Tải bản đầy đủ (.ppt) (64 trang)

Ngoại khoa, ĐẠI HỌC Y HÀ NỘI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.59 MB, 64 trang )


Ngoại khoa
Phương

pháp chữa bệnh: dùng phẫu thuật để sửa chữa các

thương tổn, các khuyết tật của các bộ phận, các tạng trong cơ
thể.
Phẫu

thuật: người thầy thuốc phải bộc lộ và phơi bày các

tạng ra ngoài để mắt nhìn thấy. Vì phải để lộ các tạng ra
ngoài nên được gọi là Ngoại khoa.
Để

xử lý các thương tổn người ta thường dùng các dụng cụ

như dao, kéo, kềm, cặp, cưa, búa, đục, kim chỉ … để xử lý
thương tổn.


Phẫu thuật viên


Người thầy thuốc ngoại khoa
hiểu biết toàn diện về bệnh tật: cơ bản của bệnh, tiền sử, bệnh sử,

cách thăm khám lâm sàng, nhận đònh các triệu chứng cận lâm sàng,
cách chẩn đoán bệnh, cách tìm nguyên nhân sinh bệnh, phương hướng
xử trí, nguyên tắc điều trò cũng như tiên lượng bệnh...




Khác nhau của thầy thuốc nội khoa và thầy thuốc ngoại khoa

là thầy thuốc nội khoa dùng thuốc men để trò bệnh còn thầy
thuốc ngoại khoa, ngoài thuốc men còn biết dùng phẫu thuật.


Ngoại tổng quát & Ngoại chuyên khoa


Lúc mới hình thành: ngoại khoa hoạt động theo hướng tổng

quát, bác só chữa mọi bệnh tật thuộc ngoại khoa.


Để công tác chữa bệnh có hiệu quả hơn: ngoại khoa được chia

ra các chuyên ngành hẹp như chuyên khoa thần kinh sọ não, lồng
ngực mạch máu, gan mật lách tụy, hậu môn trực tràng, niệu khoa,
xương khớp, sản phụ, mắt, tai mũi họng, đầu mặt cổ, RHM…


Ngày nay: các chuyên khoa sâu hơn.


Ngoại khoa cấp cứu


Chữa bệnh theo kế hoạch, theo chương trình, theo lòch hẹn như


bướu cổ, sỏi thận, sỏi niệu quản…


Phải có thời gian chuẩn bò vài ngày để nâng cao thể trạng bệnh

nhân, để làm dòu bớt tình trạng nhiễm trùng tại chỗ, để bệnh nhân
được mổ trong những hoàn cảnh thuận lợi hơn như hẹp môn vò… cấp
cứu trì hoãn.


Phải mổ khẩn cấp sau khi nhận bệnh nhân 1-2 giờ như viêm phúc

mạc, tắc ruột, thoát vò bẹn nghẹt,


Có khi phải mổ tối khẩn ngay sau khi tiếp nhận bệnh nhân do mất

máu nhiều và cấp tính vì vết thương tim, vết thương mạch máu lớn …


NK thời bình & NK thời chiến


Ngoại khoa thời bình là công tác ngoại khoa chữa trò các bệnh tật

xảy ra trong đời sống thường ngày như các bệnh sỏi mật, sỏi niệu,
ung thư đường tiêu hóa, viêm ruột thừa…



Ngoại khoa thời chiến là công tác ngoại khoa chữa trò các thương

tích do bom mìn, súng đạn, chất nổ, trái phá … Trong ngoại khoa
thời bình, bệnh nhân đến bệnh viện lẻ tẻ. Trong ngoại khoa thời
chiến thương binh thường đến các trạm cấp cứu ở mặt trận hay các
bệnh viện hậu phương hàng loạt, có khi là hàng chục, hàng trăm
người

một

lúc.


