Tải bản đầy đủ (.docx) (38 trang)

bán phá giá, thuế chống bán phá giá cũng như thực trạng bán phá giá hàng hóa nước ngoài tại việt nam, hàng hóa việt nam bán phá giá ở nước ngoài và những bài học rút ra

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (366.6 KB, 38 trang )

MỤC LỤC

1


LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và quốc tế nền kinh tế, hội nhập và tham gia các
tổ chức kinh tế quốc tế là xu thế không thể đảo ngược đối với mỗi quốc gia trong
quá trình phát triển kinh tế của mình.
Cùng với việc thực hiện đường lối chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, Việt
nam đã đạt được thành tựu khá ngoạn mục trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng
hoá. Trong khi những mặt hàng xuất khẩu của Việt nam ngày càng có uy tín trên thị
trường thế giới đã xuất hiện một số trường hợp hàng xuất khẩu của nước ta bị nước
nhập khẩu điều tra và áp dụng thuế chống bán phá giá để tạo ra hàng rào bảo hộ,
ngăn cản hàng hoá của ta không cho xuất khẩu vào thị trường của nước họ. Việt
nam tham gia vào ASEAN, APEC và đàm phán xin gia nhập WTO đồng nghĩa với
sự thay đổi sâu sắc các chính sách thương mại liên quan tới việc mở cửa thị trường.
Hiện tượng bán phá giá hàng nước ngoài chắc chắn sẽ ngày càng tăng trên thị
trường nước ta, có thể gây ra những tổn thất lớn cho các nhà sản xuất tương tự trong
nước do hàng rào bảo hộ bằng các biện pháp hạn chế định lượng có thể biến mất,
đồng thời thuế suất thuế nhập khẩu cũng giảm xuống.
Đứng trước thực tế đó, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và sớm áp dụng các
công cụ bảo hộ mới phù hợp với các quy định của Tổ chức Thương mại Thế giới
(WTO) trong đó có thuế chống bán phá giá. Đây là việc làm mang tính cấp bách và
cần thiết vì lợi ích và yêu cầu của đất nước.
Bài tiểu luận này xin đề cập tới một số nét khái quát về lý luận của việc bán
phá giá, thuế chống bán phá giá cũng như thực trạng bán phá giá hàng hóa
nước ngoài tại Việt Nam, hàng hóa Việt Nam bán phá giá ở nước ngoài và
những bài học rút ra.

2




CHƯƠNG I: BÁN PHÁ GIÁ VÀ CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
I. Bán phá giá
1. Khái niệm
Theo định nghĩa của Tổ chức thương mại thế giới (WTO), một sản phẩm bị
coi là bán phá giá nếu như giá xuất khẩu của sản phẩm được xuất khẩu từ một nước
này sang một nước khác thấp hơn mức giá có thể so sánh được của sản phẩm tương
tự được tiêu dùng tại nước xuất khẩu theo điều kiện thương mại thông thường. Như
vậy về bản chất, bán phá giá trong thương mại quốc tế là hành vi phân biệt giá cả: đối
với cùng một sản phẩm hoặc sản phẩm tương tự, nhưng giá xuất khẩu lại thấp hơn giá
tiêu thụ nội địa.
2. Điều kiện và mục tiêu bán phá giá hàng hóa
2.1 Điều kiện để một nhà xuất khẩu bán phá gía hàng hóa
-

Nhà sản xuất phải có tiểm lực kinh tế mạnh để theo đuổi chiến lược bán phá

-

giá.
Nhà xuất khẩu phải độc chiếm, không chỉ thị trường trong nước, nếu không
hàng hóa bán phá giá ở nước ngoài có thể nhập khẩu ngược trở lại vào thị

-

trường trong nước, khi đó kể hoạch bán phá giá sẽ bị phá sản.
Thị trường nước nhập khẩu không áp dụng biện phát chống bán phá giá.

2.2 Mục đích của bán phá giá hàng hóa

-

Dưới góc độ kinh tế, việc bán phá giá không phải không đem lại những lợi

-

ích nhất định;
Dưới góc độ của nước xuất khẩu, bán phá giá tạo điều kiện cho nhà sản xuất
có điều kiện phát huy tối đa năng lực sản xuất, khả năng tăng lợi nhuận và

-

thâm nhập thị trường mới;
Khi bán phá giá, các doanh nghiệp thực hiện bán phá giá có khả năng đánh
bại đối thủ, loại bỏ dần các đối thủ cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường nước
ngoài. Và tùy thuộc vào khả năng cạnh tranh và mức độ phá giá, có thể trở
thành doanh nghiệp độc quyền, độc quyền nhóm, qua đó tận dụng lợi thế của
doanh nghiệp độc quyền để tăng lợi nhuận;

3


-

Trong một số trường hợp, doanh nghiệp có mức tồn kho lớn, để giải phóng
hàng tồn kho, doanh nghiệp có thể bán phá giá để giải phóng hàng tồn kho
hoặc trong trường hợp khan hiếm ngoại tệ hoặc tìm kiếm ngoại tệ trong
trường hợp khẩn cấp, doanh nghiệp có thể thực hiện bán phá giá.

3. Tác động của bán phá giá

Tác động của hiện tượng bán phá giá được nhìn nhận ở cả hai góc độ tích cực và
tiêu cực bằng việc phân tích ảnh hưởng của nó đối với lợi ích của người tiêu dùng,
nhà sản xuất có liên quan và các doanh nghiệp kinh doanh sản phẩm cạnh tranh
nội địa.
3.1. Tích cực
3.1.1. Với người tiêu dùng
Việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá có những ảnh hưởng đáng kể đến
người tiêu dùng của nước nhập khẩu cả trong ngắn hạn và dài hạn.
Trong ngắn hạn, việc bán phá giá đã tối đa hóa lợi ích cho người tiêu dùng vì
họ có cơ hội mua được hàng hóa nhập khẩu giá rẻ. Với tâm lý vị lợi, người tiêu
dùng luôn có xu hướng lựa chọn hàng hóa phù hợp với nhu cầu sử dụng ở mức giá
thấp nhất có thể. Sự xuất hiện của hàng hóa nhập khẩu phá giá trên thị trường đã
làm tăng khả năng thỏa mãn nhu cầu của họ. Phân tích thị trường trong trạng thái
tĩnh, dùng phương pháp nhân độ thỏa dụng của từng cá nhân thành độ thỏa dụng
của cả thị trường, có thể thấy, hiện tượng bán phá giá có khả năng làm tăng
thặng dư tiêu dùng tại nước nhập khẩu. Với nguyên tắc, trong kinh tế thị trường,
lượng hàng hóa người ta mua phụ thuộc vào giá cả của nó hiện tượng bán phá giá
của hàng hóa nhập khẩu có thể là động lực kích thích tiêu dùng.
3.1.2. Với các doanh nghiệp cạnh tranh nội địa
Việc bán phá giá hàng hóa nhập khẩu còn làm tăng mức độ cạnh tranh trên
thị trường. Việc hàng hóa nhập khẩu phá giá với giá bán rẻ hơn so với hàng hóa nội
địa đã tạo ra sức ép cho ngành sản xuất nội địa trong việc tìm phương cách
nâng cao khả năng cạnh tranh theo nguyên tắc giá cả là tín hiệu đối với người
sản xuất và người tiêu dùng. Mức cạnh tranh tăng sẽ có tác dụng làm giảm sức ỳ

