PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Chúng ta đang sống ở hai cuộc cách mạng: Cách mạng khoa học - kĩ thuật
và cách mạng xã hội. Những cuộc cách mạng này đang phát triển như vũ bão
với nhịp độ nhanh chưa từng có trong lịch sử lồi người, thúc đẩy nhiều lĩnh
vực, có bước tiến mạnh mẽ và đang mở ra nhiều triển vọng lớn lao khi loài
người bước vào thế kỉ XXI.
Công nghệ thông tin và truyền thông (Information and Communications
Technology – ITC) không ngừng tác động mạnh mẽ đến giáo dục và đào tạo.
Làm thay đổi cách suy nghĩ của giáo viên và học sinh. Quá trình dạy hoc trở
nên tích cực hơn, sinh động hơn, linh hoạt hơn, trực quan hơn khi nó được
gắn liền với những phương tiện nghe nhìn hiện đại. Cơng nghệ thơng tin
truyền thông vừa như một phương tiện vừa như một nhân tố mới trong q
trình dạy học, chi phối tồn bộ quá trình này nhằm đạt đến mục tiêu nhanh
nhất và hiệu quả nhất. Với ưu thế của một nguồn thông tin khổng lồ, đầy màu
sắc, sống động phản ánh sự đa dạng của thế giới, Internet đã trở thành một
cơng cụ hỗ trợ tích cực trong việc dạy và học Địa lí ở trường phổ thơng. Tuy
nhiên, làm thế nào để khai thác Internet một cách có hiệu quả đang là vấn đề
đặt ra đối với giáo viên.
Đặc biệt đối với mơn Địa lí là mơn học ln địi hỏi tính cập nhập về nội
dung và hình thức, nên kĩ năng khai thác internet một cách hiệu quả đang là
vấn đề đặt ra đối với giáo viên. Đặc biệt đối với mơn Địa lí là mơn học ln
địi hỏi tính cập nhập về nội dung kiến thức, nên kĩ năng khai thác Internet
làm sao có hiệu quả nhất có vai trò ngày càng quan trọng.
Trước những biến đổi về thời đại mới, một yêu cầu đặt ra đối với con người
là muốn chiếm lĩnh được tri thức của nhân loại phải tự chủ, sáng tạo và có tư
duy khoa học. Trước tình hình đó đã đã đặt ra cho nền giáo dục nước ta phảu
có những đổi mới căn ản, toàn diện và đồng bộ, vươn tới ngang tầm với sự
1
phát triển chung trên Thế giới và giới và khu vực. Trong đó đổi phương pháp
dạy học yếu tố quan trong, cần thiết nhằm đáp ứng yêu cầu trên.
Phát triển giáo dục là chìa khóa, là địn bẩy tạo nên sự phát triển nhanh chóng
và bền vững cho đất nước trong thời gian tới và lâu dài về sau. Quan điểm
này đã được thể hiện rõ trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ II Ba chấp hành
Trung ương Đảng (khóa VIII): “ Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách
hàng đầu”. Trong những năm qua, giáo dục nước ta đã có nhiều đổi mới
phương pháp dạy học theo hướng tăng cường vai trò chủ thể của học sinh.
Phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo, trong đó việc giúp các em có khả năng
tự chiếm lĩnh tri thức là một trong những phương pháp cần thiết. Vì dù giáo
viên có truyền đạt kiến thức nhiều đến đâu cũng không thể hết được kho tàng
kiến thức của nhân loại.
Trong trương trình giáo dục phổ thơng, có một số kiến thức khái niệm, hiện
tượng khá trừu tượng học sinh gặp nhiều khó khăn trong khi phải tìm hiểu bản
chất hiện tượng đó. Tuy nhiên, với những ưu thế về khả năng đồ họa, mô
phỏng mà các phương tiện dạy học đem lại sẽ hỗ trợ khắc phục những khó
khăn trên. Qua bài giảng dưới dạng Web, giáo viên có thể phát huy tất cả các
giác quan của học sinh trong quá trình truyền thụ kiến thức, làm cho học sinh
nhận biết được các mối quan hệ giữa các hiện tượng, tái hiện được những
khái niệm, quy luật,…làm cơ sở cho việc áp dụng kiến thức đã học vào trong
thực tế đời sống sản xuất.
Các Website phục vụ cho cơng tác giáo dục ngày càng nhiều. Vì vậy theo dự
đốn của chun gia cơng nghệ thơng tin Việt Nam, trong một vài năm tới,
bất kì tổ chức nào, đồn thể nào khơng có Website hoặc các hình thức đưa
thơng tin đến rộng rãi công chúng bằng các phương tiện ITC (Information and
Communication Technology) thì tổ chức, đồn thể đó sẽ trở nên lạc hậu.
Đối với bộ mơn Địa lí là mơn học có rất nhiều lợi thế để có thể ứng dụng
Webquest phục vụ công tác giảng dạy trong nhà trường THPT vì nội dung
kiến thức phong phú, liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau. Đặc biệt trong
2
chương trình Địa lí có nhiều nội dung khơng có sự mơ phỏng hình ảnh, âm
thanh…thì học sinh khó có thể hình dung, tiếp thu kiến thức được. Chính việc
sử dụng Webquest trong dạy học Địa lí ở nhà trường phổ thông là một xu thế
tất yếu của đổi mới phương pháp dạy học theo hướng hiện đại tích cực.
Từ những lí do trên, tơi lựa chọn đề tài: “Xây dưng và sử dụng Webquest
trong dạy học Địa lí 12 – THPT theo định hướng phát triển năng lực” làm
đề tài luận văn Thạc sĩ.
2. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu xây dựng và sử dụng Webquest trong dạy học Địa lí
lớp 12 – THPT theo định hướng phát triển năng lực nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo, phát triển năng lực học sinh trong học tập,
góp phần đổi mới phương pháp và nâng cao chất lượng dạy học Địa lí ở
trường phổ thơng.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xây dựng và sử dụng
Webquest trong dạy học Địa lí lớp 12 – THPT theo định hướng phát
triển năng lực.
- Xác định yêu cầu và nguyên tắc xây dựng và sư dụng Webquest
trong dạy học Địa lí lớp 12.
- Xây dựng quy trình thiết kế Webquest trong dạy học Địa lí lớp 12.
- Sử dụng Webquest trong dạy học Địa lí lớp 12.
- Tiến hành thực nghiệm để kiểm chứng tính hiệu quả và tính khả thi
của đề tài nghiên cứu.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là phương pháp xây dựng và sử
dụng Webquest trong dạy học Địa lí lớp 12 – THPT theo định
hướng phát triển năng lực học sinh.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên của đề tài hướng tới việc:
- Xây dựng và sử dụng Webquest trong dạy học Địa lí lớp 12- THPT
3
- Phạm vi tiến hành thực nghiệm ở một số trường THPT của TP. Hải
Phòng, Hải Dương, Hà Nội.
4. Giả thiết khoa học
Nếu xây dựng và sử dụng Webquest trong dạy học Địa lí lớp 12- THPT
đảm bảo nguyên tắc và quy trình hợp lí thì sẽ phát huy được tính tích
cực, chủ động, sáng tạo, phát triển năng lực của học sinh, góp phần đổi
mới phương pháp, nâng cao chất lượng dạy học Địa lí ở trường phổ
thơng.
5. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
5.1. Trên thế giới
Cùng với việc ra đời và phổ biến của Internet, ngày nay việc thu thập và xử lí
thơng tin trên mạng là một kĩ năng cần thiết trong nghiên cứu và học tập cũng
như trong lao động nghề nghiệp. Việc ứng dụng và sử dụng công nghệ thông
tin và sử dụng Internet trong dạy học ngày càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên
việc học sinh truy cập thông tin một cách tự do trên mạng Internet trong dạy
học có những nhược điểm sau: Việc tìm kiếm dễ bị kéo dài do lượng thơng tin
trên mạng lớn; dễ bị chênh lệch lớn khỏi bản thân đề tài; nhiều tài liệu được
tìm ra với nội dung chun mơn khơng chính xác dẫn đến nhiễu thơng tin; chi
phí thời gian quá lớn cho việc đánh giá và xử lí thơng tin trên lớp học; việc
tiếp thu kiến thức qua truy cập thơng tin trên mạng có thể chỉ mang tính thụ
động mà thiếu sự đánh giá phê phán người học.
Để khắc phục những nhược điểm trên đây của việc học qua mạng, người ta đã
phát triển phương pháp Webquest. Năm 1995, Bernie Dodge ở trường đại học
San Diego University (Mỹ) đã xây dựng Webquest trong dạy học.
Các đại diện tiếp theo là Tom March (Úc) và Heinz Moser (Thụy Sĩ). Ý tưởng
của họ là đưa ra cho học sinh một tình huống thực tiễn có tính thời sự hoặc
tính lịch sử, dựa trên cơ sở những dữ liệu tìm được, học sinh cần xác định
quan điểm của mình về chủ đề đó trên cơ sở lập luận. Học sinh tìm được
những thơng tin, dữ liệu cần thiết qua trang kết nối Internet links đã được giáo
4
viên lựa chọn từ trước. Webquest ban đầu của họ được xây dựng bao gồm
một số bước cụ thể, từ giới thiệu nhiệm vụ, đến đánh giá quá trình học tập.
Ngày nay, Webquest đã được sử dụng rộng rãi trên Thế Giới, trong giáo dục
phổ thông cũng như trong đại học. Thông thường, Webquest sẽ đưa ra một
danh sách các đường liên kết để hỗ trợ người học hoàn thành một vài hoạt
động. Người học thường đóng một vai trị nào đó. Họ có thể học theo nhóm
và mỗi cá nhân sẽ đảm đương một trách nhiệm như quan sát, thu thập thơng
tin, ghi chép, báo cáo, trình bày,…
Một số cuốn sách nghiên cứu về Webquest đã xuất bản như: “ Using
Webquests in the Social Studies Classroom” ( Sử dụng Webquest trong dạy
học các môn khoa học xã hội) của tác giả : Margaret M.Thombs, Maureen M.
Gillis, Alan S. Canestrari, cung cấp các biện pháp thực tế để sử dụng
Webquest nhằm tối ưu hóa việc học các mơn khoa học xã hội, đòi hỏi mức độ
tư duy cao của học sinh, thúc đẩy hơn sự hiểu biết của nền văn minh xã hội;
“The World Is Open” ( Thế giới mở) của tác giả Curtis J. Bonk, khám phá
các thay đổi mạnh mẽ của thế giới đang ảnh hưởng đến người học trong đó có
việc khai thác Internet nói chung và sử dụng thơng tin trên các trang Web nói
riêng…
Bên cạnh đó, cũng có nhiều luận văn , luận án nghiên cứu về Webquest và
hiệu quả của việc sử dụng Webquest như: Luận án nghiên cứu “The
Webquest creation process” (Quá trìn tạo Webquest) của Roberts, Leanne M.
, 2005, “Webquest design strategies” (Các kĩ thuật xây dựng Webquest) của
Frazze, James Phillip vào năm 2004. C ác đề tài này đã nghiên cứu về các vấn
đề cơ sở, lí luận và thực tiễn của q trình tạo Webquest., các mơ hình
Webquest và các kĩ thuật xây dựng Webquest, đồng thời tiến hành thực
nghiệm kiểm chứng đối với sinh viên các trường Đại học Akron, Đại học San
Diego…
Ngày nay Webquest (thuật ngữ tiếng anh) được sử dụng rộng rãi trên Thế
giới, trong giáo dục phổ thông cũng như trong đại học.
5
5.2.
Tại Việt Nam
Trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy học trong đó có
vấn đề ứng dụng CNTT vào dạy học nói chung và dạy học địa lí nói riêng
được rất nhiều nhà giáo dục quan tâm nghiên cứu. Trong những nghiên cứu
này có thể kể đến: Phần mềm “ PC FACT với dạy học địa lí” của GS Nguyễn
Dược, phần mềm Db – Map của PGS.TS Đặng Văn Đức (1998), phần mềm
“Atlas Địa lí mơi trường Việt Nam” do Cục môi trường – Bộ Khoa học công
nghệ và môi trường xây dựng (2001); Báo cáo “ Nghiên cứu ứng dụng tin học
trong dạy học Địa lí – một hướng đổi mới dạy học và HS làm trung tâm” của
PGS.TS Đặng Văn Đức ( 1998)…Các luận văn tốt nghiệp, luận văn thác sĩ,
luận án tiến sĩ như: “Ứng dụng CNTT trong giảng dạy Địa lí KT – XH Việt
Nam (lớp 12, THPT)” – Trần Thị Thanh Thủy (2002), “ Ứng dụng CNTT
trong giảng dạy Địa lí KT- XH Thế giới theo hướng tích cực (lớp 11)” –
Nguyễn Thị Thu Anh (2005)…Nội dung các luận văn này đề cập đến vấn đề
đổi mới theo xu hướng CNTT cụ thể là sử dụng các chương trình, phần mềm
máy tính để thiết kế các bài giảng Địa lí ở THPT, xây dựng Website tư liệu
phục vụ cho giảng dạy Địa lí ở trường phổ thơng…
Bên cạnh đó cịn có rất nhiều sách, giáo trình đề cập tới đổi mới PPDH và ứng
dụng CNTT vào dạy học Địa lí: sách dịch “Phát huy tính tích cực cuả học
sinh như thế nào?”, tác giả I.F.Khrlamop, Nxb Giáo dục năm 1979; “Phương
pháp dạy học địa lí” của Nguyễn Dược, Đặng Văn Đức, Nguyễn Trọng Phúc,
Nguyễn Thị Thu Hằng, Trần Đức Tuấn, Nxb Giáo dục năm 1996; Tài liệu “
Đổi mới phương pháp dạy học Địa lí theo hướng tích cực hóa hoạt động
người học” cuả Đặng Văn Đức, Nguyễn Thị Thu Hằng (2001); Sách “
Phương pháp dạy học Địa lí theo hướng tích cực” của Đặng Văn Đức,
Nguyễn Thị Thu Hằng, Nxb Đại học sư phạm (2003). Trong những tài liệu
này, các tác giả đã đề cập đến những vấn đề đổi mới PPDH, phát huy tính tích
cực của học sinh. Các tác giả đã đưa ra những cơ sở lí luận của vấn đề, hướng
6
dẫn cách khai thác từng loại phương pháp theo từng bước đi cụ thể và đưa ra
một vài ví dụ minh họa.
