Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

Tình trạng khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng lắp đặt tại công ty bảo minh thăng long những năm gần đây và giải pháp nâng cao hiệu quả trong tương lai

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (364.09 KB, 81 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam là một nước đang trong quá trình phát triển, nhu cầu về xây dựnglắp đặt cơ sở hạ tầng kĩ thuật là rất lớn và cần thiết. Đi đôi với hoạt động xây lắp là
những nguy cơ về rủi ro gây tổn thất cho các công trình là không lường trước
được. Một khi rủi ro xảy ra gây tổn thất cho các công trình sẽ làm ảnh hưởng đến
chất lượng công trình, thời gian thi công và gây khó khăn về tài chính cho các chủ
đầu tư. Để giải quyết những vấn đề này thì một trong những biện pháp cơ bản đó là
tham gia bảo hiểm cho các công trình trong qúa trình xây lắp.
Nhận thấy xu hướng phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm tài sản kỹ thuật nói
chung và bảo hiểm xây dựng lắp đặt nói riêng, trong những năm qua Bảo Minh
Thăng Long đã có các hoạt động triển khai khá hiệu quả nghiệp vụ bảo hiểm xây
dựng-lắp đặt để mang lại doanh thu cho công ty.
Tuy vậy, trong một thị trường bảo hiểm cạnh tranh khốc liệt cùng với tình
trạng bất động sản đóng băng, khủng hoảng kinh tế đang trở nên ngày càng tồi tệ
hiện nay, hoạt động khai thác nghiệp vụ bảo hiểm này cần có một cái nhìn cụ thể.
Bởi vậy, để đánh giá quá trình triển khai nghệp vụ bảo hiểm xây dưng-lắp đặt
trong thời gian qua cũng như đưa ra những kiến nghị chủ quan về việc triển khai
nghiệp vụ bảo hiểm này ở Bảo Minh Thăng Long em chọn đề tài “Tình trạng khai
thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng - lắp đặt tại Công ty Bảo Minh Thăng Long
những năm gần đây và giải pháp nâng cao hiệu quả trong tương lai”
Luận văn của em bao gồm 3 phần:
Chương 1: Khái quát chung về nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng- lắp đặt
Chương 2: Tình trạng khia thác bảo hiểm xây dựng-lắp đặt tại công ty Bảo
Minh Thăng Long những năm gần đây
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả khia thác bảo hiểm xây dựng lắp đặt
tại Bảo Minh Thăng Long
1


Để hoàn thành bài viết này, em đã có được sự hướng dẫn tận tình của thầy
Trịnh Hữu Hạnh cùng toàn thể các anh chị trong công ty Bảo Minh Thăng Long
nói chung và phòng tài sản-kĩ thuật nói riêng.


Do còn nhiều hạn chế trong kiến thức cũng như kinh nghiệm thực tế, chắc
chắn bài viết còn nhiều thiếu sót, rất mong thầy cô quan tâm góp ý và sữa chữa để
em có một bài luận văn hoàn thiện.
Em xin chân thành cảm ơn.

2


CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGHIỆP VỤ BÀO HIỂM XÂY
DỰNG - LẮP ĐẶT
1. Lịch sử hình thành và phát triển của nghiệp vụ xây dựng - lắp đặt
1.1 Đặc điểm và vai trò của ngành xây dựng – lắp đặt trong xã hội
1.1.1 Đặc điểm
Công nghiệp xây dựng đang ngày càng thâm nhập sâu, rộng vào đời sống của
con người, từ những ngôi nhà ở thông thường phục vụ cho nhu cầu thiết yếu của
con người cho tới những công trình lớn như đường hầm, nhà máy, sân bay, cao
ốc… hay những khu vui chơi giải trí đều cần đến sự góp mặt của công nghiệp xây
dựng.Vì thế ngành công nghiệp xây dựng đã và đang trở thành một phần không thể
thiếu cho quá trình phát triển của xã hội loài người.
Ngày nay, ngành công nghiệp xây dựng đạt được những thành tựu ngày càng
to lớn, mức độ phức về kỹ thuật của nó ngày càng tinh vi hơn, cơ sở hạ tầng mà nó
tạo ra là một chuẩn mực đánh giá sự tiến bộ của một quốc gia.
Tuy nhiên, một khó khăn đặt ra mà các dự án xây dựng đang phải đương đầu
đó là: sự hạn chế về nguồn vốn đầu tư, sự thiếu hụt ngày càng gia tăng về nguyên
vật liệu, rủi ro trong quý trình thi công …của các công trình xây dựng.
Với những tính chất đặc thù như vậy, ngành xây dựng lắp đặt có những đặc
điểm sau:
- Ngành xây dựng mang những đặc tính chung của cả ngành sản xuất và
ngành công nghiệp dịch vụ: Nó cũng có các sản phẩm vật chất và thường gây ấn
tượng về kích thước, giá thành và sự phức tạp về kỹ thuật. Nhưng mặt khác ngành

xây dựng lại mang dáng vẻ của một ngành công nghiệp dịch vụ bởi lẽ nó không

3


tích lũy vốn đáng kể so với các ngành công nghiệp khác như thép, giao thông vận
tải, dầu khí và khai thác mỏ.
- Xây dựng là ngành bị cắt rời cao độ và đôi khi bị chia rẽ giữa các thành
phần của nó. Các bộ phận của ngành xây dựng là thiết kế, xây dựng, tiêu thụ, …
đều có thể đạt tới trình độ cao của nó và có rất ít triển vọng để cho các bộ phận đó
phù hợp với nhau.
- Công nghiệp xây dựng được đính hướng rất rõ rệt phục vụ cho khách theo
kiểu đặt hàng, và khách hàng thường hướng đến những tiêu chí độc đáo mới lạ vì
vậy yêu cầu đối với kỹ sư làm xây dựng ngày càng cao hơn.
- Về nghiên cứu khoa học, tuy chưa đủ số liệu thống kê chính xác, nhưng nói
chung người ta thừa nhận rằng chỉ có một phần rất nhỏ khoảng 1 % tổng thu nhập
của ngành được đầu tư cho khoa học ứng dụng và người ta bỏ qua nghiên cứu khoa
học cơ bản – đây là một điều tương phản mạnh mẽ so với các ngành khác.
- Ngành xây dựng trong quá trình thực hiện chịu tác động mạnh mẽ của yếu tố
ngoài trời. Vì vậy nó chịu rủi ro rất cao và ảnh hưởng đến chất lượng công trình
cũng như tiến độ thi công.
1.1.2 Vai trò
Ngành xây dựng có một vai trò rất quan trọng. Ở Việt Nam hiện nay cũng
như trên thế giới nó quyết định quá trình công nghiệp hoá đất nước, nó có ảnh
hưởng và chi phối sự phát triển của các ngành khác trong nền kinh tế. Vai trò của
nó được thực hiện qua các mặt sau:
- Xây dựng là ngành sản xuất vật chất lớn nhất trong nền kinh tế quốc dân,
chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng GDP của nước ta. Hàng năm nó chiếm một
tỷ lệ lớn trong đầu tư của ngân sách nhà nước nhất là một số nước có cơ sở hạ tầng
chưa phát triển như Việt Nam.