4


của các doanh nghiệp nội địa, làm giảm khả năng bóc lột khách hàng của các
doanh nghiệp nội địa với giả thiết rằng trước khi có hiện tượng bán phá giá của

hàng hóa nhập khẩu, các doanh nghiệp này đang có vị trí độc quyền.
3.1.3. Với nhà sản xuất có liên quan tại nước nhập khẩu
Các doanh nghiệp có liên quan được xác định là những doanh nghiệp của
nước nhập khẩu hoạt động ở ngành sản xuất khác có sử dụng hàng hóa nhập khẩu
làm nguyên liệu sản xuất. Khi hàng hóa nhập khẩu bán phá giá, các doanh nghiệp
nói trên có được nguồn nguyên liệu rẻ để sản xuất, kinh doanh, từ đó góp phần thúc
đẩy tăng trưởng cho ngành sản xuất mà họ hoạt động.
3.2. Tiêu cực
3.2.1. Với người tiêu dùng
Trong dài hạn, quyền lợi của người tiêu dùng có thể bị xâm hại nếu doanh
nghiệp nước ngoài bán phá giá hàng hóa để thực hiện chiến lược chiến đoạt thị
trường bằng cách định giá hủy diệt ngành sản xuất trong nước. Mặc dù bán phá giá
đem lại lợi ích cho người tiêu dùng ở hiện tại, song khi đã chiếm đoạt được thị
trường nhập khẩu, giá của hàng hóa nhập khẩu sẽ tăng vọt trong tương lai để các
doanh nghiệp lấy lại những gì đã mất từ việc phá giá. Người tiêu dùng lại trở
thành nạn nhân của mức giá độc quyền do các doanh nghiệp nước ngoài ấn định.
3.2.2. Với ngành sản xuất nội địa
Tác động tiêu cực của bán phá giá hàng hóa nhập khẩu chủ yếu được chứng
minh bằng những thiệt hại mà ngành sản xuất nội địa phải gánh chịu. Các doanh
nghiệp sản xuất nội địa và người lao động trong các doanh nghiệp này là nạn nhân
thực tế và trực tiếp của việc hàng hóa nhập khẩu bán phá giá. Nếu mức phá giá làm
giá cạnh tranh của sản phẩm nhập khẩu thấp hơn chi phí sản xuất của hàng hóa nội
địa, doanh nghiệp nội địa sẽ bị đẩy vào tình trạng cạnh tranh không lối thoát, hoặc
chịu lỗ để chạy đua theo mức giá phá giá, hoặc mất khách hàng. Trong trường hợp
mức phá giá làm giá cạnh tranh của hàng hóa nhập khẩu thấp hơn giá bán hiện tại
nhưng không thấp hơn chi phí sản xuất của hàng hóa nội địa thì thiệt hại mà ngành

5



sản xuất nội địa phải chịu là sự suy giảm lợi nhuận, suy giảm lợi tức đầu tư…. Tuy
nhiên, trong trường hợp này có hai khả năng trái ngược nhau xảy ra:
Thứ nhất, việc suy giảm lợi nhuận của ngành sản xuất nội địa là cần thiết cho
lợi ích chung của thị trường nước nhập khẩu do các doanh nghiệp nội địa đang chi
phối thị trường.
Thứ hai, sự suy giảm lợi nhuận làm giảm tính hấp dẫn về đầu tư của thị
trường nội địa. Khi mức phá giá đẩy mặt bằng giá hàng hóa cạnhtranh với hàng hóa
nhập khẩu trên thị trường nhập khẩu xuống gần bằng chi phí bình quân (giá thành
hàng hóa) sẽ làm giảm khả năng có lợi nhuận xuống mức tối thiểu. Đương nhiên,
sức hấp dẫn các nguồn vốn đầu tư vào ngành sản xuất nội địa sẽ giảm cho dù việc
bán phá giá không đủ để loại bỏ các doanh nghiệp đang hoạt động.
Trên góc độ vi mô, mất thị trường và mất lợi nhuận, đây thực sự là mối lo
ngại không chỉ của các nước phát triển mà của cả các nước đang phát triển, vì lợi
thế so sánh của các nước luôn thay đổi và cạnh tranh ngày càng trở nên gay gắt hơn
trên thị trường quốc tế. Chính vì lẽ đó, các doanh nghiệp sản xuất nội địa đều muốn
chính phủ bảo vệ họ trước hiện tượng bán phá giá.
Trên góc độ vĩ mô: một ngành sản xuất bị đe dọa sẽ kéo theo việc phá sản của
nhiều doanh nghiệp thuộc ngành đó, đồng thời dẫn đến tình trạng mất việc làm của
nhân viên và gây ra các tác động dây chuyền tới những ngành kinh doanh khác.
3.3 Tóm tắt khái quát
Như vậy, việc bán phá giá của h àng hóa nhập khẩu vừa có những tác
động tích cực,vừa có tác động tiêu cực cho thị trườngcủa nước nhập khẩu. Vì thế,
khi tiến hành xử lý hành vi phá giá, Nhà nước bị đặt vào tình trạng phải
giải quyết xung đột giữa quyền lợi của người tiêu dùng đang được thụ hưởng (hiện
tại đang mua được hàng hoá giá rẻ) và lợi ích của nhà sản xuất trong nước (phải
hạ giá thành để có thể cạnh tranh với hàng hoá đang phá giá, và việc mất dần thị
phần của họ). Vấn đề là Nhà nước phải lựa chọn lợi ích cơ bản cần được bảo vệ.
Đôi khi, trong các vụ việc chống bán phá giá, các lực lượng thị trường với lợi ích

