1
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Về tầm quan trọng của ĐĐ và GDĐĐ, từ xưa đến nay đã được nhiều
nhà GD, nhiều triết gia, nhiều học giả quan tâm và khẳng định: “ Đạo đức như
gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối, sức mạnh của con người, sức có
mạnh mới gánh được nặng và đi được xa”(Hồ Chí Minh). Đạo đức là cái gốc
trong nhân cách toàn diện của con người. Chính vì vậy GDĐĐ cho mọi người
là việc làm có tầm quan trọng đặc biệt và rất cần thiết, vì ĐĐ khơng tự có, nó
chỉ được hình thành qua con đường GD và tự GD [3]. Nhờ GDĐĐ, con người
trau dồi được những phẩm chất tốt và khơng ngừng hồn thiện bản thân mình.
Sinh thời, Hồ Chí Minh rất mực yêu thương, quan tâm đến việc rèn luyện, GD
thế hệ trẻ, Người đã dạy: Bây giờ phải học, học để yêu tổ quốc, yêu nhân dân,
yêu lao động, yêu khoa học, yêu đạo đức. GDĐĐ ở bậc Tiểu học là làm cho
nhân cách của HS phát triển về mặt ĐĐ, tạo cơ sở để trẻ ứng xử đúng đắn các
mối quan hệ của trẻ với người khác (gia đình, bạn bè, thầy cơ giáo, người lớn
tuổi và ít tuổi…) và với xã hội. GDĐĐ là để HS có được các phẩm chất ĐĐ
tốt đẹp và bền vững, có được bản lĩnh để ứng xử đúng trong các mối quan hệ
ĐĐ. Một nhà giáo dục học đã tổng kết: Làm hỏng một đồ bằng vàng có thể
làm lại, làm hỏng một viên ngọc quý có thể bỏ đi, nhưng làm hỏng một con
người là một tội lỗi [3]. Thực tiễn ĐĐ đã chứng minh người được rèn luyện
những phẩm chất ĐĐ tốt, có thể khơng trở thành nhân tài, nhưng nhất định sẽ
hữu ích trong cuộc sống. Người có tài nhưng thiếu đức, chẳng những khó
thành cơng trong cuộc sống mà có khi trở thành kẻ phá hoại.
Lý luận thì địi hỏi như vậy, thực tế cho thấy xu thế hội nhập toàn cầu
hiện nay, vấn đề bảo vệ mơi trường, vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa, vấn đề
GD nói chung, GDĐĐ nói riêng đang là mối quan tâm của các quốc gia. Hiện
nay, thực tiễn ĐĐ đầy biến động, những yếu tố tích cực và tiêu cực đan xen
2
đang từng ngày từng giờ tác động vào học đường. Một bộ phận phụ huynh lo
cơm áo gạo tiền mà quên đi việc chăm sóc GD con cái, phó thác trách nhiệm
cho nhà trường. Điều này tác động rất lớn đến suy nghĩ và lối sống của các
em. Trong việc thực hiện GD toàn diện nay, GDĐĐ cho HS là nhiệm vụ
chính trị hàng đầu của mỗi nhà trường. Với tầm quan trọng của ĐĐ và GDĐĐ
trong quá trình hình nhân cách HS; trước nguy cơ tấn công và xâm nhập của
tiêu cực, bạo lực và tệ nạn của xã hội vào nhà trường; trước yêu cầu cấp bách
của việc đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa chủ nghĩa, Luật giáo dục 2005
đã xác định mục tiêu của GD tiểu học là: “Giúp học sinh hình thành những cơ
sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mĩ và các kĩ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở ”
(Điều 27). Do đó, việc GDĐĐ cho HS là một việc làm cần thiết, quan trọng
phải được tiến hành cùng một lúc với việc dạy văn hoá nhằm trang bị cho HS
kiến thức, kinh nghiệm, thái độ đúng mực trong lựa chọn hành vi ứng xử phù
hợp với chuẩn mực ĐĐ của xã hội.
Thực trạng ở quận BT, việc GDĐĐ cho HS chủ yếu thông qua các tiết
Đạo đức. Với tình hình hiện nay, nội dung HĐNGLL chưa thực sự đáp ứng
u cầu thực tế, chương trình cịn đơn điệu. Lãnh đạo một số trường chưa có
biện pháp cụ thể, năng lực tổ chức hoạt động ngoài giờ của một số GV còn
hạn chế. Khá nhiều GV thường dành thời gian của HĐNGLL để ôn kiến thức,
kỹ năng, giải quyết các phần việc về lĩnh vực dạy học. Nhiều trường ít chú ý
đầu tư thời gian cho HĐNGLL bởi thường mất nhiều thời gian, nếu tổ chức
không tốt không những khơng mang lại lợi ích gì mà cịn ảnh hưởng chất
lượng hoạt động dạy và học trên lớp, tốn kém kinh phí mà khơng có nguồn tài
chính hỗ trợ, có quan điểm còn cho đây là họat động vui chơi nên khơng quan
trọng, khơng cần thiết. Nhìn chung, hoạt động NGLL vẫn còn chưa phát huy
3
được hết ý nghĩa thực chất của nó đối với việc nâng cao chất lượng GD toàn
diện, chưa thực sự được các cấp quản lý và GV đầu tư đúng nghĩa, trong toàn
ngành thực hiện chưa được đồng bộ thống nhất, chưa có chiều sâu.
Xuất phát từ lý luận và thực tiễn trên, để góp phần vào cơng tác GDĐĐ
cho HS trong giai đoạn hiện nay, và qua thực tiễn công tác quản lý và giảng
dạy HS ở trường tiểu học, tôi nhận thấy việc nắm rõ thực trạng và đề ra biện
pháp hiệu quả để quản lý hoạt động GDĐĐ cho HS thuộc khối tiểu học thông
qua các HĐNGLL là một nhiệm vụ hết sức quan trọng của người cán bộ QL
GD. Vì thế, chúng tơi chọn đề tài: “Một số giải pháp quản lý công tác giáo
dục đạo đức thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp cho học sinh các trường
tiểu học quận Bình Thạnh Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu.
2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất các giải pháp quản lý
công tác giáo dục đạo đức thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp cho học sinh
các trường tiểu học, quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
3. KHÁCH THỂ VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
3.1. Khách thể nghiên cứu
Vấn đề quản lý công tác giáo dục đạo đức thơng qua hoạt động ngồi giờ
lên lớp cho học sinh tiểu học.
3.2. Đối tượng nghiên cứu
Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức thơng qua hoạt động
ngồi giờ lên lớp cho học sinh các trường tiểu học ở quận Bình Thạnh, Thành
phố Hồ Chí Minh.
4. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Có thể nâng cao hiệu quả quản lý công tác giáo dục đạo đức thông qua
hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh các trường tiểu học quận Bình
4
Thạnh Thành phố Hồ Chí Minh, nếu đề xuất được các giải pháp có cơ sở
khoa học và có tính khả thi cao.
5. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
5.1. Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề quản lý công tác giáo dục đạo
đức thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp cho học sinh tiểu học.
5.2. Nghiên cứu cơ sở thực tiễn của vấn đề quản lý công tác giáo dục đạo
đức thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp cho học sinh các trường tiểu học ở
quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
5.3. Đề xuất các giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức thông qua
hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh các trường tiểu học ở quận Bình
Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
6. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Nhóm phương pháp nghiên cưu lý ḷn
́
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thơng tin lý luận để xây
dựng cơ sở lý luận của đề tài. Thuộc nhóm này có các phương pháp cụ thể sau
đây:
- Phương pháp phân tích - tổ ng hơ ̣p tài liêu;
̣
- Phương pháp khái quát hoá các nhận định độc lập.
6.2. Nhóm phương pháp nghiên cưu thực tiễn
́
Nhóm phương pháp này nhằm thu thập các thông tin thực tiễn để xây
dựng cơ sở thực tiễn của đề tài. Thuộc nhóm này có các phương pháp cụ thể
sau đây:
- Phương pháp điều tra;
- Phương pháp tổ ng kế t kinh nghiê ̣m giáo dục;
- Phương pháp nghiên cứu các sản phẩ m hoạt động;
- Phương pháp lấ y ý kiế n chuyên gia.
6.3. Phương pháp thố ng kê toán học
5
Để xử lý số liêu thu đươ ̣c thông qua việc sử dụng phần mềm SPSS.
̣
7. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN
7.1. Về mặt lý luận
Hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về quản lý giáo dục nói chung, quản lý
công tác giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh
các trường tiểu học nói riêng.
7.2. Về mặt thực tiễn
Đánh giá đầy đủ thực trạng quản lý công tác giáo dục đạo đức thơng qua
hoạt động ngồi giờ lên lớp cho học sinh các trường tiểu học ở quận Bình
Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh; từ đó đề xuất một số giải pháp quản lý công
tác giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh các
trường tiểu học ở quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh có cơ sở khoa
học và có tính khả thi.
8. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo
thì cấu trúc luận văn gồm 3 chương:
- Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề quản lý công tác giáo dục đạo đức
thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp cho học sinh tiểu học
- Chương 2: Cơ sở thực tiễn của vấn đề quản lý công tác giáo dục đạo đức
thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp cho học sinh các trường tiểu học ở
quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
- Chương 3: Một số giải pháp quản lý công tác giáo dục đạo đức thông
qua hoạt động ngoài giờ lên lớp cho học sinh các trường tiểu học ở quận Bình
Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh.
6
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ QUẢN LÝ
CÔNG TÁC GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC THƠNG QUA HOẠT ĐỘNG
NGỒI GIỜ LÊN LỚP CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Giáo dục đạo đức cho học sinh là vấn đề được các nhà nghiên cứu trên
thế giới quan tâm từ lâu. Đã có nhiều cơng trình đề cập đến vấn đề này, nhưng
GDĐĐ cho học sinh tiểu học thơng qua HĐNGLL đang cịn ít được quan
tâm trong các nghiên cứu ở nước ngoài, nhất là đối với lứa tuổi học sinh tiểu
học.
Ở trong nước, từ những năm 70 của thế kỉ XX, các nhà nghiên cứu của
Viện Khoa học giáo dục Việt Nam, Trường ĐHSP Hà Nội đã quan tâm
nghiên cứu về ĐĐ và GDĐĐ cho học sinh. Đó là các tác giả Hà Thế Ngữ,
Nguyễn Đức Minh, Đặng Vũ Hoạt, Hà Nhật Thăng, Phạm Khắc Chương…
Kết quả nghiên cứu của các tác giả nói trên là đã chỉ ra một cách có hệ thống
những vấn đề cơ bản của ĐĐ và GDĐĐ cho học sinh, như: Bản chất, chức
năng, nhiệm vụ của ĐĐ; Mục tiêu, nội dung, phương pháp, con đường GDĐĐ
cho học sinh…
Riêng vấn đề GDĐĐ cho học sinh tiểu học thông qua HĐNGLL cũng đã
thu hút được sự chú ý của một số tác giả.
Các tác giả Đặng Vũ Hoạt, Nguyễn Dục Quang, Đỗ Trọng Văn đã biên
soạn tài liệu “Hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp ở trường tiểu học” và
khẳng định, HĐNGLL là con đường thích hợp nhất, hiệu quả nhất để GDĐĐ
cho học sinh tiểu học.
Tác giả Hoàng Thị Luận với đề tài “Giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu
học thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp” ở huyện Hậu Lộc tỉnh Thanh Hóa.
Đề tài “Các biện pháp quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giáo dục
7
ngoài giờ lên lớp của Hiệu trưởng các trường Trung học cơ sở huyện Bình
Chánh, thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thị Mỹ Châu. Đề tài
“Các biện pháp quản lý công tác GDĐĐ cho học sinh tiểu học ở huyện Thuận
Thành, Bắc Ninh” của tác giả Nguyễn Huy Hồng….
Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về vấn đề quản lý công tác
giáo dục đạo đức thông qua HĐNGLL cho học sinh các trường tiểu học ở
quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì thế, luận văn của chúng tôi sẽ
đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
1.2. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.2.1. Đạo đức và giáo dục đạo đức
1.2.1.1. Đạo đức
ĐĐ là một bộ phận quan trọng trong các hình thái ý thức xã hội. Theo
quan niệm Mác-xít, ĐĐ là hệ thống các quy tắc, chuẩn mực hành vi của con
người và đánh giá cách ứng xử trong quan hệ của người này với người khác,
việc thực hiện nghĩa vụ của con người đối với xã hội.
Việc thực hiện các quy tắc, chuẩn mực ĐĐ phản ánh các quan hệ, hành
vi của cá nhân đối với cộng đồng, xã hội thông qua những lợi ích nhất định.
Nội dung của khái niệm ĐĐ bao gồm:
Một là: ĐĐ là một hình thái ý thức xã hội nên nó phản ánh trực tiếp
hoặc gián tiếp sự tồn tại xã hội, do đó ĐĐ biến đổi theo sự biến đổi của tồn tại
xã hội. Vì vậy, mỗi thời đại có các nguyên tắc, chuẩn mực ĐĐ khác nhau.
Hai là: ĐĐ là một phương thức điều chỉnh hành vi của con người. Nếu
pháp luật điều chỉnh hành vi của con người bằng sức mạnh cưỡng chế của nhà
nước, thì ĐĐ điều chỉnh hành vi của con người bằng sức mạnh của dư luận
xã hội. Sự điều chỉnh đó được thực hiện thơng qua “cơ chế” xấu hổ trước
người khác và trước bản thân.