4


- Ngành công nghiệp xây dựng liên quan hầu hết tới tất cả các ngành khác
trong nền kinh tế.
- Xây dựng cơ bản tạo điều kiện không ngừng nâng cao chất lượng đời sống
vật chất và tinh thần nhân dân. Nâng cao hiệu quả của các hoạt động trong xã hội.
Giúp cải thiện và nâng cao vần đề an ninh quốc gia.
- Hàng năm ngành đóng góp một tỷ lệ lớn vào GDP. Giúp giải quyết công ăn
việc làm cho hàng triệu người
1.2 Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm xây dựng – lắp đặt
1.2.1 Trên thế giới.
Trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày cũng như hoạt động sản xuất kinh
doanh dù đã luôn luôn chú ý ngăn ngừa và đề phòng nhưng con người vẫn có nguy
cơ gặp phải những rủi ro bất ngờ xảy ra. Có rất nhiều nguyên nhân, nhưng bất kể
lý do gì khi xảy ra rủi ro thường đem lại cho con người những khó khăn trong cuộc
sống như mất hoặc giảm thu nhập, ngưng trệ hoạt động sản xuất kinh doanh của
nhiều tổ chức và cá nhân. Làm ảnh hưởng đến đời sống kinh tế - xã hội nói chung.
Để đối phó với các rủi ro, con người đã có rất nhiều biện pháp khác nhau nhằm
kiểm soát cũng như khắc phục hậu quả. Nhưng bảo hiểm vẫn là biện pháp được ưu
tiên sử dụng nhiều nhất.
Cùng với sự ra đời của ngành bảo hiểm nói chung thì bảo hiểm xây dựng lắp
đặt cũng xuất hiện. Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt là bộ phận của bảo hiểm kỹ
thuật. Sự ra đời và phát triển của bảo hiểm kỹ thuật luôn gắn liền với sự phát triển
của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật. So với các loại hình bảo hiểm khác thì bảo
hiểm kỹ thuật ra đời muộn hơn rất nhiều. Đơn bảo hiểm kỹ thuật đầu tiên trên thế
giới được cấp năm 1859, trong khi đó bảo hiểm hàng hải xuất hiện năm 1547, bảo
hiểm hoả hoạn năm 1667. Bảo hiểm kỹ thuật có mặt hầu hết trong các lĩnh vực của
5



hoạt động kinh tế và xã hội trên toàn thế giới. Từ việc bảo hiểm cho các máy móc
sản xuất, các thiết bị dụng cụ tinh vi trong phòng thí nghiệm cho tới bảo hiểm các
công trình xây dựng lớn như các toà nhà chọc trời, sân bay bến cảng, tàu vũ trụ,
nhà máy điện nguyên tử…
Nhu cầu tái thiết nền kinh tế sau chiến tranh thế giới lần thứ hai và sự phát
triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ - kỹ thuật làm cho bảo hiểm kỹ thuật phát
triển hơn bao giờ hết và trở thành một trong những loại hình bảo hiểm quan trọng
trong nền kinh tế quốc dân. Bảo hiểm kỹ thuật đã phát triển rất nhanh chóng và
tương đối hoàn chỉnh, cho đến nay đã có rất nhiều loại hình bảo hiểm trong bảo
hiểm kỹ thuật, các loại hình có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, mỗi loại đảm bảo
cho một khâu trong quá trình sản xuất.
Cho đến nay BHXDLĐ cũng như bảo hiểm kỹ thuật có sự phát triển mạnh mẽ
cả về số lượng và chất lượng. Về mặt kỹ thuật nghiệp vụ BHXDLĐ tương đối
phức tạp với các loại hình bảo hiểm khác. Với xu thế phát triển như hiện nay,
nghiệp vụ còn phát triển xa hơn nữa trong tương lai.
1.2.2 Tại Việt Nam
Sau khi đất nước thống nhất năm 1975 và có sự xuất hiện của Công ty Bảo
hiểm Việt Nam (Bảo Vịêt). Bảo hiểm xây dựng và lắp đặt mới bắt đầu có sự phát
triển nhất định. Ban đầu khi triển khai nghiệp vụ BTC cho phép sử dụng đơn bảo
hiểm, quy tắc và biểu phí của Công ty Munich Re.
Sau khi đất nước mở cửa (1986) và hội nhập với nển kinh tế khu vực và thế
giới. Bảo hiểm xây dựng lắp đặt ở nước ta có những bước phát triển rất đáng mừng
từ hành lang pháp lý cho đến sự hoạt động của cung cầu bảo hiểm trên thị trường.
Ngày 20/10/1994 Chính phủ ban hành Nghị định 177-CP quy định về quản lý đầu
tư. Điều 52 quy định rõ các chủ đầu tư phải mua bảo hiểm công trình xây dựng, lắp
6