6



đối lập luôn đấu tranh với nhau và tạo ra những áp lực không nhỏ để buộc cơ quan
có thẩm quyền đưa ra các quyết sách phù hợp với lợi ích của họ.
Nhìn chung, các chuyên gia kinh tế đều nhìn nhận rằng bán phá giá là hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong quan hệ kinh doanh quốc tế. Chính vì vậy, hầu
hết các quốc gia trên thế giới đều tìm mọi cách, mà trước tiên là bằng việc thỏa
thuận thông qua các điều ước quốc tế và xây dựng pháp luật quốc gia, để chống lại
hành vi bán phá giá, nhằm bảo vệ thị trường và nền sản xuất trong nước của mình.
4. Nguyên nhân bán phá giá
4.1. Bán phá giá để tối đa hóa doanh thu và lợi nhuận
Khi hành vi bán phá giá được thực hiện với mục đích tối đa hóa lợi nhuận và
doanh thu thì đương nhiên mức độ phá giá sẽ không gây lỗ cho doanh nghiệp. Tức
là, giá xuất khẩu chỉ thấp hơn giá bán nội địa của hàng hóa tương tự mà không thấp
hơn chi phí sản xuất của sản phẩm bị bán phá giá.
Để tối đa hóa lợi nhuận bằng cách bán phá giá, các doanh nghiệp có hai cách
định giá:
• Doanh nghiệp định giá theo khả năng thanh toán của người tiêu dùng tại
các vùng thị trường.
• Doanh nghiệp xuất khẩu có vị thế độc quyền trênthị trường xuất khẩu
trong khi phải cạnh tranh trên thị trường nhập khẩu.
4.2. Bán phá giá để thực hiện chiến lược đòn bẩy trong cạnh tranh.
Các doanh nghiệp xuất khẩu có thể xuất khẩu hàng hóa với mức giá thấp hơn giá
thành sản xuất để chiếm lĩnh thị trường và khoản lỗ sẽ được bù bằng lợi nhuận của
hàng hóa tiêu thụ trên thị trường nội địa. Trong trường hợp này, hành vi bán phá giá
đư ợc thực hiện nhằm chiếm đoạt thị phần trên thị trường nhập khẩu. Theo đó, các
doanh nghiệp xuất khẩu có thể thực hiện:
• Các chiến lược cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu để thu được lợi
nhuận độc quyền (có thể bằng các thỏa thuận ấn định giá, thỏa
thuận giảm sản lượng để chi phối giá…).


7


• Đồng thời, xuất khẩu với mức giá lỗ để giành ưu thế cạnh tranh về giá
với các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa cạnh tranh của nước nhập khẩu
và các doanh nghiệp xuất khẩu hàng hóa cạnh tranh từ nước thứ ba.
Với mức giá có ưu thế trong cạnh tranh, doanh nghiệp xuất khẩu giành được
thị phần, thậm chí có thể loại bỏ được các đối thủ cạnh tranh trên thị trường nước
nhập khẩu. Tuy nhiên, nếu tính tổng thể, doanh nghiệp không bị lỗ do đã được bù
khoản lỗ trong hoạt động xuất khẩu bằng lợi nhuận độc quyền trên thị trường nội
địa. Tiêu biểu cho chiến lược đòn bẩy là việc định giá xuất khẩu theo chi phí biến
đổi bình quân. Trong tình huống này, dù giá trên thị trường nội địa cao hơn và giá
xuất khẩu lại thấp hơn chi phí bình quân, song doanh nghiệp vẫn có được lợi nhuận
từ hai thị trường. Mặc dù hành vi bán phá giá đã cấu thành, song người chịu thiệt
hại trực tiếp là người tiêu dùng trên thị trư ờng xuất khẩu và các doanh nghiệp cạnh
tranh trên thị trường nhập khẩu.
4.3. Bán phá giá hàng hóa để thực hiện các chiến lược củng cố thị trường tiêu thụ.
Các doanh nghiệp có thể thực hiện việc bán phá giá với mức giá xuất khẩu
gây lỗ (thấp hơn giá thành của hàng hóa) để tạo thói quen tiêu dùng trên thị trường
nhập khẩu nhằm mở rộng thị trường; hoặc giữ chân những khách hàng có
khả năng chuyển sang nhà cung cấp khác.
4.4. Đôi khi việc bán phá giá là việc bất đắc dĩ
Do nhà sản xuất, xuất khẩu không bán được hàng, sản xuất bị đình trệ, sản
phẩm lưu kho lâu ngày có thể bị hỏng… nên đành bán tháo để thu hồi vốn. Trong
thương mại quốc tế, thuế chống bán phá giá có thể bị áp đặt mà không quan tâm đến
lí do vì sao nhà sản xuất bán phá giá.
Tuy nhiên như đã phân tích bên trên bán phá giá có những tác động tích cực
đối với nền kinh tế.Vì thế không phải mọi hành vi bán phá giá đều bị áp dụng biện
pháp chống bán phá giá. Cụ thể chỉ khi vi phạm ba điều sau theo WTO:

• Hàng nhập khẩu bị bán phá giá
• Ngành sản xuất tương tự của nước nhập khẩu bị thiệt hại đáng kể
• Có mối quan hệ nhân quả giữa việc bán hàng nhập khẩu bán phá giá và thiệt hại nói
trên.

8


Những hành động bán phá giá không nhằm loại bỏ đối thủ cạnh tranh thì
không bị coi là bán phá giá (ví dụ: bán hàng tươi sống, bán hàng thanh lý, bán hàng
hạ giá theo mùa, bán hàng tồn kho đã lỗi thời về kiểu dáng và công nghệ nhưng vẫn
còn thời hạn sử dụng; bán hàng sắp hết hạn sử dụng...).
II. Chống bán phá giá
1. Khái niệm
Xuất phát từ quan điểm cho rằng hành vi bán phá giá, ở một mức độ nghiêm
trọng nhất định là hành vi thương mại không công bằng, luật lệ của GATT trước đây
và WTO hiện nay đều cho phép các quốc gia áp dụng biện pháp có tính trả đũa, tự
vệ thương mại. Trong các biện pháp hạn chế thương mại như áp dụng hạn ngạch,
hạn chế số lượng, tăng thuế, các biện pháp hạn chế có tính kỹ thuật, phi thuế quan
khác, để chống lại hành vi bán phá giá, các quốc gia chỉ có quyền áp dụng biện
pháp tăng thuế nhập khẩu. Đó chính là hành vi chống bán phá giá của một quốc gia.
Nói cách khác, quốc gia bị thiệt hại chỉ có thể áp dụng biện pháp là đánh thuế bổ
sung (thuế chống bán phá giá) đối với hàng hóa nhập khẩu bị xác định là bán phá
giá. Các biện pháp hạn chế số lượng hay các biện pháp hạn chế phi thuế quan khác
không được coi là hợp pháp.
Vậy thuế chống bán phá giá ở đây chính là khoản thuế bổ sung bên cạnh thuế
nhập khẩu thông thường, đánh vào sản phẩm nước ngoài bị bán phá giá vào nước
nhập khẩu. Đây là loại thuế nhằm chống lại việc bán phá giá và loại bỏ những thiệt
hại do việc hàng nhập khẩu bán phá giá gây ra. Trên thực tế, thuế chống bán phá giá
được nhiều nước sử dụng như một hình thức "bảo hộ hợp pháp" đối với sản xuất nội

