Tải bản đầy đủ (.doc) (121 trang)

Giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc Thái thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh THCS ở thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (537.33 KB, 121 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong kho tàng văn hóa của nhân loại, những di sản văn hóa phi vật thể
dễ có nguy cơ bị xóa bỏ trong tâm thức của con người và biến mất theo dòng
thời gian trong đời sống xã hội. Do đó việc gìn giữ và phát huy những giá trị
văn hóa phi vật thể là vô cùng quan trọng và cần có sự quan tâm đặc biệt của
các nhà quản lý, các lĩnh vực trong đó có giáo dục. Ở nước ta, việc bảo tồn và
phát triển những giá trị độc đáo của văn hóa, bao gồm bản sắc văn hóa là một
nhu cầu trong thời đại mới.
Đối với văn hóa dân tộc Thái cũng vậy, đó được coi là di sản văn hóa
quý báu của các cộng đồng dân tộc Việt Nam cần thiết phải được giữ gìn và
phát triển. Hơn nữa văn hóa dân tộc Thái còn hàm chứa đậm nét bản chất
thẩm mĩ và sáng tạo của quần chúng nhân dân, được tồn tại cùng với lịch sử
tiến hóa của các cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Công tác sưu tầm, nghiên
cứu, bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống dân tộc Thái sẽ góp phần phát
triển, đóng góp thiết thực vào sự nghiệp xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên
tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc.
Ở tỉnh Sơn La nói chung và thành phố Sơn La nói riêng số lượng tỉ lệ
người dân tộc Thái so với các dân tộc khác chiếm tỉ lệ rất lớn. Do đó, việc giữ
gìn và bảo tồn văn hóa dân tộc Thái là rất cần thiết và phải đưa vào chương
trình giáo dục học sinh. Tuy nhiên, chương trình giáo dục học sinh sử dụng
chung cho học sinh toàn quốc nên nội dung này chưa được đưa vào trong giờ
chính khóa vì không đủ thời lượng. Để khắc phục những hạn chế đó cần đưa
nội dung văn hóa truyền thống dân tộc Thái vào chương trình hoạt động ngoài
giờ lên lớp cho học sinh.
Việc tổ chức chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp ở trường trung
học cơ sở (THCS) là một nội dung nhằm tổ chức cho HS rèn luyện những kĩ
năng hoạt động làm cân bằng các nội dung học tập. Hiện nay việc tổ chức các
1



hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) đã được các cơ quan ban
ngành, các trường học quan tâm hơn. Tuy nhiên không phải chương trình hoạt
động ngoài giờ lên lớp nào cũng đem lại hiệu quả như mong muốn, các
chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp trong trường THCS nhiều khi chỉ
mang tính hình thức, tham gia theo phong trào chung, các tiết mục văn nghệ
chưa được đầu tư, tổ chức sơ sài không sâu sắc dẫn đến hiệu quả chương trình
chưa cao, chưa gây được nhiều hứng thú cho học sinh.
Việc giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc Thái ở Thành phố Sơn La
chưa thực sự được quan tâm nhất là trong các hoạt động ngoài giờ lên lớp ở
trường THCS trên địa bàn thành phố. Hơn nữa bản thân tôi là một người dân
sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Tây Bắc tôi đã được tiếp cận nhiều với con
người, văn hóa dân tộc Thái. Tôi cảm thấy đó là những nét văn hóa đặc trưng,
phong phú và cần được giữ gìn và phát huy. Với tất cả những điều nêu trên,
tôi chọn đề tài “Giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc Thái thông qua hoạt
động ngoài giờ lên lớp cho học sinh THCS ở thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La”.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn giáo dục văn hóa
truyền thống dân tộc Thái cho học sinh trung học cơ sở thành phố Sơn La,
luận văn có mục tiêu đề xuất các biện pháp giáo dục văn hóa truyền thống dân
tộc Thái thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể: Hoạt động giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc cho
học sinh THCS
3.2. Đối tượng: Các biện pháp giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc
Thái cho học sinh THCS
4. Giả thuyết khoa học
Giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc Thái thông qua hoạt động ngoài
giờ lên lớp cho học sinh THCS ở Thành phố Sơn La thì sẽ giúp:
2



- Nâng cao chất lượng xây dựng chương trình hoạt động ngoài giờ lên
lớp của nhà trường.
- Tăng cường vốn hiểu biết về văn hóa truyền thống có từ lâu đời của
địa phương.
- Góp phần giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa truyền thống dân tộc
Thái, quảng bá du lịch địa phương khi có dịp.
- Hướng các em HS tới những hoạt động tập thể bổ ích, tránh xa các tệ
nạn xã hội. Tăng thêm nhiều hứng thú đối với hoạt động ngoài giờ lên lớp của
học sinh góp phần nâng cao tinh thần trong học tập tại nhà trường. Phát huy
tinh thần đoàn kết tập thể, khả năng làm việc nhóm của học sinh.
- Góp phần bồi dưỡng cho học sinh tình yêu quê hương, nét đặc sắc văn
hóa của dân tộc mình.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận về giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc
cho học sinh THCS thông qua hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
5.2. Xác định thực trạng giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc Thái
thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp ở các trường THCS trên địa bàn TP
Sơn La
5.3. Đề xuất và thử nghiệm các biện pháp giáo dục văn hóa truyền
thống dân tộc Thái thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh THCS
Thành phố Sơn La.
6. Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu trên địa bàn thành phố Sơn La với 14 trường
THCS được phân bố trên 12 xã phường, với 8540 học sinh. Tỉ lệ học sinh
THCS và học sinh dân tộc Thái tỉ lệ cao. Tuy nhiên tôi chọn 4 trường mang
những nét đặc trưng:
− Trường THCS Hua La: thuộc xã Hua La có tỉ lệ 100% học sinh là
dân tộc Thái và là xã khó khăn trên địa bàn thành phố Sơn La.
3



− Trường THCS Chiềng An: thuộc phường Chiềng An có tỉ lệ 70% học
sinh dân tộc Thái.
− Trường THCS Chiềng Cọ: thuộc xã Chiềng Cọ có tỉ lệ 50% học sinh
dân tộc Thái.
− Trường THCS Lê Quý Đôn: thuộc phường Chiềng Lề có tỉ lệ 30%
học sinh dân tộc Thái.
Chọn mẫu khảo sát trên tỉ lệ học sinh khoảng 5% của các trường.
Số GV của 4 trường: giáo viên chủ nhiệm, giáo viên tổng phụ trách,
giáo viên chuyên môn âm nhạc, mỹ thuật, thể dục.
7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận.
Nhóm phương pháp này được sử dụng để xây dựng cơ sở lý luận cho
đề tài, xác định khái niệm công cụ có liên quan.
Phương pháp cụ thể là: phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, khái quát hóa
các tài liệu trên sách báo, tạp chí, luận văn, luận án, internet,...để kế thừa
những kết quả nghiên cứu và xây dựng hướng nghiên cứu của đề tài.
7.2. Nhóm hương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Quan sát các hoạt động ngoài giờ lên lớp của học sinh và giáo viên
nhằm thu thập thông tin về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức của các
HĐ ngoài giờ lên lớp của HS được tiến hành thông qua các phiếu quan sát.
- Phương pháp điều tra giáo dục.
Thông qua hệ thống Phiếu điều tra được xây dựng khoa học tiến hành
điều tra đối với học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý nhằm khảo sát thực trạng
giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc Thái cho học sinh trung học cơ sở trên
địa bàn TP Sơn La thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp.
- Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động giáo dục.
Trên cơ sở nghiên cứu phân tích các sản phẩm hoạt động ngoài giờ lên
lớp để có cái nhìn toàn diện hơn.