Ở Việt Nam, có một số tài liệu đề cập đến Webquest như: “ Một số vấn đề
chung về đổi mới PPDH ở trường THPT (Dự án phát triển giáo dục THPT
của Bộ Giáo dục và đào tạo)”- Nguyễn Văn Cường và Bern Meier, 2010; Đĩa
CD “ CNTT Cho day học tích cực”, NXB Giáo dục, 2010; “Xây dựng và sử
dụng Webquest trong dạy học Địa lí lớp 10 THPT” – Luận văn thạc sỹ 2014
của Nguyễn Thị Hồng. Hầu hết các tài liệu này đề cập tới các vấn đề liên
quan đến Webquest và xây dựng một số ví dụ minh họa.
6. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
6.1. Quan điểm nghiên cứu
6.1.1. Quan điểm dạy học lấy học sinh làm trung tâm
Dựa vào quan điểm này nhằm thiết kế và xây dựng Webquest hiệu quả, đáp
ứng yêu cầu của đổi mới q trình dạy học. đó là một quá trình dưới sự hướng
dẫn, tổ chức điều khiển của người giáo viên, học sinh tự giác, tích cực, chủ
động, sáng tạo, biết tự tổ chức, tự điều khiền hoạt động nhận thức học tập của
mình nhằm thực hiện tốt các mục tiêu dạy học.
6.1.2. Quan điểm công nghệ dạy học
Đó là một quan điểm khoa học về giáo dục con người. Dựa trên cơ sở tổng
hợp những thành tựu của nhân loại từ trước tới nay, đặc biệt những thành tựu
khoa học giáo dục, để tổ chức một cách khoa học quá trình đào tạo con người
bằng cách xác định một cách chính xác và sử dụng một cách tối ưu đầu ra
(mục tiêu giáo dục), đầu vào (học sinh), các điều kiện phương tiện kĩ thật dạy
học, các tiêu chuẩn đánh giá, hệ phương pháp tích cực hóa, chương trình hóa
và cá thể hóa q trình dạy học với sự chi phí tối ưu, thời gian sức lực, tiền
của của giáo viên, học sinh, nhân dân và Nhà nước nhằm đạt được mục tiêu
giáo dục.
6.1.3. Quan điểm dạy học theo định hướng phát triển năng lực
7
Việc thiết kế và sử dụng Webquest trong dạy học sẽ giúp giáo viên có nhiều ý
tưởng cho bài dạy, góp phần nâng cao hứng thú học tập cho học sinh và rèn
luyện các kĩ năng cần thiết, đặc biệt là kĩ năng sử dụng công nghệ thông tin
trong học tập,… học sinh tham gia vào các hoạt động học tập một cách tích
cực hơn, thời gian giáo viên lên lớp rút ngắn lại. Như vậy Webquest đã giúp
phát huy tích cực, tự giác học tập của học sinh, phát triển được các năng lực
như: năng lực tự học, năng lực tìm tịi, khám phá, năng lực giải quyết vấn đề,
…
6.2. Phương pháp nghiên cứu
6.2.1. Phương pháp hệ thống - cấu trúc
Phương pháp này được sử dụng để đặt vấn đề nghiên cứu vào trong một hệ
thống cấu trúc, đầu ra và đầu vào nhằm định hướng mục tiêu đặt ra đó là xây
dựng Webquest bám sát nội dung chương trình sách giáo khoa lớp 12, phù
hợp với đặc điểm tâm sinh lí học sinh và đạt được mục tiếu giáo dục đó là
phát triển năng lực của học sinh và góp phần đổi mới phương pháp dạy học.
6.2.2. Phương pháp thu thập, phân tích, tổng hợp tài liệu
Phương pháp này được sử dụng để nghiên cứu những yếu tố tác động đến
tính tích cực, chủ động của học sinh trong quá trình học tập dưới sự tác động
của CNTT và truyền thơng, từ đó đưa ra những cơng cụ thích hợp.
Nghiên cứu tài liệu lí luận về xây dựng và sử dụng Webquest trong việc phát
triển năng lực của học sinh và đổi mới phương pháp dạy học.
6.2.3. Phương pháp quan sát điều tra
Phương pháp quan sát nhằm tiếp cận tình hình thực tế, nắm được thực trạng
của việc sử dụng hệ thống mạng và máy tính phục vụ giảng dạy ở các trường
phổ thông.
Nhiệm vụ điều tra quan sát là tìm hiểu thái độ, tình hình của giáo viên và học
sinh thông qua việc trao đổi, phỏng vấn trực tiếp, dự giờ để đánh giá chính
xác việc sử dụng phương tiện dạy học, ứng dụng CNTT, mạng máy tính vào
giờ học. Trên cơ sở đó xem xét những điều kiện cần và đủ, những thuận lợi
8
cũng như những hạn chế của việc khai thác và ứng dụng Webquest vào trong
dạy học lớp 12 của giáo viên và học sinh.
6.2.4. Phương pháp thống kê toán học
Vận dụng lí thuyết xác suất và thống kê tốn học để phân tích, xử lí các kết
quả thu được sau khi thực nghiệm sư phạm nhằm xác định xu hướng phát
triển của các đối tượng và làm tăng tính chính xác, khách quan cho kết quả
nghiên cứu của đề tài.
6.2.5. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Nhằm tiến hành kiểm nghiệm, kiểm chứng, điều tra, khảo sát lấy ý kiến, đánh
giá về tính khả thi thực tiễn của việc xây dựng Webquest trong việc dạy học
Địa lí lớp 12 – THPT (chương trình cơ bản).
Sử dụng các phiếu điều tra để lấy thông tin nhanh về việc ứng dụng CNNT
trong dạy học và sửn dụng Webquest vào trong dạy học ở lớp 12 – THPT
(chương trình cơ bản)
Qua thực nghiệm rút ra những nhận xét cần thiết liện quan đến các giải pháp
đề xuất trong nội dung của đề tài. Kết quả thực nghiệm là cơ sở để kiểm
chứng tính khả thi của đề tài.
6.3.
Phương pháp chuyên gia
Dùng phương pháp này để tham khảo hỏi ý kiến các chuyên gia là người hiểu
biết, thiết kế, hướng dẫn và sử dụng Webquest trong Dạy học Địa lí lớp 12 –
THPT (chương trình cơ bản) đúng với nguyên tắc, quy trình và nội dung
chương trình , góp phần phát triển năng lực của học sinh và đổi mới phương
pháp dạy học ở trường phổ thơng.
Trong q trính xây dựng và sử dụng Webquest dạy học Địa lí lớp 12 – THPT
(chương trình cơ bản ) tôi đã nhờ đến sự giúp đỡ và hướng dẫn của chuyên
gia PGS.TS Đặng Văn Đức là người đã chun gia giúp tơi hồn thành tốt
nghiên cứu này.