địa của mình. Để ngăn chặn hiện tượng lạm dụng biện pháp này, các nước thành
viên WTO đã cùng thoả thuận về các quy định bắt buộc phải tuân thủ liên quan đến
việc điều tra và áp đặt thuế chống bán phá giá, tập trung trong một Hiệp định về
chống bán phá giá của WTO - Hiệp định ADA. Và quyền áp dụng thuế bán phá giá
của quốc gia bị thiệt hại thực chất là quyền có tính ngoại lệ đối với hai nguyên tắc
trong thương mại đa biên: Thứ nhất, đó là ngoại lệ đối với nguyên tắc Đối xử tối
huệ quốc (MFN). Thuế chống bán phá giá chỉ áp dụng đối với hàng hóa cụ thể của
quốc gia xuất khẩu cụ thể, đã bị xác định là đối tượng của hành vi bán phá giá; Thứ
9


hai, áp dụng thuế bán phá giá cũng là ngoại lệ đối với nguyên tắc tôn trọng các cam
kết về cắt giảm thuế. Quốc gia bị thiệt hại không có nghĩa vụ tôn trọng giữ nguyên
mức thuế đã cam kết đối với các hàng hóa nhập khẩu là đối tượng của hành vi bán
phá giá bị cấm.
2. Mục tiêu, bản chất của các biện pháp chống bán phá giá
Như đã phân tích ở trên, ta thấy rằng bán phá giá bị coi là hành vi thương
mại quốc tế không công bằng. Như vậy, để tạo dựng lại thế cạnh tranh cân bằng
giữa sản phẩm trong nước và sản phẩm nhập khẩu, bảo vệ thị trường nội địa chống
lại các hành vi cạnh tranh quốc tế không lành mạnh, các quốc gia có quyền áp dụng
các biện pháp chống bán phá giá để bù đáp lại những thiệt hại cho ngành sản xuất
nội địa phải gánh chịu do hành vi bán phá giá gây ra.
Mặc dù mục tiêu của các biện pháp chống bán phá giá được cho là để đảm
bảo sự công bằng trong thương mại quốc tế nhưng thực tế không đơn giản như vậy.
Đối với các nước đang phát triển như Ấn Độ, Brazil, Achentina… sử dụng các biện
pháp chống bán phá giá để bảo vệ nền sản xuất còn non trẻ của chính mình. Đối với
các quốc gia phát triển, các biện pháp chống bán phá giá vừa là công cụ để hạn chế
mở cửa thị trường, đồng thời hạn chế sự thâm nhập thị trường từ các nước đang
phát triển.
Mặt khác, vì các quốc gia có quyền tự do trong việc xây dựng các thủ tục để

xác định các hiện tượng bán phá giá và áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối
với hàng hóa nhập khẩu vào nước mình, do đó, nhiều quốc gia đã lạm dụng các biện
pháp chống bán phá giá một cách tùy tiện để hạn chế nhập khẩu, hơn là để đạt được
mục tiêu khắc phục có tính hạn chế mà Hiệp định chống bán phá giá của WTO cho
phép.
Theo đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực này thì chống bán phá giá
không phải là chính sách công mà là chính sách tư. Đó là một phương tiện mà đối
thủ cạnh tranh có thể sử dụng quyền lực cử Nhà nước để giành lợi thế trước các đối
thủ khác. Xét từ góc độ bảo hộ sản xuất trong nước, bên hưởng lợi là ngành công
nghiệp nội địa và nạn nhân của các biện pháp này là các nhà sản xuất, xuất khẩu
nước ngoài. Chúng ta có thể nhận thấy rõ hơn bản chất và mục đích này thông qua
10


một bản báo cáo của Ủy ban Thương mại Quốc tế Hoa kỳ “… mục đích của pháp
luật chống bán phá giá và chống trợ cấp không phải là bảo vệ người tiêu dùng mà là
bảo vệ các nhà sản xuất… Thực chất, chức năng của pháp luật chống bán phá giá là
để bảo vệ cho các công ty và những người lao động tham gia vào hoạt động sản
xuất ở Hoa Kỳ. Vì vậy, chẳng có gì đáng ngạc nhiên khi người hưởng lợi từ các lợi
ích kinh tế này là các nhà sản xuất và các chi phí kinh tế sẽ do người tiêu dùng gánh
chịu.
Hơn nữa, các quy định chống bán phá giá là là một biện pháp khắc phục
thương mại mà các thành viên của WTO đã đông ý rằng là cần thiết để duy trì hệ
thống thương mại đa phương. Động cơ kinh tế để sử dụng biện pháp chống bán phá
giá là nhằm để duy trì thương mại công bằng. Tuy nhiên, theo một nghiên cứu gần
đây cho thấy rằng có 90% các biện pháp này không nhằm bảo vệ cạnh tranh lành
mạnh hoặc thương mại công bằng, mà ngược lại, nó quay lại bóp méo dòng chảy
thương mại quốc tế và hạn chế sự phát triển nội tại khách quan của hoạt động này,
đi ngược lại mục đích của WTO.
Trông quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, với những ưu thế về lực

lượng lao động trẻ, đông về số lượng, rẻ về giá thành, trong bối cảnh thực hện chính
sách tăng cường xuất khẩu. Việc hàng hóa Việt Nam là đối tượng chịu sựu áp đặt
các biện pháp chống bán phá giá của nhiều thị trường khác là không tránh khỏi. Do
đó, các doanh nghiệp Việt Nam cần chủ động tìm hiểu đầy đủ các quy định về bán
phá giá, chống bán phá giá của WTO, cũng như của các quốc gia nhập khẩu, để từ
đó xây dựng các biện pháp đối phó một cách hữu hiệu và hiệu quả hơn.
3. Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Các quy định của tổ chức Thương mại thế giới về các biện pháp chống bán
phá giá cho phép chính phủ các nước được phép đánh thuế chống bán phá giá với
điều kiện có tiến hành điều tra và xác định được tình trạng bán phá giá của hàng
nhập khẩu, việc nhập khẩu hàng hóa phá giá đó gây ra (hoặc có nguy cơ gây ra) sự
thiệt hại nghiêm trọng cho ngành công nghiệp trong nước sản xuất ra những sản
phẩm tương tự hoặc gây cản trở đối với việc hình thành một ngành sản xuất trong
nước. Yêu cầu áp dụng biện pháp chống phá giá phải do ngành công nghiệp trong
11


nước nêu ra. Các chính phủ không được áp dụng biện pháp nào nếu không được sự
ủng hộ của các công ty đại diện cho 25% tổng sản lượng những sản phẩm giống
(cùng loại) với hàng hóa được coi là bán phá giá. Ngay cả khi sự phá giá là nghiêm
trọng thì các biện pháp chống phá giá cũng chưa chắc được áp dụng nếu ngành công
nghiệp đó không chứng minh được khó khăn là do phá giá, mà không phải kết quả
của nguyên nhân khác.
4. Cách tính biên độ phá giá
 Biên độ phá giá là mức độ chênh lệch giữa giá thông thường và giá xuất khẩu (tính
trên giá xuất khẩu). Giá thông thường càng cao hơn giá xuất khẩu thì biên độ phá
giá càng lớn. Biên độ phá giá được tính riêng cho từng nhà sản xuất – xuất khẩu
nước ngoài hoặc tính chung cho một nhóm nhà sản xuất – xuất khẩu nước ngoài tùy
thuộc vào việc họ có hợp tác tham gia vụ điều tra hay không.
→ Công thức tính biên độ phá giá:


Trong đó:


Giá thông thường là giá bán của sản phẩm tương tự tại thị trường

nước xuất khẩu (hoặc sản phẩm tương tự từ nước xuất khẩu sang một nước
thứ ba; hoặc giá xây dựng từ tổng chi phí sản xuất ra sản phẩm, chi phí quản
lý, bán hàng hóa và khoản lợi nhuận hợp lý – WTO có quy định cụ thể các
điều kiện để áp dụng phương pháp này)

Giá xuất khẩu là giá trên hợp đồng giữa nhà sản xuất (hoặc giá bán
cho người mua độc lập đầu tiên)
 Ngoài phương pháp tính biên độ phá giá trên, hiện nay, còn một cách khác được
các nước phát triển sử dụng, điển hình là Hoa Kỳ, đó là phương pháp Zeroing (Quy
về 0). Phươngpháp này cho phép quy về 0 tất cả các giao dịch có biên độ phá giá
âm.
Ví dụ, nếu một nhà xuất khẩu bị điều tra thực hiện 5 giao dịch xuất khẩu, trong đó
có 2 giao dịch xuất khẩu có biên độ phá giá là 20%, 1 giao dịch có biên độ phá giá

12


bằng 0 và 2 giao dịch có biên độ phá giá -25% thì nếu không sử dụng phương pháp
Zeroing, bình quân biên độ phá giá của nhà xuất khẩu này sẽ là:
 (20% + 20% + 0% - 20% - 25%): 5 = -2%
(Với biên độ phá giá âm, tức là không phá giá, nhà xuất khẩu này sẽ không bị áp
thuế)
Tuy nhiên, nếu sử dụng Zeroing thì biên độ phá giá trung bình sẽ là:
 (20% + 20% + 0% + 0% + 0%): 5 = 8%

(Và kết quả là nhà xuất khẩu sẽ bị áp thuế 8%).
Như vậy có thể thấy đây là phương pháp thiên vị cho nước nhập khẩu đặc biệt đối
với các nước phát triển, nó được áp dụng trước khi Đạo luật chống bán phá giá năm
1995 được ban hành, nhưng đến nay đã được tổ chức Thương mại thế giới bác bỏ
hoàn toàn.
5. Cách xác định thiệt hại
Việc xác định thiệt hại là một bước không thể thiếu trong một vụ điều tra
chống bán phá giá và chỉ khi kết luận điều tra khẳng định có thiệt hại đáng kể cho
ngành sản xuất nội địa nước nhập khẩu thì nước nhập khẩu mới có thể xem xét việc
áp dụng các biện pháp chống bán phá giá.
Để xác định thiệt hại, ta cần xem xét phương diện sau:
• Về hình thức: các thiệt hại này có thể tồn tại dưới 2 dạng: thiệt hại thực
tế (thiệt hại về vật chất đối với một ngành sản xuất trong nước) hoặc
thiệt hại tương lai (nguy cơ gây thiệt hại về vật chất đối với một ngành
sản xuất trong nước).
• Về mức độ: thiệt hại này phải ở mức đáng kể.
• Về phương pháp: các thiệt hại thực tế được xem xét trên cơ sở phân tích
tất cả các yếu tố có liên quan đến thực trạng của ngành sản xuất nội địa
(ví dụ tỷ lệ và mức tăng lượng nhập khẩu, thị phần của sản phẩm nhập
khẩu, thay đổi về doanh số, sản lượng, năng suất, nhân công…).
Để xác định nguy cơ gây thiệt hại cho ngành sản xuất trong nước cần quan
tâm đến các yếu tố sau:
• Tốc độ tăng nhập khẩu và khả năng tăng nhập khẩu trong tương lai.

13


• Khả năng tăng năng lực xuất khẩu của nhà xuất khẩu dẫn đến khả năng
tăng nhập khẩu.
• Tình hình hàng nhập khẩu làm giảm sút giá sản phẩm tương tự ở nước

nhập khẩu.
• Số lượng tồn kho sản phẩm tương tự ở nước nhập khẩu.

14


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG BÁN PHÁ GIÁ, CHỐNG BÁN
PHÁ GIÁ VÀ BÀI HỌC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
I. Bán phá giá hàng hóa nước ngoài tại Việt Nam
1. Thực trạng
1.1 Vụ kiện về mặt hàng thép không gỉ cán nguội nhập khẩu vào Việt Nam
Thời gian gần đây, trong tiến trình mở cửa thị trường ngày càng sâu, rộng và
sức ép cạnh tranh từ hàng nhập khẩu tại thị trường trong nước ngày càng lớn, một
số Hiệp hội/Doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu sử dụng các công cụ phòng vệ
thương mại (chống bán phá giá, chống trợ cấp và biện pháp tự vệ) để bảo vệ lợi ích
hợp pháp của ngành trước hàng hóa nước ngoài. Một trong số đó phải kể đến vụ
kiện tiêu biểu với mặt hàng thép không gỉ cán nguội nhập khẩu vào Việt Nam từ các
nước/vùng lãnh thổ: Cộng hòa nhân dân Trung Hoa, Ma-lai-xi-a và In-đô-nê-xi-a và
Lãnh thổ Đài Loan.
Một số thông tin về vụ việc:
- Cơ quan điều tra: Cục Quản lý cạnh tranh – Bộ Công Thương;
- Nguyên đơn: Công ty TNHH POSCO VST và Công ty cổ phần Inox Hòa Bình;
- Giai đoạn điều tra: từ ngày 01/04/2012 đến ngày 31/03/2013;
- Sản phẩm bị điều tra: Thép không gỉ cán nguội.
Nội dung vụ việc:
Theo cáo buộc của Posco VST và Inox Hòa Bình, sản phẩm thép không gỉ
nhập khẩu từ 4 nước/vùng lãnh thổ nêu trên vào Việt Nam đang được bán phá giá
và hành vi bán phá giá này đã và đang gây ra những thiệt hại đáng kể đối với ngành
công nghiệp sản xuất thép không gỉ cán nguội của Việt Nam nói chung và nguyên
đơn nói riêng.

Cục Quản lý Cạnh tranh cũng cho hay, năm 2010, doanh thu sản xuất thép
trong nước tăng 280,39% so với 2009. Tuy nhiên con số này không được duy trì kể
từ 2011 (chỉ tăng 39,33%). Trong giai đoạn điều tra chống bán phá giá từ
01/04/2012 đến 31/3/2013, doanh thu chỉ cao hơn cùng kỳ trước đó 18,61%.

15


Bộ Công Thương cho rằng, trong khi công suất của ngành tăng 120%, sản
lượng tăng hơn 51,89% thì việc doanh thu chỉ tăng hơn 18% đã phản ánh sự không
bình thường trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành thép gỉ tại thị trường
trong nước.