đặt, các tổ chức tư vấn xây lắp, nhà thầu xây lắp phải mua bảo hiểm trách nhiệm

nghề nghiệp cho các phẩm tư vấn, thiết bị vật tư nhà xưởng phục vụ thi công, tai
nạn lao động đối với người lao động, trách nhiệm dân sự đối với người thứ ba
trong quá trình thực hiện dự án. Nghị định 42/CP thay thế NĐ 77/CP, thông tư số
663/TC/ĐT- TCNH ngày 24/06/1996 về việc ban hành quy tắc và biểu phí, phụ phí
và khấu trừ bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng và lắp đặt. Đơn BHXD và LĐ đầu tiên ở
Việt Nam được cấp là đơn bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt cho trạm thu phát vệ tinh
mặt đất Láng Trung. Đây là công trình liên doanh giữa tổng công ty Bưu chính
viễn thông Việt Nam và hãng Teltra của Úc. Và gần đây nhất ngày 12/04/2004 Bộ
trưởng Bộ Tài chính đã ban hành Quyết định số 33/2004/QĐ-BTC về việc ban
hành quy tắc, biểu phí bảo hiểm xây dựng, lắp đặt.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam hiện nay đang ngày càng cạnh tranh khốc liệt,
bên cạnh các “đại gia” của bảo hiểm Việt Nam như Bảo Việt, Bảo Minh, PJICO,
PVI… thì ngày càng xuất hiện nhiều công ty mới gia nhập thị trường như: BIC
(trước đây là liên doanh bảo hiểm Việt- Úc), AAA, Liberty...Hiện nay nghiệp vụ
bảo hiểm xây dựng lắp đặt đóng góp một tỷ lệ đáng kể trong tổng doanh thu phí
của các công ty bảo hiểm và lợi ích của toàn xã hội.
1.3 Sự cần thiết của bảo hiểm xây dựng - lắp đặt
1.3.1. Đối với xã hội.
Bảo hiểm là ngành dịch vụ, có vị trí ngày càng quan trọng trong nền kinh tế
quốc dân. Bảo hiểm không chỉ thực hiện việc huy động vốn cho nền kinh tế mà
điều quan trọng là góp phần đảm bảo ổn định tài chính cho các cá nhân tổ chức và
hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngày nay bảo hiểm không còn xa lạ mà đã len lỏi
đến mọi làng quê, mọi cơ quan, doanh nghiệp, và đã thâm nhập vào mọi hoạt động
đời sống kinh tế xã hội. Kinh tế càng phát triển, đời sống càng nâng cao thì nhu
7


cầu bảo hiểm càng lớn, càng xuất hiện nhiều nghiệp vụ mới. Sự ra đời và phát triển
của bảo hiểm là một tất yếu khách quan nhằm đáp ứng nhu cầu của con người và vì
con người. Tác dụng của bảo hiểm nói chung cũng như NVBHXDLĐ đối với xã

hội được thể hiện qua các điểm sau:
- Nó là nguồn thu hút vốn đầu tư cho nền kinh tế. Người tham gia bảo hiểm
đóng phí bảo hiểm tạo thành một nguồn quỹ lớn. Quỹ này ngoài chi trả, trong
trường hợp cần thiết còn đem đầu tư.
- Bảo hiểm thu hút một lượng lớn lao động góp phần giải quyết công ăn việc
làm tạo thu nhập cho người dân và đóng góp đáng kể vào tổng sản phẩm trong
nước (GDP) và tích luỹ cho ngân sách nhà nước.
- Bảo hiểm góp phần thúc đẩy quan hệ kinh tế giữa các nước, nhất là thông
qua hoạt động tái bảo hiểm. Hiện nay nước ta có rất nhiều công ty và tập đoàn Bảo
hiểm nước ngoài đầu tư và hoạt động như AIA, Prudential,…
- Bảo hiểm trở thành chỗ dựa tinh thần cho mọi người, cho các tổ chức giúp
họ yên tâm trong cuộc sống, sinh hoạt sản xuất kinh doanh, bảo hiểm thể hiện rất
rõ tính công đồng, tương trợ, nhân văn sâu sắc.
1.3.2 Đối với người được bảo hiểm.
Trong cuộc sống, không ai có thể lường trước được mọi rủi ro của mình.
Ngày hôm nay đang làm ăn phát đạt nhưng có thể ngày mai sụp đổ mà nguyên
nhân thì có vô vàn. Mỗi người đều thấy những hậu quả nặng nề khi Tháp đôi
Trung tâm thương mại thế giới NewYork sụp đổ ngày 11/09/2002. Vụ nổ nhà máy
hạt nhân Ucraina thế kỉ trước đó ( năm1986). Nó không chỉ ảnh hưởng trực tiếp
đến những người ở đó mà nó còn ảnh hưởng đến rất nhiều người, đôi khi là nền
kinh tế của một quốc gia. Vì vậy vấn đề ổn định sản xuất kinh doanh cũng như đời
sống cá nhân là điều rất quan trọng. Khi tiến hành xây dựng các công trình lớn, nhà
8


cao tầng hay tiến hành máy móc thiết bị chủ đầu tư hay các chủ thầu nên tham gia
bảo hiểm để không những đảm bảo về vốn mà còn yên tâm về mặt tinh thần.
2. Những nội dung cơ bản về bảo hiểm xây dựng – lắp đặt
2.1 Nội dung cơ bản của bảo hiểm xây dựng.
2.1.1 Đối tượng bảo hiểm

Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng bao gồm:
- Các công trình xây dựng công cộng, nhà ở, công trình công nghiệp, giao
thông thủy lợi, năng lượng và các công trình khác mà kết cấu có sử dụng xi măng ,
sắt thép như: nhà máy, xí nghiệp, kho tàng, trường học, bệnh viện, trụ sở văn
phòng, đường xá, sân ga, bến cảng, cầu cống, đê đập, hệ thống thoát nước…
- Trang thiết bị xây dựng phục vụ quá trình xây dựng như:
+ Các công trình tạm thời. Đây là giá trị các công trình tạm thời cần cho quá
trình thực hiện dự án.
+ Máy móc và nhà xưởng, bao gồm cả hàng rào, dây cáp, máy phát điện…
- Máy móc xây dựng phục vụ quá trình xây dựng. Người bảo hiểm chỉ đảm
bảo cho phần máy móc phục vụ cho quá trình xây dựng.
- Phần công việc lắp đặt và/ hoặc cấu thành một bộ phận của quá trình xây
dựng.
- Các tài sản sẵn có trên và trong phạm vi công trường thuộc quyền sở hữu,
quản lý, trông nom, kiểm soát của người được bảo hiểm.
- Chi phí dọn dẹp sau tổn thất. Phần đối tượng này chỉ dduocj bảo hiểm khi
các chi phí phát sinh liên quan đến tổn thất được bảo hiểm.
Tùy theo từng hợp đồng bảo hiểm mà các hạng mục ngoài hạng mục xây
dựng chính cảu công trình như: phần máy móc thiết bị thi công, máy móc và nhà
xưởng, chi phí dọn dẹp… sẽ được bảo hiểm bằng cách ghi thêm vào trong hợp
đồng danh mục tài sản được bảo hiểm thêm hoặc cũng có thể được bảo hiểm theo
bảo hiểm bổ sung.
Hợp đồng bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng-lắp đặt thường được cấp chung cho
cả phần thiệt hại vật chất và trách nhiệm đối với người thứ ba.
9