4


- Phương pháp đàm thoại
Tiến hành đàm thoại với học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý thông qua
các câu hỏi liên quan tới nội dung đề tài, nhằm thu thập thêm thông tin về
thực trạng giáo dục văn hóa truyền thống thông qua hoạt động ngoài giờ lên
lớp cho học sinh THCS hiện nay.
- Phương pháp thử nghiệm sư phạm.
Chúng tôi tiến hành thử nghiệm sư phạm thông qua quá trình thử
nghiệm nhằm đánh giá tính khả thi của biện pháp đã đề xuất.
Thực nghiệm dàn dựng: Tôi trực tiếp cùng với nghệ nhân dàn dựng tiết
mục múa cho các em HS, hướng dẫn các động tác cơ bản sau đó ghép lại
thành tiết mục hoàn chỉnh với nhạc và phục trang phù hợp.
Thực nghiệm thiết kế chương trình HĐNGLL tìm hiểu về văn hóa múa
dân gian dân tộc Thái
- Phương pháp chuyên gia
Trên cơ sở tham khảo ý kiến chuyên gia, lập phiếu xin ý kiến đánh giá của
chuyên gia nhằm xây dựng được hệ thống bảng hỏi, hoàn chỉnh các tiêu chí đánh
giá, chất lượng chương trình thử nghiệm, hướng nghiên cứu của đề tài
7.3. Nhóm phương pháp hỗ trợ:
Trên cơ sở những kết quả số liệu đã thu được từ phương pháp điều tra
giáo dục, sử dụng phương pháp thống kê toán học với sự hỗ trợ của phần
mềm SPSS để lượng hóa những thông tin đã thu được.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo thì luận văn
gồm có 3 chương chính:
Chương I: Cơ sở lí luận của giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc
Thái thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh THCS
Chương II: Thực trạng tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp

và giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc Thái thông qua HĐGDNGLL cho
học sinh THCS trên địa bàn Thành phố Sơn La
Chương III: Các biện pháp giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc Thái
thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp.
5


Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC GIÁO DỤC VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG
DÂN TỘC THÁI CHO HỌC SINH THCS THÔNG QUA HOẠT ĐỘNG
GIÁO DỤC NGOÀI GIỜ LÊN LỚP
1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Giáo dục là một hiện tượng xã hội đặc biệt, nảy sinh và phát triển cùng
với sự phát triển của xã hội loài người. Giáo dục là một hoạt động có mục
đích, có kế hoạch, có hệ thống, với mục tiêu, nội dung, phương pháp và hình
thức tổ chức xác định. Trong đó mục đích của giáo dục là hình thành và phát
triển nhân cách toàn diện cho học sinh. Sự phát triển đó bao gồm cả sự phát
triển về thể chất, tâm lí và xã hội. Mục đích giáo dục này là đơn đặt hàng của
xã hội vì vậy xã hội càng phát triển thì đòi hỏi càng cao đối với chất lượng
giáo dục.
Hiện nay do yêu cầu của xã hội ngày càng cao, đòi hỏi giáo dục phải
đào tạo ra những con người năng động, có khả năng thích ứng tốt, nhạy bén,
đáp ứng được bốn trụ cột chính của giáo dục thế kỉ XXI: học để biết, học để
làm, học để chung sống, học để khẳng định mình.
Một yêu cầu đặt ra cho giáo dục là phải tổ chức hướng dẫn học sinh
hoạt động để các em có được những năng lực thực tiễn, học phải đi đôi với
hành. Tuy nhiên không phải bây giờ tư tưởng đó mới xuất hiện mà đó là sự kế
thừa tư tưởng của các nhà giáo dục vĩ đại của nhân loại.
1.1.1. Trên thế giới
Những nhà giáo dục tiêu biểu cho các thời kì từ lịch sử cổ đại đến hiện

đại luôn thể hiện tư tưởng này trong giáo dục của mình, đó là quan điểm học
đi đôi với hành, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trường gắn liền
với giáo dục gia đình và xã hội.
- Khổng Tử (551-449 TCN) một nhà triết gia nổi tiếng Trung Hoa cổ
đại được mệnh danh là “Đại Thành Chí Thánh” từng khẳng định: “Tụng thi
6


tam bách, thụ chi dĩ chính bất phạt, sứ vu tứ phương bất năng chuyên đối”
(Đọc kinh thư 300 thiên, nhưng giao chính quyền cho không làm được, đi sứ
các nước không đối đáp được, tuy có học nhiều cũng chẳng ích gì). Như vậy
ngay từ thời giáo dục chủ yếu đào tạo ra những con người “tầm chương chích
cú” thì vấn đề “học” để “hành” cũng đã được đề cập. [17]
- J.A. Cômenxki (1592 – 1670), là cha đẻ của nền giáo dục cận đại, đã
có những cống hiến quý báu cho sự nghiệp giáo dục. Cômenxki đã nêu lên
nhiều nguyên tắc, phương pháp sư phạm mới của việc dạy học nhằm phát huy
tính tích cực chủ động của học sinh, phản đối phương pháp giảng dạy kinh
viện giáo điều. Ông đặc biệt nhấn mạnh nguyên tắc trực quan, ông đã phân
tích tỉ mỉ những yêu cầu cơ bản đối với nguyên tắc dạy và học khác như: bảo
đảm tính hệ thống, liên tục, vừa sức, củng cố tri thức, ôn tập, khêu gợi hứng
thú cho học sinh. Ông chú trọng đến việc bồi dưỡng cho học sinh những tri
thức phong phú phục vụ cho nhu cầu thực tế. [17]
- Petxtalôzi (1746 - 1827) - một nhà giáo dục lớn của Thụy Sĩ và người
đương thời gọi ông là “ông thầy của các ông thầy”. Bằng con đường giáo dục
thông qua thực nghiệm ông muốn cứu vớt trẻ em mồ côi, con nhà nghèo.
Nhân dân dựng tượng ông và ghi dòng chữ: “tất cả cho người khác, không gì
cho mình”. Ông dựng ra “trại mới” giúp trẻ vừa học văn hóa, vừa lao động
ngoài lớp, ngoài trường học. Ông cho rằng hoạt động ngoài lớp không những
tạo ra của cải vật chất mà còn là con đường giáo dục toàn diện cho học sinh.
Ông quan niệm giáo dục gia đình đi trước, giáo dục trường học là sự tiếp nối

