cực với các tình
huống xã hội. Những kỹ năng này được hình thành dựa trên cơ sở những kiến
thức, kinh nghiệm của chủ thể; 2) Những kỹ năng này của chủ thể được xã
hội nhìn nhận và chấp nhận; 3) Sự vận dụng những KNXH cơ bản giúp chủ
thể tồn tại và thích nghi trong các điều kiện khác nhau của cuộc sống. [ 1,
tr26]
Dựa vào những quan điểm trên về khái niệm KNXH, xét trên mục đích
nghiên cứu của đề tài này, chúng tôi đồng tình với khái niệm của Gresham và
Elliot: “KNXH là những mẫu ứng xử tập nhiễm hay học được, được chấp
nhận về mặt xã hội, giúp một cá nhân có thể quyết định hành động và ứng xử
một cách có hiệu quả với người khác, giúp người đó nhanh chóng thích nghi
với hoàn cảnh, tránh được những hậu quả tiêu cực về mặt xã hội”.

Phân loại kỹ năng xã hội
KNXH là một vấn đề mới nên sự phân loại KNXH còn chưa đầy đủ và

1.2.2.2

rõ ràng. Xét theo mục đích, đối tượng nghiên cứu mà các nhà khoa học đưa ra
những sự phân loại KNXH khác nhau.
Theo Gresham và Elliot ( 1990) khi nghiên cứu về KNXH của học sinh
-

THCS và THPT đã phân KNXH thành bốn nhóm kỹ năng cơ bản sau:
Nhóm kỹ năng hợp tác ( Cooperation): Đó là những hành vi giúp người khác,
chia sẻ tài liệu, tuân thủ cam kết hoặc cùng chung sức hoàn thành một công
21


việc, cùng phối hợp hành động trong một lĩnh vực nào đó nhằm một mục
-

đích chung.
Nhóm kỹ năng quyết đoán, tự khẳng định (Assertion):
Đó là những hành vi chủ động đề nghị người khác cung cấp thông tin, tự
giới thiệu về mình, kiên định khi bị người khác gây sức ép, bảo vệ một cách

-

tích cực chủ kiến, quan điểm của mình trước mọi người.
Nhóm kỹ năng đồng cảm ( Empathy):
Đó là sự quan tâm, trân trọng tình cảm, ý kiến của người khác,mong
muốn được chia sẻ với họ, đồng thời thấu hiểu những khó khăn riêng và biết


-

cách chia sẻ tâm tư, tình cảm với người khác.
Nhóm kỹ năng kiềm chế, tự kiểm soát ( Self – control):
Đó là hành vi biết kiềm chế trong cách tình huống xung đột, biết cách
kiềm chế xúc cảm hoặc biết tự làm chủ tình cảm của mình không để những
nhu cầu mong muốn, hoàn cảnh hoặc người khác chi phối. [11, tr97]
Tác giả Nguyễn Ngọc Khanh, Huỳnh Minh Như Hương cũng đồng ý
với cách phân loại trên. Tuy nhiên trong công trình nghiên cứu KNXH của
học sinh THCS tỉnh Trà Vinh, ngoài 4 KNXH cơ bản, tác giả Huỳnh Minh
Như Hương còn thêm một kỹ năng nữa đó là Kỹ năng giải quyết vấn đề. Theo
tác giả, việc thêm Kỹ năng giải quyết vấn đề vào phù hợp với thực tiễn, mục
đích nghiên cứu của đề tài, giúp đánh giá KNXH được toàn diện hơn.
Theo tác giả Tạ Thị Ngọc Thanh thì phân loại KNXH thành từng nhóm

-

dựa trên lợi ích cơ bản của các kỹ năng đó trong hoạt động thực tiễn:
Những kỹ năng tiếp xúc cơ bản ( cười, tiếp xúc bằng mắt, lắng nghe…)
Những kỹ năng tham gia, tiếp cận ( làm thế nào để tiếp cận với một cá nhân

-

trong xã hội hay gia nhập vào một nhóm).
Những kỹ năng kết bạn ( làm thế nào để bày tỏ những cảm xúc thích hợp, liên

-

quan với những người khác khi đưa ra quyết định…).