Rủi ro trong quá trình xây dựng thường mang lại những hậu quả nặng nề về
tài chính cho chủ đầu tư, vì vậy để đảm bảo nguồn vốn cho các chủ đầu tư, đặc biệt
là các công trình đầu tư xây dựng bằng nguồn vốn của nhà nước thì pháp luật của

một số quốc gia có quy định về chế độ bảo hiểm xây dựng bắt buộc.
2.1.2 Rủi ro được bảo hiểm và rủi ro loại trừ
2.1.2.1 Rủi ro được bảo hiểm
Trong hoạt động bảo hiểm xây dựng, rủi ro tác động đến đối tượng bảo hiểm
rất phức tạp. Di vậy theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của rủi ro mà các nhà
bảo hiểm thường xác định rủi ro được bảo hiểm theo hai nhóm sau:
-Rủi ro chính: là những rủi ro cơ bản phát sinh trong hoạt động xây dựng; có
thể bao gồm cả rủi ro nội sinh và rủi ro ngoại lai của công trình, nhưng các rủi ro
này phải đảm bảo các điều kiện của một rủi ro bảo hiểm gồm các rủi ro sau:
+ Rủi ro tiên tai: lũ lụt, mưa bão, đất đá sụp lở, sét đánh, động đất, núi lủa,
song thần…
+ Rủi ro tai nạn: cháy nổ, đâm va, trộm cắp, sơ suất lỗi lầm của người làm
thuê cho người được bảo hiểm. Đâm va bao gồm đâm va và bị đâm va của các
phương tiện vận chuyển và thi công tự hành hoặc vật thể khác xảy ra tại khu vực
thi công công trình.
- Rủi ro riêng: có thể được bảo hiểm nếu có them những thỏa thuận riêng và
được người bảo hiểm chấp nhận bao gồm: rủi ro chiến tranh, rủi ro đình công, rủi
ro thiết kế chế tạo,…Thiệt hại của rủi ro do thiết kế chế tạo chỉ được bảo hiểm khi
đó là những thiệt hại gián tiếp của rủi ro này.
2.1.2.2 Rủi ro loại trừ
Bao gồm các tổn thất xảy ra có thể quy cho các rủi ro sau:
+ Do nội tỳ của nguyên vật liệu hoặc sử dụng sai chủng loại chất lượng
nguyên vật liệu: xi măng không đảm bảo chất lượng, sai mác, kém chịu lực; sắt
thép oxy hóa đẫn đến hao mòn, han rỉ, gạch, cát sỏi,…làm giảm chất lượng công
trình.
10


+ Những hỏng hóc hay trục trặc về cơ khí, về điện của máy móc xây dựng
phục vụ thi công trên công trình. Loại trừ này chỉ áp dụng đối với máy móc bị hư

hỏng, còn với tất cả các thiệt hại khác là hậu quả của rủi ro trên vẫn thuộc trách
nhiệm của người bảo hiểm.
+ Chậm trễ, vi phạm tiến độ thi công bị phạt, tạm ngừng công việc, mất thu
nhập.
+ Do hậu quả của việc di chuyển, thóa dỡ máy móc và dụng cụ thi công dẫn
đến tổn thất của máy móc và dụng cụ thi công.
+ Do mất tài liệu bản vẽ, bản thiết kế, chứng từ thanh toán.
+ Do phản ứng hạt nhân, phóng xạ hay nhiễm phóng xạ.
+ Do hành động cố ý của người được bảo hiểm hay địa diện của họ
Có những công trình xây dựng thời giant hi công kéo dài qua nhiều năm: như
xây dựng cầu, đường, dàn khoan trên biển,…vì vậy tùy theo điều kiện đặc thù của
địa phương, mà người bảo hiểm phải lưu ý tới rủi ro theo mùa và khi đánh giá rủi
ro người bảo hiểm phải lưu ý tới kế hoạch của tiến độ thi công.

2.1.3 Người mua bảo hiểm và người được bảo hiểm
Hợp đồng bảo hiểm mọi rủi ro xây dựng (CAR) thường được cấp chung cho
cả phần tổn thất vật chất và trách nhiệm đối với người thứ ba nên thông thường chủ
công trình mua bảo hiểm cho tất cả các bên liên quan đến công việc xây dựng theo
những quyền lợi của họ hoặc do những người có quyền lợi liên quan tới công trình
mua bảo hiểm theo quyền lợi của mình. Vì vậy, diện người được bảo hiểm rất rộng
bao gồm các tổ chức, cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự được bảo hiểm theo
hợp đồng bảo hiểm.
- Đối với bảo hiểm công trình xây dựng: bên mua bảo hiểm là chủ đầu tư
(hoặc ban quản lý dự án). Trường hợp phí bảo hiểm đã tính vào giá trúng thầu thì
nhà thầu thực hiện việc mua bảo hiểm.
11


- Đối với bảo hiểm vật tư thiết bị nhà xưởng phục vụ thi công thì bên mua bảo
hiểm là các doanh nghiệp xây dựng.