“giờ nào sinh ra trẻ em thì giờ đó bắt đầu sự giáo dục”. [17]
- A.X. Macarenco (1888 -1939), nhà giáo dục thực tiễn Xô Viết bằng
kinh nghiệm gần 20 năm với trại lao động Goocki và công xã Deczinxki
nhằm cải tạo trẻ em phạm pháp, ông đã nêu và làm sang rõ quan điểm giáo
dục bằng lao động và trong lao động của mình. Thành công của cuộc thực
nghiệm này chính là ở chỗ, Macarenco không chỉ giáo dục trẻ em phạm pháp
trong trường mà ông đã gắn liền giáo dục trong lao động, trong sinh hoạt tập
7


thể và hoạt động xã hội đồng thời chứng minh chân lý giáo dục XHCN; giáo
dục trong sinh hoạt xã hội; giáo dục trong tập thể, bằng tập thể; giáo dục trong
lao động, giáo dục bằng tiền đồ viễn cảnh. [17]
- Vào những năm 60 - 70, đất nước Liên xô đang trên con đường xây
dựng CNXH, việc giáo dục con người phát triển toàn diện được Đảng cộng
sản và Nhà nước quan tâm. Các nghiên cứu về lí luận giáo dục nói chung và
HĐGDNGLL nói riêng được đẩy mạnh. Trong cuốn sách “Giáo dục học” tập
3, tác giả T.A.Ilina đã nêu: “Công tác giáo dục ngoại khoá bổ sung và làm sâu
thêm công tác giáo dục nội khoá, trước tiên là phương tiện để phát hiện đầy
đủ tài năng và năng lực của trẻ em, làm thức tỉnh hứng thú và thiên hướng của
học sinh đối với một hoạt động nào đó; đó là một hình thức tổ chức giải trí
của học sinh và là cơ sở để tổ chức việc thực tập về hành vi đạo đức, để xây
dựng kinh nghiệm của hành vi này”.[26]
Như vậy, từ luận điểm của C.Mác về bản chất xã hội của con nguời là
“tổng hòa các mối quan hệ xã hội” đến luận điểm về sự kết hợp giáo dục, xây
dựng môi trường giáo dục… là một chặng đường dài hơn nửa thể kỷ XX và
đây là cơ sở lý luận cơ bản của việc tổ chức HĐGDNGLL hiện nay. Ngày
nay, cùng với xu thế hội nhập và sự phát triển của các quốc gia… giáo dục
của các nước đang có những định hướng cơ bản nhằm tạo một thế hệ năng
động, sáng tạo, thích nghi với hoàn cảnh sống luôn thay đổi, trong đó kĩ năng

sống là thành tố cốt lõi của chất lượng giáo dục. Điều này được thể hiện trong
khẳng định của UNSECO là:
- Giáo dục thường xuyên, giáo dục suốt đời.
- Nhà trường mở, giáo dục mở.
- Tăng cường giáo dục cộng đồng, giáo dục gia đình.
- Giáo dục cho mọi nguời.
- Giáo dục hướng tới bốn tru cột: học để biết, học để làm, học để chung
sống, học để tự khẳng định mình.
8


Các nghiên cứu của các nhà giáo dục trên đều nhấn mạnh tầm quan
trọng của giáo dục ngoại khoá, ngoài giờ lên lớp. Để học sinh có thể phát
triển toàn diện, các thầy cô giáo không phải chỉ cần quan tâm đến việc cung
cấp tri thức trong các giờ học trên lớp mà còn phải coi trọng các hoạt động tập
thể, vui chơi giải trí, thể dục thể thao, văn nghệ.
1.1.2. Ở Việt Nam
Nghiên cứu về hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) đã
thu hút được sự tham gia của các nhà nghiên cứu, của các nhà giáo trong cả
nước từ những năm 80 của thế kỉ 20 trở lại đây. Chúng ta có thể chia làm hai
giai đoạn sau:
a. Giai đoạn từ năm 1979 trở về trước: điểm nổi bật ở giai đoạn này là
khái niệm “HĐGDNGLL” chưa được định hình và chưa có tên gọi như ngày
nay. Tuy nhiên, nội hàm cơ bản của khái niệm đã được Hồ Chủ Tịch đề cập
trong “Thư gửi cho học sinh” nhân ngày khai trường tháng 9/1945, Người
viết “…nhưng các cháu, ngoài giờ học ở trường, cũng nên tham gia vào các
Hội cứu quốc để tập luyện thêm cho quen với đời sống chiến sĩ và để giúp đỡ
một vài việc nhẹ nhàng trong cuộc giữ gìn đất nước” [21]. Đối với Bác, từ khi
còn là thầy giáo Nguyễn Tất Thành dạy học ở trường Dục Thanh Phan
Thiết(1909 - 1910). Bác đã thực hiện HĐGDNGLL để lại nhiều ấn tượng sâu

sắc, tốt đẹp trong học sinh “Bác thường đưa học sinh đi ngoại khóa ở dọc bờ
sông hay bờ biển. Những lần đi chơi như vậy bác thường giảng về địa lý, lịch
sử đất nước cho học sinh nghe.
Trong “Thư gửi hội nghị các cán bộ phụ trách nhi đồng toàn quốc”, Hồ
Chủ Tịch lại nhắc tới một khía cạnh khác của nội hàm khái niệm khi Người viết:
“trong lúc học, cũng cần làm cho chúng vui, trong lúc vui cũng cần làm cho
chúng học. Ở trong nhà, trong trường, trong xã hội chúng đều vui, đều học” [21]
Tháng 7/1950 Hội đồng chính phủ thông qua đề án cải cách giáo dục
lần thứ nhất. Mục tiêu đào tạo của nhà trường trong giai đoạn này là giáo dục
bồi dưỡng thế hệ trẻ thành người lao động tương lai, trung thành với chế độ
9


dân chủ nhân dân có đủ phẩm chất và năng lực phục vụ nhân dân. Với quan
điểm đào tạo thế hệ trẻ có đủ phẩm chất và năng lực đã thể hiện quan điểm
giáo dục toàn diện của nhà nước ta.
Tháng 5/1956, Chính phủ thông qua đề án cải cách giáo dục lần thứ hai
và giao cho Bộ giáo dục triển khai đề án đó. Mục tiêu giáo dục được xác định
là: Đào tạo bồi dưỡng thế hệ trẻ trở thành những người phát triển về mọi mặt,
những công dân tốt, trung thành với Tổ quốc, những người lao động tốt, có
tài, có đức để phát triển chế độ dân chủ nhân dân tiến lên xây dựng chủ ngĩa
xã hội ở nước ta, đồng thời thực hiện thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập
và dân chủ.
b. Giai đoạn từ cuộc cải cách giáo dục lần 3 tới nay (từ năm học 1979 1980): Nghị quyết 14/TƯ ngày 11/1/1979 của Bộ Chính trị về cải cách giáo dục
đã khẳng định: “Nội dung giáo dục ở trường phổ thông trung học mang tính chất
toàn diện và kĩ thuật tổng hợp, nhưng có chú ý hơn đến việc phát huy sở trường
và năng khiếu cá nhân…Ở trường phổ thông trung học, cần coi trọng giáo dục
thẩm mĩ (âm nhạc, mĩ thuật…), giáo dục và rèn luyện thể chất, hoạt động văn
hoá nghệ thuật, thể dục thể thao và luyện tập quân sự”. Để đáp ứng yêu cầu cải
cách giáo dục, đã có nhiều nghiên cứu xung quanh việc xác định khái niệm “hoạt

động giáo dục ngoài giờ lên lớp”, cũng như những nghiên cứu nhằm tổ chức có
chất lượng HĐGDNGLL trong nhà trường.
Tác giả Hà Nhật Thăng, sau khi lấy ý kiến chuyên gia và hội thảo ở các
địa phương đã dự thảo chương trình khung “Tổ chức HĐGDNGLL ở trường
THCS” vào năm 1998.
Qua nghiên cứu của nhóm cán bộ gồm Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Đăng
Thìn, Lê Thanh Sử, Nguyễn Thị Kỷ về HĐGDNGLL ở trường THCS, nhóm
đã điểm qua về vị trí, nhiệm vụ của HĐGDNGLL, các hình thức và con
đường chủ yếu thực hiện HĐGDNGLL ở trường THCS. Đặc biệt đã giới
thiệu quy trình chung của việc tổ chức HĐGDNGLL và một số hình thức hoạt
động mẫu.
10