Những kỹ năng giải quyết xung đột ( làm thế nào để giải quyết những xung

-

đột, mâu thuẫn theo cách xã hội chấp nhận được)
Kỹ năng thấu cảm, đồng cảm.
Kỹ năng thông tin về nhu cầu, lý tưởng.
Sự hài hước.
Kỹ năng giữ kiên định ( làm thế nào để nói không với những hành vi nguy
hiểm hay chống đối xã hội, giữ vững bản thân). [ 13, tr 29]
22


Trên đây là các cách phân loại KNXH, dựa trên các cách phân chia của
tác giả, so sánh với mục đích đối tượng nghiên cứu của đề tài, chúng tôi đồng
ý với quan điểm của Gresham và Elliot chia KNXH thành bốn nhóm kỹ năng
cơ bản: Kỹ năng hợp tác; Kỹ năng quyết đoán, tự khẳng định; Kỹ năng đồng
cảm; Kỹ năng kiềm chế, tự kiểm soát.
1.2.2.3 Kỹ năng sống và Kỹ năng xã hội
Ở Việt Nam, thuật ngữ kỹ năng sống ( KNS) và kỹ năng xã hội
( KNXH) xuất hiện ngày càng nhiều do yêu cầu từ sự phát triển kinh tế xã hội
và xu thế hội nhập đòi hỏi con người có đầy đủ những năng lực, kỹ năng và
phải năng động, sáng tạo để thích ứng với những đổi thay nhanh chóng của xã
hội. Vì những thuật ngữ này được phát triển ở Việt Nam chưa lâu, cũng như
chưa có nhiều công trình tài liệu chính thống nghiên cứu nên nhiều người còn
nhầm lẫn giữa KNS và KNXH.
Thực chất, thuật ngữ KNS được phát triển từ những năm 90 trong một
số chương trình giáo dục của UNICEF, WHO, UNESCO. Các công trình
nghiên cứu về KNS ở giai đoạn này quan niệm về KNS theo nghĩa hẹp, đồng
nhất nó với các KNXH. Về sau KNS được hiểu theo nghĩa rộng không chỉ

bao gồm năng lực tâm lý xã hội mà còn bao gồm cả những kỹ năng tâm vận
động. Mặc dù có khá nhiều cách biểu đạt khác nhau về KNS ( nội hàm khái
niệm nông, sâu khác nhau dẫn đến phạm vi phản ánh của khái niệm rộng hẹp
khác nhau) tuy nhiên vẫn có điểm thống nhất trong các quan niệm về KNS là:
khẳng định KNS thuộc về phạm trù năng lực ( hiểu kỹ năng theo nghĩa rộng)
chứ không thuộc phạm trù kỹ thuật của hành động, hành vi ( hiểu kỹ năng
theo nghĩa hẹp).
Theo các cách phân loại KNS dựa vào các lĩnh vực tâm lý sau này thì
-

có thể thấy KNXH là một phần nằm trong KNS:
Theo định nghĩa của WHO, kỹ năng sống được chia thành 2 loại là kỹ năng
tâm lý xã hội và kỹ năng các nhân, lĩnh hội và tư duy với 10 yếu tố như: tự

23


nhận thức, tư duy sáng tạo, giải quyết vấn đề, kỹ năng giao tiếp ứng xử với
-

người khác, tư duy bình luận phê phán…….
Theo tổng hợp của tác giả Nguyễn Thanh Bình thì tồn tại các cách phân loại
KNS, gồm có 3 nhóm tiêu biểu:
Nhóm thứ nhất: Kỹ năng nhận thức bao gồm các kỹ năng cụ thể: tư duy
phê phán, giải quyết vấn đề, nhận thức hậu quả….
Nhóm thứ hai, là các kỹ năng đương đầu với xúc cảm, gồm các kỹ năng
cụ thể: ý thức trách nhiệm, cam kết, kiềm chế sự căng thẳng….
Nhóm thứ ba, là nhóm các KNXH ( hay kỹ năng tương tác) với các
thành phần: Giao tiếp, quyết đoán, thương thuyết, từ chối, hợp tác, sự cảm
thông và chia sẻ, khả năng nhận thấy sự thiện cảm của người khác. [18]