NK thời bình & NK thời chiến


Thương binh nhiều khi trong tình trạng rất nặng, mất nhiều bộ phận

của cơ thể, mất máu trầm trọng. Thương binh thì nặng, đông, trạm cứu
thương ngoài mặt trận lại vô cùng thiếu thốn, không có phương tiện
cần thiết cho việc cấp cứu hàng loạt. Một khó khăn rất lớn nữa là vấn
đề chọn lọc. Chọn lọc để biết ai phải xử lý tại chỗ, ai chuyển về tuyến
sau, để biết mổ ai trước, mổ ai sau …


Nhiều tai nạn xảy ra trong thời bình không phải do súng đạn bom

mìn nhưng tính chất lại giống thời chiến như tai nạn máy bay rơi, xe
lửa trật bánh, ô tô chở khách rớt vực, đám cháy lớn … cũng thuộc lãnh
vực ngoại khoa thời chiến.



Ngoại khoa & Nội khoa


Có những bệnh hoàn toàn chữa bằng nội khoa



Có những bệnh chữa hoàn toàn bằng ngoại khoa



Có những bệnh chữa bằng nội khoa nhưng khi có biến chứng thì phải

chữa bằng ngoại khoa


Có những bệnh chủ yếu điều trò bằng nội khoa nhưng khi nội khoa thất

bại thì phải dùng phẫu thuật


Ngoài ra cùng một bệnh, cùng một tình huống nhưng theo thời gian

phương pháp điều trò thay đổi do có những hiểu biết mới, những phương
tiện mới, như bệnh hẹp động mạch vành tim trùc kia là mổ bắc cầu qua
chỗ hẹp hiện nay chuyển dần sang nong động mạch hẹp ...



Lòch sử ngoại khoa


Thời nguyên thủy: bệnh tật là do thần linh, ma quái nhập

vào cơ thể. Muốn khỏi bệnh phải xua đuổi chúng bằng tế
lễ, gõ chiêng, đánh trống, hy sinh các động vật tế thần ...
1. Y học thời cổ đại
2. Y học thời trung cổ
3. Y học thời phục hưng
4. Y học thời cận đại


Y học thời cổ đại
Năm

2250 trước công nguyên người

Ai cập đã thực hiện những phẫu thuật
đầu tiên như mổ bướu cổ, rạch ung
nhọt, nắn xương gẫy. Người Ấn độ
mổ mắt bò kéo mây, mổ thẩm mỹ,
mổ bướu. Người Péru biết cưa chân
tay, khoan sọ.


Hippocrates

(Hy Lạp, 460-377 trước công nguyên)
Cha


đẻ của nền Y học phương tây. Ông được sinh ra, lớn lên,

giáo dục ở trong nhà thờ của Hy Lạp. Ông cho rằng bệnh tật là
do những thay đổi vật chất trong cơ thể chứ không phải là ý
muốn của Thượng đế, thần linh ma quái. Quan điểm trên đây
khác với luận thuyết duy tâm thời đó. Ông đã mô tả nhiều bệnh
sản khoa, ngoại khoa, nhi khoa. Những quan điểm về bệnh tật
duy vật của ông đã giải phóng người thầy thuốc ra khỏi cách suy
nghó mang tính chất tôn giáo thần bí của nhiều thế kỷ trước.
Lời

thề của Hippocrate.


Galen

(129-199 sau công nguyên, Hy Lạp)


Ông nghiên cứu nhiều về cơ thể học súc vật. Ông viết khá

nhiều sách về Y học. Ông là tác giả của trên 300 công trình
nghiên cứu Y học về giải phẫu học, sinh lý học, bệnh học, dược
học … Các công trình của ông xuất phát từ những nghiên cứu
mang tính duy vật, xác đònh mối liên quan giữa cấu trúc giải
phẫu và hoạt động chức năng. Nhưng ông chòu nhiều ảnh hưởng
của triết học duy tâm nên có nhiều cách giải thích sai lệch.
Chính vì vậy Y học thời cổ đại đã bò kìm hãm hàng chục thế kỷ.



Y học thời trung cổ


Thời kỳ này kéo dài hàng ngàn năm. Trong thời kỳ này, nhà

thờ thống trò xã hội, tạo nên “Thời đại của lòng tin”. Nhà thờ đã
sử dụng những quan điểm của Galen và đàn áp những ý kiến
ngược lại. Khỏi bệnh là do Thượng đế. Mổ xẻ là không cần thiết.
Ngoại khoa bò thoái triển nghiêm trọng.