8
Ba là: ĐĐ là một hệ thống các giá trị thông qua sự đánh giá của người
khác hoặc của bản thân đối với một hành vi nào đó mà bộc lộ ra theo các
tuyến: khẳng định hoặc phủ định hành vi đó.
ĐĐ biến đổi và phát triển cùng với sự biến đổi và phát triển của các
điều kiện kinh tế xã hội, cùng với sự phát triển của xã hội. Khái niệm ĐĐ
ngày càng được hoàn thiện đầy đủ hơn. Các giá trị ĐĐ trong xã hội của chúng
ta hiện nay là thể hiện sự kết hợp sâu sắc truyền thống ĐĐ tốt đẹp của dân tộc
với xu thế tiến bộ của thời đại, của nhân loại. Lao động sáng tạo, nguồn gốc
của mọi giá trị là một nguyên tắc đạo đức có ý nghĩa chỉ đạo trong GD và tự
GD của con người hiện nay.
1.2.1.2. Giáo dục đạo đức
Giáo dục ĐĐ cho HS là một quá trình lâu dài, liên tục về thời gian,
rộng khắp về không gian, từ mọi lực lượng xã hội. Trong đó, nhà trường giữ
vai trị rất quan trọng.
GDĐĐ cho HS cịn là q trình hình thành và phát triển các phẩm chất ĐĐ
của nhân cách HS dưới những tác động và ảnh hưởng có mục đích được tổ chức
có kế hoạch, có sự lựa chọn về nội dung, PP và hình thức GD phù hợp với lứa tuổi
và vai rò chủ đạo của nhà GD. Từ đó, giúp HS có những hành vi ứng xử đúng
mực trong các mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân, với cộng đồng- xã hội, với
lao động, với tự nhiên….Bản chất của GDĐĐ là chuỗi tác động có định hướng
của chủ thể GD và yếu tố tự GD của HS, giúp HS chuyển những chuẩn mực, quy
tắc, nguyên tắc ĐĐ,…từ bên ngoài xã hội vào bên trong thành cái của riêng mình
mà mục tiêu cuối cùng là hành vi ĐĐ phù hợp với những yêu cầu của các chuẩn
mực xã hội. GDĐĐ không chỉ là dừng lại ở việc truyền thụ những khái niệm,
những tri thức ĐĐ, mà quan trọng hơn hết là kết quả GD phải được thể hiện qua
tình cảm, niềm tin, hành động thực tế của HS.
9
Như vậy, GDĐĐ là q trình tác động có mục đích, có kế hoạch, có tổ
chức của nhà GD và yếu tố tự GD của người học để trang bị cho HS những tri
thức, ý thức ĐĐ, niềm tin, tình cảm ĐĐ và quan trọng nhất là hình thành ở
HS hành vi, thói quen ĐĐ phù hợp với các chuẩn mực xã hội. Hay nói một
cách khác, GDĐĐ là một q trình sư phạm được tổ chức một cách có mục
đích, có kế hoạch nhằm hình thành và phát triển ở HS ý thức, tình cảm, hành
vi và thói quen ĐĐ.
1.2.2. Hoạt động và hoạt động ngoài giờ lên lớp
1.2.2.1. Hoạt động
Hoạt động là một thuật ngữ tương đối phức tạp. Về mặt triết học, hoạt
động được coi là một phương thức tồn tại của con người: con người hoạt động
để sống và phát triển. Theo Các Mác thì hoạt động là sự tác động biện chứng
giữa chủ thể và khách thể. Con người muốn sống, muốn tồn tại phải hoạt
động.
Cuộc sống con người là một dòng hoạt động. Con người là chủ thể của
các hoạt động thay thế nhau. Hoạt động là quá trình con người thực hiện các
quan hệ của con người với thế giới tự nhiên, xã hội, người khác và bản thân.
Đó là q trình chuyển hóa năng lượng, lao động và các phẩm chất tâm lý
khác của bản thân thành sự vật, thành thực tế và quá trình ngược lại là quá
trình tách những thuộc tính của sự vật, của thực tế quay trở về với chủ thể,
biến thành vốn liếng tinh thần của chủ thể. Muốn tồn tại được trong thế giới
xung quanh, con người phải tiến hành các hoạt động đối với thế giới, sản xuất
ra các đối tượng, lĩnh hội các phương thức sử dụng các đối tượng nhằm thỏa
mãn nhu cầu này hay nhu cầu khác. Vì thế, A.N.Lêonchiep đã đúc kết: Hoạt
động là phương thức tồn tại của con người trong thế giới [1].
10
Như vậy có thể định nghĩa: Hoạt động là mối quan hệ tác động qua lại
giữa con người và thế giới để tạo ra sản phẩm cả về phía thế giới, cả về phía
con người.
Hoạt động của con người là hoạt động có đối tượng, có tính mục đích,
tính chất xã hội và tính chất tập thể, được thực hiện bằng những thao tác và
cơng cụ nhất định. Vì vậy, mỗi loại hoạt động đều đề ra cho con người những
yêu cầu nhất định, đòi hỏi ở con người những phẩm chất tâm lý nhất định.
Quá trình tham gia hoạt động làm cho con người hình thành và phát triển
được phẩm chất và năng lực, nhân cách được hình thành và phát triển.
Từ mối quan hệ giữa hoạt động và nhân cách, chúng ta thấy rằng muốn
hình thành nhân cách HS, chúng ta phải đưa các em vào những hoạt động
nhất định. Nói cách khác GD trước hết phải là q trình tổ chức sự hoạt động
tích cực, sáng tạo của HS để HS tiếp thu, chiếm lĩnh nền văn hóa của nhân
loại, hình thành và phát triển được những phẩm chất nhân cách mà xã hội địi
hỏi. HS khơng thể chơi, học tập, lao động, hoạt động xã hội, hoạt động thể
thao, nghệ thuật một mình được. Trong tất cả các hoạt động trên, HS phải
giao tiếp với những người khác, với các bạn, với thầy cô giáo…Nhưng cũng
cần lưu ý, bên cạnh một số hoạt động đóng vai trò chủ yếu trong sự phát triển
nhân cách còn những dạng hoạt động khác đóng vai trị thứ yếu, vì thế cần
phải thấy rõ sự phụ thuộc của sự phát triển nhân cách vào hoạt động chủ đạo
trong từng thời kỳ nhất định.
Một trong những quy luật của GD là phải thay đổi tính chất của hoạt
động, phong phú hóa nội dung, hình thức, cách tổ chức nó trong q trình GD
để lơi cuốn bản thân HS tham gia tự giác và tích cực vào hoạt động và việc
quản lý hoạt động.