2.1.4 Giá trị bảo hiểm – Số tiền bảo hiểm.
- Giá trị bảo hiểm của công trình xây dựng: Là toàn bộ chi phí xây dựng tính
tới khi kết thúc thời gian xây dựng bao gồm: các khoản chi phí liên quan đến khảo
sát, thiết kế, xây dựng, chi phí giải phóng mặt bằng, chi phí làm nhà ở tạm cho
công nhân xây dựng, chi phí khác. Các khoản chi phí này chỉ được xác định chính
xác vào thời điểm nghiệm thu chính thức công trình, trong khi đó về vấn đề kỹ
thuật ngay tại thời điểm ký kết HĐBH các nhà bảo hiểm phải xác định được giá trị
bảo hiểm để có cơ sở tính phí BH. Vì vậy, NBH thường lấy giá trị giao thầu của
công trình vào thời điểm bắt đầu thời hạn BH để làm cơ sở tính phí BH. Nhưng giá
trị giao thầu này phải được thường xuyên xem xét về phương diện lạm phát của
nguyên vật liệu và tiền công xây dựng trong thời gian xây dựng, nếu cần thiết sẽ
phải điều chỉnh lại giá trị của HĐBH. Đôi khi giá trị BH cũng có thể được tăng
thêm một khoản dự phòng để tránh việc BH dưới giá trị. Nếu khoản dự phòng này
quá cao so với giá trị BH thực tế thì sau khi kết thúc thời gian xây dựng NMBH sẽ
được hoàn trả lại phần phí BH thừa tương ứng. Trái lại, không nên cho tới khi kết
thúc thời hạn BH mới điều chỉnh lại giá trị BH.
Đối với máy móc, trang thiết bị giá trị BH thường được xác định theo giá trị
thay thế.
Giá trị BH của các tài sản xung quanh và tài sản hiện có trên công trường
của NĐBH là giá trị thực tế của tài sản vào thời điểm yêu cầu BH. Giá trị BH chi
phí dọn dẹp thường được xác định bằng một tỷ lệ so với giá trị bảo hiểm của công
trình.
12


-Số tiền BH: được xác định theo giá trị BH. Trường hợp phát sinh thêm yếu tố
làm tăng thêm giá trị bảo hiểm thì NĐBH phải khai báo kịp thời cho NBH để điều
chỉnh phí HĐ. Nếu không, quy tắc tỷ lệ sẽ được áp dụng khi bồi thường như BH
dưới giá trị.
2.1.5 Phí BH

Phí toàn bộ của HĐBH = Phí tiêu chuẩn + Phụ phí mở rộng tiêu chuẩn +
Phụ phí mở rộng ngoài tiêu chuẩn + Chi phí khác + Thuế
Phí tiêu chuẩn là mức phí BH cho các RR được BH theo đơn BH tiêu chuẩn.
Phí BH tiêu chuẩn bao gồm phí cơ bản và phụ phí tiêu chuẩn.
Phí BH tiêu chuẩn = Phí cơ bản + Phụ phí tiêu chuẩn
Phí cơ bản là mức phí tối thiểu tính cho từng loại công trình xây dựng theo
thời gian xây dựng tiêu chuẩn, được xác định bằng tỷ lệ phần nghìn trên giá trị BH
của công trình.
Phụ phí tiêu chuẩn là phần phụ phí tính cho RR động đất, RR bão và lũ lụt.
Phụ phí tiêu chuẩn được xác định theo tỷ lệ phần nghìn giá trị công trình theo năm,
nếu thời hạn thi công công trình dưới 1 năm thì tính theo tháng.
Phụ phí cho RR động đất được tính căn cứ vào độ nhạy cảm công trình và
khu vực xây dựng công trình. Để xác định phụ phí cho RR động đất chính xác,
NBH còn phân chia khu vực theo khả năng xảy ra động đất.
Phụ phí cho RR bão và lũ lụt được tính căn cứ vào từng loại công trình.
Trong từng trường hợp cụ thể mức phí còn được điều chỉnh theo thời gian thi công
và mực nước bển, sông, hồ, kề cận.
Phụ phí mở rộng tiêu chuẩn được xác định bằng tỷ lệ phụ phí mở rộng tiêu
chuẩn nhân với giá trị tài sản được BH.
13


Phụ phí mở rộng ngoài tiêu chuẩn: áp dụng cho các RR nằm ngoài phạm vi
BH của đơn BH tiêu chuẩn và được bảo hiểm bằng những điều khoản bổ sung.
Phí BH có tính đến việc áp dụng mức khấu trừ. Ngoài mức khấu trừ tiêu
chuẩn, nếu hợp đồng áp dụng mức khấu trừ tăng phí BH sẽ giảm đi một phần
tương ứng theo quy định.
Các chi phí khác: chi phí quản lý, ký kết HĐ…thường được xác định bằng
một tỷ lệ phần trăm so với phí thuần của HĐ.
Thuế: Thuế VAT được tính bằng một tỷ lệ phần trăm so với tổng phí BH

của HĐ.
2.1.6 Thời hạn BH
Thời hạn BH chia 2 giai đoạn:
-Giai đoạn thi công: Thời hạn HĐBH bắt đầu từ khi khởi công công trình
hoặc sau khi dỡ xong đối tượng BH xuống công trường. HĐBH có hiệu lực sau khi
NĐBH đã trả phí BH trừ khi có thỏa thuận khác bằng văn bản, HĐBH sẽ chấm dứt
hiệu lực vào ngày quy định trong HĐ. Mọi trường hợp kéo dài thời hạn bảo hiểm
phải được doanh nghiệp BH đồng ý bằng văn bản.
-Giai đoạn bảo hành: Thời hạn BH được bắt đầu kể từ khi “tiếp nhận tạm
thời” và kết thúc khi “bàn giao chính thức”, không kéo dài quá 12 tháng.
2.1.7 Bồi thường BH
Khi có tổn thấy xảy ra, trước khi giải quyết bồi thường NBH phải tiến hành
công tác giám định:
Mô tả thiệt hại phải vẽ sơ đồ khu vực bị tổn thất trên công trường, mô tả chi
tiết mức độ thiệt hại, xác định rõ đó là công trình tạm thời hay chính thức, mức độ
thiệt hại do nhà thầu hay thầu phụ thực hiện…
14