Qua tài liệu bồi dưỡng giáo viên về HĐGDNGLL, nhóm tác giả
Nguyễn Dục Quang, Trần Quốc Thành, Lê Thanh Sử đã nêu được mục tiêu,
nội dung và phương pháp tổ chức HĐGDNGLL.
Các công trình nghiên cứu trên đã đi sâu nghiên cứu cơ bản về HĐGD
NGLL, nghiên cứu thực nghiệm, tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm xây
dựng quy trình tổ chức và đổi mới nội dung phương pháp HĐGDNGLL.
Nhiều công trình nghiên cứu, luận văn, luận án khác đã đề cập đến việc dàn
dựng chương trình hoạt động ngoài giờ lên lớp theo những cách nhìn khác
nhau tùy theo những yêu cầu về nội dung và đề tài cũng như địa điểm cụ thể
mà họ đã tìm hiểu và nghiên cứu. Mặc dù vậy vẫn chưa thấy ai đi sâu quan
tâm đến chi tiết là sẽ đưa một nội dung cụ thể vào chương trình ngoài giờ lên
lớp một cách bài bản và có hệ thống.
Tất cả những nghiên cứu trên sẽ là tài liệu hữu ích cho chúng tôi trong
quá trình thực hiện luận văn này.
1.2. Một số khái niệm công cụ của đề tài
1.2.1. Giáo dục

Cuộc sống con người là một dòng hoạt động. Con người là chủ thể của
các hoạt động thay thế nhau. Trong đó hoạt động là quá trình con người thực
hiện các quan hệ của mình với thế giới tự nhiên, xã hội, người khác và bản
thân. Hoạt động là phương thức tồn tại của con người, là nhân tố quyết định
trực tiếp sự hình thành và phát triển nhân cách. Hoạt động của con người là
hoạt động có mục đích, mang tính xã hội, được thực hiện bằng những thao tác
nhất định với công cụ nhất định. Thông qua hai quá trình đối tượng hóa và
chủ thể hóa trong hoạt động mà nhân cách được bộc lộ và hình thành.
Sự hình thành và phát triển tâm lí, ý thức, nhân cách gắn chặt với hoạt
động của con người. Muốn hình thành và phát triển nhân cách con người phải
tham gia vào các dạng hoạt động khác nhau phải gia nhập vào các mối quan
hệ xã hội bởi sự tham gia của các cá nhân vào các hoạt động toàn diện là điều
kiện cho sự phát triển toàn diện của con người với tư cách là một nhân cách.
Hoạt động giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với sự hình thành và phát triển
nhân cách.
11


Theo Giáo dục học đại cương giáo dục được hiểu theo hai nghĩa:
- Giáo dục (nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho người được giáo dục
lí tưởng, động cơ, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành
vi, thói quen cư xử đúng đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các
hoạt động và giao lưu.
- Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình tác động có mục đích, có tổ
chức, có kế hoạch, có nội dung, và bằng phương pháp khoa học của nhà giáo
dục tới người được giáo dục trong các cơ quan giáo dục nhằm hình thành
nhân cách cho họ. [25]
Như vậy, hoạt động giáo dục (HĐGD) là hoạt động do người lớn tổ
chức theo kế hoạch, chương trình, điều hành và chịu trách nhiệm. HĐGD cơ
bản của xã hội được thực hiện bởi nhà trường và trong nhà trường.

Theo điều lệ trường trung học, HĐGD trong trường trung học bao gồm:
- HĐGD trên lớp được tiến hành thông qua việc dạy học các môn học
bắt buộc và tự chọn theo quy định trong chương trình giáo dục THCS, THPT
do Bộ GD&ĐT ban hành.
- hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp (HĐGDNGLL) do nhà trường
phối hợp với các lực lượng giáo dục ngoài nhà trường tổ chức bao gồm hoạt
động ngoại khóa về khoa học, văn hóa nghệ thuật, thể dục thể thao, nhằm phát
triển năng lực toàn diện của học sinh và bồi dưỡng học sinh có năng khiếu,
các hoạt động vui chơi, tham quan du lịch, giao lưu văn hóa, các hoạt động
giáo dục môi trường … phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi học
sinh. HĐGD trên lớp và HĐGDNGLL là 2 bộ phận hữu cơ hợp thành một thể
thống nhất trong quá trình giáo dục học sinh nhằm đạt được mục tiêu giáo dục
ở trường trung học. [3]
Để HĐGD có hiệu quả, việc tổ chức các HĐGD trong nhà trường phải
chú ý những vấn đề cơ bản sau:
- Cơ cấu các HĐGD trong nhà trường cần được xác định theo mục tiêu
giáo dục mà trước hết nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội và nhu cầu phát triển con
người nhưng không thể đi quá xa so với các hoạt động cơ bản của học sinh.
Xét cho cùng HĐGD chỉ là một trong rất nhiều hoạt động của học sinh.
12


- Các HĐGD tạo môi trường cho hoạt động của học sinh và chính
những hoạt động của học sinh quyết định sự phát triển nhân cách của mỗi cá
nhân. Vì thế các HĐGD phải dựa vào hoạt động của học sinh, mặt khác hoạt
động của học sinh phải được định hướng bởi các HĐGD. Hoạt động giáo dục
và hoạt động của học sinh không thể thay thế cho nhau. Do vậy tất cả các
HĐGD với các hình thức khác nhau trong và ngoài nhà trường cần phải hoạch
định sao cho phát huy tốt nhất những hoạt động cơ bản của học sinh tập trung
ưu tiên và đẩy mạnh những hoạt động này.

- Các HĐGD thường hướng vào các mặt giáo dục tương ứng. Vì vậy
trong nhà trường có bao nhiêu mặt giáo dục thì sẽ có bấy nhiêu HĐGD. Tuy
nhiên các HĐGD này đều dựa trên nền tảng dạy học, có hoạt động dạy học thì
tất yếu có HĐGD.
1.2.2. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
Các nghiên cứu ở nước ngoài đã đưa ra các kết quả của hoạt động giáo
dục ngoài giờ lên lớp với tên gọi là “công tác ngoài lớp học” và đã đưa ra mục
đích, vai trò của HĐGDNGLL. Các tác giả cũng đã khẳng định vai trò của
giáo viên chủ nhiệm trong tổ chức các HĐGDNGLL, trong việc phối hợp các
tổ chức Đoàn, Đội để tổ chức các hoạt động này.
Như vậy, các tác giả đã đưa ra nhiều ý kiến xung quanh vấn đề tổ chức
HĐGDNGLL cho học sinh. T.A.Ilina trong Giáo dục học, tập 3 đã đề cập
nhiều đến công tác này như sau: “Công tác giáo dục học sinh ngoài giờ học
được gọi là công tác ngoại khóa. Nó bổ sung và làm sâu thêm công tác giáo
dục nội khóa.. Nó là phương tiện để phát hiện đầy đủ tài năng và năng lực
của các em, làm thức tỉnh hứng thú và thiên hướng của học sinh đối với một
hoạt động nào đó.” [28]
* Ở Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã chính thức đưa
HĐGDNGLL vào kế hoạch dạy học và giáo dục của nhà trường với một vị trí
quan trọng như một môn học, có chương trình và sách giáo khoa. Lần đầu
13