7. Cấu trúc của đề tài
9
Ngoài các phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, các
phiếu điều tra…Phần nội dung gồm:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc xây dựng và sử dụng
Webquest trong dạy học Địa lí lớp 12 –THPT theo định hướng phát
triển năng lực
Chương II: Xây dựng và sử dụng Webquest trong dạy học Địa lí lớp 12
– THPT theo định hướng phát triển năng lực.
Chương III: Thực nghiệm sư phạm
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC XÂY
DỰNG VÀ SỬ DỤNG WENQUEST TRONG DẠY HỌC ĐỊA LÍ LỚP 12
– THPT THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC
1.1.Cơ sở lí luận của việc xây dựng và sử dụng Webquest trong dạy
học Địa lí lớp 12 – THPT theo định hướng phát triển năng lực
1.1.1. Những vấn đề về đổi mới phương pháp dạy học Địa Lí
Sự phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế với
những ảnh hưởng của xã hội tri thức và tồn cầu hóa. Phương pháp dạy học
10
là một phạm trù của khoa học giáo dục. Việc đổi mới phương pháp giáo dục
cần dựa trên những cơ sở khoa học và thực tiễn giáo dục. Khoa học giáo dục
là lĩnh vực rất rộng lớn và phù hợp, có nhiều chun ngành khác nhau. Vì vậy
việc đổi mới phương pháp học cũng được tiếp cận dưới nhiều cách tiếp cận
khác nhau. Có thể sơ đồ hóa cơ sở đổi mới phương pháp dạy học như sau:
( sơ đồ trang 55)
Dựa trên khái niệm chung về phương pháp dạy học có thể hiểu như sau: Đổi
mới PPDH là cải tiến những hình thức và cách thức hiệu quả hơn nhằm nâng
cao chất lượng dạy học, phát huy tính tích cực, tự lực, sáng tạo, phát triển
năng lực của học sinh.
Các nghiên cứu thực tiễn dạy học dạy học ở trường Trung học phổ thông
cũng chỉ ra một số vấn đề cụ thể sau đây về mặt phương pháp dạy học:
+ Phương pháp thuyết trình, thơng báo tri thức của giáo viên vẫn là phương
pháp dạy học được sử dụng q nhiều dẫn đến tình trạng hạn chế hoạt động
tích cực của học sinh.
+ Việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học và sự dụng các phương
pháp phát huy tích cực, tự lực và sáng tạo cịn ở mức độ hạn chế.
+ Việc gắn nội dung dạy học với các tình huống thực tiễn chưa được chú
trọng
+ Dạy học thí nghiệm , thực hành, dạy học thơng qua các hoạt động thực tiễn
ít được thực tiễn.
+ Việc sử dụng phương tiện dạy học mới, công nghệ thông tin chỉ bước đầu
thực hiện ở một số trường.
+ Việc rèn luyện khả năng vận dụng tri thức lien môn để giải quyết các chủ đề
phức hợp gắn với thực tiễn chưa được chú ý đúng mức
Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là thế hệ trẻ được đào tạo mang tính thụ
động cao, hạn chế khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức để giải
11
quyết các tình huống trong thực tiễn cuộc sống. Điều đó có nghĩa là giáo dục
chưa đáp ứng đầy đủ các mục tiêu đặt ra là “ giúp học sinh phát triển tồn
diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản, phát triển
năng lực cá nhân, tính năng động và sáng tạo…” (luật giáo dục).
Tồn cầu hóa đang là xu thế phổ biến trên thế giới hiện nay, cùng với nó là
cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại phát triển như vũ bão, công
nghệ thông tin được ứng dụng mạnh mẽ trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh
tế - xã hội, làm cho lượng thông tin bùng nổ mạnh mẽ, nhân loại khám phá ra
nhiều tri thức mới, đồng thời thế hệ sau đó ngày càng phải ghi nhớ nhiều hơn,
tích lũy nhiều hơn lượng tri thức, mỗi ngày đều phải cập nhập một lượng tri
thức mới. Do đó ngành Giáo dục và Đào tạo đứng trước những thách thức và
vận hội mới: Nhà trường phải đào tạo những con người có đạo đức có trí tuệ
thực sự năng động, luôn tự chủ, luôn làm chủ kiến thức, chủ động lĩnh hội tri
thức nhân loại, có khả năng lĩnh hội khối lượng lớn thông tin luôn biến động
và sắp xếp chúng để vận động linh hoạt, sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của
đất nướ, đáp ứng nhu cầu của xã hội…Chính vì vậy cần phải đổi mới phương
pháp dạy học.
Có thể nhận thấy vai trị và vị trí của môn Địa lý trong thực hiện mục tiêu
giáo dục: Với mục tiêu chung của ngành giáo dục đó là: Phát triển tồn diện
đức – trí – thể - mỹ, các kĩ năng cơ bản. Đồng thời hình thành nhân cách con
người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách, trách nhiệm cơng dân, có khả
năng học tập suốt đời…thì với bộ mơn địa lý góp phần quan trọng trong việc
cung cấp kiến thức phổ thông, cơ bản về Trái Đất và hoạt động của con
người, bồi dưỡng năng lực tư duy. Rèn luyện kĩ năng ứng xử phù hợp với tự
nhiên và xã hội, yêu cầu của đất nước với thời đại.Bồi dưỡng ý thức trách
nhiệm, long ham hiểu biết khoa học, tình yêu quê hương, đất nước.Như vậy
Địa lý là mơn học khơng thể thiếu trong nhà trường, góp phần quan trọng vào
mục tiêu giáo dục phổ thông.
12
Tuy nhiên điều đáng tiếc là trên thực tế việc đổi mới phương pháp dạy học địa
lí diễn ra cịn rất chậm chạp, chưa đáp ứng những yêu cầu của cải cách giáo
dục và làm cho chất lượng dạy học địa lí của các trường phổ thơng hiện nay:
+ Một số giáo viên chưa thực sự thấm nhuần bản chất, hướng và cách thức đỏi
mới phương pháp dạy học Địa lí: Phổ biến trong cách dạy hiện nay vẫn là
thuyết trình, liệt kê kiến thức, thầy nói nhiều mà khơng kiểm sốt được kiến
thức của học sinh, khơng kiểm sốt được việc học của trị. Trong nhiều giờ
học địa lí, học sinh ít có cơ hội để xây dựng nên kiến thức của mình.Các em ít
có điều kiện để suy xét thảo luận và sử dụng các ý tưởng nhằm sắp xếp cấu
trúc những ý tưởng đó thành những ý tưởng mà các em tự xử lý.
+ Việc tạo động cơ và gây hứng thú cho học sinh và thực hiện các hình thức,
khen thưởng, động viên khác nhau đã khơng được giáo viên quan tâm một
cách thích đáng.
+ Quan sát thấy nhiều giờ học địa lí cịn hội chứng “ nhàm chán”. Học sinh tỏ
ra không quan tâm nhiều đến nội dung bài học, ít chịu trách nhiệm về việc
học của bản thân mình, trở thành người thụ động trong việc học.Trong suy
nghĩ của nhiều học sinh, môn địa lí là mơn phụ, mơn học thuộc lịng, mơn trí
nhớ chứ k phải môn tư duy.