Đánh giá thiệt hại cần chú ý: Thiệt hại xảy ra ở giai đoạn nào, STBH của
từng hạng mục công trình được BH. Yêu cầu cung cấp nhật ký thi công, biên bản
nghiệm thu từng phần. Nêu rõ các bộ phận bị tổn thất nhưng có thể tận dụng hay
thu hồi được một phần giá trị.
Trong trường hợp công trình bị tổn thất vật chất có thể sửa chữa được, NBH
sẽ bồi thường toàn bộ những chi phí phục hồi, sửa chữa cần thiết cho đối tượng
được BH.
Trong trường hợp công trình bị tổn thất toàn bộ hoặc tổn thất toàn bộ một
hạng mục được BH thì NBH sẽ bồi thường theo giá trị thực tế của hạng mục đó
ngay trước khi xảy ra tổn thất trừ đi giá trị thu hồi.
Đối với chi phí dọn dẹp chỉ được bồi thường khi những chi phí này liên quan

đến thiệt hại được BH, số tiền bồi thường tối đa cho chi phí dọn dẹp bằng số tiền
BH đã thỏa thuận cho phần chi phí này.
NBH chỉ bồi thường những chi phí cần thiết nhằm khôi phục lại trạng thái giá
trị kỹ thuật như trước khi xảy ra thiệt hại.
Trong mọi trường hợp số tiền bồi thường phải tính đến mức miễn thường đã
được thỏa thuận và giá trị thu hồi.
Nếu gọi số tiền BH là S, giá trị BH là GT, giá trị thiệt hại là G mức khấu trừ
của HĐBH là M, số tiền bồi thường của NBH là ST, giá trị thu hồi sau tổn thất là
D. Có 2 trường hợp xảy ra:
-HĐBH đúng giá trị số tiền bồi thường của NBH được xác định theo công
thức:

ST = G – D – M

-HĐBH dưới giá trị số tiền bồi thường của NBH xác định theo công thức:
ST = (G – D) x S/GT – M
2.2 Nội dung cơ bản của BH lắp đặt
15


Xây dựng và lắp đặt là hai công việc thường được tiến hành trong cùng một
công trinh. Nhưng do đặc thù của lắp đặt khác xây dựng ở chỗ: lắp đặt là những
cấu kiện đã được chế tạo sẵn, được lắp ghép với nhau, trong khi xây dựng thì công
trường cũng là công xưởng. Do đó, đối với NBH các RR lắp đặt khác với RR xây
dựng, từ đó hình thành các cách xử lý khác nhau.
2.2.1 Đối tượng BH lắp đặt
-Máy móc, các dây chuyền đồng bộ trong một nhà máy, xí nghiệp trong quá
trình lắp ráp các máy móc, thiết bị đó;
-Phần công việc xây dựng phục vụ và/hoặc cấu thành một bộ phận của quá
trình lắp ráp;

-Các máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ cho lắp ráp;
-Tài sản sẵn có trên và trong phạm vi công trường thuộc quyền sở hữu, quản
lý, trông nom, kiểm soát của NĐBH;
-Chi phí dọn dẹp vệ sinh.
Hợp đồng BH mọi RR lắp đặt thường được cấp cho cả BH tài sản và BH
trách nhiệm.
2.2.2 Phạm vi BH và loại trừ BH
Phạm vi bảo hiểm. Thuộc phạm vi bảo hiểm bao gồm những tổn thất vật chat
của bất kỳ hạng mục nào có tên trong hợp đồng bảo hiểm hay bất kì bộ phận nào
của hạng mục đó do các nguyên nhân sau gây ra:
- Thiên tai, tai nạn bất ngờ như: bão lụt, sạt lở, động đất, song thần, hỏa hoạn,
trộm cắp,…
- Lỗi trong quá trình lắp đặt
16


- Bất cẩn, thiếu kỹ năng, thiếu kinh nghiệm, hành động ác ý của những người
không thuộc bên bảo hiểm cũng như bên được bảo hiểm.
- Các rủi ro về điện như: đoản mạch, thế điện tăng đột ngột,…
Những loại trừ bảo hiểm.
- Các tổn thất có tính chất hậu quả bao gồm tiền phạt, tổn thất do chậm trễ, do
không thực hiện được công việc, thiệt hại mất hợp đồng.
- Các hiện tượng ăn mòn, mài mòn, oxy hóa, tạo vảy cứng.
- Mất mát hồ sơ tài liệu bản vẽ, chứng từ thanh toán.
- Mất mát hay thiệt hại chỉ được phát hiện vào thời điểm kiểm kê.
- Hành động cố ý hay sự bất cẩn của người bảo hiểm, người mua bảo hiểm.
2.2.3 Người mua bảo hiểm và người được bảo hiểm.
Thneo hợp đồng bảo hiểm mọi rủi ro lắp đặt (EAR) người mua bảo hiểm là
chủ dự án hoặc chủ thầu nhằm đảm bảo quyền lợi cho các bên liên quan. Trường
hợp phí bảo hiểm tính vào giá trúng thầu thì nhà thầu thực hiện việc mua bảo hiểm.

Người mua bảo hiểm có thể đồng thời là người được bảo hiểm, hoặc là các tổ chức
cá nhân có tài sản, trách nhiệm dân sự được bảo hiểm theo hợp đồng.
2.2.4 Giá trị bảo hiểm (Số tiền bảo hiểm).
- Giá trị bảo hiểm: là giá trị đầy đủ của mỗi hạng mục tại thời điểm hoàn
thành việc lắp đặt, bao gồm cả cước pí vận chuyển, thuế hải quan, các loại thus
khác, phí lắp đặt.
Giá trị thực tế của các máy móc, trang thiết bị, dụng cụ phục vụ công việc lắp
ráp.
Nếu hợp đồng có bảo hiểm cả phần giá trị của tài sản trên và xung quanh công
trường thuộc quyền quản lý của người được bảo hiểm, chi phí dọn dẹp sau tổn thất,
17