tiên, chương trình chính thức HĐGDNGLL ở trường THCS được ban hành
theo quyết định số 03/2002/ QĐ – BGD&ĐT ngày 24/01/2002 của Bộ trưởng
Bộ Giáo dục và Đào tạo. Gần đây. Bộ đã cho ban hành chương trình Giáo dục
phổ thông HĐGDNGLL từ lớp 6 đến lớp 12 (ban hành theo số 16/2006/ QĐ –
Bộ GD&ĐT ngày 05/05/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo).
Về khái niệm HĐGDNGLL, các tác giả đưa ra các ý kiến:
- Theo tác giả Đặng Vũ Hoạt, HĐGDNGLL là việc tổ chức giáo dục

thông qua hoạt động thực tiễn của học sinh về khoa học, kĩ thuật, lao động
công ích, hoạt động xã hội, hoạt động nhân đạo, văn hóa nghệ thuật, thẩm
mỹ, thể dục thể thao, vui chơi giải trí… để giúp các em hình thành và phát
triển nhân cách. [12]
- Trong chương trình THCS về HĐGDNGLL, các tác giả đưa ra các
khái niệm: Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp là những hoạt động được tổ
chức ngoài giờ học của các môn học ở trên lớp. HĐGDNGLL là sự tiếp nối
hoạt động dạy và học trên lớp, là con đường gắn lý thuyết và thực tiễn, tại
nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động của học sinh. [2]
Như vậy, HĐGDNGLL là sự tiếp nối hoạt động văn hoá, bằng hình
thức sinh hoạt hấp dẫn với nội dung phong phú góp phần củng cố, khắc sâu
kiến thức, rèn luyện kỹ năng, bồi dưỡng tình cảm, xây dựng ý thức độc lập,
tinh thần tự chủ, phát triển tình đoàn kết của HS. HĐGDNGLL còn là một
hoạt động phù hợp với nhu cầu của các em như: vui chơi, giải trí, văn hoá văn
nghệ, thể dục thể thao…
Từ các ý kiến đã nêu trên, chúng tôi cho rằng: HĐGDNGLL là các
hoạt động được tổ chức ngoài giờ học các môn học ở trên lớp. HĐGDNGLL
là sự tiếp nối, bổ sung, hỗ trợ hoạt động dạy học trên lớp, là con đường gắn lí
thuyết với thực tiễn, tạo nên sự thống nhất giữa nhận thức và hành động, góp
phần hình thành tình cảm, niềm tin đúng đắn ở HS.
14


1.2.3. Văn hóa truyền thống dân tộc Thái
∗ Văn hóa
Trong nghiên cứu về văn hóa nhiều học giả cho rằng văn hóa (hiểu theo
nghĩa rộng) nói chung bao gồm tất cả những giá trị vật chất và tinh thần. Theo
nghĩa rộng nhất của nó, văn hóa bao gồm những sáng tạo về vật chất và tinh
thần của con người trong quá trình cải tạo hiện thực khách quan. Những tri
thức, các kết quả của hoạt động cải tạo xã hội và tự nhiên là thành phần của

văn hóa. Văn hóa không tự hạn chế vào một số biểu hiện của đời sống tinh
thần. Nó là toàn bộ cuộc sống; cả vật chất, tinh thần của từng cộng đồng
người. Như vậy, có thể khẳng định rằng: tất cả những gì không phải là thiên
nhiên đều là văn hóa.
Văn hóa tinh thần cũng được hiểu theo hai nghĩa cơ bản rộng và
hẹp. Theo nghĩa rộng, văn hóa được hiểu là toàn bộ những giá trị, những
hoạt động tinh thần của con người. Taylor cho rằng “Văn hóa hiểu theo
nghĩa rộng nhất của nó là toàn bộ phức thể bao gồm hiểu biết, tín ngưỡng,
nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, phong tục và những khả năng và tập quán
khác mà con người có được với tư cách là một thành viên của xã hội”.
Tiêu biểu cho cách hiểu này là A.K Vlêđốp: “Việc coi văn hóa tinh thần
chỉ là tổng hợp những giá trị tinh thần là phiến diện. Văn hóa tinh thần
như là sự hoạt động sáng tạo tích cực của con người, như là sự sản xuất
cất giữ và sử dụng những giá trị tinh thần”.
Theo nghĩa hẹp, các tác giả cho rằng văn hóa tinh thần là những dấu ấn
tinh thần, những giá trị tinh thần đặc thù của một quốc gia dân tộc nhằm phân
biệt dân tộc này với dân tộc khác. Tiêu biểu cho cách hiểu này là khái niệm
văn hóa của UNESCO được thừa nhận rộng rãi: Văn hóa là “tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo của con người đã diễn ra trong quá khứ cũng như
đang diễn ra trong hiện tại. Qua hàng thế kỷ các hoạt động sáng tạo ấy đã cấu
thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống thị hiếu thẩm mỹ và lối sống
mà dựa trên đó từng dân tộc khẳng định bản sắc riêng của mình” [18, 5]
15


Văn hóa là một hệ thống hữu cơ những giá trị vật chất và tinh thần do
con người, loài người sáng tạo, tích lũy thông qua hoạt động thực tiễn trong
suốt quá trình lịch sử của mình. Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên
và văn hóa là sản phẩm đặc sắc nhất của con người. Có thể nói văn hóa là sự
hóa thân của đời sống, nó thấm vào mọi lĩnh vực hoạt động của con người, nó

xuyên suốt cơ thể xã hội, nó biểu hiện trình độ người, trình độ xã hội, văn
minh quốc gia, văn minh nhân loại.
∗ Truyền thống
Truyền thống vốn là một từ Hán - Việt. Theo Từ điển Hán - Việt của Đào
Duy Anh "Truyền thống: đời nọ truyền xuống đời kia". Trong từ điển tiếng Việt
phổ thông truyền thống được định nghĩa là "thói quen hình thành từ lâu đời trong
lối sống và nếp nghĩ, được truyền lại từ thế hệ này qua thế hệ khác".
Theo quan niệm của các nước phương Tây, Truyền thống (Tradition)
có nghĩa là "giao", "chuyển giao". Bách khoa thư Pháp định nghĩa "Truyền
thống là tất cả những gì người ta biết và thực hành bằng sự chuyển giao từ thế
hệ này đến thế hệ khác, thường là truyền miệng, hay bằng sự bảo tồn và noi
theo những tập quán, những cách ứng xử, những mẫu hình và tấm gương".
Như vậy, có thể hiểu "truyền thống" như là một hệ thống các tính cách,
các thế ứng xử của một cộng đồng, được hình thành trong lịch sử, trong môi
trường sinh thái và nhân văn nhất định, trở nên ổn định, trường tồn nhưng
không vĩnh cửu, có thể được định chế hóa bằng luật hay bằng lệ (phong tục
tập quán) và được trao truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Có thể gọi là sự
di truyền văn hóa bên cạnh sự di truyền sinh vật về thể xác - để đảm bảo tính
thống nhất của một cộng đồng trong lịch sử. Mọi sự phát triển đều xuất phát
từ truyền thống, con người từ khi sinh ra trong một gia đình, một xã hội đã bị
chi phối bởi truyền thống và các hiện tượng văn hóa cũng vậy. Tuy nhiên mọi
vấn đề đều có tính hai mặt, truyền thống cũng vậy. Truyền thống nào cũng có
truyền thống phù hợp và truyền thống không phù hợp. Truyền thống có thể
thúc đẩy sự phát triển nhưng mặt khác nó cũng có thể cản trở sự phát triển.
16