Ngành thép nội bị ảnh hưởng khi có hiện tượng bán phá giá thép
không gỉ. Ảnh: Oristar
Bộ nhìn nhận có hiện tượng bán phá giá thép không gỉ của 4 nước dẫn đến
ngành sản xuất thép trong nước chiu thiệt hại ở mức đáng kể. "Nếu tình trạng bán
phá giá của hàng hóa từ 4 nước, lãnh thổ thuộc phạm vi điều tra tiếp diễn, ngành sản
xuất trong nước sẽ tiếp tục chịu thiệt hại về sau", Cục Quản lý cạnh tranh khẳng
định.
Do vậy, để duy trì sân chơi lành mạnh cho thị trường trong nước, tạo điều
kiện cho ngành sản xuất trong nước phát triển ổn định, Cục Quản lý cạnh tranh kiến
nghị áp dụng biện pháp chống bán phá giá tạm thời trong vòng 120 ngày đối với các
nhà sản xuất, xuất khẩu của 4 nước Trung Quốc, Indonesia, Malaysia và Đài Loan.
Theo đó, mức thuế chống bán phá giá đối với các nhà sản xuất của Trung
Quốc thấp nhất, từ 6,45% đến 6,99%. Mức thuế áp cao nhất được áp cho công ty
Yuan Long Stainless Steel Corp của Đài Loan (Trung Quốc) với hơn 30%. Các nhà
sản xuất thép không gỉ của Indonesia; Malaysia lần lượt là 12,03% và 14,38%.
Mức thuế chống bán phá giá được áp dụng cụ thể như sau:


16


Nước/vùng
lãnh thổ
Trung Quốc

Indonesia
Malaysia

Đài Loan

Tên nhà sản xuất/ xuất khẩu

Mức thuế áp

Lianzhong Stainless Steel Corporation
Fujian Southeast Stainless Steel Co., Ltd.
Các nhà sản xuất khác
PTJindal Stainless Indonesia
Các nhà sản xuất khác
Bahru stainless Sdn Bhd
Các nhà sản xuất khác
Yieh United Steel Corporation
Yuan Long Stainless Steel Corp

6,99%
6,45%
6,68%
12,03%

12,03%
14,38%
14,38%
13,23%
30,73%

Các nhà sản xuất khác

13,23%

Việc bán phá giá thép không gỉ cán nguội rõ ràng đã gây ra thiệt hại lớn cho
thị trường trong nước tuy nhiên mâu thuẫn trong ngành thép nổ ra khi có tới hơn 20
doanh nghiệp trong ngành thép cho rằng áp thuế chống bán phá giá sẽ gây thiệt hại
cho doanh nghiệp trong nước khi giá nguyên liệu tăng cao. Như vậy ta có thế thấy
xung quanh vụ kiện này không chỉ là vấn đề bảo vệ thị trường thép trong nước mà
đi cùng với nó còn rất nhiều quan ngại.
 Với người tiêu dùng:
Trước hết việc áp mức thuế CBPG với mặt hàng thép không gỉ cán nguội sẽ
có ảnh hưởng trực tiếp tới người tiêu dùng. Ông Đàm Quang Hùng, Phó Tổng giám
đốc Công ty cổ phần Quốc tế Sơn Hà cho biết, các doanh nghiệp sản xuất sản phẩm
từ thép không gỉ cán nguội sẽ khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn nguyên liệu
có giá thành cạnh tranh, đảm bảo chất lượng và kỹ thuật, do giá thành nguyên liệu
sẽ bị đẩy lên cao, từ đó làm ảnh hưởng đến giá bán, nguy cơ lạm phát tăng cao và
giá trị xuất khẩu suy giảm. Hệ quả của việc này còn khiến người tiêu dùng trong
nước khó có khả năng tiếp cận các sản phẩm được sản xuất từ thép không gỉ.
 Bên cạnh đó còn là những lo lắng về dấu hiệu độc quyền.
Theo một số nhà kinh tế hệ quả của việc này còn dẫn tới độc quyền nhóm
trong việc sản xuất sản phẩm thép không gỉ cán nguội do nguồn nguyên liệu sản
17



xuất là thép không gỉ cán nóng chưa sản xuất được tại Việt Nam. Ông Hùng phân
tích: “Xét về tổng thị phần ngành sản xuất thép tại Việt Nam hiện nay, Công ty
Posco VST và Hòa Bình Inox đang giữ vị trí thống lĩnh thị trường (chiếm khoảng
30% thị phần). Nếu áp dụng biện pháp CBPG đối với sản phẩm thép không gỉ cán
nguội NK sẽ dẫn tới thực tế hai Công ty trên có thể sử dụng lợi thế thị phần để đẩy
giá mặt hàng thép lên cao, vì không có sự cạnh tranh ngang bằng”.
Đại diện một doanh nghiệp thép không gỉ khác cho biết thêm, hiện nay Hòa
Bình Inox mới trong quá trình lắp đặt dây chuyền sản xuất và chưa đi vào sản xuất
thử cũng như sản xuất sản phẩm thương mại cung cấp ra thị trường. Posco VST đã
tiến hành sản xuất sản phẩm từ năm 2010 có bề mặt PP và đến năm 2012 mới đưa
vào sản xuất sản phẩm thép không gỉ có bề mặt 2B nên chất lượng sản phẩm không
ổn định, có nhiều chủng loại thép không gỉ phục vụ sản xuất trong nước chưa đáp
ứng được.
Như vậy trong khi đang phải đối mặt với bao khó khăn của nền kinh tế tác
động tới mọi hoạt động sản xuất của doanh nghiệp, vụ kiện đã gây thêm nhiều khó
khăn cho các doanh nghiệp trong nước cũng như người tiêu dùng.

1.2 Vụ kiện dầu ăn ‘Chiến tranh dầu ăn’
Một số thông tin về vụ việc:
- Cơ quan điều tra: Cục Quản lí cạnh tranh, Bộ Công Thương
- Nguyên đơn: Các nhà sản xuất dầu ăn trong nước
- Giai đoạn điều tra: từ ngày 01/01/2012 đến ngày 31/12/2012.
- Sản phẩm bị điều tra: dầu ăn
Nội dung vụ việc:
Giá nhập khẩu rẻ cộng với thuế 0% giúp nhiều mặt hàng dầu ăn xuất xứ
từ Malaysia, Singapore, Indonesia... ồ ạt vào Việt Nam.

18



Dầu -thực vật tinh luyện nhập
khẩu vào Việt Nam bị áp dụng
biện pháp tự vệ tạm thời dưới
dạng thuế nhập khẩu với mức 5%.

