Tải bản đầy đủ (.docx) (71 trang)

Nhập siêu của việt nam từ trung quốc và một số vấn đề liên quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.47 KB, 71 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ ĐỐI NGOẠI
-------***-------

TIỂU LUẬN
Môn: Chính sách thương mại quốc tế
ĐỀ TÀI: NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM TỪ TRUNG
QUỐC VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN

Nhóm thực hiện: Nhóm 10
Lớp: TMA301(2-1314).7_LT
Khóa: 51
Người hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thu Hằng

Hà nôi, tháng 3 năm 2014


MỤC LỤC

Từ viết tắt

Tên tiếng Anh

Tên tiếng Việt

ACFTA

ASEAN – China Free Trade
Area

Hiệp định khu vực mậu dịch tự


do ASEAN – Trung Quốc

ASEAN

Association of Southeast Asian
Nations

CPI

Consumer Price Indexes

Chỉ số giá tiêu dùng

EPC

Engineering, Procurement and
Construction

Thiết kế, mua sắm và xây dựng

EU

European Union

Liên minh châu Âu

FDI

Foreign Direct Investment


Vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài

GDP

Gross Domestic Product

Tổng sản phẩm quốc nội

IMF

International Monetary Fund

Quỹ tiền tệ quốc tế

ODA

Official Development
Assistance

Hỗ trợ phát triển chính thức

USD

United States Dollar

Đồng đô-la Mỹ

WTO


World Trade Organization

Tổ chức Thương mại Thế giới

Hiệp hội các quốc gia
Đông Nam Á



DANH MỤC HÌNH VẼ, BIỂU ĐỒ
Hình 1.1: Cấu trúc của tài khoản vãng lai
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa tỷ giá – nhập siêu – lạm phát
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu thị trường xuất khẩu Việt Nam giai đoạn 2001 – 2005
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc năm 2013
Biểu đồ 2.3: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Trung Quốc giai đoạn 2001 –
2013
Biểu đồ 2.4 : Tỷ trọng nhập khẩu vào Việt Nam của Trung Quốc giai đoạn 2001 –
2013
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu giá trị các mặt hàng nhập khẩu của Việt Nam với Trung
Quốc từ năm 2009 đến tháng 4 năm 2011
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu hàng Việt Nam nhập khẩu từ Trung Quốc năm 2013
Biểu đồ 2.7: Xuất khẩu, nhập khẩu và nhập siêu của Việt Nam với Trung Quốc
giai đoạn 2001 – 2013
Biểu đồ 3.1: Cán cân thương mại của Việt Nam đối với một số đối tác chính giai
đoạn 1995 – 2011


DANH MỤC BẢNG SỐ LIỆU
Bảng 2.1: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc giai đoạn đoạn
2001 – 2013

Bảng 2.2: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc giai
đoạn 2002 – 2006
Bảng 2.3: Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang Trung Quốc giai
đoạn 2009 – 2010
Bảng 2.4: So sánh giữa xuất nhập khẩu tiểu ngạch và xuất nhập khẩu chính ngạch
Bảng 2.5: Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Việt Nam từ Trung Quốc giai
đoạn 2009 – 2010
Bảng 2.6: Kim ngạch xuất nhập khẩu biên mậu 7 tỉnh biên giới giáp Trung Quốc
giai đoạn 2006 – 2008
Bảng 2.7: Kim ngạch xuất khẩu biên mậu của các tỉnh biên giới giáp Trung Quốc
từ năm 2006 đến tháng 4/2009
Bảng 2.8: Nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc giai đoạn 2001 – 2013


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trung Quốc là quốc gia có diện tích rộng lớn và số dân đông nhất trên thế giới.
Hiện nay, nền kinh tế nước này đã vượt qua Nhật Bản vươn lên đứng vị trí thứhai trên
thế giới sau Mỹ. Quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Trung quốc thời gian
gần đây ngày càng gắn bó với nhau, kim ngạch buôn bán song phương tăng mạnh,
hàng hóa trao đổi đa dạng phong phú. Trung Quốc đang là bạn hàng thương mại lớn
nhất của Việt Nam, kim ngạch thương mại song phương chiếm khoảng 12% tổng kim
ngạch thương mại của Việt Nam. Tuy nhiên, điều này lại mang đến một thực tế hết sức
đáng quan ngại, đó là vấn đề nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc. Trung Quốc hiện
đang là nước xuất siêu lớn nhất trong các nước và vùng lãnh thổ có quan hệ thương
mại với nước ta. Mặc dù tỷ trọng hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc sang Việt Nam
có những chuyển biến tích cực và đạt được những bước tiến nhất định song bên cạnh
đó vẫn còn tồn tại không ít những vấn đề tiêu cực cần phải được giải quyết.
Để hiểu rõ hơn về vẫn đề này, nhóm chúng em đã chọn đề tài: “Nhập siêu của Việt

Nam từ Trung Quốc và một số vấn đề liên quan”.
2. Giới hạn đề tài

• Đối tượng nghiên cứu
- Tình trạng nhập siêu hàng hóa từ Trung Quốc sang Việt Nam.
• Phạm vi nghiên cứu
Thực trạng , nguyên nhân, các vấn đề liên quan đến tình trạng Nhập siêu từ Trung
Quốc vào Việt Nam và một số khuyến nghị.

- Không gian: Thị trường Việt Nam.
- Thời gian: trong 13 năm : Giai đoạn 2001-2013

6


3. Mục đích của đề tài

Đề tài được tiến hành nhằm mục đích tìm hiểu thực trạng của vấn đề nhập siêu từ
Trung Quốc vào Việt Nam, phân tích các nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng nhập siêu,
chỉ ra một số vấn đề đặt ra từ tình hình trên và đóng góp một số khuyến nghị cơ bản.
4. Phương pháp nghiên cứu

• Phương pháp thống kê và xử lý số liệu
- Thu thập, tổng hợp, trình bày, số liệu, tính toán các đặc trưng của đối tượng nghiên
cứu nhằm phục vụ cho quá trình phân tích, dự đoán và ra quyết định.

• Phương pháp quan sát
- Thu thập và ghi nhận thông tin cá biệt liên quan đến đối tượng nghiên cứu.
• Phương pháp điều tra
- Quan sát và điều tra thực tế để lấy thông tin, số liệu cụ thể cho đề tài nghiên cứu.