Truyền thống mang tính cộng đồng. Truyền thống được chuyên chở, lưu giữ
trong ký ức và từ đó điều khiển hành động của cá nhân. Nhiều khi nó trở
thành vô thức, con người cứ hành động theo các quy định. Truyền thống có

thể thay đổi, nhưng trong sự ổn định.
∗ Văn hóa truyền thống
Mỗi dân tộc dù ở trình độ văn minh cao hay thấp đều có những văn hóa
truyền thống đặc trưng riêng của mình. Hệ thống giá trị đó chính là sự kết tinh
tất cả những gì tốt đẹp nhất được chắt lọc qua nhiều thời đại lịch sử để tạo nên
bản sắc riêng của một dân tộc. Giá trị văn hóa truyền thống đó được truyền lại
cho thế hệ sau và trở thành một động lực nội sinh để phát triển đất nước.
Một khái niệm Vậy, văn hóa truyền thống là gì? Theo tác giả Trần Văn
Giàu: “Giá trị truyền thống được hiểu là những cái tốt, bởi vì những cái tốt mới
được gọi là giá trị. Thậm chí không phải bất cứ cái gì tốt đều được gọi là giá trị;
mà phải là cái tốt cơ bản, phổ biến, có nhiều tác dụng tích cực cho đạo đức, cho sự
hướng dẫn nhận định, đánh giá và dẫn dắt hành động của một dân tộc thì mới
mang đầy đủ ý nghĩa của khái niệm “giá trị truyền thống”. Theo tác giả Trần
Ngọc Thêm cho rằng: “Truyền thống văn hóa là những giá trị tương đối ổn định
(những kinh nghiệm tập thể) thể hiện dưới những khuôn mẫu xã hội được tích lũy
và tái tạo trong cộng đồng người qua không gian và được cố định hóa dưới dạng
những phong tục tập quán, nghi lễ, luật pháp, dư luận…” [32, 26].
khác: “Nền văn hóa được truyền lại được gọi là truyền thống văn hóa.
Như vậy, nó phản ánh được những thành tựu con người, tích tập được trong
quá trình tìm hiểu, thực hiện và truyền bá ý nghĩa sâu lắng nhất của cuộc
sống. Đó chính là truyền thống theo nghĩa hài hòa của nó như là một hiện
thân của trí tuệ” [7, 19].
Theo tác giả Trần Nguyên Việt thì: “truyền thống là một bộ phận tương
đối ổn định của ý thức xã hội, được lặp đi lặp lại trong suốt tiến trình hình
thành và phát triển của các nền văn hóa tinh thần và vật chất, là một giá trị
nhất định đối với từng nhóm người, từng giai cấp, cộng đồng và xã hội nói
chung” [7, 113].
17



∗ Dân tộc Thái
Việt Nam là một nước giàu truyền thống văn hóa với 54 tộc người cùng
chung sống. Tính đa dạng về văn hóa tộc người thể hiện trên bình diện văn
hóa các nhóm ngôn ngữ - tộc người, và văn hóa các nhóm địa phương của
mỗi tộc người. Như Việt - Mường, Tày - Thái, Môn - Khơme, Nam Đảo,
Mông - Dao, Tạng - Miến, Hoa... Mỗi tộc người lại gồm nhiều nhóm địa
phương với sắc thái văn hóa phong phú. Cái sắc thái văn hóa tộc người ấy đan
kết, thâm nhập, tiếp biến giữa nhân tố bản địa và ngoại lai, tạo nên bức tranh
đa sắc của văn hóa Việt Nam.
Ở Việt Nam dân tộc Thái có trên 1 triệu người (đông thứ 3 sau người
Kinh và người Tày) sinh sống chủ yếu tại các tỉnh Lai Châu, Điện Biên, Sơn
La, Hòa Bình, Yên Bái, Nghệ An, Thanh Hóa và sinh sống rải rác ở một số
tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên do di dịch cư. Dân tộc Thái còn có
những tên gọi khác là Táy và có các nhóm Táy Đăm, Táy Khao, Táy Mười,
Táy Thanh, Hàng Tổng, Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Tiếng Thái thuộc hệ ngôn ngữ
Tày – Thái.
∗ Văn hóa truyền thống dân tộc Thái
Văn hóa truyền thống dân tộc Thái rất đa dạng và phong phú. Trong
phạm vi nghiên cứu vấn đề đưa giáo dục văn hóa truyền thống dân tộc Thái
trong nhà trường phổ thông, chỉ tập trung vào những giá trị truyền thống văn
hóa tinh thần tiêu biểu, cốt lõi của dân tộc Thái, phù hợp với lứa tuổi, cấp học
của các em, đồng thời nhằm phát huy vai trò của truyền thống đối với xây
dựng nhân cách văn hóa vị thành niên trong cuộc sống và yêu cầu phát triển
của đất nước hiện nay.
1.2.4. Một số đặc điểm tâm sinh lí của học sinh THCS
Lứa tuổi học sinh THCS bao gồm những em bao gồm những em từ
11,12 tuổi đến 14,15 tuổi, đang theo học từ lớp 6 đến lớp 9 trường THCS.
Trên thực tế đa số các em học sinh THCS đã bước vào lứa tuổi thiếu niện nên
người ta gọi lứa tuổi này là lứa tuổi thiếu niên.
18



Thời kì này có một vị trí hết sức quan trọng và đặc biệt, vì đặc biệt là
thời kì chuyển từ cuối nhi đồng sang lứa tuổi thiếu niên. Sự chuyển tiếp này
tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt đặc thù về mọi mặt ở thời kỳ này,
được biểu hiện như sau:
* Sự biến đổi về mặt giải phẫu sinh lí ở lứa tuổi THCS.
Đây là lứa tuổi phát triển mạnh mẽ nhưng không đều về mặt cơ thể.
Tầm vóc của các em lớn lên trông thấy. Sự phát triển của hệ xương mà chủ
yếu là sự phát triển của các xương tay, xương chân rất nhanh nhưng ương
ngón tay, ngón chân phát triển chậm. Vì thế ở lứa tuổi này các em không mập
béo, mà cao, gầy và thiếu cân đối, các em có vẻ long ngóng, vụng về của
mình mà cố gắng che giấu nó bằng điệu bộ không tự nhiên, cầu kì, tỏ ra mạnh
bạo, can đảm để người khác không chú ý tới vẻ bề ngoài của mình.
Sự phát triển của hệ tim mạch cũng không cân đối; tuyến nội tiết bắt đầu
hoạt động hoạt động mạnh, thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh.
Do đó, các em dễ xúc động, dễ bực tức.. Hệ thần kinh của lứa tuổi này còn chưa
có khả năng chịu kích thích mạnh, đơn điệu, kéo dài dễ gây cho các em tình
trạng bị ức chế hay ngược lại, xảy ra tình trạng bị kích động mạnh.
Tóm lại, sự thay đổi về thể chất của lứa tuổi này đã làm cho các em có
những đặc điểm nhân cách khác nhau với các em ở lứa tuổi trước. Lứa tuổi
này là lứa tuổi có nghị lực dồi dào, có tính tích cực cao có, có nhiều dự định
lớn lao.
* Sự phát triển trí tuệ của học sinh THCS.
Lứa tuổi này có khả năng phân tích, tổng hợp phức tạp hơn khi tri giác
các sự vật, hiện tượng. Khối lượng tri giác tăng lên, tri giác trở nên có kế
hoạch, có trình tự hoàn thiện hơn.
Hoạt động tư duy của lứa tuổi này có những biến đổi cơ bản. Do nội
dung các môn học phong phú, đa dạng, phức tạp đòi hỏi tính chất mới mẻ của
việc lĩnh hội tri thức, đòi hỏi phải dựa vào tư duy độc lập, khả năng khái quát

hóa, trừu tượng hóa, so sánh, phán đoán mới rút ra được kết luận, mới hiểu
được tài liệu học. Vì thế tư duy của học sinh THCS đã phát triển ở mức cao.
19