Tình trạng này khiến các nhà sản xuất dầu ăn trong nước điêu đứng, buộc phải
yêu cầu Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương) áp dụng biện pháp tự vệ. Ngay
sau khi tiếp nhận đơn kiến nghị, Bộ trưởng Bộ Công Thương đã ra quyết định tiến
hành điều tra. Kết quả cho thấy, từ 2009 – 2011, lượng dầu thực vật sản xuất trong
nước và dầu thực vật nhập khẩu có thị phần tương đương nhau, nhưng đến thời
điểm 2012, khi dầu thực vật nhập khẩu tràn ngập thị trường, thị phần dầu trong
nước co lại chỉ còn 14%.
Về giá bán, bình quân giai đoạn 2009 – 2011 giá của các sản phẩm nhập khẩu
thấp hơn nhiều so với các sản phẩm trong nước sản xuất khiến lợi nhuận của các
DN Việt Nam bị ảnh hưởng. Doanh thu giảm 66% và lợi nhuận ròng giảm 197% so
với năm 2011. Sự suy giảm này xảy ra đồng thời với việc lượng nhập khẩu gia tăng
đột biến trong năm 2012, tăng từ 48% lên đến 73%.
 Sự việc đối với người tiêu dùng :

Người tiêu dùng cũng không được lợi vì giá bán lẻ dầu nhập khẩu không rẻ.
Lợi nhuận từ giá nhập khẩu thấp chủ yếu rơi vào các tầng nấc phân phối.
 Dầu ngoại tấn công

Tại các siêu thị lớn ở TP.HCM, thời gian gần đây người tiêu dùng đã không
còn lạ lẫm với các loại dầu ăn nhập khẩu từ Malaysia, Indonesia, Singapore... Các
19


thương hiệu như Sailing Boat (dầu ăn Cánh Buồm), Knife, Cooking Kudu, Omely,

đậu nành Capri... đều có nguồn gốc nhập khẩu được bày bán khá nhiều. Đây là
những mặt hàng được đóng chai tại các nước xuất khẩu do một số công ty như:
công ty trách nhiệm hữu hạn Lam Soon Việt Nam, công ty cổ phần Lộc Thái, công
ty cổ phần Kết nối toàn cầu, công ty cổ phần Công nghiệp thực phẩm Việt Nam...
nhập khẩu, phân phối.
Theo giới nhập khẩu và phân phối dầu ăn, sự có mặt của các nhãn hiệu dầu ăn
trên chỉ phản ánh được một phần của bức tranh dầu ăn nhập khẩu tràn vào Việt
Nam.
Mặc dù giá bán lẻ trên thị trường không rẻ hơn so với hàng nội nhưng sở dĩ
các công ty thương mại, công ty sản xuất dầu ăn đua nhau nhập khẩu cả hàng đóng
chai và dầu dạng can lớn về đóng chai là do giá gốc của dầu nhập khẩu rẻ hơn rất
nhiều. Theo thông tin từ hải quan các cửa khẩu tại TP.HCM, dầu đậu nành tinh
luyện nhập khẩu qua các cửa khẩu khu vực TP.HCM có giá nhập trung bình năm
2012 chỉ khoảng 13.000 đồng/lít, dầu cọ tinh luyện giá khoảng 12.700 đồng/lít.
Nhóm hàng dầu cọ tinh luyện có quy cách đóng gói không quá 20kg/sản phẩm giá
chừng 17.200 đồng/lít. Cơ quan hải quan cho biết những nhóm hàng này chủ yếu có
nguồn gốc từ các nước ASEAN vì đây là khu vực đang được hưởng thuế suất thuế
nhập khẩu ưu đãi 0%.
 Dầu nội teo tóp thị phần

Sự đổ bộ của hàng nhập khẩu giá rẻ khiến các mặt hàng này nhanh chóng
chiếm lĩnh được hệ thống phân phối. Trong khi người tiêu dùng chưa được hưởng
lợi (giá bán lẻ hàng nhập khẩu tương đương hàng sản xuất trong nước) thì ngành
công nghiệp dầu ăn trong nước đã rơi vào thế khốn đốn. Đó là lý do các doanh
nghiệp dầu ăn buộc phải đưa đơn kiện chống bán phá giá và đề nghị áp thuế với
hàng nhập khẩu.
Giữ vai trò đại diện cho nguyên đơn là tổng công ty Công nghiệp dầu thực vật
Việt Nam - công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên (Vocarimex) cùng bảy
doanh nghiệp sản xuất dầu tinh luyện có liên quan khác như công ty cổ phần dầu
thực vật Tường An, công ty trách nhiệm hữu hạn dầu thực vật Cái Lân, công ty dầu

20


ăn Golden Hope Nhà Bè... Các công ty này đều đồng loạt ký tên trong đơn cáo buộc
dầu đậu nành và dầu cọ tinh luyện nhập khẩu từ Malaysia, Indonesia và Singapore
với lượng nhập khẩu trong năm 2012 tăng 132% so với năm 2011, đang bán giá
thấp hơn các doanh nghiệp sản xuất trong nước ít nhất từ 1,84-2,24%.

Biều đồ cho thấy sự thay đổi thị phần trong ngành dầu ăn.
Theo Vocarimex, trước khi khởi kiện, năm 2011 thị phần của Vocarimex đang
giữ 17%, của các nhà sản xuất trong nước 40%, và hàng nhập khẩu 43%. Nhưng
sang năm 2012, cục diện thay đổi hoàn toàn khi thị phần Vocarimex chỉ còn 4%, các
nhà sản xuất trong nước khác “teo” lại còn 10%, trong khi hàng nhập khẩu vọt lên
chiếm 86% thị phần. Theo một số doanh nghiệp trong nước, khi thấy lượng hàng
nhập khẩu gia tăng đột biến, đồng thời các nhà xuất khẩu nước ngoài giảm giá bán
xuống mức thấp hơn giá bán của các nhà sản xuất nội địa, Vocarimex đã buộc phải
hạ giá bán để cạnh tranh với hàng nhập khẩu dù tổng chi phí đang gia tăng, thậm chí
phải cắt giảm sản xuất. Nếu tình hình này tiếp diễn, hoạt động sản xuất và kinh
doanh của Vocarimex nói riêng và các nhà sản xuất dầu thực vật khác trong nước sẽ
bị ngưng trệ và có nguy cơ phá sản.
 Kết quả cuối cùng :

Theo quyết định này, các mặt hàng dầu nành tinh luyện, dầu cọ tinh luyện với
mã HS: 1507.90.90, 1511.90.91, 1511.90.92, 1511.90.99 nhập khẩu vào Việt Nam
từ các nước/vùng lãnh thổ khác nhau sẽ bị áp thuế phá giá.
Sản lượng sản xuất trong nước giảm đột ngột, chỉ còn 64% so với năm 2011.
Các doanh nghiệp đã phải cắt giảm công suất từ 89% xuống còn 31% năm 2012.
Công suất sử dụng đối với nhà máy tách phân đoạn giảm từ 76% xuống còn 22%.
21



Bộ Công Thương nhận định, sự tràn ngập của sản phẩm dầu thực vật nhập khẩu trên
thị trường Việt Nam đã gây ra các thiệt hại nghiêm trọng cho các DN trong nước.
Do vậy, Bộ quyết định sẽ áp dụng biện pháp tự vệ chính thức đối với dầu thực vật
kể từ ngày 07/09/2013.
2. Các quy định về bán phá giá hàng hóa nước ngoài tại Việt Nam
Điều1. Phạm vi điều chỉnh
Pháp lệnh này quy định về các biện pháp chống bán phá giá; thủ tục, nội dung điều
tra để áp dụng và việc áp dụng các biện pháp đó đối với hàng hóa bị bán phá giá
nhập khẩu vào Việt Nam.