Trường Salerno (Italia) không phụ thuộc vào nhà thờ. Trường

này phát triển mạnh vào thế kỷ 12. Là cái nôi đào tạo các thầy
thuốc có danh tiếng và đã phát huy mạnh mẽ ảnh hưởng sang
các nước phương tây khác.


Y học thời trung cổ


Ở đại học Y khoa Paris, theo lệnh của hội đồng nhà thờ

Tours năm 1163, ngoại khoa bò cấm giảng dạy. Lúc này có hai
loại phẫu thuật viên. Phẫu thuật viên áo dài xuất thân từ
trường Saint Côme (Italia). Phẫu thuật viên áo ngắn gồm
những người thợ cạo, học theo kinh nghiệm. Mổ xẻ chỉ là
công việc thủ công, được giao cho thợ cắt tóc, thợ cạo, đao
phủ.



Ở Anh, những người làm công việc mổ xẻ bò các thầy thuốc

nội khoa coi thường. Họ không được coi là Bác só.


Y học thời phục hưng


Cùng với những thay đổi trong xã hội, ngành ngoại khoa có những thay đổi

theo chiều hướng tiến bộ. Y học được phép mổ xác. Nhiều họa só chuyển vẽ
gôtic sang vẽ giải phẫu học như nhà danh họa hàng đầu người Italia là
Leonard de Vinci (1452-1519).


Giải phẫu học



Andreas Vesalius (1514-1564, Pháp) nhận học vò Tiến só Y khoa, trở thành

giáo sư ngoại khoa năm 23 tuổi. 5 năm liền sau đó ông mổ xác để nghiên
cứu. Năm 1543, lúc 29 tuổi ông viết quyển giải phẫu học De humani corporis
fabrica, gồm 7 tập, được coi là có giá trò nhất trong các sách Y học.


Velasius được coi là cha đẻ của ngành giải phẫu học.



Y học thời phục hưng


Phẫu thuật



Ở Pháp, Ambroise Paré (1509-1590, Pháp) được coi là phẫu thuật viên vó

đại nhất của thời kỳ phục hưng. Ông xuất thân từ nghề thợ cạo, sau đó là
ngự Y cho 5 đời vua. Ông có rất nhiều kinh nghiệm trong phẫu thuật, đặc
biệt là trong xử trí vết thương do hỏa khí. Ông là người đề xướng phương
pháp thắt mạch máu để cầm máu mà trước đó để cầm máu người ta phải
đốt nóng.


Ở Đức, Von Hildon (1560-1634, Đức) xuất thân từ nghề thủ công, ông

đứng đầu ngành ngoại khoa nước Đức, được coi là phẫu thuật viên giỏi
nhất của ngoại khoa kinh nghiệm.


Y học thời cận đại


Lòch sử ngoại khoa thì đã từ lâu nhưng mới thực sự phát

triển từ thế kỷ 19 và 20. Phát triển được là do những khám
phá của khoa học, trong đó có những phát minh có liên

quan trực tiếp hay gián tiếp đến ngành ngoại khoa.


NHỮNG PHÁT MINH Y HỌC
LIÊN QUAN ĐẾN
NGOẠI KHOA


Gây mê – Hồi sức


Vô cảm tốt để bệnh nhân không lo lắng, không sợ hãi, mất cảm

giác đau đớn và nằm im. Nằm im không cử động rất cần thiết để
thực hiện các động tác kỹ thuật chính xác.


Trong thời kỳ khởi đầu của phẫu thuật, vô cảm bằng cách đánh

mạnh vào cơ thể người bệnh gây choáng váng, bằng bóp cổ, bằng
uống nhiều rượu cho say … Với phương pháp vô cảm này, chỉ dám
làm các phẫu thuật nhỏ và phải làm thật nhanh.