5. Tóm tắt nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu gồm trang, 8 biểu đồ, hình vẽ và 8 bảng biểu. Ngoài phần mở
đầu và kết luận, danh mục hình vẽ và biểu đồ, danh mục bảng số liệu, danh mục tài liệu
tham khảo, đề tài được kết cấu thành ba chương như sau:
Chương 1: Các lý luận cơ bản về nhập siêu
Chương 2: Thực trạng nhập siêu của Việt Nam từ Trung Quốc giai đoạn 2001 -2013
Chương 3: Các vấn đề đặt ra đối với Việt Nam từ thực trạng nhập siêu từ Trung Quốc
trong giai đoạn 2001 – 2013 và một số khuyến nghị.

7


CHƯƠNG I: CÁC LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ NHẬP SIÊU
1.1. Nhập siêu và các khái niệm liên quan:
1.1.1. Hàng hóa:

Hàng hóa là một trong những phạm trù cơ bản của kinh tế chính trị. Theo nghĩa
hẹp, hàng hóa là vật chất tồn tại có hình dạng xác định trong không gian và có thể trao
đổi, mua bán được. Theo nghĩa rộng, hàng hóa là tất cả những gì có thể trao đổi, mua
bán được.
1.1.2.

Nhập khẩu:

Trong lý luận thương mại quốc tế, nhập khẩu là việc quốc gia này mua hàng
hóa và dịch vụ từ quốc gia khác. Nói cách khác, đây chính là việc nhà sản xuất nước
ngoài cung cấp hàng hóa và dịch vụ cho người cư trú trong nước. Tuy nhiên, theo cách
thức biên soạn cán cân thanh toán quốc tế của IMF, chỉ có việc mua các hàng hóa hữu
hình mới được coi là nhập khẩu và đưa vào mục cán cân thương mại. Còn việc mua

dịch vụ được tính vào mục cán cân phi thương mại.
Vai trò của nhập khẩu: Nhập khẩu là một hoạt động quan trọng của thương mại
quốc tế. Nhập khẩu tác động một cách trực tiếp và quyết định đến sản xuất và đời sống
trong nước. Nhập khẩu để bổ sung các hàng hóa trong nước trong sản xuất được, hoặc
sản xuất không đáp ứng nhu cầu. Nhập khẩu còn để thay thế, nghĩa là nhập khẩu về
những hàng hóa mà sản xuất trong nước sẽ không có lợi bằng nhập khẩu. Hai mặt nhập
khẩu bổ sung và nhập khẩu thay thế nếu được thực hiện tốt sẽ có tác động tích cực đến
sự phát triển cân đối nền kinh tế quốc dân:
• Nhập khẩu tạo điều kiện thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng công nghiệp hóa đất nước.
• Nhập khẩu giúp bổ sung kịp thời những mặt cân đối của nền kinh tế đảm bảo phát
triển kinh tế cân đối và ổn định.
• Nhập khẩu góp phần cải thiện và nâng cao mức sống của nhân dân.
• Nhập khẩu có vai trò tích cực đến thúc đẩy xuất khẩu.
1.1.3.

Xuất khẩu:
8


Trong lý luận thương mại quốc tế, xuất khẩu là việc bán hàng hóa và dịch vụ cho
nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng
hóa cho nước ngoài.
Vai trò của xuất khẩu: Mục đích của hoạt động xuất khẩu là khai thác được lợi thế
của các quốc gia trong phân công lao động quốc tế, tạo nguồn thu ngoại tệ cho đất
nước. Hoạt động xuất khẩu diễn ra trên mọi lĩnh vực, trong mọi điều kiện với nhiều
loại hàng hóa khác nhau. Phạm vi xuất khẩu rất rộng cả về không gian và thời gian.
Nếu các quốc gia tận dụng tốt các lợi thế đó, hoạt động xuất khẩu đóng vai trò quan
trọng trong sự tăng trưởng nền kinh tế quốc dân:
• Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất



nước.
Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế, thúc đẩy sản xuất

phát triển.
• Xuất khẩu tạo thêm nhiều việc làm và cải thiện đời sống nhân dân.
• Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước
ta.

1.1.4.

Cán cân thanh toán quốc tế:

1.1.4.1. Cán cân thanh toán quốc tế:

Cán cân thanh toán quốc tế (Balance of Payment – BOP) ghi chép những giao dịch
kinh tế của một quốc gia với phần còn lại của thế giới trong một thời kỳ nhất định.
Những giao dịch này có thể được tiến hành bởi các cá nhân, các doanh nghiệp cư trú
trong nước hay chính phủ của quốc gia đó. Đối tượng giao dịch bao gồm các loại hàng
hóa, dịch vụ, tài sản thực, tài sản tài chính, và một số chuyển khoản. Thời kỳ xem xét
có thể là một tháng, một quý, song thường là một năm. Những giao dịch đòi hỏi sự
thanh toán từ phía người cư trú trong nước tới người cư trú ngoài nước được ghi vào
bên tài sản nợ. Các giao dịch đòi hỏi sự thanh toán từ phía người cư trú ở ngoài nước
cho người cư trú ở trong nước được ghi vào bên tài sản có.
Các thành phần của cán cân thanh toán:
• Cán cân vãng lai
• Cán cân vốn
9






Sai sót thống kê
Cán cân bù đắp chính thức

1.1.4.2. Cán cân vãng lai:
- Cán cân vãng lai, còn gọi là tài khoảng vãng lai trong cán cân thanh toán của

một quốc gia ghi chép những giao dịch về hàng hóa và dịch vụ giữa người cư trú
trong nước với người cư trú ngoài nước. Những giao dịch dẫn tới sự thanh toán của
người cư trú trong nước cho người cư trú ngoài nước được ghi vào bên "nợ" (theo
truyền thống kế toán sẽ được ghi bằng mực đỏ). Còn những giao dịch dẫn tới sự
thanh toán của người cư trú ngoài nước cho người cư trú trong nước được ghi vào
bên "có" (ghi bằng mực đen). Thặng dư tài khoản vãng lai xảy ra khi bên có lớn
-

hơn bên nợ.
Theo quy tắc mới về biên soạn báo cáo cán cân thanh toán quốc gia do IMF soạn
năm 1993, tài khoản vãng lai có cấu trúc như sau.
Hình 1.1: Cấu trúc của tài khoản vãng lai