Điều2. Giải thích từ ngữ
Trong Pháp lệnh này, các từ ngữ dướiđây được hiểu như sau:
1. Thuế chống bán phá giá là thuế nhập khẩu bổ sung được áp dụng trong trường
hợp hàng hoá bị bán phá giá nhập khẩuvào Việt Nam gây ra hoặc đe dọa gây ra thiệt
hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.
2. Biên độ bán phá giá là khoảng chênh lệch có thể tính được giữa giá thông thường
của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam so với giá xuất khẩu hàng hóa đó vào Việt
Nam.
3. Biên độ bán phá giá không đáng kể là biên độ bán phá giá không vượt quá 2%
giá xuất khẩu hàng hóa vào Việt Nam.
4. Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam
không đáng kể là khi khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa bán phá giá nhập
khẩuvào Việt Nam đáp ứng các điều kiện sauđây:
a) Khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá bán phá giá từ một nước không vượt
quá 3% tổng khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa tương tự nhập khẩu vào
Việt Nam;

22



b) Tổng khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hoá bán phá giá từ nhiều nước đáp
ứng điều kiện quy định tại điểm a khoản này không vượt quá 7% tổng khối lượng,
số lượng hoặc trị giá hàng hóa tương tự nhập khẩu vào Việt Nam.
5. Ngành sản xuất trong nướclà tập hợp các nhà sản xuất trong nước hoặc đại diện
của họ có khối lượng, số lượng hoặc trị giá hàng hóa sản xuất chiếm tỷ lệ chủ yếu
trong tổng khối lượng,số lượng hoặc trị giá hàng hoá tương tự được sản xuất ở trong
nước với điều kiện các nhà sản xuất này không nhập khẩu và không có mối quan hệ
liên kết trực tiếp với tổ chức, cá nhân xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa bị yêu cầu áp
dụng biện pháp chống bán phá giá.
6. Hàng hóa tương tự là hàng hoá cótất cả các đặc tính giống với hàng hoá bị yêu
cầu áp dụng biện pháp chống bán phá giá hoặc trong trường hợp không có hàng hoá
nào như vậy thì là hàng hoá có nhiều đặc tính cơ bản giống với hàng hoá bị yêu cầu
áp dụng biện pháp chống bán phá giá.
7. Thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước là tình trạng suy giảm đáng kể
hoặc kìm hãm tăng trưởng về sản lượng, mức giá, mức tiêu thụ hàng hoá, lợi nhuận,
tốc độ phát triển sản xuất, việc làm của người lao động, đầu tư và các chỉ tiêu khác
của ngành sản xuất trong nước hoặc là tình trạng dẫn đến khó khăn cho việc hình
thành một ngành sản xuất trong nước.
8. Đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước là khả năng trước
mắt, rõ ràng và chứng minh được sẽ gây ra thiệt hại đáng kểcho ngành sản xuất
trong nước.

Điều3. Xác định hàng hoá bị bán phá giá nhập khẩu vào Việt Nam
1. Hàng hóa có xuất xứ từ nước hoặc vùng lãnh thổ bị coi là bán phá giá khi nhập
khẩu vào Việt Nam (sau đây gọi là hàng hoá bán phá giá vào Việt Nam) nếu hàng
hoá đó được bán với giá thấp hơn giá thông thường theo quy địnhtại khoản 2 và
khoản 3 Điều này.

23



2. Giá thông thường của hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam là giá có thể so sánh
được của hàng hoá tương tự đang được bán trên thị trường nội địa của nước hoặc
vùng lãnh thổ xuất khẩu theo các điều kiện thương mại thông thường.
3. Trong trường hợp không có hàng hoá tương tự được bán trên thị trường nội địa
của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc có hàng hoá tương tự được bán trên thị
trường nội địa của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu nhưng với khối lượng, số
lượng hoặc trị giá hàng hóa không đáng kể thì giá thông thường của hàng hoá nhập
khẩu vào Việt Nam được xác định theo một trong hai cách sau đây:
a) Giá có thể so sánh được của hàng hoá tương tự của nước hoặc vùng lãnh thổ xuất
khẩu đang được bán trên thị trường một nước thứ ba trong các điều kiện thương mại
thông thường;
b) Giá thành hợp lý của hàng hoá cộng thêm các chi phí hợp lý khác và lợi nhuận ở
mức hợp lý, xét theo từng công đoạn từ sản xuất đến lưu thông trên thị trường của
nước hoặc vùng lãnh thổ xuất khẩu hoặc nước thứ ba.

Điều4. Các biện pháp chống bán phá giá
1. Áp dụng thuế chống bán phá giá.
2. Cam kết về các biện pháp loại trừ bán phá giá của tổ chức, cá nhân sản xuất, xuất
khẩu hàng hóa bị yêu cầu áp dụng biện pháp chốngbán phá giá với cơ quan nhà
nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam hoặc với
các nhà sản xuất trong nước nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng
biện pháp chống bán phá giá của Việt Nam đồng ý.

Điều5. Nguyên tắc áp dụngbiện pháp chống bán phá giá
1. Biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng ở mức độ cần thiết, hợp lý nhằm
ngăn ngừa hoặc hạn chế thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.

24



2. Việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá chỉ được thực hiện khi đã tiến hành
điều tra và phải dựa trên các kết luận điều tra quy định tại Chương II của Pháp lệnh
này.
3. Biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng trực tiếp đối với hàng hoá bán phá
giá vào Việt Nam theo quy định của Pháp lệnh này.
4. Việc áp dụng biện pháp chống bán phá giá không được gây thiệt hại đến lợi ích
kinh tế - xã hội trong nước.

Điều6. Điều kiện áp dụng biện pháp chống bán phá giá
Biện pháp chống bán phá giá chỉ được áp dụng đối với hàng hóa bán phá giá vào
Việt Nam khi có hai điều kiện sau đây:
1. Hàng hoá bị bán phá giá vào Việt Nam và biên độ bán phá giá phải được xác định
cụ thể;
2. Việc bán phá giá hàng hoá quy định tại khoản 1 Điều này là nguyên nhân gây ra
hoặc đe dọa gây ra thiệt hại đáng kể cho ngành sản xuất trong nước.

Điều7. Trách nhiệm quản lý nhà nước về chống bán phá giá
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về chống bán phá giá đối với hàng hoá
nhập khẩu vào Việt Nam.
2. Chính phủ thành lập và quy định tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn cụ thể của cơ quan chống bán phá giá thuộc Bộ Thương mại gồm:
a) Cơ quan điều tra chống bán phá giá (sau đây gọi là cơ quan điều tra) để tiến hành
điều tra, rà soát vụ việc chống bán phá giá và trong trường hợp cần thiết kiến nghị
Bộ trưởng Bộ Thương mại ra quyết định áp dụng thuế chống bán phá giá tạm thời;
b) Hội đồng xử lý vụ việc chống bán phá giá gồm một số thành viên thường trực và
một số thành viên khác làm việc theo từng vụ việc để xem xét các kết luận của cơ

25



×