Gây mê – Hồi sức


Ete đã được biết từ thế kỷ16, 1842 mới được Grawford

Long nghiên cứu về tính chất. Ngày16 tháng 10 năm

1846 một thầy thuốc nha khoa ở Boston là William T.G.
Morton (1819-1868) trình diễn gây mê bằng ête thành
công ở bệnh viện Massachuetts và được coi như một dấu
mốc của lòch sử phẫu thuật.


Gây mê – Hồi sức
○ Với gây mê toàn thân, bệnh nhân mất hoàn toàn tri giác, hết lo lắng sợ

sệt và mất hoàn toàn cảm giác đau, phẫu thuật viên có thể tiến hành các
phẫu thuật lớn và các phẫu thuật kéo dài nhiều giờ, có thể thực hiện phẫu
thuật ở các bộ phận mà trước kia không dám đụng tới.
○ Ngày nay có nhiều loại gây tê: tê tại chỗ, tê vùng, tê trong xương với

nhiều loại thuốc tê và nhiều loại mê: mê tónh mạch, mê hô hấp với ống nội
khí quản, mê hạ huyết áp, mê hạ thể nhiệt với rất nhiều loại thuốc mê.


Gây mê – Hồi sức
Với gây mê toàn thân, bệnh nhân mất hoàn toàn tri giác, hết lo lắng sợ
sệt và mất hoàn toàn cảm giác đau, phẫu thuật viên có thể tiến hành các
phẫu thuật lớn và các phẫu thuật kéo dài nhiều giờ, có thể thực hiện
phẫu thuật ở các bộ phận mà trước kia không dám đụng tới.
Ngày nay có nhiều loại gây tê: tê tại chỗ, tê vùng, tê trong xương với
nhiều loại thuốc tê và nhiều loại mê: mê tónh mạch, mê hô hấp với ống
nội khí quản, mê hạ huyết áp, mê hạ thể nhiệt với rất nhiều loại thuốc
mê.


Gây mê – Hồi sức

○ Trong phẫu thuật công tác hồi sức và nuôi dưỡng người bệnh rất quan

trọng. Alfred Blalock (1889-1964) một phẫu thuật viên có nhiều đóng
góp cho những hiểu biết về bệnh sinh của sốc. Francis D. More là một
phẫu thuật viên có nhiều khảo cứu về chuyển hóa ở bệnh nhân mổ.
Jonathan Rhoads một giáo sư ngoại khoa có nhiều đóng góp cho ngoại
khoa, có công trình nổi tiếng về nuôi dưỡng đặc biệt là nuôi dưỡng bằng
đường tónh mạch.


Truyền máu


James Blundell, một bác só sản khoa người Anh, 1818 lần đầu tiên

truyền máu cho một sản phụ bò băng huyết.


1900 Karl Landsteiner (1868-1943) nhà bệnh học và miễn dòch học

người o phát hiện các nhóm máu người, được giải thưởng Nobel năm
1930. Từ lúc ấy truyền máu mới thực sự bắt đầu.


Nhiều bệnh nhân đến bệnh viện trong tình trạng mất máu trầm trọng vì

nôn máu dữ dội như do bệnh lý vỡ tónh mạch thực quản dãn,vỡ gan …


Mất máu nhiều làm tụt huyết áp. Nếu bệnh nhân không được truyền


máu nâng huyết áp lên thì không thể tiến hành phẫu thuật được.


Vô trùng


Quan điểm “mủ đáng tán dương” đã tồn tại trong nhiều thế kỷ thì

nay không còn nữa. Mủ không cần thiết cho sự lành vết thương, ngược
lại nó cản trở sự lành vết thương.


Louis Pasteur (Pháp, 1825-1895) đã tìm ra vi trùng. Vi trùng là

nguyên nhân của các bệnh nhiễm trùng.


Joseph Lister (Anh, 1827-1912) là người đầu tiên sử dụng phương

pháp sát trùng trong phẫu thuật. Nhờ vô trùng mà ngoại khoa đã làm
được những phẫu thuật lớn như thay khớp háng, mổ tim hở, ghép tạng…
Vô trùng bắt buộc đối với mọi động tác trong ngoại khoa.


×