Xuất khẩu

Cán cân thương mại
hàng hóa
Nhập khẩu

Kiều hối


Cán cân dịch vụ

Tài khoản vãng lai

Thu nhập từ đầu tư

Cán cân thương mại phi
hàng hóa

Vận tải

Cán cân thu nhập

Du lịch

Các chuyển khoản
Dịch vụ khác

10




Tất cả các khoản thanh toán của các bộ phận nhà nước hay tư nhân đều được gộp

chung vào trong tính toán này.
• Đối với phần lớn các quốc gia thì cán cân thương mại là thành phần quan trọng nhất
trong tài khoản vãng lai. Tuy nhiên, đối với một số quốc gia có phần tài sản hay tiêu
sản ở nước ngoài lớn thì thu nhập ròng từ các khoản cho vay hay đầu tư có thể

chiếm tỷ lệ lớn.
• Vì cán cân thương mại là thành phần chính của tài khoản vãng lai, và xuất khẩu
ròng thì bằng chênh lệch giữa tiết kiệm trong nước và đầu tư trong nước, nên tài
khoản vãng lai còn được thể hiện bằng chênh lệch này.
• Cùng với tài khoản vốn, và thay đổi trong dự trữ ngoại hối, nó hợp thành cán cân


thanh toán.
Tài khoản vãng lai thặng dư khi quốc gia xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu, hay khi
tiết kiệm nhiều hơn đầu tư. Ngược lại, tài khoản vãng lai thâm hụt khi quốc gia
nhập nhiều hơn hay đầu tư nhiều hơn. Mức thâm hụt tài khoản vãng lai lớn hàm ý
quốc gia gặp hạn chế trong tìm nguồn tài chính để thực hiện nhập khẩu và đầu tư
một cách bền vững. Theo cách đánh giá của IMF, nếu mức thâm hụt tài khoản vãng
lai tính bằng phần trăm của GDP lớn hơn 5, thì quốc gia bị coi là có mức thâm hụt
tài khoản vãng lai không lành mạnh.

1.1.4.3. Cán cân thương mại:
- Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán

quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập
khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng
như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch
là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch
nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0,
-

cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Cán cân thương mại là một mục trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán
quốc tế. Cán cân thương mại ghi lại những thay đổi trong xuất khẩu và nhập
khẩu của một quốc gia trong một khoảng thời gian nhất định (quý hoặc năm) cũng

như mức chênh lệch giữa chúng (xuất khẩu trừ đi nhập khẩu). Khi mức chênh lệch
là lớn hơn 0, thì cán cân thương mại có thặng dư. Ngược lại, khi mức chênh lệch
11


nhỏ hơn 0, thì cán cân thương mại có thâm hụt. Khi mức chênh lệch đúng bằng 0,
-

cán cân thương mại ở trạng thái cân bằng.
Cán cân thương mại còn được gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại. Khi
cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại mang giá trị
dương. Khi cán cân thương mại có thâm hụt, xuất khẩu ròng/thặng dư thương mại
mang giá trị âm. Lúc này còn có thể gọi là thâm hụt thương mại. Tuy nhiên, cần lưu
ý là các khái niệm xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư/thâm hụt thương
mại trong lý luận thương mại quốc tế rộng hơn các trong cách xây dựng bảng biểu

-

cán cân thanh toán quốc tế bởi lẽ chúng bao gồm cả hàng hóa lẫndịch vụ.
Nhập siêu là khái niệm dùng mô tả tình trạng Cán cân thương mại có giá trị nhỏ
hơn 0 (zero). Nói cách khác, khi kim ngạch nhập khẩu cao hơn xuất khẩu trong một
thời gian nhất định, đó là nhập siêu. Nhập siêu là hiện tượng phổ biến ở những
nước có nền kinh tế thị trường phát triển theo hướng mở.

1.2. Mối quan hệ giữa nhập siêu với một số biến kinh tế vĩ mô
1.2.1. Nhập siêu và cán cân thanh toán quốc tế

-

Đây là ảnh hưởng lớn của nhập siêu đối với nền kinh tế, và dựa vào đó người ta có


-

thể điều chỉnh cán cân thương mại nhằm đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô.
Đối với các nước đang phát triển, khi xuất khẩu dịch vụ còn chiếm tỷ trọng nhỏ bé
trong tổng kim ngạch xuất khẩu và các khoản chuyển giao còn chưa đáng kể, thì sự

-

thâm hụt của cán cân thương mại quyết định tình trạng cán cân tài khoản vãng lai.
Để đánh giá khả năng chịu đựng của cán cân tài khoản vãng lai, người ta thường sử
dụng các chỉ tiêu như tỷ lệ giữa giá trị xuất khẩu và thu nhập quốc dân, chỉ số nợ
trên xuất khẩu, tỷ lệ tăng trưởng nhập khẩu trên tăng trưởng xuất khẩu, tỷ lệ mức lãi
suất trả nợ trên mức tăng xuất khẩu.

1.2.2.

Nhập siêu và tỷ giá hối đoái, lạm phát:
Hình 1.2: Mối quan hệ giữa tỷ giá – nhập siêu – lạm phát

12


Tỷ giá

Nhập siêu

Lạm phát

-


Khi lạm phát tăng cao, đồng nội tệ sẽ bị mất giá. Khi đồng tiền phá giá (giảm giá),
giá hàng xuất khẩu trở nên rẻ một cách tương đối sẽ giúp xuất khẩu thuận lợi hơn,
trong khi đó hàng nhập khẩu đắt một cách tương đối, và nhu cầu hàng nhập khẩu
giảm. Cả hai hiệu ứng này tác động đồng thời làm cải thiện cán cân thương mại. Từ
đó kiềm chế nhập siêu. Nhưng lạm phát cao lại là một vấn đề lớn mà tất cả các
nước đều không mong muốn. Lạm phát cao sẽ khiến sức mua bị suy giảm, thất
nghiệp tăng cao, các vấn đề liên quan đến an ninh kinh tế - chính trị sẽ bị đe dọa

-

nghiêm trọng.
Nếu giữ lạm phát ở mức quá thấp, nhập siêu sẽ tăng cao một cách tương đối, điều
này làm ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế. Dự trữ ngoại hối sẽ phải dùng để bù thâm
hụt. Nợ công sẽ tăng cao, nguy cơ khủng hoảng sẽ tiềm tàng và đồng nội tệ sẽ trở
nên mất ổn định, làm tỷ giá biến đổi.