1.2.2.2. Hoạt động ngoài giờ lên lớp
11
Hoạt động NGLL được quy định cụ thể tại Điều lệ trường tiểu học
ban hành kèm theo Thông tư số 41/2010/TT-BGDĐT ngày 30 tháng 12 năm
2010 của Bộ GD-ĐT, tại Điều 29 đã chỉ rõ : “Hoạt động giáo dục bao gồm
hoạt động giáo dục trong giờ lên lớp và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp
nhằm rèn luyện đạo đức, phát triển năng lực, bồi dưỡng năng khiếu, giúp đỡ
học sinh yếu phù hợp đặc điểm tâm lý, sinh lý lứa tuổi HSTH. Hoạt động giáo
dục trong giờ lên lớp được tiến hành thông qua việc dạy học các mơn học bắt
buộc và tự chọn trong Chương trình giáo dục phổ thông cấp tiểu học do Bộ
trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành. Hoạt động giáo dục ngồi giờ lên
lớp bao gồm hoạt động ngoại khố, hoạt động vui chơi, thể dục thể thao, tham
quan du lịch, giao lưu văn hố; hoạt động bảo vệ mơi trường; lao động cơng
ích và các hoạt động xã hội khác” [5].
Theo tài liệu đào tạo GVTH, hoạt động GD NGLL là hoạt động được tổ
chức ngồi giờ các mơn học, là hoạt động nối tiếp và thống nhất hữu cơ với
hoạt động GD trong giờ lên lớp. Nó là cầu nối giữa công tác giảng dạy trên
lớp với công tác GD HS ngồi lớp thơng qua các hoạt động lao động, văn
nghệ, xã hội, thể dục thể thao [4]… Hay nói cụ thể hơn đó là sự chuyển hóa
giữa GD với tự GD, chuyển hóa những yêu cầu về những chuẩn mực hành vi
đã được quy định thành hành vi và thói quen tương ứng. Muốn có sự chuyển
hóa này diễn ra thì phải thơng qua các hoạt động học tập, lao động, sinh hoạt
tập thể, xã hội, vui chơi giải trí và qua giao lưu với bạn bè, với các thầy, cô
giáo, với cha mẹ và mọi người xung quanh…
Trong đổi mới GD hiện nay, HĐ GDNGLL là hoạt động bắt buộc, diễn
ra trong suốt năm học và cả thời gian nghỉ hè để khép kín q trình GD. Đây
là hoạt động GD cơ bản được tổ chức thực hiện theo kế hoạch của trường,
tiếp nối và thống nhất với hoạt động dạy và học nhằm góp phần hình thành và
phát triển tồn diện nhân cách HS theo muc tiêu đào tạo.
12
1.2.3. Quản lý và quản lý công tác giáo dục đạo đức thơng qua hoạt
động ngồi giờ lên lớp
1.2.3.1. Quản lý
Theo Từ điển Việt Nam thông dụng, quản lý là tổ chức, điều khiển
hoạt động của một đơn vị, cơ quan; F, W Taylor cho rằng: “Quản lý là biết
chính xác điều muốn người khác làm và sau đó thấy rằng họ đã hồn thành
cơng việc một cách tốt nhất và rẻ nhất”. H. Koontz thì khẳng định: “Quản lý
là một hoạt động thiết yếu, nó đảm bảo phối hợp những nổ lực hoạt động cá
nhân nhằm đạt được các mục đích của nhóm (tổ chức)”.
Mục tiêu của QL là hình thành một mơi trường mà trong đó con người
có thể đạt được các mục đích của nhóm với thời gian, tiền bạc, vật chất và sự
bất mãn cá nhân ít nhất. QL là một trong những loại hình lao động quan trọng
nhất trong các hoạt động của con người. QL đúng tức là con người đã nhận
thức được quy luật, vận động theo quy luật và sẽ đạt được những thành công
to lớn. Trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, con người muốn tồn tại
và phát triển đều phải dựa vào sự nổ lực của cá nhân, của một tổ chức, từ một
nhóm nhỏ đến phạm vi rộng lớn hơn ở tầm quốc gia, quốc tế và đều phải
thừa nhận và chịu một sự QL nào đó. C. Mác đã viết: “Tất cả mọi lao động xã
hội trực tiếp hay lao động chung nào tiến hành trên quy mơ tương đối lớn, thì
ít nhiều cũng cần đến một sự chỉ đạo để điều hoà những hoạt động cá nhân và
thực hiện những chức năng chung phát sinh từ sự vận động của toàn bộ cơ thể
sản xuất khác với sự vận động của những khí quan độc lập của nó. Một người
độc tấu vĩ cầm tự mình điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì cần phải có
nhạc trưởng”.
Ngày nay thuật ngữ QL đã trở nên phổ biến, nhưng chưa có một định
nghĩa thống nhất. Có người cho QL là hoạt động nhằm bảo đảm sự hồn
thành cơng việc thơng qua sự nổ lực của người khác. Cũng có người cho QL
13
là một hoạt động thiết yếu nhằm bảo đảm bảo phối hợp những nổ lực cá nhân
nhằm đặt được mục đích của nhóm. Tuy nhiên theo nghĩa rộng, quản lý là
hoạt động có mục đích của con người, cho đến nay nhiều người cho rằng:
Quản lý chính là các hoạt động do một hoặc nhiều người điều phối hành động
của người khác nhằm thu được kết quả mong muốn. Từ những ý chung của
các định nghĩa và xét quản lý với tư cách là một hành động, có thể định nghĩa:
Quản lý là sự tác động có tổ chức, có hướng đích của chủ thể quản lý tới đối
tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu đề ra.
Có bốn chức năng quản lý:
- Chức năng quản lý là một dạng hoạt động quản lý chun biệt, thơng qua
đó chủ thể quản lý tác động vào khách thể quản lý nhằm thực hiện một mục tiêu
nhất định.
- Chức năng kế hoạch: là xác định mục tiêu, mục đích đối với thành tựu
tương lai của tổ chức và các con đường, biện pháp, cách thức để đạt được
mục tiêu, mục đích đó.
- Chức năng tổ chức: là những nội dung và phương thức hoạt động cơ
bản trong việc thiết lập cấu trúc của tổ chức, mà nhờ đó chủ thể quản lý tác
động đến đối tượng quản lý một cách có hiệu quả nhằm thực hiện được mục
tiêu của kế hoạch.
- Chức năng chỉ đạo (lãnh đạo): là phương thức tác động của chủ thể
quản lý đến đối tượng quản lý theo đúng kế hoạch và có hiệu quả nhằm thực
hiện được mục tiêu của kế hoạch.
- Chức năng kiểm tra: Là một chức năng quản lý, thơng qua đó một cá
nhân, một nhóm hay một tổ chức theo dõi, giám sát các thành quả hoạt động
và tiến hành những hoạt động điều chỉnh, uốn nắn (nếu cần thiết).
Bốn chức năng quản lý nói trên có mối quan hệ mật thiết và gắn bó hữu
cơ với nhau trong q trình quản lý.