+ Hiện nay học sinh đang phải chứng kiến một thực trạng báo động đối với
tình trang “ quá tải ” trong học tập. Các em như chìm đắm trong ghi chép đặc
biệt là đối với bộ môn ghi chép nhiều như: Ngữ văn, lịch sử, địa lí…mà khi
ghi bài học sinh nhìn lại khơng biết đâu là nội dung cần ghi nhớ. Điều này tất
yếu gây ra hậu quả là học sinh học tập căng thẳng, chán nản và bị áp lực trong
học tập nhất là trong thời đại bùng nổ thông tin với yêu cầu cao về chất lượng
dạy học.
Nếu cứ tiếp tục cách học và dạy thụ động như thế, giáo dục sẽ không đáp ứng
yêu cầu của thời đại của xã hội, sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đát
nước (2000- 2020), sự thách thức trước nguy cơ tụt hậu trên đường tiến vào
thế kỉ XXI bằng cạnh tranh trí tuệ đang đòi hỏi phải đổi mới về giáo dục trong
13
đó có sự đổi mới về phương pháp dạy và học. Đây không phải là vấn đề của
riêng nước ta mà là vấn đề đang được quan tâm ở mọi quốc gia trong chiến
lược phát triển nguồn lực con người phục vụ cho các mục tiêu xã kinh tế - xã
hội dẫn đến sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học.
Những định hướng về đổi mới phương pháp dạy và học đã được xác định
trong nghị quyết Trung ương 4 khóa VII (1- 1993), Nghị quyết Trung ương 2
khóa VIII ( 12- 1996): “ Đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục và đào tạo
khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện nên tư duy sáng tạo của người
học…”, được thể chế hóa trong luật giáo dục (12- 1998): “phương pháp giáo
dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động của học sinh, phù
hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học,…bồi dưỡng phương pháp tự
học rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình
cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”. Chiến lược phát triển
giáo dục 2001- 2010 ( Ban hành kèm theo quyết số 201/2001/QD – TTg ngày
28 tháng 12 năm 2001 của Thủ tướng Chính phủ), mục 5.2: “ Đổi mới và hiện
đại hóa phương pháp giáo dục. Chuyển từ việc truyền thụ tri thức thụ động,
thầy giảng, trò ghi sang hướng dẫn người học chủ động tư duy phân tích, tổng
hợp; phát triển năng lực của mỗi cá nhân; tăng cường tính chủ động, tính tự
chủ của học sinh, sinh viên trong quá trình học tập…”
Biện pháp đổi mới : Đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ giữa các yếu tố,
các bộ phận cấu thành quá trình dạy học: nhà quản lí, giáo viên, học sinh.. Đổi
mới có trọng tâm, trọng điểm và từng bước vững chắc.
Có thể nói cốt lõi của đổi mới dạy và học là hướng tới hoạt động học tập tự
chủ của học sinh chống lạ thói quen học tập thụ động. Phát huy tính tích cực,
tự giác, chủ động, sáng tạo của học sinh. Bồi dưỡng phương pháp tư học, rèn
luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Tác động đến tình cảm, đem
lại niềm vui hứng thú cho học sinh đối với bộ mơn địa lí.
1.1.2. Định hướng phát triển năng lực
14
Chương trình dạy học định hướng phát triển năng lực có thể coi là một mơ
hình của chương trình định hướng kết quả đầu ra. Giáo dục định hướng
phát triển năng lực là công cụ để thực hiện giáo dục định hướng điều khiển
đầu ra. Đồng thời cũng là mục tiêu dạy học của môn học được mô tả thông
qua các nhóm năng lực. Trước hết cần hiểu khái niệm năng lực: Khái niệm
năng lực có nguồn gốc tiếng la tinh “competentia” có nghĩa là gặp gỡ.
Ngày nay khái niệm năng lực được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau. Có
nhiều loại năng lực khác nhau. Năng lực hành động là một loại năng
lực.Khái niệm phát triển năng lực ở đây cũng được hiểu là phát triển năng
lực hành động.
Năng lực là khả năng thực hiện có hiệu quả và có trách nhiệm các hành
động, giải quyết các nhiệm vụ, các vấn đề thuộc các lĩnh vực nghề nghiệp,
xã hội hay cá nhân trên cơ sở hiểu biết, kĩ năng, kĩ xảo và kinh nghiệm
cũng như sự sẵn sàng hành động.
Dựa vào khái niệm năng lực hình thành nên mơ hình cấu trúc năng lực với
4 năng lực chính là : Năng lực chuyên môn, năng lực phương pháp, năng
lực xã hội, năng lực cá thể. Các thành phần gặp nhau tạo thành năng lực
hành động
Trong đó:
+ Năng lực chun mơn: là khả năng thực hiện các nhiệm vụ chuyên môn
cũng như đánh giá kết quả một cách có độc lập, có phương pháp và chính
xác về mặt chun mơn (bao gồm cả khả năng tư duy logic, phân tích tổng
hợp và trừu tượng, khả năng nhận biết các mối quan hệ một cách có hệ
thống và q trình)
+ Năng lực phương pháp: là khả năng đối với những hành động có kế
hoạch định hướng mục đích trong việc giải quyết các nhiệm vụ và vấn đề.
Trung tâm của năng lực phương pháp nhận thức là những phương pháp
nhận thức, xử lí, đánh giá, truyền thụ và giới thiệu thơng tin.
+ Năng lực xã hội: là khả năng đạt được mục đích trong những tình huống
xã hội cũng như trong những nhiệm vụ khác nhau với sự phối hợp chặt chẽ
của những thành viên. Trọng tâm là: ý thức được trách nhiệm bản thân
15
cũng như của những người khác, tự chịu trách nhiệm, tự tổ chức. Có khả
năng thực hiện các hành động xã hội, khả năng cộng tác và giải quyết
xung đột.
+ Năng lực cá thể: là khả năng xác định, suy nghĩ, đánh giá được những cơ
hội phát triển cũng như những giới hạn của mình, phát triển được năng
khiếu cá nhân cũng như xây dựng kế hoạch cho cuộc sống riêng và hiện
thực hóa cho kế hoạch đó. Những quan điểm, chuẩn giá trị đạo đức và
động cơ chi phối các hành vi ứng xử.