-

Vì vậy, ổn định tỷ giá, giữ lạm phát ở mức trung bình và kiềm chế nhập siêu chính
là những vấn đề lớn nhất mà một quốc gia quan tâm điều chỉnh khi tham gia vào
thương mại quốc tế.

1.3. Các yếu tố tác động đến nhập siêu

1.3.1. Chính sách thương mại

Một mặt, do những tác động cũng như ảnh hưởng của nền kinh tế vĩ mô đến cán
cân thương mại nói chung, hiện tượng nhập siêu nói riêng. Mặt khác, không thể phủ
nhận rằng hiện trạng này xuất phát từ nguyên nhân chủ quan mang tính trực tiếp, quyết

13


định đó chính là hệ thống cơ chế, chính sách quản lý, điều hành xuất nhập khẩu của
Nhà nước.
Nhìn nhận tổng quát cho thấy rẳng hệ thống cơ chế, chính sách thương mại của
nước ta vẫn còn tồn tại những hạn chế, bất cập. Thực tế đã chứng minh và báo động
rằng chúng ta đang thực sự cần xây dựng sự đồng bộ, nhất quán, minh bạch, dài hạn và
bền vững trong quá trình quản lý xuất nhập khẩu. Phương pháp quản lý hành chính, phi
thị trường đối với thương mại quốc tế đang bị lạm dụng. Không ít những chính sách đã
được đề ta với mục tiêu hận chế nhập siêu tuy nhiên vẫn mang tính chất ứng phó, ngắn
hạn và hiệu quả chưa cao. Cụ thể, sự cải thiện mới chỉ được nhìn nhận trong một số
nhóm hàng chiếm tỷ trọng không lớn trong tổng quan kim ngạch nhập khẩu nước ta.
Bên cạnh nhu cầu bức thiết về một hệ thống cơ cấu chính sách thương mại thiết thực,
khả thi thì việc điều tiết, quản lý hệ thống ấy cũng nảy sinh ra những vấn đề đang lưu
tâm. Có thể nhận thấy rằng việc điều tiết quan hệ giữa xuất khẩu và nhập khẩu chưa
được thực hiện tốt. Để thấy rõ hơn vấn đề này, chúng ta sẽ cùng xem xét hai nội dung
trong chính sách thương mại đó là: chính sách khuyến khích xuất khẩu và chính sách
nhập khẩu.
1.3.1.1. Khuyến khích xuất khẩu:
-

Chính sách khuyến khích xuất khẩu của nhà nước: Chia thành ba nhóm:
(1) Nhóm chính sách và biện pháp liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ

cấu xuất khẩu






Xây dựng các mặt hàng xuất khẩu chủ lực
Gia công xuất khẩu
Các biện pháp đầu tư liên quan đến tổ chức nguồn hàng, cải biến cơ cấu xuất khẩu
Xây dựng các khu kinh tế mở
(2) Nhóm chính sách và biện pháp tài chính






Tín dụng xuất khẩu
Trợ cấp xuất khẩu
Chính sách tỷ giá hối đoái
Thuế xuất khẩu và ưu đãi về thuế
14


(3) Nhóm chính sách và biện pháp liên quan đến thể chế - xúc tiến xuất khẩu



Các biện pháp về thể chế
Thực hiện xúc tiến xuất khẩu

-

Tác động:




Tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu mở rộng và phát triển, đặc biệt giúp các nhà
xuất khẩu non trẻ tìm kiếm thị trường và thúc đẩy các nhà sản xuất trong nước dễ





dàng hướng ra thị trường thế giới.
Phát triển đầu tư, sản xuất có hiệu quả và tiết kiệm các nguồn lực
Cải thiện các yếu tố có tác động lành mạnh đến cán cân thanh toán
Điều tiết xuất, nhập khẩu; hạn chế hiện tượng nhập siêu

-

Hạn chế:
Xét về tác động đối với hiện tượng nhập siêu, việc đẩy mạnh xuất khẩu giúp cải

thiện và cân bằng cán cân thanh toán. Tuy nhiên, trên thực tế vẫn còn tồn tại những bất
cập đòi hỏi sự nhìn nhận thấu đáo và cách giải quyết kịp thời. Tiêu biểu trong số đó có
thể kể đến:




Xuất khẩu cao su nhưng lại phải nhập săm lốp
Xuất khẩu dệt may nhưng phải nhập khẩu hầu hết nguyên, phụ liêụ
Xuất khẩu lương thực, thực phẩm nhưng nhập với kim ngạch lớn thức ăn chăn nuôi.
Đồng ý rằng, những hiện tượng kể trên còn do những nguyên do khác như các


ngành công nghiệp phụ trợ còn hạn chế, tuy nhiên không thể phủ nhận rằng chính sách
đẩy mạnh xuất khẩu vẫn còn tồn tại những thiếu sót. Bằng chứng xét về một mặt hàng
mà chúng ta vốn có lợi thế và chuyên sâu xuất khẩu:


Thúc đẩy xuất khẩu than các năm trước đến nay chúng ta bắt đầu phải nhập khẩu
than.
Đáng chú ý là theo tính toán về cân bằng năng lượng và cân đối giữa yêu cầu phát

triển các nhà máy nhiệt điện, Bộ Công Thương dự kiến từ năm 2015, Việt Nam mới
15


phải nhập khẩu than tuy nhiên điều này đã xảy ra sớm hơn dự kiến khi vào tháng
6/2013, gần 10000 tấn than được nhập khẩu về cảng Cát Lái, thành phố Hồ Chí Minh.
Điều nghịch lý ở chỗ loại nhập khẩu chính là loại than mà chúng ta đang tích cực xuất
khẩu!
Qua minh chứng trên có thể thấy những tồn tại trong cơ chế quản lý, điều hành xuất
nhập khẩu, đặc biệt trong bối cảnh nhà nước thúc đẩy xuất khẩu và đối với ngay cả với
những mặt hàng mà chúng ta vốn có lợi thế!