14
1.2.3.2. Quản lý công tác giáo dục đạo đức thông qua hoạt động ngồi
giờ lên lớp
Quản lý cơng tác GDĐĐ thơng qua HĐNGLL là q trình người cán bộ
quản lý hoạch định, tổ chức, điều khiển, kiểm tra HĐ GDNGLL của nhà
trường nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. Trong tồn bộ q trình quản lý nhà
trường thì quản lý GDĐĐ thông qua HĐNGLL của hiệu trưởng là hoạt động
không thể thiếu và rất quan trọng. Quản lý GDĐĐ thông qua HĐNGLL của
hiệu trưởng nhà trường thực chất là quản lý về mục tiêu giáo dục, quá trình
GD, là quản lý về kế hoạch, đội ngũ, các điều kiện, công tác kiểm tra, đánh
giá, đảm bảo các điều kiện để nâng cao hiệu quả quản lý công tác GDĐĐ
thông qua HĐNGLL. Trường nào thực hiện giáo dục HĐNGLL có nội dung,
kế hoạch và có các giải pháp thiết thực, trường đó sẽ đạt hiệu quả GDĐĐ cao.
Những chủ nhân tương lai sẽ có tinh thần dám nghĩ, dám làm, năng động,
sáng tạo, có cách ứng xử tốt.
1.2.4. Giải pháp và giải pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức
thơng qua hoạt động ngồi giờ lên lớp
1.2.4.1. Giải pháp
Theo Đại từ điển tiếng Việt, “giải pháp” là “cách giải quyết một vấn đề”
[14]. Như vậy, nói đến giải pháp là nói đến những cách thức tác động nhằm
thay đổi chuyển biến một hệ thống, một quá trình, một trạng thái nhất định...mà
cụ thể là nhằm đạt được mục đích hoạt động. Nếu giải pháp càng thích hợp,
càng tối ưu thì càng giúp cho con người nhanh chóng giải quyết những vấn đề
đặt ra. Nhưng để có được những giải pháp như vậy, cần phải dựa trên cơ sở
khoa học tin cậy.
1.2.4.2. Giải pháp quản lý hoạt động giáo dục đạo đức thơng qua hoạt
động ngồi giờ lên lớp
15
Giải pháp QL là những cách thức cụ thể để thực hiện PP QL. Vì đối
tượng QL phức tạp nên đòi hỏi các giải pháp QL phải đa dạng, phong phú,
linh hoạt phù hợp với đối tượng QL. Nói đến giải pháp QL là nói đến những
cách thức tác động nhằm thay đổi, biến chuyển một hệ thống nhằm đạt được
mục đích là GDĐĐ cho HS thơng qua HĐNGLL. Các giải pháp càng tối ưu,
càng giúp cán bộ QL nhanh chóng giải quyết những vấn đề đặt ra.
1.3. Cơng tác giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
1.3.1. Đặc điểm tâm sinh lý của học sinh tiểu học
Nếu như ở bậc mầm non hoạt động chủ đạo của trẻ là vui chơi, thì đến
tuổi tiểu học hoạt động chủ đạo của trẻ đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ
hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập. Tuy nhiên, song song với hoạt
động học tập ở các em còn diễn ra các hoạt động khác như:
- Hoạt động lao động: Trẻ bắt đầu tham gia lao động tự phục vụ bản
thân và gia đình như tắm giặt, nấu cơm, qt dọn nhà cửa,…Ngồi ra, trẻ cịn
cịn tham gia lao động tập thể ở trường lớp như trực nhật, trồng cây, trồng
hoa,…
- Hoạt động xã hội: Các em đã bắt đầu tham gia vào các phong trào của
trường, của lớp và của cộng đồng dân cư, của Đội thiếu niên tiền phong,…
Trong gia đình: các em ln cố gắng là một thành viên tích cực, có thể
tham gia các cơng việc trong gia đình.
Trong nhà trường: do nội dung, tích chất, mục đích của các mơn học
đều thay đổi so với bậc mầm non đã kéo theo sự thay đổi ở các em về phương
pháp, hình thức, thái độ học tập. Các em đã bắt đầu tập trung chú ý và có ý
thức học tập tốt.
Ngồi xã hội: các em đã tham gia vào một số các hoạt động xã hội
mang tính tập thể (đơi khi tham gia tích cực hơn cả trong gia đình). Đặc biệt
16
là các em muốn thừa nhận mình là người lớn, muốn được nhiều người biết
đến mình.
Tri giác của HSTH mang tính đại thể, ít đi vào chi tiết và mang tính
khơng ổn định: ở đầu tuổi tiểu học tri giác thường gắn với hành động trực
quan, đến cuối tuổi tiểu học tri giác bắt đầu mang tính xúc cảm, trẻ thích quan
sát các sự vật hiện tượng có màu sắc sặc sỡ, hấp hẫn, tri giác của trẻ đã mang
tính mục đích, có phương hướng rõ ràng – Tri giác có chủ định (trẻ biết lập kế
hoạch học tập, biết sắp xếp công việc nhà, biết làm các bài tập từ dễ đến khó,
…). Tư duy mang đậm màu sắc xúc cảm và chiếm ưu thế ở tư duy trực quan
hành động. Đặc biệt, tưởng tượng của các em trong giai đoạn này bị chi phối
mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc, hiện tượng đều
gắn liền với các rung động tình cảm của các em. Qua đây, các nhà GD phải
thu hút các em vào các hoạt động nhóm, hoạt động tập thể để các em có cơ
hội phát triển q trình nhận thức lý tính của mình một cách tồn diện.
Ngơn ngữ có vai trò hết sức quan trọng, nên trẻ hứng thú các loại sách
báo có lời và khơng lời, sách văn học, truyện tranh, truyện cổ tích, báo nhi
đồng,…nên có thể kể cho trẻ nghe hoặc tổ chức các cuộc thi kể truyện đọc
thơ, viết báo, viết truyện, dạy trẻ cách viết nhật kí,…
Ở đầu tuổi tiểu học chú ý có chủ định của trẻ cịn yếu, khả năng kiểm
sốt, điều khiển chú ý còn hạn chế. Ở giai đoạn này chú khơng chủ định
chiếm ưu thế hơn chú ý có chủ định. Ở cuối tuổi tiểu học trẻ dần hình thành kĩ
năng tổ chức, điều chỉnh chú ý của mình. Chú ý có chủ định phát triển dần và
chiếm ưu thế, ở trẻ đã có sự nỗ lực về ý chí trong hoạt động học tập như học
thuộc một bài thơ, một cơng thức tốn hay một bài hát dài,…Trong sự chú ý
của trẻ đã bắt đầu xuất hiện giới hạn của yếu tố thời gian, trẻ đã định lượng
được khoảng thời gian cho phép để làm một việc nào đó và cố gắng hồn
thành cơng việc trong khoảng thời gian quy định.