Dạy học theo quan điểm phát triển năng lực: Trước hết, người giáo viên
phải xác định mục đích học tập, phải mơ tả được u cầu trình độ đầu ra
một cách rõ ràng theo các thành phần năng lực. Sau đó cần xác định các
nội dung dạy học: học nội dung chuyên môn, học phương pháp chiến lược,
học giao tiếp, học tự trải nghiệm, tự đánh giá. Cụ thể như sau:
Học
nội
dung Học
chun mơn
• Các
tri
pháp
phương Học giao tiếp xã Học
–
chiến hội
tự
trải
nghiệm -
đánh
lược
giá
thức
• Lập kế hoạch làm
• Làm việc trong
• Tự đánh giá điểm
chun mơn (các việc,
kế
hoạch nhóm, tạo điều mạnh và yếu, kế
khái niệm, phạm học tập
kiện cho sự hiểu
• Các phương pháp
•
trù, các mối quan
biết về phương
nhận thức.
hệ…)
diện xã hội, cách
•
Thu
thập,
xử
lí
• Các kĩ năng
ứng xử, tinh thần
thơng
tin,
trình
chun mơn
trách nhiệm và
bày tri thức
khả năng giải
quyết xung đột
16
hoạch PT cá thể
Thái độ tự trọng,
trân trọng các giá
trị , các chuẩn đạo
đức, các giá trị
văn hóa
Năng lực chuyên Năng
môn
lực Năng lực xã hội
Năng lực cá thể
phương pháp
Thực hiện đổi mới phương pháp dạy học với mục đích hướng đến cuối
cùng là tăng cường năng lực cho người học đáp ứng yêu cầu của xã hội
trong điều kiện mới. Như vậy, người học vừa là đối tượng thực hiện “sản
phẩm” của quá trình đổi mới. Trước đây, kết quả học tập của học sinh phụ
thuộc rất nhiều vào người thầy trong việc truyền đạt kiến thức đến học
sinh. Yêu cầu đối với học sinh là thái độ chăm chỉ ghi chép, học bài theo
hướng thuộc lòng, làm bài theo khn mẫu có sẵn do vây khơng thể phát
triển được các năng lực tư duy cho học sinh.
Khi yêu cầu của xã hội thay đổi, cân đến sự năng động, tư duy sáng tạo,
tích cực chủ động…của người học thì điều đầu tiên, cần thiết là người học
phải nhận thức được vai trị trung tâm của mình trong hoạt động nhận thức
và tiếp cận chân lí khoa học cũng như yêu cầu của xã hội đối với bản thân
các em ( để có thể tiếp tục học tập lên trình độ cao hơn hay đáp ứng những
cơng việc từ đơn giản đến phức tạp của xã hội)
Khi nhận thức được người học chính là trung tâm của quá trình dạy học,
của việc tiếp cận, lĩnh hội tri thức và kĩ năng sẽ giúp người học có thái độ
đúng đắn với việc học của mình. Bản thân các em sẽ nhận thức được trách
nhiệm của mình trong quá trình học tập, thay đổi thói quen thụ động,
trơng chờ vào kiến thức do giáo viên cung cấp, mà phải ln tích cực, chủ
động tìm kiếm, phát hiện tri thức dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
Với các phương pháp dạy học tích cực, người học là đối tượng tìm hiểu,
khám phá trong và cả ngoài giờ học. Thời gian trên lớp là có hạn, giáo
viên khơng thể truyền đạt hết kiến thức cho học sinh (theo cách học truyền
thống). Với thời gian hạn chế, giáo viên trên lớp chỉ đóng vai trị định
hướng, chuẩn hóa kiến thức, phân tích, giải thích những vấn đề cịn vương
vấn, vướng mắc. Do đó học sinh tự nghiên cứu, chuẩn bị trước kết quả là
hết sức cần thiết.
17
Có nhiều nguồn thơng tin khác nhau để giúp người học tự học, tự nghiên
cứu. Để trang bị kiến thức cho mình người học sẽ phải rèn luyện các kĩ
năng tìm kiếm và chọn lọc thơng tin một cách nhanh chóng, phù hợp, khả
năng tự đánh giá mức độ chính xác và tin cậy của thông tin…việc tự trang
bị thêm vốn kiến thức sẽ giúp người học rèn luyện khả năng tự học, tự
nghiên cứu suốt đời. Đây là một trong những mục tiêu của dạy học tích
cực. Đồng thời với việc tìm kiếm thơng tin là việc tiếp cận với nhiều hình
thức học tập phong phú qua hệ thống mạng internet ( học từ xa, làm bài
tập trực tuyến, trao đổi chia sẻ kiến thức với thầy cô, bạn bè…). Người
học sẽ được tham gia một cách chủ động và tích cực vào các hoạt động
khám phá tri thức do GV tổ chức ( tham gia động não trả lời câu hỏi, tham
gia vào việc học nhóm…) để biến vốn tri thức của xã hội thành tri thức
của bản thân, giúp các em phát triển năng lực chuyên môn và năng lực
phương pháp. Điều này giáo viên không thể làm thay các em.
Các phương pháp dạy học tích cực còn giúp các em tự tin, mạnh dạn phát
biểu, trao đổi ý kiến với tinh thần xây dựng, mạnh dạn, sáng tạo hơn trong
suy nghĩ và hành động. Tâm lí e ngại, sợ giáo viên, sợ sai lầm,..đã làm hạn
chế những ý kiến phát biểu, tranh luận mang tính xây dựng, lại quay về
với truyền thụ một chiều. Do đó cần rèn luyện cho các em tinh thần học
tập tích cực, giúp các em vượt qua chính bản thân mình, tự học và rút ra
bài học kinh nghiệm cho bản thân. Rèn luyện cho các em các kĩ năng cần
thiết trong cuộc sống (phát hiện vấn đề, trình bày vấn đề, kĩ năng giao
tiếp, giải quyết vấn đề, kĩ năng tranh luận…). Từ đó các em phát triển
được năng lực cá nhân và năng lực xã hội.
Các phương pháp dạy học tích cực hướng các em đến thay đổi mục tiêu
giáo dục, thay đổi mục tiêu học tập: học để làm thay vì học để thi. Mục
tiêu quan trọng và cuối cùng của đổi mới dạy học là người học có được
năng lực cần thiết đáp ứng yêu cầu của xã hội. Mặc dù thi cử là vấn đề
không thể xóa bỏ, tuy nhiên đích đến cuối cùng của người học là không
18
phải là các kì thi mà là các em có đủ năng lực cần thiết để tồn tại trong xã
hội ( cả về năng lực chuyên môn, phương pháp, năng lực cá nhân và năng
lực xã hội), trở thành những con người có ích trong xã hội. Ý thức được
điều này thì sẽ tăng thêm động lực và thấy được trách nhiệm của bản thân
để rèn luyện, điều chỉnh hoạt động học tập cho phù hợp.
Như vậy: Để dạy học tích cực đạt hiểu quả thì tinh thần, thái độ và ý thức
về mục tiêu, vai trò phương pháp học tập của người học đóng vai trị quan
trọng, góp phần hồn thiện “sản phẩm” của q trình dạy học. Dưới sự chỉ
đạo của giáo viên, học sinh dần dần có được những phẩm chất và năng lực
thích ứng với phương pháp dạy học tích cực, xác định đúng mục đích học
tập , tự giác trong học tập, biết tự học và tranh thủ mọi lúc và mọi nơi,
bằng mọi cách, phát triển các loại hình tư duy,…đáp ứng các yêu cầu của
xã hội.