1.3.1.2. Quản lý nhập khẩu:
- Chính sách quản lý nhập khẩu:
• Đẩy nhanh các dự án đầu tư sản xuất hàng hóa thay thế nhập khẩu
• Phát triển, khai thác tốt thị trường nội địa, khuyến khích tiêu dùng các sản phẩm


trong nước
Hạn chế nhập khẩu những mặt hàng xa xỉ, chưa thiết yếu hoặc các mặt hàng trong








nước có khả năng sản xuất
Áp dụng các biện pháp kỹ thuật để kiểm soát nhập khẩu
Kiểm soát việc sử dụng ngoại tệ, chuyển ngoại tệ ra nước ngoài
Kiểm soát việc bán ngoại tệ để nhập khẩu hàng hóa không thiết yếu
Kiểm soát các đơn vị có tăng trưởng cho vay ngoại tệ cao
Tác động:
Tạm thời hạn chế nhập khẩu đối với một hoặc một số loại hàng hoá khi việc nhập
khẩu chúng tăng nhanh gây ra hoặc đe doạ gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho



ngành sản xuất trong nước
Hạn chế hiện tượng nhập siêu

-

Hạn chế: Tuy nhiên, đây không phải là giải pháp hiệu quả để điều chỉnh cán cân
thương mại:




Nguy cơ bị trả đũa thương mại vì vì phạm những cam kết tự do hóa thương mại

Hạn chế nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu trong nước sẽ làm nền kinh tế đình trệ



do chưa thể cung cấp hàng thay thế nhập khẩu trong ngắn hạn.
Việc bảo hộ thị trường cũng làm các doanh nghiệp trong nước chậm thích ứng với
môi trường cạnh tranh quốc tế, không thúc đẩy quá trình tiếp thu công nghệ hiện
đại cho các ngành sản xuất trong nước.
16


1.3.2. Chính sách đầu tư:
- Chính sách đầu tư:
• Nguồn vốn đầu tư gián tiếp hoặc nguồn viện trợ nước ngoài, kiểu hối
• Nguồn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
• Đầu tư trong nước
- Tác động:
• Đầu tư và nhập khẩu có mối quan hệ với nhau. Mức độ này tùy thuộc vào mức độ



bảo hộ thương mại và chiến lược đầu tư trong từng giai đoạn.
Gia tăng vốn đầu tư nước ngoài giúp bù đắp thâm hụt cán cân thương mại
Đầu tư trong nước theo định hướng xuất khẩu hay thay thế nhập khẩu có ảnh hưởng
tới cán cân thương mại. Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư và cơ cấu vốn đầu tư cũng có

ảnh hưởng đáng kể đến cán cân thương mại.
- Hạn chế:
• Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài xuất siêu trong khi khu vực trong nước nhập
siêu. Điều này thể hiện gia tăng xu hướng đầu tư thay thế nhập khẩu và yếu kém

của khu vực doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước. Đây là


một thách thức rất lớn đối với nền kinh tế nước ta.
Hiệu quả đầu tư chưa cao, đầu tư còn dàn trải.

1.3.3. Chính sách điều chỉnh tỷ giá hổi đoái

Tỷ giá hối đoái là nhân tố rất quan trọng đối với các quốc gia vì nó ảnh hưởng
đến giá tương đối giữa hàng hóa sản xuất trong nước với hàng hóa trên thị trường
quốc tế.
- Các chính sách điều chỉnh tỷ giá hối đoái bao gồm:
• Tăng giá trị đồng nội tệ so với đồng ngoại tệ
• Phá giá đồng nội tệ
- Tác động:
• Đồng nội tệ tăng giá so với đồng ngoại tệ làm gia tăng nhập khẩu so với xuất khẩu,
làm xuất hiện hoặc gây trầm trọng hơn thâm hụt cán cân thương mại do giá cả của

hàng hóa nhập khẩu rẻ đi trong khi giá hàng xuất khẩu lại trở nên đắt đỏ hơn đối
với người nước ngoài.
• Phá giá đồng nội tệ làm tăng giá trong nước của hàng nhập khẩu, giảm giá ngoài
nước của hàng xuất khẩu, từ đó cải thiện sức cạnh tranh quốc tế của hàng trong
nước. Kết quả: xuất khẩu tăng lên, nhập khẩu giảm đi

17


-

Hạn chế: Khi vận dụng các chính sách, cần sự điều chỉnh linh hoạt bởi lẽ do sự tác







động của các yếu tố:
Sự chậm trễ trong phản ứng của người tiêu dùng
Sự chậm trễ trong phản ứng của người sản xuất
Sự cạnh tranh không hoàn hảo
Việc giảm giá đồng nội tệ có thể không cải thiện được cán cân thương mại trong
thời gian trước mắt do phụ thuộc vào giá nội địa của hàng xuất khẩu, lượng hàng
xuất khẩu, lượng hàng nhập khẩu, ...
Ta có thể thấy rõ tác động này qua ví dụ của các năm 2007 và 2009: tốc độ nhập

siêu ngày càng tăng mạnh nhưng tỷ giá hầu như không thay đổi; ngược lại trong nửa
cuối năm 2008, bất chấp tốc độ nhập siêu giảm dần, đồng Việt Nam lại mất giá mạnh.

1.3.4. Cơ cấu nền kinh tế
- Cơ cấu nền kinh tế:
• Xuất khẩu thô (dầu thô, thực phẩm chưa qua chế biến,…), gia công cho nước ngoài

(may mặc, lắp ráp,...) còn chiếm tỷ trọng lớn trong nền kinh tế nước ta, dẫn đến giá
trị gia tăng thấp, khả năng cạnh tranh kém. Việt Nam thực sự thiếu các ngành công
nghiệp phụ trợ để đáp ứng cho việc sản xuất hoàn thiện tất cả các khâu của quá
trình sản xuất, thường xuyên phải nhập khẩu các nguyên vật liệu, máy móc từ nước
ngoài. Điều này không chỉ hạn chế giá trị gia tăng mà còn khiến nền kinh tế nước ta
trở nên phụ thuộc.
• Cơ cấu ngành kinh tế đã có bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, nhưng còn chậm và năng lực cạnh tranh của các ngành công còn thấp, chưa

cạnh tranh được với hàng nhập khẩu.
 Tóm tại, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm sang các ngành có tiềm năng tăng
trưởng xuất khẩu, hỗ trợ xuất khẩu và có giá trị gia tăng cao.
• Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều chuyển biến tích cực cho nền kinh tế.
• Cơ chế quản lý kinh tế đã có những bước cải cách, nhưng chưa hoàn thiện.
• Hội nhập kinh tế quốc tế mang lại nhiều chuyển biến tích cực cho nền kinh tế.
• Cơ chế quản lý kinh tế đã có những bước cải tiến nhưng chưa hoàn thiện.
- Tác động:
• Tăng trưởng cao cũng dẫn tới nhập khẩu tăng nhanh hơn tăng trưởng và nguy cơ
tăng nhập siêu.
18




Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hệ quả là nhập khẩu những đầu vào

thiết yếu cho phát triển kinh tế tăng nhanh.
• Nhập siêu chịu áp lực lớn hơn khi các doanh nghiệp tiếp cận dễ dàng hơn tới hàng
hóa nhập khẩu và sức ép cạnh tranh với hàng hóa nhập khẩu tăng lên.
• Các hành vi tiêu cực trong hoạt động xuất, nhập khẩu và khó kiểm soát số lượng,
chất lượng hàng hóa nhập khẩu như việc ban hành rào cản kỹ thuật còn rất hạn chế,
dẫn đến nhiều doanh nghiệp cố tình nhập khẩu hàng hóa trong nước sản xuất được,



nhập khẩu hàng hóa có chất lượng thấp, nhập khẩu máy móc thiết bị lạc hậu.
Hạn chế:
Mô hình tăng trưởng kinh tế còn dựa nhiều vào yếu tố vốn
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm sang các ngành có tiềm năng tăng trưởng xuất




khẩu, hỗ trợ xuất khẩu và có giá trị gia tăng cao
Bất cân đối giữa thị trường trong nước và nước ngoài với nhiều đầu vào sản xuất

quan trọng phải nhập khẩu
• Văn hóa, tâm lý tiêu dùng sính ngoại còn nặng nề
• Chưa khai thác tốt lợi thế so sánh và nâng cao mạnh mẽ năng lực cạnh tranh
• Chưa khai thác tốt các cơ hội và chưa chủ động hạn chế tác động bất lợi của hội


nhập kinh tế quốc tế
Thể chế kinh tế chưa hoàn thiện.

1.4. Các quan điểm về ảnh hưởng của nhập siêu đối với nền kinh tế:
1.4.1. Quan điểm tiêu cực:

-

Thứ nhất, nhập khẩu lạm phát gây khó khăn cho việc điều hành các chính sách kinh



tế vĩ mô nhằm đạt được các mục tiêu tăng trưởng và kiểm soát lạm phát.
Nhập khẩu hàng tiêu dùng chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng giá trị nhập khẩu và trong
tổng cung ứng hàng hóa tiêu dùng trên thị trường trong nước và do vậy, những biến
động về giá nhập khẩu hàng tiêu dùng có thể không tác động tức thì tới giá cả hàng

tiêu dùng và do đó tới lạm phát và CPI.

• Mặc dù vậy, cơ cấu đầu vào sản xuất theo nguồn của nước ta cho thấy nhập khẩu có
tác động không nhỏ tới giá cả trong nước vì: (i) đầu vào sản xuất nhập khẩu chiếm
tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng cung ứng đầu vào sản xuất; (ii) một số đầu vào
sản xuất được sử dụng trong nhiều ngành kinh tế và cả trong tiêu dùng chủ yếu
19


được nhập khẩu; (iii) giá cả nguyên liệu nhập khẩu biến động mạnh so với các hàng
hóa nhập khẩu khác.
• Với những đặc điểm như vậy, giá cả nhập khẩu sẽ tác động mạnh tới chi phí sản
xuất của nhiều ngành sản xuất, gây áp lực tới giá bán và giá sản phẩm tiêu dùng
cuối cùng. Trong điều kiện nhập khẩu chủ yếu phục vụsản xuất hay nói cách khác
là hỗ trợ tăng trưởng, việc điều hành chính sách tiền tệ nhằm kiểm soát nhập khẩu
trong trường hợp có dấu hiệu của nhập khẩu lạm phát nhằm ổn định giá cả và duy
-

trì tăng trưởng là không dễ dàng.
Thứ hai, nhập siêu gây bất ổn cán cân thanh toán tổng thể, từ đó tạo áp lực tới cung

cầu ngoại tệ và tỷ giá.
• Nhập siêu là nguyên nhân chính dẫn tới thâm hụt cán cân vãng lai trong nhiều năm
gần đây. Tỷ lệ thâm hụt cán cân vãng lai/GDP năm 2007 là -9,87%, năm 2008 là
-11,93% , năm 2009 là -6,67% và năm 2010 dự báo là -5,73% (cao hơn mức cảnh
báo 5% của IMF); trong khi đó tỷ lệ nhập siêu/GDP luôn ở mức cao từ khoảng 1420% GDP trong thời gian này.
• Cán cân vốn và tài chính liên tục thặng dư là nguồn tài trợ chủ yếu thâm hụt cán
cân vãng lai. Mặc dù vậy, dưới áp lực nhập siêu cao, cán cân thanh toán tổng thể
vẫn bị thâm hụt, cùng với yếu tố tâm lý nắm giữ ngoại tệ ssã dẫn tới mất cân đối
cung- cầu ngoại tệ theo hướng dư cầu và gây áp lực tăng tỷ giá. Tiền đồng đã mất
giá mạnh, giảm 8,8% năm 2008 và 5- 6% năm 2009.
- Thứ ba, nhập siêu tạo áp lực suy giảm dự trữ ngoại hối.

• Nhập siêu là nguyên nhân chính làm tăng nguy cơ thâm hụt cán cân thanh toán và
từ đó tạo áp lực giảm dự trữ ngoại hối nhà nước do Ngân hàng Nhà nước phải bán
ngoại tệ để can thiệp trên thị trường ngoại hối nhằm ổn định tỷ giá. Trong các năm
2009 và 2010, do cán cân thanh toán thâm hụt lớn, Ngân hàng Nhà nước đã phải
bán ngoại tệ cho các tổ chức tín dụng, dẫn đến dự trữ ngoại hối nhà nước sụt giảm
-

tương đối.
Thứ tư, nhập siêu làm công tác kiểm soát, dự báo tiền tệ, tín dụng gặp khó khăn

hơn.
• Nhập siêu làm giảm tài sản có nước ngoài ròng của Ngân hàng Nhà nước do phải
sử dụng dự trữ ngoại hối để can thiệp trên thị trường ngoại tệ.
20




Về lý thuyết, tổng phương tiện thanh toán tăng lên do tài sản có nước ngoài ròng
và/hoặc tài sản có trong nước ròng của toàn bộ hệthống ngân hàng tăng lên. Tuy
nhiên, thực tế một số năm lại không hoàn toàn diễn ra như vậy. Ví dụ, năm 2009,
tổng phương tiện thanh toán tăng 28%, nhưng tài sản có nước ngoài ròng của Ngân
hàng Nhà nước lại giảm -35%. Với những biến động trái chiều như vậy, việc dự

-

báo tổng phương tiện thanh toán từ tài sản có nước ngoài ròng sẽ khó khăn hơn.
Thứ năm, nhập siêu gây biến ñộng lớn trong chi tiêu ngoại tệ và cân ñối vốn của
các ngân hàng thương mại.
Thứ sáu, quan trọng hơn là gia tăng nợ công.