17
Tình cảm của HS tiểu học mang tính cụ thể trực tiếp và luôn gắn liền
với các sự vật hiện tượng sinh động, rực rỡ,…Lúc này khả năng kiềm chế
cảm xúc của trẻ còn non nớt, trẻ dễ xúc động và cũng dễ nổi giận, biểu hiện
cụ thể là trẻ dễ khóc mà cũng nhanh cười, rất hồn nhiên vơ tư…
Trong quá trình hình thành và phát triển tình cảm của HSTH luôn luôn
kèm theo sự phát triển năng khiếu: Trẻ nhi đồng có thể xuất hiện các năng
khiếu như thơ, ca, hội họa, kỹ thuật, khoa học,…khi đó cần phát hiện và bồi
dưỡng kịp thời cho trẻ sao cho vẫn đảm bảo kết quả học tập mà không làm
thui chột năng khiếu của trẻ.
Chính vì thế, việc giáo dục ĐĐ cho HSTH cần ở nhà giáo dục sự khéo
léo, tế nhị khi tác động đến các em; nên dẫn dắt các em đi từ hình ảnh trực
quan sinh động, hấp dẫn và đặc biệt phải luôn chú ý củng cố tình cảm cho các
em thơng qua các hoạt động cụ thể như trị chơi nhập vai, đóng các tình
huống cụ thể, các hoạt động tập thể ở trường lớp, khu dân cư,…
Nét tính cách của trẻ đang dần được hình thành, đặc biệt trong mơi
trường nhà trường cịn mới lạ, trẻ có thể nhút nhát, rụt rè, cũng có thể sơi nổi,
mạnh dạn…Sau 5 năm học, “tính cách học đường” mới dần ổn định và bền
vững ở trẻ.
Nhân cách của các em lúc này mang tính chỉnh thể và hồn nhiên, trong
q trình phát triển trẻ ln bộc lộ những nhận thức, tư tưởng, tình cảm, ý
nghĩ của mình một cách vô tư, hồn nhiên, thật thà và ngay thẳng; nhân cách
của các em lúc này cịn mang tính tiềm ẩn, những năng lực, tố chất của các
em còn chưa được bộc lộ rõ rệt, nếu có được tác động thích ứng chúng sẽ bộc
lộ và phát triển; và đặc biệt nhân cách của các em cịn mang tính đang hình
thành, việc hình thành nhân cách khơng thể diễn ra một sớm một chiều, với
HSTH còn đang trong quá trình phát triển tồn diện về mọi mặt vì thế mà
18
nhân cách của các em sẽ được hoàn thiện dần cùng với tiến trình phát triển
của mình.
1.3.2. Mục tiêu giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
Có thể nói ĐĐ là cái tốt, cái đúng ở bên trong con người được biểu
hiện ra bên ngồi bằng lời nói, hành vi. ĐĐ là gốc bên trong được chuyển hóa
thành lời nói và hành vi tốt đẹp bên ngồi. Tức là con người phải có nhận
thức đúng, tốt về sự vật hiện tượng và từ đó có lời nói, hành vi tốt đẹp, đúng
đắn với sự vật hiện tượng. Để có được nhận thức đúng cần phải có GD. ĐĐ
con người khơng phải có sẵn mà phải được GD. "Hiền dữ phải đâu là tính
sẵn, phần nhiều do giáo dục mà nên" (Hồ Chí Minh). GD nói chung và
GDĐĐ nói riêng phải được thực hiện ngay từ lúc nhỏ, từ lứa tuổi tiểu học [3].
Trong công tác GD, nhà trường phổ thơng giữ vai trị quan trọng trong
việc hình thành nhân cách cho HS nhằm xây dựng và phát triển những con
người làm chủ tương lai của đất nước. Muốn làm được việc đó, địi hỏi nhà
trường phải thực hiện bằng được mục tiêu GD tồn diện. Trong đó GDĐĐ là
một trong những hoạt động GD cơ bản của nhà trường. GDĐĐ là một q
trình tác động có mục đích, có kế hoạch đến HS, nhằm làm cho nhân cách
của mỗi HS được phát triển đúng đắn, giúp cho HS có được nhận thức, ý thức
tình cảm ĐĐ; có những thói quen, hành vi ứng xử đúng mức trong các mối
quan hệ của cá nhân với xã hội, của cá nhân đối với mọi người chung quanh
và của cá nhân đối với chính mình. Vì vậy, GDĐĐ cho HS tiểu học giữ vị trí
đặc biệt quan trọng vì bậc tiểu học là bậc học nền tảng. Sự phát triển nhân
cách của HS được bắt nguồn từ môi trường này. Các nề nếp, thói quen, các cử
chỉ hành vi đều được xây dựng từ đây.
Giáo dục ĐĐ đối với HS, đặc biệt là HSTH, là vấn đề cần thiết, cấp
bách và có tác dụng lâu dài, ảnh hưởng rất lớn đến thế hệ mầm non tương lai
của đất nước. Là những người làm công tác GD, chúng ta phải thấm nhuần
19
quan điểm của Hồ Chủ tịch về GDĐĐ : "Dạy cũng như học, phải biết chú
trọng cả Tài lẫn Đức. Đức là đạo đức cách mạng, đó là cái gốc rất quan trọng,
nếu khơng có đạo đức cách mạng thì có tài cũng vơ dụng".
1.3.3. Nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục đạo đức cho
học sinh tiểu học
1.3.3.1. Nội dung giáo dục đạo đức cho học sinh tiểu học
Ở tiểu học, quá trình GDĐĐ nhằm vào việc hình thành các chuẩn mực
hành vi, phẩm chất ĐĐ vững chắc. Vì vậy, quá trình GDĐĐ cho HS là quá
trình thực hiện ba nhiệm vụ: giáo dục ý thức ĐĐ; giáo dục thái độ, tình cảm
ĐĐ; giáo dục hành vi thói quen ĐĐ. Nội dung GDĐĐ cho HSTH được giáo
dục qua nội dung cụ thể của việc thực hiện các nhiệm vụ đó.
* Giáo dục ý thức đạo đức
Giáo dục ý thức ĐĐ là quá trình cung cấp cho HS những tri thức ĐĐ
cơ bản, sơ đẳng về các chuẩn mực hành vi, trên cơ sở đó bước đầu hình thành
niềm tin ĐĐ cho HS. Các chuẩn mực hành vi này được xây dựng từ phẩm
chất ĐĐ, lòng yêu nước, lòng nhân ái, thái độ mới đối với lao động, tinh thần
tập thể, tính kỷ luật. Chúng phản ánh các mối quan hệ hàng ngày của các em
đó là:
- Quan hệ của cá nhân đối với xã hội: Tơn kính Quốc kì, Quốc ca, kính
u Bác Hồ, tự hào về đất nước, con người Việt Nam, biết ơn những thương
binh liệt sĩ, các chiến sĩ quân đội, công an, yêu quê hương, làng xóm, phố
phường, yêu mến và tự hào về trường lớp, giữ gìn mơi trường sống xung
quanh, bảo vệ các di tích lịch sử, văn hóa của cha ông để lại.