* Hoạt động giao tiếp của lứa tuổi THCS.
Lứa tuổi này có nhu cầu mở rộng quan hệ với người lớn và mong muốn
người lớn quan hệ với nó một cách bình đẳng như người lớn, không muốn
người lớn coi nó như trẻ con trước đây nữa.
Sự nảy sinh ở lứa tuổi này là cảm giác về sự trưởng thành và nhu cầu
được người lớn thừa nhận nó là người lớn đã đứa đến vấn đề quyền hạn của
người lớn và các em trong quan hệ với nhau.
Như vậy việc chuyển tiếp từ kiểu quan hệ giữa người lớn và trẻ em,
sang kiểu quan hệ mới về chất (đặc thù cho sự giao tiếp học sinh THCS với
người lớn), tạo điều kiện phát triển mức độ trưởng thành ở lứa tuổi này.
Sự giao tiếp giữa các em đã vượt qua ngoài phạm vi nhà trường, mà
còn mở rộng trong những hứng thú mới, những việc làm mới, những quan hệ
mới trong đời sống của các em, các em có nhu cầu lớn trong giao tiếp với bạn
bè, Vì vậy, ở lứa tuổi này hoạt động giao tiếp với bạn bè đã trở thành hoạt
động chủ đạo đứng sau hoạt động học tập. Do đó, giáo dục đạo đức cho học
sinh ở lứa tuổi này cần lưu ý đến những nhóm bạn bè mà học sinh tham gia.
Tóm lại, sự giao tiếp ở lứa tuổi học sinh THCS là một hoạt động đặc
biệt. Nhờ hoạt động giao tiếp mà các em nhận thức được người khác và bản
thân mifnhh; đồng thời qua đó làm phát triển một số kĩ năng như năng so
sánh, phân tích, khái quát hành vi của bản thân và của bạn, làm phong phú
thêm những biểu tượng về nhân cách của bạn và của bản thân.
* Sự phát triển nhân cách của học sinh THCS.
Sự hình thành tự ý thức
Ở lứa tuổi này, đặc điểm quan trọng về tự ý thức của lứa tuổi này là sự
mâu thuẫn giữa nhu cầu tìm hiểu bản thân với kĩ năng chưa đầy đủ để phân

tích đúng đắn sự biểu lộ của nhân cách.
Ý nghĩa quyết định nhất để phát triển tự ý thức ở lứa tuôi này là cuộc
sống tập thể của các em, nơi mà nhiều mối quan hệ giá trị đúng đắn, mối quan
20


hệ này sẽ hình thành ở các em lòng tự tin vào sự tự đánh giá của mình, nhưng
là những yêu cầu ngày càng cao đối với hành vi, hoạt động của các em,
nguyện vọng tìm kiếm một vị trí trong hệ thống những mối quan hệ xã hội
đứng đắn đối với các em, cũng đồng thời giúp cho sự phát triển về mặt tự ý
thức của các em.
Sự hình thành tình cảm
Tình cảm của lứa tuổi này có một đặc điểm nổi bật là dễ xúc động, dễ
bị kích động, tình cảm còn mang tính chất bồng bột. Nhiều khi do hoạt động
thần kinh không cân bằng, thường quá trình hưng phấn mạnh hơn quá trình ức
chế mà khiến các em không thể kiềm chế nổi.
Ở lứa tuổi này, đã bắt đầu xuất hiện sự quan tâm đến bản thân, đến
những phẩm chất nhân cách của mình. Ở các em đã biểu hiện nhu cầu tự đánh
giá, nhu cầu so sánh mình với người khác. Các em đã bắt đầu xem xét mình,
vạch cho mình một nhân cách tương lai, muốn hiểu biết về mặt mạnh, mặt
yếu trong nhân cách của mình.
Sự bắt đầu hình thành và phát triển tự ý thức đã gây ra nhiều ấn
tượng sâu sắc đến toàn bộ đời sống tâm lý của lứa tuổi này, đến hoạt động
học tập, đến sự hình thành mối quan hệ qua lại mọi người. Sự tự ts thức
của lứa tuổi này bắt đầu từ sự nhận thức hành vi của mình. Lúc đầu các
em tự nhận thức được những hành vi riêng lẻ, sau đó là toàn bộ hành vi
của mình. Cuối cùng là các em nhận thức về những phẩm chất đạo đức,
tính cách và khả năng của mình.
Tóm lại, học sinh THCS là lứa tuổi đang hình thành nhân cách, lứa tuổi
rất thích hoạt động nhưng nhận thức và khả năng còn hạn chế. Đây là yếu tố

chi phối việc giáo dục Đạo đức cho học sinh THCS. Xét cho cùng, kết quả
giáo dục nói chung và giáo dục đạo đức nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào việc
tiếp nhận của đối tượng giáo dục. Dù chủ thể giáo dục có tích cực đến đâu mà
đối tượng giáo dục không tiếp nhận thì quá trình giáo dục không có hiệu quả.
21


1.3. Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THCS
1.3.1. Khái niệm HĐGD ngoài giờ lên lớp ở trường THCS.
HĐGDNGLL là một bộ phận của quá trình giáo dục ở nhà trường phổ
thông nói chung và trường THCS nói riêng. Đó là những hoạt động được tổ
chức ngoài giờ học các môn văn hóa trên lớp, HĐGDNGLL là sự tiếp nối
hoạt động dạy học trên lớp và là con đường gắn lí thuyết với thực tiễn, tạo
nên sự thống nhất giữa nhận thức với hành động, góp phần hình thành tình
cảm, niềm tin đúng đắn ở học sinh. HĐGDNGLL góp phần quan trọng vào sự
hình thành và phát triển nhân cách cho các em.
1.3.2. Vai trò của HĐGD ngoài giờ lên lớp đối với giáo dục nhân
cách học sinh THCS
HĐGDNGLL là điều kiện tốt nhất để học sinh phát huy vai trò chủ thể
và tính tích cực, chủ động của các em trong quá trình học tập và rèn luyện.
HĐGDNGLL vừa củng cố, bổ sung, mở rộng kiến thức đã học, vừa phát triển
các kĩ năng sống cơ bản cho học sinh để phù hợp với yêu cầu, mục tiêu của
giáo dục và đòi hỏi của xã hội. Mặt khác HĐGDNGLL còn thu hút và phát
huy tiềm năng của các lực lượng giáo dục, góp phần quan trọng trong công
việc nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện của nhà trường
Với vị trí và vai trò như vậy, HĐGDNGLL thực sự là một bộ phận
hữu cơ của hệ thống hoạt động giáo dục ở trường THCS, HĐGDNGLL
cùng với hoạt động dạy học trên lớp là một quá tr ình gắn bó thống nhất
nhằm thực hiện mục tiêu đào tạo của cấp học. Dưới sự cố vấn, giúp đỡ
của giáo viên, học sinh cùng nhau tổ chức các hoạt động tập thể khác

nhau trong đời sống hàng ngày ở nhà trường, ngoài xã hội. Từ đó giúp
hình thành những kinh nghiệm giao tiếp, ứng xử có văn hóa, giúp cho việc
hình thành và phát triển nhân cách ở các em