giá trị bảo hiểm của phần bảo hiểm này được xác định như trong bảo hiểm xây
dựng.
- Số tiền bảo hiểm được xác định theo giá trị bảo hiểm. Trường hợp có sự
biến động về nguyên vật liệu, lương bổng hay giá cả dẫn đến tăng hoặc giảm số
tiền bảo hiểm, thì việc tăng hay giảm này chỉ có hiệu lực khi đã được người bảo
hiểm ghi nhận trong hợp đồng bảo hiểm.
Trong trường hợp khi có tổn thất xảy ra nếu phát hiện số tiền bảo hiểm thấp
hơn số tiền lẽ ra phải được bảo hiểm, như yêu cầu trên thì người bảo hiểm sẽ áp
dụng tỉ lệ giữa số tiền bảo hiểm và số tiền lẽ ra được bảo hiểm khi tính số tiền bồi
thường. Mọi chi phí và khoản mục đều phải tuân theo điều kiện này một cách riêng
rẽ.
2.2.5 Phí bảo hiểm và thời hạn bảo hiểm.
- Phí bảo hiểm: Các căn cứ và cơ sở tính phí bảo hiểm láp đặt được xác định
như trong bảo hiểm xây dựng.
- Thời hạn bảo hiểm: Được tính theo thời gian dự kiến tiến hành công việc lắp
đặt máy móc thiết bị quy định trong hợp đồng lắp đặt. Thời hạn bảo hiểm có thể
bắt đầu từ khi máy móc lưu kho cho tới khi tiến hành công việc lắp đặt (nhiều nhất

là 3 tháng). Thời hạn bảo hiểm kết thúc khi từng phần máy móc thiết bị lắp đặt
xong và vận hành thử đưa vào sử dụng khi hoàn thành toàn bộ công việc lắp đặt,
vận hành thử công trình được bàn giao đưa thẳng vào sử dụng.
Thời hạn vận hành thử có tải và không tải nhiều nhất là 4 tuần sau khi lắp đặt
xong. Ngoài ra người bảo hiểm có thể nhận bảo hiểm cho thời gian bảo hành, tối
đa là 12 tháng kể từ khi đưa máy móc vào sử dụng.
Trường hợp khi đã hết hạn hiệu lực của hợp đồng mà công việc lắp đặt chưa
tiến hành xong vì những lý do hợp lý, thì người được bảo hiểm có thể xin gia hạn
18


hợp đồng bảo hiểm bằng văn bản. Nếu văn bản gia hạn hợp đồng được người bảo
hiểm chấp nhận thì người được bảo hiểm phải trả them phí bảo hiểm.
2.2.6 Bồi thường bảo hiểm.
Bảo hiểm lắp đặt có những đặc tính cơ bản giống với bảo hiểm xây dựng, vì
vậy khi có tổn thất xảy ra cách thức tiến hành bồi thường của bảo hiểm lắp đặt
được áp dụng như trong bảo hiểm xây dựng.
Đối với trường hợp tổn thất có thể sửa chauwx được, thì cơ sở giải quyết bồi
thường là chi phí cần thiết để phục hồi các hạng mục bị tổn thất trở lại như trước
khi xảy ra tổn thất sau khi trừ đi giá trị thu hồi. Đối với trường hợp tổn thất toàn
bộ, cơ sở giải quyết bồi thường là giá trị thực tế của hạng mục đó ngay trước khi
xảy ra tổn thất trừ đi giá trị thu hồi. Mức bồi thường đối với mỗi hạng mục tài sản
ghi trong hợp đồng bảo hiểm không vượt quá số tiền bảo hiểm của hạng mục đó và
trong phạm vi hạn mức trách nhiệm bồi thường đối với mỗi sự kiện bảo hiểm (nếu
có). Tổng số tiền bồi thường không vượt quá tổng số tiền được bảo hiểm quy định
trong hợp đồng bảo hiểm. Các hợp đồng bảo hiểm có áp dụng mức khấu trừ thì số
tiền bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm sẽ giảm đi một khoản tương ứng với
mức khấu trừ.
2.3 Hợp đồng bảo hiểm trong bảo hiểm xây dựng – lắp đặt.
Hợp đồng BHXDLĐ là sự thỏa thuận giữa nhà bảo hiểm và NĐBH (thường là

chủ đầu tư và các chủ thầu) về các rủi ro trong xây dựng lắp đặt. NĐBH có trách
nhiệm nộp phí bảo hiểm cho nhà bảo hiểm. Nhà bảo hiểm có trách nhiệm thanh
toán số tiền bảo hiểm khi có các rủi ro xảy ra gây tổn thất trong phạm vi bảo hiểm.
*Nội dung hợp đồng bảo hiểm xây dựng - lắp đặt.
- Bên mua bảo hiểm.
19


- Bên bảo hiểm.
- Các tài liệu của hợp đồng
- Đối tượng bảo hiểm:
- Người được bảo hiểm: Chủ đầu tư, Các nhà thầu
- Người được nhận tiền bảo hiểm.
- Quyền lợi và nghĩa vụ các bên
- Số tiền bảo hiểm và phương thức trả tiền bảo hiểm.
- Phí bảo hiểm và phương thức thanh toán.
- Thời hạn bảo hiểm.
- Giới hạn STBH cao nhất nhà bảo hiểm có thể chấp nhận được.
- Mức miễn thường có khấu trừ.
- Điều kiện, điều khoản bổ sung
- Các quy định khác để giải quyết tranh chấp
- Cam kết chung.
- Chữ ký của các bên có liên quan.
Trách nhiệm của các bên trong hợp đồng BHXLĐ.
* Đối với bên mua bảo hiểm.
Bên mua bảo hiểm có trách nhiệm đóng phí bảo hiểm cho bên bảo hiểm theo
đúng cam kết trong hợp đồng bảo hiểm.
Trách nhiệm của bên mua bảo hiểm (NĐBH) khi có tổn thất xảy ra:
+ Khi có tổn thất NĐBH phải thông báo và phối hợp chặt chẽ với các cơ quan
chức năng với các dịch vụ cứu trợ khẩn cấp.