- Quan hệ của cá nhân đối với công việc, lao động: Trước hết là biết
chăm chỉ, kiên trì vượt khó trong học tập, có phương pháp học tập tốt, tích
cực tham gia các cơng việc lao động khác nhau (lao động tự phục vụ, lao
động sản xuất, lao động cơng ích cho xã hội,…)
20
- Quan hệ của cá nhân đối với những người xung quanh: Đầu tiên là lịng
hiếu thảo với ơng bà cha mẹ, quan tâm giúp đỡ anh chị em trong gia đình,
kính trọng và biết ơn thầy cơ giáo, tơn trọng, giúp đỡ, đồn kết với bạn bè, tơn
trọng và giúp đỡ hàng xóm láng giềng, phụ nữ, cụ già, em nhỏ, người tàn tật,
…theo khả năng của mình.
- Quan hệ của cá nhân đối với tài sản xã hội, tài sản của người khác: Tôn
trọng bảo vệ tài sản của nhà trường (trường lớp, bàn ghế, dụng cụ lao động,
sách vở, đồ dùng học tập, dụng cụ thí nghiệm,…) của Nhà Nước (nhà cửa,
máy móc, hàng hóa, các di tích lịch sử - văn hóa, những nơi cơng cộng…) của
người khác (đồ đạc, thư từ,…).
- Quan hệ của cá nhân đối với thiên nhiên: Bảo vệ môi trường tự nhiên
xung quanh nơi ở, nơi học, nơi chơi, nơi qua lại, bảo vệ cây trồng cây xanh có
ích, động vật ni, động vật có ích, diệt trừ động vật có hại (chuột, muỗi,
dán,...) làm vệ sinh môi trường…
- Quan hệ của cá nhân đối với bản thân: Khiêm tốn, thật thà, bạo dạn, giữ
vệ sinh, có trách nhiệm với lời nói và việc làm của mình…
Những tri thức đạo đức này giúp HS biết được cái đúng – cái sai, cái tốt
– cái xấu, cái thiện – cái ác,… Từ đó các em sẽ làm theo đúng, ủng hộ cái tốt,
tán thành cái thiện và đấu tranh, phê phán tránh cái sai, cái xấu, cái ác,… Ý
thức ĐĐ đúng đắn sẽ có tác dụng định hướng cho thái độ, tình cảm, hành vi
ĐĐ.
* Giáo dục thái độ, tình cảm đạo đức
Giáo dục thái độ, tình cảm ĐĐ cho HS là hình thành trong HS những
rung động, cảm xúc đối với hiện thực xung quanh, làm cho các em biết yêu,
biết ghét rõ ràng, qua đó có thái độ đúng đắn đối với các hiện tượng phức tạp
trong đời sống xã hội và tập thể,… Đối với HSTH, cần giáo dục những thái
độ, tình cảm như sau:
21
- Kính u Bác Hồ, tơn trọng Quốc kì, Quốc ca, biết ơn các thương binh
liệt sĩ, bộ đội, yêu mến trường lớp, q hương, làng xóm,…
- Kính u biết ơn ơng bà, cha mẹ, q anh chị em, kính trọng biết ơn thầy
cô giáo, tôn trọng và yêu mến bạn bè, tơn trọng những người xung quanh,
hàng xóm, phụ nữ, cụ già, em nhỏ…
- Yêu lao động, chăm học, chăm làm, việc trường, việc lớp.
- Có lịng tự trọng, khiêm tốn học hỏi, trung thực,…
- Có thái độ ủng hộ, đồng tình, tán thành những tấm gương, việc làm tốt,
phù hợp với những chuẩn mực đạo đức và ngược lại, có thái độ lên án, phê
phán những người có hành động xấu, làm hại người khác, xã hội cộng đồng,..
- u thiên nhiên, có thái độ giữ gìn mơi trường sống xung quanh.
Tình cảm ĐĐ được hình thành dựa vào đạo đức đúng đắn và được củng
cố, khẳng định qua hành vi, ngược lại nó có tác dụng thúc đẩy, tạo động cơ
cho việc nhận thức chuẩn mực, thực hiện hành vi ĐĐ.
* Giáo dục hành vi, thói quen đạo đức
Giáo dục hành vi, thói quen ĐĐ là tổ chức cho học sinh lặp đi lặp lại
nhiều lần những thao tác hành động, ĐĐ trong học tập, sinh hoạt, cuộc sống,
nhằm có được hành vi ĐĐ đúng đắn, từ đó có thói quen ĐĐ bền vững, các
hành vi, thói quen ĐĐ như:
- Giúp đỡ ông bà, cha mẹ, anh chị em trong nhà bằng những việc làm
vừa sức
- Lễ phép với người lớn, đặc biệt là với ông bà, cha mẹ, anh chị thầy cô
giáo.
- Làm được những việc làm vừa sức để giúp đỡ thầy cô giáo, hàng xóm,
láng giềng, phụ nữ, cụ già, em nhỏ, người tàn tật.
22
- Có những việc làm nhân đạo vừa sức đối với các gia đình thương binh
liệt sĩ, bà mẹ Việt Nam anh hùng, giúp đỡ những người bị thiên tai, khó khăn,
các bạn khuyết tật, thiệt thịi,…
- Có hành động, việc làm phù hợp bảo vệ trường lớp, tài sản công cộng,
môi trường thiên nhiên đồ đạc của người khác…
Cần giáo dục hành vi văn hóa cho trẻ em ngay từ nhỏ tức là hình thành
cho trẻ em hành vi khơng những đúng về ĐĐ mà cịn đẹp về thẩm mỹ.
1.3.3.2. Phương pháp GDĐĐ cho học sinh tiểu học
Các PP GDĐĐ ở tiểu học được chia thành bốn nhóm sau:
i) Nhóm các phương pháp hình thành ý thức các nhân
* Phương pháp đàm thoại
Là PP tổ chức trò chuyện, chủ yếu là giữa GV và HS về các chủ đề ĐĐ
– thẩm mĩ dựa trên một hệ thống câu hỏi nhất định
Trong thực tiễn, GV có thể đàm thoại với cả lớp, với một nhóm HS
hoặc từng em riêng biệt. Ở tiểu học nên tiến hành đàm thoại theo con đường
quy nạp, tức là đi từ hành vi, sự kiện cụ thể đến chuẩn mực, quy tắc hành vi
chung.
* Phương pháp kể chuyện
Kể chuyện là PP GV dùng lời của mình thuật lại một câu chuyện có ý
nghĩa GD.