22


1.3.3. Mục tiêu của hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường THCS.
Mục tiêu của HĐGDNGLL ở trường THCS nhằm:
Củng cố và khắc sâu những kiến thức của các môn học; mở rộng và
nâng cao hiểu biết cho học sinh về các lĩnh vực của đời sống xã hội; làm
phong phú them vốn tri thức; kinh nghiệm hoạt động tập thể của học sinh.
Rèn luyện cho học sinh các kĩ năng cơ bản phù hợp với lứa tuổi THCS
như: kĩ năng giao tiếp ứng xử có văn hóa; kĩ năng tổ chức quản lí và tham gia
các hoạt động tập thể với tư cách là chủ thể của hoạt động; kĩ năng tự kiểm
tra, đánh giá kết quả học tập, rèn luyện, củng cố, phát triển các hành vi, thói
quen tốt trong học tập, lao động và công tác xã hội.
Bồi dưỡng thái độ tự giác, tích cực tham gia các hoạt động tập thể và hoạt
động xã hội; hình thành tình cảm, niềm tin trong cuộc sống, với quê hương đất
nước, có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng tự nhiên và xã hội.
Như vậy, HĐGDNGLL phải nhằm đạt được ba mục tiêu trên, sao cho
học sinh thực sự trở thành chủ thể tích cực, sáng tạo, hướng tới việc phát huy
và phát triển tiềm năng của các em.
1.3.4. Nguyên tắc tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở
trường THCS
Để đạt được chất lượng và hiệu quả giáo dục mong muốn, nhà trường
cần phải tuân thủ một số nguyên tắc tổ chức hoạt động giáo dục ngoài giờ lên
lớp sau đây:
Nguyên tắc về tính mục đích, tính kế hoạch
- Tính mục đích: Bất cứ hoạt động giáo dục nào cũng phải đạt được

những mục đích nhất định, tuy nhiên thực tiễn giáo dục trong nhà trường cho
thấy, mục tiêu giáo dục của các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp thường
bị che lấp bởi những tiêu chí mang tính thi đua, phong trào như nhà trường sẽ
có giải vàng về điền kinh trong Hội khỏe Phù đổng cấp tỉnh, giải thi tìm hiểu
Luật giao thông đường bộ…Vì vậy, nhà trường phải xác định mục đích của
hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp cho cả năm học, từng học kì, từng hoạt
động; trong đó cần định hướng tính đa dạng của mục tiêu giáo dục nhằm thực
hiện mục tiêu giáo dục toàn diện.
23


- Tính kế hoạch: kế hoạch sẽ định hướng và giúp cho việc tổ chức hoạt
động có chất lượng và hiệu quả. Tính kế hoạch của hoạt động giáo dục ngoài
giờ lên lớp sẽ đảm bảo tính ổn định tương đối, tính hệ thống và tính hướng
đích, không gây sự hỗn loạn và tùy tiện trong tổ chức các hoạt động của nhà
trường. Trên cơ sở kế hoạch, nhà trường chủ động định hướng cách thức tổ
chức, dự tính các nguồn lực (con người, kinh phí, cơ sở vật chất, thời gian),
nội dung, hình thức cũng như qui mô hoạt động; sự chuẩn bị kế hoạch giáo
dục chu đáo sẽ đem lại chất lượng, hiệu quả giáo dục mà nhà trường và xã hội
mong muốn.
Nguyên tắc về tính tự nguyện, tự giác tham gia hoạt động
- Nếu học sinh bắt buộc phải học tập các môn học trên lớp thì các em
có quyền lựa chọn tham gia các hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp mà các
em ưa thích.
Nguyên tắc này đảm bảo học sinh có quyền lựa chọn tham gia các hoạt
động phù hợp với khả năng, hứng thú, sức khỏe và điều kiện cụ thể của bản
thân mỗi em; chỉ có như vậy, nhà trường – nhà giáo dục mới tạo được sự
hứng thú, tự giác và tích cực tham gia hoạt động, phát huy được thiên hướng,
khả năng của mỗi học sinh, trên cơ sở đó giúp nhà trường và gia đình hướng
nghiệp học sinh phù hợp nhất.

- Nguyên tắc này đòi hỏi nhà trường – các nhà giáo dục phải tổ chức
được nhiều
hoạt động phong phú, đa dạng; tổ chức và duy trì được nhiều nhóm
hoạt động với các chủ đề các khác nhau như các câu lạc bộ bộ môn, các đội
thể thao, đội văn nghệ…; các hoạt động giao lưu kết bạn trong và ngoài nhà
trường, hoạt động tham quan du lịch kết hợp học tập, các hoạt động văn nghệ,
thể thao, lao động công ích, từ thiện xã hội…Chỉ khi nhà trường tổ chức được
nhiều hoạt động phong phú, đa dạng thì học sinh mới có cơ hội được lựa chọn
tham gia loại hình hoạt động mà mình ưa thích, khi đó nguyên tắc đảm bảo
tính tự giác, tự nguyện tham gia hoạt động của học sinh mới trở thành hiện
thực. Thực hiện tốt nguyên tắc này sẽ góp phần nâng cao chất lượng giáo dục
trong nhà trường.
24


Nguyên tắc tính đến đặc điểm lứa tuổi và tính cá biệt của học sinh
Trong quá trình hình thành và phát triển nhân cách học sinh, mỗi lứa
tuổi có những đặc điểm tâm sinh lí khác nhau, cá biệt có một số ít học sinh có
những biểu hiện khác biệt trong quá trình phát triển. Nhà trường – giáo viên
phải hiểu những nét đặc trưng của sự phát triển này để tổ chức hoạt động có
nội dung và hình thức đáp ứng nhu cầu và phù hợp với khả năng của từng lứa
tuổi học sinh. Vì vậy, giáo viên cần thường xuyên theo dõi học sinh, phát hiện
những nét mới, những khả năng mới được hình thành ở các em để kịp thời đề
xuất và điều chỉnh nội dung và hình thức hoạt động cho phù hợp với sự phát
triển của các em trong từng giai đoạn của năm học, của cấp học.
Nguyên tắc kết hợp sự lãnh đạo sư phạm của thầy với tính tích cực,
độc lập và sáng tạo của học sinh
- Tính tích cực, độc lập và sáng tạo được coi là những tiêu chí đánh giá
khả năng tham gia hoạt động của học sinh, trình độ tự quản các hoạt động tập
thể của các em. Đặc biệt, đối với học sinh THCS, THPT thì nguyên tắc này

phải được quán triệt trong quá trình tổ chức hoạt động cho học sinh, phải
được thể hiện từ bước chuẩn bị hoạt động, đến bước tiến hành hoạt động cho
đến đánh giá kết quả hoạt động. Trong mỗi bước, học sinh phải thực sự phát
huy khả năng của mình, được bày tỏ ý kiến của mình cũng như những sáng
kiến nhằm giúp cho chính hoạt động của tập thể đạt hiệu quả.
- Ở lứa tuổi học sinh phổ thông, các em chưa có đủ kinh nghiệm sống,
kinh nghiệm tổ chức hoạt động; vì vậy, vai trò của thầy cô giáo là người định
hướng, gợi ý, dẫn dắt, giúp đỡ các em trong quá trình tổ chức hoạt động
nhưng không làm thay họ.
1.3.5. Nội dung chương trình HĐGD ngoài giờ lên lớp ở trường THCS
Ở nhà trường THCS có 3 nội dung cơ bản về HĐGDNGLL
*Giáo dục về nhận thức
Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp giúp học sinh bổ sung, củng cố và
hoàn thiện những kiến thức đã được học ở trên lớp (qua hình thức câu lạc bộ,
25


×