1.1.3. Công nghệ thông tin và truyền thông
1.1.3.1. Khái niệm công nghệ thông tin và truyền thông
Công nghệ có nghĩa đơn giản là kĩ thuật hoặc cơng cụ và những phương pháp
có thể áp dụng để giải quyết vấn đề cụ thể hoặc thực hiện mục tiêu nhất
định.Ngôn ngữ sách vở là những dạng công nghệ đã được sử dụng từ rất sớm
trong lịch sử phát triển nhân loại. Đầu tiên là ngôn ngữ, một công cụ giúp cho
kiến thức được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Tiếp theo là công nghệ in
cho phép tốc độ và số lượng thông tin chuyển giao tăng vọt. Suốt một thời
gian dài, công cụ giảng dạy chủ yếu là sách và tập vở. Cuối thế kỉ XX, sự ra
đời của máy tính, sự ra đời và phát triển mạnh của CNTT & TT( phần mềm
máy tính, phương tiện kĩ thuật số, mạng Internet,…) đã tác động sâu sắc đến
các lĩnh vực của đời sống và xã hội. Sự phát triển nhanh chóng của cơng nghệ
những thập niên cuối thế kỉ XX đến nay đã tạo ra một khối lượng thông tin
khổng lồ,vượt các giới hạn về không gian và thời gian. Chính vì thế khả năng
thu nhận, xử lí để hiểu biết thơng tin một cách nhanh chóng và chính xác là
yêu cầu quan trọng hơn nhiều so với trước đây. Điều đó cũng có nghĩa là phải
thay đổi những tiêu chí đào tạo trong xã hội thơng tin hiện nay, cần phải thay
19
khả năng ghi nhớ bằng khả năng tìm kiếm, thu nhận và xử lí thơng tin để đạt
tới một mục tiêu đặt ra.
Công nghệ thông tin, viết tắt là CNTT, (tiếng anh: Information Technology),
là một thuật ngữ rộng bao quát gồm phương pháp, phương tiện, kĩ thuật máy
tính, viễn thơng, kĩ thuật lập trình…để khai thác và sử dụng các nguồn thông
tin phong phú và đa dạng phục vụ lợi ích của con người
Công nghệ thông tin là một ngành kĩ thuật vận dụng tất cả các tiến bộ về khoa
học, cơng nghệ, điện tử, tốn học, quản trị học…để thu thập, biến đổi, truyền
tải, lữu trữ, phân tích, suy luận, sắp xếp thơng tin…phục vụ lợi ích co người.
Cụ thể : máy tính, internet, phần mềm, trí tuệ nhân tạo, tự động hóa…đều
thuộc lĩnh vực của CNTT
Ở Việt Nam thì khái niệm cơng nghệ thơng tin được hiểu và định nghĩa trong
nghị quyết 49/CP kí ngày 04/08/1993 về phát triển cơng nghệ thơng tin của
Chính phủ Việt Nam, như sau: “ Công nghệ thông tin là tập hợp các phương
pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện đại- chủ yếu là máy
tính và viễn thơng- nhằm tổ chức khai thác và sử dụng hiệu quả các nguồn tài
nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng trong mọi lĩnh vực đời sống xã
hội”.
Dạy và học thực chất là quá trình thực hiện việc phát và thu thơng tin. Học là
qúa trình tiếp thu thơng tin có định hướng và có sự tái tạo, phát triển thơng
tin. Vì vậy những người dạy (hay máy phát in) đều nhằm mục đích là phát ra
được nhiều thơng tin với lượng thông tin lớn liên quan đến môn học, đến mục
đích dạy học. Con người học như một máy thu có nhiều cửa vào (tai, mắt,
mũi, da…) phải biết tiếp nhận thông tin qua nhiều cửa, phải biết lưu trữ thông
tin trong bộ nhớ trong (não) hay bộ nhớ ngoài (sách, vở…).Mỗi loại cửa này
tiếp nhận một loại mã hóa thơng tin riêng biệt bằng một phương tiện truyền
thơng riêng biệt.
Phương tiện truyền thơng có thể là:
Phương tiện truyền thông
Phương tiện tiếp nhận thông tin
20
Văn bản (text)
Tiếng nói (speech)
Âm thanh (sound)
ảnh tĩnh (still image)
ảnh động (animation graphic)
Phim (move)
Đồ họa (graphic)
Mắt
Tai
Tai
Mắt
Mắt
Mắt + Tai
Mắt
Vì vậy, muốn truyền được lượng thông tin lớn ta phải biết tận dụng các
phương tiện truyền thơng có thể đưa thơng tin vào các cửa này. Cho nên cùng
một bài học viết dươi dạng văn bản, nếu ta chỉ truyển nội dung văn bản tới
người học thì lượng tin sẽ rât ít, người học sẽ kém hứng thú. Hoặc nếu chỉ
truyền tin bài học theo một chiều, khơng có sự hỏi đáp khi tin tức chưa được
máy thu tiếp nhận đúng thì đương nhiên thông tin thu được của người học sẽ
méo mó, sai lệch dẫn đến người học hiểu sai bài
Quá trình đó có thể được miêu tả như sau:
Phương tiện
Thầy giáo
Thơng tin
Phương pháp
Hình 2 : Sơ đồ q trình dạy và học của thầy và trò
21
Học sinh
1.1.3.2. Vai trị của cơng nghệ thơng tin và truyền thơng đối với
dạy học Địa lí.
Các thơng tin để học
Thầy giáo
Các thông tin về sự tiến bộ học tập
Học sinh
Thông tin phản hổi
(uốn nắn, hướng dẫn…)
Hình 3: Quá trình dạy học – ba kênh truyền thông
CNTT & TT là bước tiến vĩ đại của công nghệ. Ứng dụng CNTT & TT trong
dạy học là một tất yếu trong việc đổi mới PPDH. Một trong những yêu cầu
đặt ra trong nhà trường phổ thông hiện nay là HS phải tiếp cận được và phải
biết tiếp cận với máy tính và các cơng nghệ hiện đại khác.
Những năm gần đây, sự tích hợp của công nghệ thông tin và truyền thông
trong giảng dạy đã mở ra nhiều khả năng ứng dụng, tạo bước phát triển mới
làm thay đổi xã hội nói chung và ngành giáo dục nói riêng:
Cơng nghệ thơng tin đã ảnh hưởng sâu sắc tới Giáo dục và Đào tạo trên rất
nhiều khía cạnh. Chính vì vậy mà việc áp dụng các tiến bộ khoa học kĩ thuật
vào việc đổi mới phương tiện và phương pháp dạy học địa lí ngày càng thể
hiện được tầm quan trọng của nó trong việc nâng cao chất lượng dạy và học.
Đổi mới phương pháp giảng dạy bằng công nghệ thông tin mà cụ thể là ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy học là một chủ đề lớn được UNESCO
22
chính thức đưa ra thành một chương trình trước ngưỡng cửa của thế kỉ XXI.
Ứng dụng CNTT & TT trong dạy học, vai trị của người thầy trở nên khó
khăn hơn rất nhiều và nặng nề hơn nhiều. Nếu như người thầy trước đây giữ
vị trí độc tơn trong truyền thụ kiến thức, áp đặt phương pháp tiếp cận tri thức
thì bây giờ người thầy đóng vai trị chủ động chiếm lĩnh kiến thức.