Học sinh tiểu học rất tham thích nghe kể chuyện. các em nghe kể
chuyện với hứng thú rất cao. Những câu chuyện hấp dẫn có thể gây ra ở HS
những ấn tượng mạnh mẽ, những xúc cảm sâu sắc, tác động mạnh đến hành vị
của các em, và có khi các em ghi nhớ nó suốt đời.
Sau khi kể xong câu chuyện, GV nêu lại câu hỏi đã đặt ra trước khi kể
chuyện để học sinh phân tích, rút ra kết luận cần thiết cho mình.
* Phương pháp giảng giải
23
Giảng giải là PP GV dùng lời của mình để trình bày, giải thích, chứng
minh cho chuẩn mực ĐĐ nào đó.
Phương pháp này có tác dụng giúp HS nhận thức đầy đủ, chính xác về
mẫu hành vi ĐĐ, hiểu sâu về chuẩn mực hành vi, nhận thức đúng, sai. Tuy
nhiên, hạn chế của PP giảng giải là nếu lạm dụng nó thì có thể dẫn đến sự
thuyết giáo khơ khan, kém hấp dẫn, làm hạn chế hứng thú nhận thức và tích
cực, độc lập của HS.
Sau giảng giải GV cần kết luận ngắn gọn về chuẩn mực hành vi cần
thực hiện để các em dễ nhớ, dễ vận dụng. Bên cạnh đó, GV liên hệ với thực tế
đời sống của lớp, của HS và khuyến khích các em thực hiện theo chuẩn mực
vừa được giảng giải.
* Phương pháp nêu gương
Nêu gương là PP dùng những tấm gương mẫu mực, cụ thể, sống động
trong đời sống ĐĐ để kích thích HS bắt chước.
Trong GD, tấm gương được sử dụng như phương tiện GD. Nó làm cho
chuẩn mực ĐĐ trở nên trực quan hơn, cụ thể hơn, có sức thuyết phục hơn.
Lời nói sẽ giảm giá trị, giảm ảnh hưởng nếu khơng có các tấm gương thực tế
sinh động, cụ thể của người khác chứng minh.
Sau nêu gương, cần kích thích, khuyến kích, động viên HS thực hiện
theo tấm gương đã học.
ii) Nhóm các phương pháp tổ chức hoạt động xã hội, tích lũy kinh
nghiệm ứng xử cho học sinh
* Phương pháp nêu yêu cần sư phạm
Nêu yêu cần sư phạm là PP tổ chức cho học sinh thực hiện nội quy, quy
chế dành cho các em hay yêu cầu các em thực hiện hành vi công việc cụ thể
phù hợp với chuẩn mực ĐĐ xã hội, quy định tập thể.
24
Trong quá trình tổ chức thực hiện, GV cần kiểm tra, đánh giá kịp thời,
cần tổ chức thi đua sôi nổi, lành mạnh giữa các cá nhân trong tổ, nhóm và
giữa các tổ, nhóm trong lớp với nhau…
Điều quan trọng là yêu cầu đã nêu ra phải được thực hiện đến cùng.
Bên cạnh đó, cần đề cao vai trị của đội ngũ tự quản, của tổ chức Đội, Sao
trong việc tổ chức thực hiện.
* Phương pháp tập luyện
Tập luyện là PP tổ chức cho HS lặp đi lặp lại một cách thường xuyên,
có hệ thống các thao tác, các hành động nhất định nhằm biến chúng thành kĩ
năng, kĩ xảo, thói quen cần biết.
Việc tập luyện được thực hiện trong các tình huống, điều kiện khác
nhau với tần số cao thì việc hình thành kĩ năng, kĩ xảo, thói quen cùng có hiệu
quả. Ngược lại, nếu tính thường xun và tính hệ thống bị vi phạm thì khó có
thể giúp các em có được những kĩ năng, kĩ xảo, thói quen tích cực.
Một trong những phương tiện quan trọng để tập thói quen hành vi là
chế độ giờ giấc. Việc tuân thủ chế độ giờ giấc có vai trị quan trọng đặc biệt
đối với HSTH vì ở chung, ý chí chưa được hình thành đầy đủ. Chế độ giờ
giấc nghiêm ngặt, chặt chẽ giúp trẻ củng cố các hành động tích cực, điều
khiển ước muốn của mình, tạo ra cc thĩi quen tích cực.
* Phương thức rèn luyện
Rèn luyện là PP tổ chức các hoạt động về cuộc sống đa dạng, phong
phú cho HS, tạo cho các em điều kiện ứng xử phù hợp với các chuẩn mực xã
hội, có các kỹ năng tổ chức các hoạt động của mình.
Trong thực tiễn nhà trường Tiểu học, PP này thường được vận dụng để
tổ chức các hoạt động theo chủ điểm, các sinh hoạt tập thể.
Sau khi kết thúc việc tổ chức các công việc, HS tập hợp lại để tổng kết,
đánh giá những cơng việc mình làm – những việc làm tốt và những việc làm
25
chưa tốt theo kế hoạch, nguyên nhân; cần khen ngợi hay phê bình những ai;
có thể rút kinh nghiệm gì cho những lần tổ chức các chủ điểm tới và gợi ý về
việc tổ chức chủ điểm tiếp theo.
iii) Nhóm các phương pháp kích thích hoạt động và điều chỉnh hành vi
ứng xử của học sinh
* Phương pháp khuyến khích
Khuyến khích là một PP GV biểu thị sự đánh giá tích cực đối với hoạt
động và hành vi ứng xử của cá nhân HS hay của nhóm tập thể. Khuyến khích
là cách tạo dư luận xã hội tích cực, đồng tình, khích lệ, ủng hộ hành vi đúng
đắn.
Tác dụng của khuyến khích là ở chỗ, khi đánh giá tích cực, các em có
được cảm giác hài lịng, phấn khởi, tự tin với năng lực của mình và từ đó
mong muốn cố gắng tiếp tục thực hiện tốt hoạt động, hành vi đó.
Một trong những biện pháp quan trọng của khuyến khích là tạo dư luận
tập thể lành mạnh khi các em biết ủng hộ, tán thành, khen ngợi việc làm tốt,
hành vi tích cực của các bạn.
* Phương pháp trách phạt
Trách phạt là PP GV biểu thị sự không bằng lòng về những hành động,
hành vi sai trái của HS không phù hợp các chuẩn mực hành vi xã hội, quy tắc
tập thể. Trách phạt là cách tạo dư luận xã hội khơng đồng tình, khơng ủng hộ
hành vi sai trái
Tác dụng GD của trách phụ là ở chỗ, nhờ có đánh giá của GV mà HS
thấy sai trái, lỗi lầm của mình và từ đó các em sẽ thay đổi hành vi, cách thực
hiện sao cho phù hợp.
Khi trách phạt có thể sử dụng dự luận tập thể để các em nhắc nhở phê
bình bạn và giúp bạn sửa chữa. Tuy nhiên không nên tổ chức riêng một buổi
sinh hoạt tập thể để phê bình một em đó.