Nhập siêu thường xuyên sẽ dẫn đến tình trạng cạn kiệt ngoại tệ, khiến các chính

phủ phải gia tăng vay nợ bằng cách phát hành thêm trái phiếu.Trong một thời gian dài,
nhập siêu sẽ khiến con số nợ công của một nước ngày càng tăng vì suy cho cùng các
nước đều phải dựa vào xuất khẩu để trả nợ và lãi.
- Thứ bảy, nhập siêu là nhân tố gây khủng hoảng.
Xét ở mặt này, nhập siêu có thể gây ra khủng hoảng nợ công như tại Hy Lạp,
nước nhập siêu tới 13,5% GDP (năm 2009), dẫn đầu top các nền kinh tế bị nhập siêu
tính theo tỷ lệ với GDP. Nước này đã rơi vào cuộc khủng hoảng nợ công tồi tệ nhất
châu Âu kể từ đầu năm 2010 và cho đến nay vẫn chưa cải thiện tình hình, dù đã nhận
được các gói ứng cứu từ bên ngoài. Hoặc như trường hợp của Hoa Kỳ, nước có kim
ngạch nhập siêu tuyệt đối (tính bằng USD) lớn nhất. Hoa Kỳ hiện cũng lâm vào một
cuộc khủng hoảng nợ công, nhưng ở mức độ và sắc thái khác vơi Hy Lạp. Hiện nước
này đã chạm trần nợ công và có nguy cơ vỡ nợ tạm thời nếu Chính phủ và Quốc hội
không đạt được thỏa thuận nâng trần nợ trước ngày 2/8/2011.Ngoài ra, một số nhà
chuyên môn tin rằng nhập siêu lớn là một trong các nguyên nhân chính dẫn tới cuộc
Khủng hoảng tài chính Đông Á năm 1997 – 1998.
- Thứ tám: gia tăng thất nghiệp
Một nghiên cứu của tiến sỹ Alec Feinberg sáng lập viên Citizens for Equal Trade,
lại gắn nhập siêu với tỷ lệ thất nghiệp. Dựa trên những dữ liệu từ 25 nước có mức nhập
siêu và xuất siêu lớn nhất thế giới (trong giai đoạn 2009-2010), nhóm nghiên cứu của
tiến sỹ Feinberg cho biết tỷ lệ tác động tới thị trường việc làm của tình trạng nhập siêu
dao động từ 60-72%.Những nước nhập siêu cao có tỷ lệ thất nghiệp cao hơn và ngược
21


lại. Tiến sỹ Feinberg cũng lưu ý hai trường hợp là Hoa Kỳ và Trung Quốc. Hoa Kỳ là
nước có mức nhập siêu tính theo giá trị USD lớn nhất thế giới, với 633 tỷ USD (năm
2010), lớn hơn giá trị kim ngạch nhập siêu của tất cả các nước nhập siêu trong top 10
(trừ Hoa Kỳ) cộng lại. Hoa Kỳ có tỷ lệ thất nghiệp 9,6% (tại thời điểm thực hiện

nghiên cứu). Trong khi đó, Trung Quốc có Thặng dư thương mại tới 296 tỷ USD vào
năm 2009, và có tỷ lệ thất nghiệp chỉ 4,3%.
- Cuối cùng là nhấn chìm thị trường chứng khoán.
Trang web chuyên giải thích về đầu tư InvestOpedia cho rằng đối với Thị trường
chứng khoán, nhập siêu kéo dài có thể gây nên những hậu quả tai hại. Giải thích của
InvestOpedia cũng dựa trên 2 tác động chính của tình trạng nhập siêu là gia tăng nợ
công và làm suy yếu sức cạnh tranh của hàng hóa trong nước. Nếu trong một thời gian
dài một đất nước nhập khẩu nhiều hàng hóa hơn xuất khẩu, họ sẽ lâm vào cảnh nợ nần,
trong khi hàng hóa nội địa ngày càng bị hàng ngoại lấn át.Qua thời gian, giới đầu tư sẽ
nhận thấy tình trạng suy yếu trong tiêu thụ hàng hóa nội địa, một diễn biến gây tổn hại
cho các nhà sản xuất trong nước và cũng làm suy giảm giá trị cổ phiếu của họ. Thời
gian càng kéo dài, giới đầu tư càng nhận ra rằng cơ hội đầu tư tốt ở thị trường nội địa
càng ít đi, và bắt đầu chuyển hướng sang các thị trường cổ phiếu ở nước khác. Điều đó
sẽ làm giảm nhu cầu đối với thị trường cổ phiếu ở trong nước và khiến thị trường ngày
càng đi xuống. Thực trạng của Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay có thể rơi
vào trường hợp này.Riêng tại Hoa Kỳ, vì sao nước này có kim ngạch nhâp siêu khổng
lồ mà thị trường chứng khoán của họ vẫn tăng (so với đầu năm)? Xét theo tỷ lệ GDP,
nhập siêu của Hoa Kỳ chỉ chiếm 4,3% (năm 2010), nhỏ hơn gần 3 lần so với tỷ lệ 12%
của Việt Nam. Ngoài ra, thị trường chứng khoán Hoa Kỳ vẫn có sức hút vì có tới hơn
70% báo cáo doanh thu của các công ty cao hơn dự báo, trong khi giới đầu tư quốc t ế
và các nước vẫn tiếp tục mua vào USD vì đã trót nắm quá nhiều tài sản bằng USD và
không muốn nó sụp đổ. Dù vậy, tính đến ngày 8/6/2011, Thị trường chứng khoán Hoa
Kỳ vẫn đang ở trong đợt rớt điểm kéo dài gần 6 tuần lễ, dài nhất kể từ năm 2004 đối
với chỉ số Dow Jones Industrial Average.