Với bộ mơn địa lí, các phương tiện thiết bị dạy học bao gồm cơ sở vật chất
dùng để dạy học như phịng bộ mơn, phịng triển lãm địa lí, vườn địa lí,…là
những điều kiện để học sinh và giáo viên làm việc. Những tài liệu địa lí như:
sách giáo khoa, sách báo, bản đồ để minh họạ,..và những thiết bị kĩ thuật dạy
học như: băng hình, máy chiếu, máy vi tính,..Đã giúp cho việc dạy học đạt
được kết quả cao.
Chính vì sự phát triển của khoa học kĩ thuật hiện nay, địa lí cũng giống như
các môn học khác, với lượng kiến thức mới phong phú và nhu cầu lĩnh hội tri
thức của học sinh ngày càng thì người giáo viên ngồi việc sử dụng các
phương pháp giảng dạy truyền thống cần phải có nhiều phương pháp mới
sao cho phù hợp. Việc áp dụng các phương tiện thiết bị dạy học hiện đại vào
các môn học nói chung và mơn Địa lí nói riêng là u cầu có tính khách quan
và cấp thiết
Đổi mới phương pháp giảng dạy bằng công nghệ thông tin là một chủ đề lớn
được UNESCO đưa ra thành chương trình trước ngưỡng cửa thế kỷ 21 và
UNESCO dự đốn sẽ có sự thay đổi căn bản nền giáo dục đầu thế kỷ 21 do
ảnh hưởng của công nghệ thông tin.
Dạy và học thực chất là quá trình thực hiện việc phát và thu thơng tin. Học là
một q trình tiếp thu thơng tin có định hướng và có sự tái tạo, phát triển
thơng tin.Vì vậy những người dạy đều có mụch đích chung là phát ra được
nhiều thông tin với lượng thông tin lớn liên quan đến mơn học mụch đích dạy
học.
Cơng nghệ thông tin hiên nay đã đáp ứng được yêu cầu của việc dạy và học,
đặc biệt là việc dạy và học từ xa.Hai công nghệ hiện đại và ứng dụng một
23
cách có hiệu quả cao nhất cho giáo dục và đào tạo là Công nghệ truyền thông
đa phương tiện và công nghệ mạng, đặc biệt là mạng internet. Hai công nghệ
này đã giúp cho người ta thực hiện:
+ Học ở mọi nơi
+ Học ở mọi lúc
+ Học suốt đời
+ Dạy cho mọi người và mọi trình độ tiếp thu khác nhau
+ Thay đổi vai trò của người dạy và người học, đổi mới cách dạy
và học.
Công nghệ thông tin đang phát triển như vũ bão và ngày càng đóng vai trị
quan trọng ở tất cả lĩnh vực trong đó có giáo dục đào tạo. Nó ảnh hưởng sâu
săc tới việc đổi mới phương pháp dạy học.
Tuy nhiên một thực tế tồn tại ngày nay đó là: học sinh lại rất thờ ơ với mơn
Địa lí. Đối với một số em bộ mơn Địa lí trở thành bộ mơn đáng chán bởi nó
q khơ và khổ. Lâu nay chúng ta đã quen đi theo một lối mòn là dạy cho học
sinh “ học để thi” chứ không phải “ học để biết”, “học để thực hành” hay “
học để vận dụng vào cuộc sống”. Do đó giờ Địa lí trở nên khơ cứng va áp đặt.
Hơn nữa chính người thầy cũng khơng cịn hứng thú với bài giảng đó được
đóng khung chi tiết đến từng phút một, lên lớp mà luôn nơm nớp lo âu về việc
cháy giáo án, không kịp chương trình, kết quả thi của học sinh khơng đạt chỉ
tiêu thi đua v.v.Những nối lo ấy triệt tiêu năng lực sáng tạo của người thầy.
Việc thay đổi quan điểm dạy học khơng chạy theo thành tích cùng với những
địi hỏi bức thiết phải đổi mới của xã hội đó dẫn đến hệ quả tất yếu là phải đổi
mới phương pháp dạy học. Người giáo viên Địa lí phải thay đổi phương pháp
cũng giống như người đầu bếp phải thay đổi cách chế biến “món ăn” sao cho
phù hợp khẩu vị của những học trò “suy dinh dưỡng” và “ biếng ăn”, để
chúng thưởng thức môn học một cách vui vẻ và hào hứng. Và với công nghệ
thông tin, người thầy có thể tạo ra những món ăn hấp dẫn và bổ dưỡng, tức là
giờ học lí thú mà nếu chỉ sử dụng bảng đen và phấn trắng thì khó mà thực
hiện được. Với các phương tiện dạy học hiện đại như máy tính , máy chiếu
24
và một số phần mềm tiện ích, người thầy có thể làm cho học sinh quan tâm
nhiều đến môn Địa lí mà khơng phải ép buộc chúng. Phương pháp dạy học
mới với sự trợ giúp của Công nghệ thông tin đó mang đến cho giờ dạy và học
Địa lí một khơng khí mới.
Với nhiêu tính năng, thiết kế bài giảng sử dụng máy vi tính và cơng nghệ
truyền thơng đa phương tiện có vai trị to lớn đối với q trình dạy và học.
Giáo viên sẽ là người hướng dẫn học sinh học tập chứ không đơn giản là
người phát thơng tin vào đầu học sinh. Học sinh có thể lấy thông tin từ nhiều
nguồn phong phú khác nhau như sách, Internet, CD- CROM,..Học sinh phải
biết đánh giá và lựa chọn thơng tin, khơng cịn đơn thuần chỉ nhận thơng tin
một chiều và thụ động vì nguồn thơng tin bạt ngàn. Thầy giáo cũng đóng vai
trị là người thường xun vì sự nâng cao dân trí của chính người thầy, với
mạng máy tính người thầy có điều kiện dễ dàng hơn trong việc trao đổi kinh
nghiệm giảng dạy và việc học của mình.
Việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin và truyền thơng vào trong dạy và học Địa
lí là phù hợp và cần thiết vì những lí do sau:
+ Phù hợp với yêu cầu của thời đại: Việc ứng dụng công nghệ thôn tin vào
trong dạy học ở trường phổ thông Việt Nam là phù hợp với quy luật phát triển
của thời đại. UNESCO cũng đã dự đoán trước ngưỡng của thế kỉ 21 “sẽ có
một sự thay đổi nền giáo dục một cách căn bản vào đầu thế kỉ 21 do ảnh
hường của CNTT”. Và khẩu hiệu cho nền giáo dục thế kỉ 21được khẳng định
là : “ Học ở mọi nơi, học ở mọi lúc, học suốt đời, dành cho mọi nguời và với
mọi trình độ tiêp thu khác nhau”
+ Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là phù hợp với chủ trương,
chính sách của Đảng và Nhà nước. Bọ Giáo dục và Đào tao cũng xác định con
đường phát triển cho giáo dục Việt Nam là dựa trên “ dựa trên công nghệ
thông tin” và “ nó là phương tiện để thúc đẩy cuộc cách mạng về phương
pháp dạy và học” – nghĩa là thay đổi phương pháp dạy học trong nhà trường.
Thời gian gần đây, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quyết định “ cấm sử
25