Như vậy, thì KNXH là một nhóm kỹ năng nằm trong KNS, không tách
rời KNS. KNXH đề cập đến những mẫu ứng xử đúng hoặc chính xác khi
tương tác với những người khác nhau trong các tình huống khác nhau của môi
trường xã hội, KNXH có ý nghĩa rất lớn trong việc hỗ trợ sức khỏe tinh thần,
giúp thích nghi với hoàn cảnh và tránh được tác động tiêu cực về mặt xã hội.
Đối với KNS thì đề cập đến vấn đề rộng hơn, con người không chỉ cần có
những kỹ năng tâm lý –xã hội, ứng xử tập nhiễm hay học được mà còn cần và
phải biết cách thay đổi một cách phù hợp và mang tính tích cực, khả năng con
người quản lý bản thân như thế nào, kể cả với người khác và trong cuộc sống
hằng ngày.

1.3
1.3.1

KNXH của học sinh THPT
Đặc điểm tâm lý chủ yếu của học sinh THPT
Tuổi thanh niên thường được xác định từ 15 – 25 tuổi, với đặc trưng là
sự trưởng thành và hoàn thiện cơ thể cả về giải phẫu và sinh lý, sau khi kết
thúc giai đoạn dậy thì. Học sinh THPT thuộc nhóm thanh niên học sinh, hay
còn được gọi là tuổi đầu thanh niên ( từ 15 – 18 tuổi). Đây là giai đoạn
chuyển đổi giữa tuổi thiếu niên và tuổi thanh niên, là giai đoạn mà những thay
đổi diễn ra mạnh mẽ nhất cả về khía cạnh sinh học lẫn khía cạnh tâm lý. Hơn
nữa, vai trò và vị thế xã hội của các em trong giai đoạn này cũng thay đổi rất
24


nhiều. Các em được ( và phải) giải quyết nhiều vấn đề trong cuộc sống của
mình, sự can thiệp của người lớn giảm dần đi. Do đó, trong giai đoạn này
những KNXH thật sự rất cần thiết đối với các em học sinh trong việc ứng phó
giải quyết các vấn đề trong cuộc sống, đồng thời sẽ giúp hạn chế những tác

động tiêu cực của sự ảnh hưởng của các vấn đề khó khăn trong giai đoạn lứa
tuổi này.
Ở lứa tuổi học sinh THPT, các em có những đặc điểm tâm lý đặc trưng
-

như sau:
Sự phát triển tự ý thức
Sự phát triển tự ý thức của học sinh THPT đã phát triển đến mức độ cao
và có nhiều khác biệt so với các lứa tuổi trước đó. Điều này đòi hỏi các em
phải có sự vững vàng, độc lập, tự chủ, tự tin vào bản thân. Sự tự ý thức được
bộc lộ qua sự ý thức về thân thể; tự đánh giá các phẩm chất tâm lý của cá
nhân và tính tự trọng.
Có thể nói, hình ảnh về thân thể là một thành tố quan trọng trong ý thức
của tuổi thanh niên và đây cũng chính là một trong những đặc trưng tâm lý
điển hình ở lứa tuổi này. Nhiều em vì hình ảnh thân thể của mình mà cảm
thấy tự ti, khổ tâm xấu hổ trước bạn bè và dẫn đến các phản ứng tiêu cực về
hành vi ứng xử….. Đó là do các em bị chi phối và ảnh hưởng không tốt bởi ý
kiến đánh giá của bạn bè xung quanh và không có cái nhìn đúng đắn về giá trị
của bản thân. Vì vậy, KN tự khẳng định bản thân trong giai đoạn này là rất
cần thiết. Kỹ năng này sẽ giúp các em tự tin về bản thân mình, đón nhận
những ý kiến đánh giá của mọi người một cách tích cực, từ đó hoàn thiện và
tạo ra một hình ảnh bản thân phù hợp nhất trong mắt mọi người.
Trong sự phát triển tự ý thức thì tự đánh giá là một nét tâm lý điển hình
của lứa tuổi thanh niên. Đối với giai đoạn thanh niên học sinh ( học sinh
THPT) thì tự đánh giá giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành sự tự tin,
lý tưởng, phát triển và hoàn thiện nhân cách theo chuẩn mực xã hội. Đây cũng
là yếu tố quan trọng giúp hình thành và phát triển và hoàn thiện KNXH. Tự
đánh giá của thanh niên thường có bốn đặc điểm sau:
25



×