22


1.4.2.


Quan điểm tích cực:

Việc nhập khẩu công nghệ, máy móc trang thiết bị cao cấp giúp nâng cao trình độ
kỹ thuật, tiến gần trình độ phát triển cao của thế giới, nhờ đó tạo ra các sản phẩm xuất
khẩu có chất lượng, có khả năng cạnh tranh cao.
Trong điều kiện ngành sản xuất nguyên liệu cao cấp trong nước chưa phát triển thì
việc nhập khẩu nguyên liệu giúp cho các nước này thực hiện tốt chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa hướng về xuất khẩu.
Hàng nhập khẩu trong nhiều trường hợp tạo môi trường cạnh tranh kích thích sản
xuất trong nước hoàn thiện và phát triển.
Nhập khẩu từ nguồn vốn ODA của các tổ chức tài chính quốc tế giúp cải thiện mau
chóng hạ tầng cơ sơ tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế.
Về cân đối tổng thể của nền kinh tế, nhập siêu chính là một biểu hiện của huy động
nguồn lực bên ngoài vào tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Thực tế phát triển kinh tế quốc tế cho thấy các nước, nhất là các nước đang phát
triển, trong thời kỳ đầu phát triển đều phải huy động vốn đầu tư bên ngoài để hỗ trợ
phát triển kinh tế trong điều kiện nguồn vốn trong nước hạn chế. Ở nước ta, để đảm
bảo mục tiêu tăng trưởng GDP, chênh lệch giữa tiết kiệm - đầu tư trong khoảng 6-14%
GDP trong thời kỳ 2006 - 2010 và nhập siêu ở mức trên 14% GDP. Với cơ cấu nhập
khẩu chủ yếu là đầu vào đầu tư và nguyên liệu sản xuất, có thể thấy nhập khẩu hàng
hóa chủ yếu đi vào khu vực sản xuất và do vậy, nhập siêu thực sự là nguồn lực bên
ngoài hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế.
Về trình độ phát triển của hàng hóa nhập khẩu, nhập siêu có thể là một kênh hỗ trợ
việc tạo năng lực mới và hiện đại hóa nền kinh tế để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao,
có khả năng cạnh tranh, các doanh nghiệp phải được trang bị máy móc, thiết bị phù
hợp.
Tuy nhiên, ở giai đoạn đầu phát triển, máy móc, thiết bị sản xuất trong nước thường
chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất hàng hóa có chất lượng, có khả năng cạnh tranh.
Nhập khẩu máy móc, thiết bị là cách thức giúp các doanh nghiệp có thể nhanh chóng
23



tạo dựng năng lực sản xuất hiện đại trong điều kiện trình độ công nghệ trong nước
chưa đáp ứng được yêu cầu. Việc nhập khẩu các thiết bị dệt, may hiện đại và công
nghệ viễn thông là những ví dụ về tác động tích cực của nhập khẩu tới tạo ra năng lực
sản xuất mới, có khả năng sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao.
Về đối tượng nhập khẩu, nhập siêu là hình thức thể hiện của quá trình hình thành cơ
sở sản xuất của các dự án có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài là điều các nước đang phát triển thường thực hiện với mong muốn có
thêm nguồn vốn cho tăng trưởng kinh tế, tiếp thu công nghệ hiện đại, kỹ năng quản lý,
tác phong công nghiệp và tiếp cận thị trường xuất khẩu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài
tăng mạnh và có những đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế nước ta trong những
năm qua.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NHẬP SIÊU CỦA VIỆT NAM TỪ TRUNG QUỐC
GIAI ĐOẠN 2001 – 2013

24


2.1. Khái quát về mối quan hệ Việt Nam – Trung Quốc
2.1.1. Giới thiệu chung

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có đường biên giới chung dài hơn
1350km, trong đó Việt Nam có sáu tinh: Quảng Ninh, Cao Bằng, Lạng Sơn, Hà Giang,
Lai Châu và Lào Cai tiếp giáp với hai tỉnh (khu tự trị) của Trung Quốc là Quảng Tây
và Vân Nam.
Quan hệ chính trị- ngoại giao, kinh tế- thương mại và giao lưu văn hóa giữa Việt
Nam và Trung Quốc đã có từ lâu đời và đã trở thành mối quan hệ truyền thống bền
vững. Tuy nhiên, các thời kì lịch sử với nhiều biến động về chính trị- xã hội cũng

gâynhiều ảnh hưởng đến mối quan hệ thương mại giữa hai nước nhưng chưa bao giờ
làm triệt tiêu mối quan hệ đó. Trái lại, hoạt động kinh tế, thương mại giữa hai nước
ngày càng có điều kiện thuận lợi phát triển, phù hợp với xu thế hòa bình, ổn định và
phát triển trong khu vực và thế giới.
Có thể nói việc đấy mạnh mối quan hệ thương mại qua biên giới Việt – Trung đã
đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, góp phần làm tăng ngân sách nhà nước,
nâng cao đời sống nhân dân, làm thay đổi bộ mặt kinh tế- xã hội và văn hóa của nhân
dân hai vùng biên giới, góp phần xây dựng công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa
của mỗi nước, song đã nảy sinh những vấn đề phức tạp cần phải nhìn nhận, đánh giá
một đúng đắn.


Quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam – Trung Quốc trong tiến trình lịch sử
Kể từ khi Việt Nam lập quốc, do nhu cầu giao lưu tự nhiên của cư dân hai nước,

Việt Nam và Trung Quốc đã sớm thiết lập mối quan hệ bang giao với nhau nói chung
và quan hệ kinh tế- thương mại nói riêng. Tuy các cuộc chiến tranh nhiều lần gây gián
đoạn mối quan hệ kinh tế - thương mại nhưng chỉ là mối quan hệ này vẫn được duy trì
và phát triển đến ngày hôm nay.
Giai đoạn từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX, chính sách xuyên suốt trong lịch sử
các triều đại nước ta là độc lâp, tự chủ, luôn áp dụng nguyên tắc “hòa hiếu với phương
Bắc”, nới lỏng, cho tự do buôn bán, trao đổi hàng hóa, miễn là tôn trọng và thực hiện
đúng pháp luật thời bấy giờ.
25


×