+ Thông báo khẩn cấp cho NĐBH và/hoặc Công ty tư vấn môi giới bảo hiểm.
+ Đề ra các phương án hợp lý nhằm hạn chế tai nạn, khắc phục sự cố, nhằm
giảm bớt mức thiệt hại do sự cố, tai nạn gây ra.
20


+ Tiến hành ngay những công việc cần thiết như gia cố, bảo vệ, bảo quản máy
móc, trang thiết bị để hạn chế tối đa mức thiệt hại và đề phòng những tổn thất tiếp
theo.
+ Thông báo ngay cho những cơ quan Công an trong trường hợp bị tổn thất
và mất cắp.
* Đối với bên bảo hiểm.
Bên bảo hiểm: có trách nhiệm thanh toán chi trả số tiền bảo hiểm cho bên
mua bảo hiểm khi có các rủi ro xảy ra gây tổn thất thuộc phạm vi bảo hiểm trong
hợp đồng bảo hiểm xây dựng lắp đặt.
Trách nhiệm của người bảo hiểm khi có tổn thất xảy ra, các bước tiến
hành giám định bồi thường:
Bước 1: Nhận thông báo tổn thất và yêu cầu giám định.
Ngay từ khi nhận được thông báo tổn thất của NĐBH, nhà bảo hiểm hay đại
diện của họ phải lập tức tới nagy hiện trường để giám định tổn thất và tìm các hạn
chế tổn thất xảy ra thêm cùng với NĐBH. Nếu tổn thất lớn và cần thiết phải có sự
giám định của các chuyên gia của các tổ chức nước ngoài chuyên làm công tác
giám định, định giá tổn thất.
Bước 2: Tiến hành giám định.
Công tác giám định đòi hỏi các giám định viên phải giải quyết các công việc
sau:
- Xem xét hiện trường tổn thất, chụp ảnh hiện trường.
- Thu thập thông tin từ các nhân chứng về vụ tổn thất.
- Thu thập số liệu, hoá đơn, chứng từ có liên quan đến tổn thất.
- Lập biên bản giám định.

21


- Thẩm tra lại các bên có liên quan về rủi ro gây tổn thất và các biện pháp đề
phòng hạn chế tổn thất phát sinh thêm.
- Nếu thấy có nghi ngờ về bảo hiểm, giám định viên phải xem xét một cách
thận trọng và có thông báo bằng văn bản tới cấp trên đề nghị xem xét giải quyết.
Bước 3: Giải quyết khiếu nại, bồi thường
Sau khi tiến hành giám định, nhà bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường cho
người bảo hiểm theo đúng hợp đồng đã ký kết giữa nhà bảo hiểm và NĐBH. Theo
luật định thì trong vòng 30 ngày kể từ khi chấp nhận bồi thường, NBH sẽ phải
thanh toán số tiền cho NĐBH.
Trách nhiệm bồi thường của nhà bảo hiểm đối với NĐBH căn cứ vào: thời
hạn bảo hiểm, phạm vi bảo hiểm, mức miễn thường, giá trị bảo hiểm, số tiền bảo
hiểm, mức giới hạn bảo hiểm đối với người thứ ba, giới hạn trách nhiệm đối với
các tổn thất do các rủi ro bổ sung.
Sau khi giải quyết bồi thường, NĐBH thấy chưa được thoả đáng có thể gửi hồ
sơ khiếu nại lên nhà bảo hiểm đề nghị xem xét lại số tiền bồi thường.
3

Công tác khai thác nghiệp vụ bảo hiểm xây dựng – lắp đặt
3.1 Những đặc điểm của ngành xây dựng lắp đặt ảnh hưởng tới công
tác khai thác.
Đặc điểm nổi bật của ngành xây dựng và lắp đặt là điều kiện làm việc ngoài

trời chịu tác động nhiều của các điều kiện về tự nhiên, khí hậu. Thường là mùa
khởi công các công trình xây dựng. Các nguyên vật liệu, trang thiết bị máy móc
dùng trong ngành xây dựng thường bị hư hỏng, hao mòn dưới tác động của môi
trường. Giá trị của các công trình rất lớn có thể lên tới hàng tỷ đồng, thời gian thi
công thường kéo dài. Thường liên quan tới nhiều bên trong quá trình thực hiện

công trình (chủ đầu tư,các nhà thầu, kiến trúc sư…). Đòi hỏi công tác khai thác
22


phải bố trí nguồn lực khai thác theo mùa, mở rộng mối quan hệ tới nhiều đối
tượng, thời gian khai thác thường phải kéo dài.
a. Địa điểm đặt công trình.
- Các hiểm hoạ tự nhiên: động đất, núi lửa, sóng thần, lũ, lụt…Việt Nam có
địa hình trải dài, nhiều tỉnh thuộc vùng đồi núi, nhiều tỉnh giáp biển, nguy cơ xảy
ra giông bão, lũ lụt, lũ quét, sạt lở đất đá, làm ảnh hưởng đến công trình là rất lớn.
Khi đánh giá, xem xét rủi ro bảo hiểm cần đặc biệt lưu ý đến khu vực địa lý xây
dựng. Nếu công trình được tiến hành ở các khu vực nhạy cảm với giông bão, lũ lụt,
sạt lở…thì cần đưa vào các điều kiện đặc biệt để hạn chế hoặc từ chối trách nhiệm
bảo hiểm đối với rủi ro này.
- Điều kiện địa chất, đất đai: Vùng đất công trình đặt thuộc loại gì (đất hồ, ao,
sỏi, đá, hay đất mượn) độ cao của công trình so với mực nước biển.
- Các rủi ro khác: như cháy, nổ- ví dụ: xung quanh công trình có rất nhiều
giấy, bìa, gỗ vụn, xăng dầu, hoá chất dễ cháy… có thể dễ dàng gây ra cháy làm
ảnh hưởng tới công trường.
Dựa vào đặc điểm của từng loại công trình, nhà bảo hiểm sẽ tiến hành tiếp cận
với khách hàng, đưa ra phạm vi bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, các rủi ro được bảo
hiểm, các rủi ro loại trừ, phí bảo hiểm…để thu hút khách hàng tham gia bảo hiểm.
b. Những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng công trình.
* Các yếu tố khách quan.
Bao gồm các yếu tố về tự nhiên tác động tới công trình như: bão, lũ, lụt, mưa,
gió xoáy… con người không thể kiểm soát được những yếu tố này, nhưng cần có
biện pháp đề phòng, tránh rủi ro xảy ra hoặc rủi ro lan rộng.
Hay các yếu tố liên quan đến đồ án thiết kế công trình như:
23



- Loại kết cấu xây dựng bê tông hay tường xây có cột chịu lực bê tông.
- Phương pháp xây dựng: Lắp thép xây hay kích nâng.
- Thiết kế chi tiết.
- Thiết kế tổng thể.
- Các biện pháp an toàn.
Những yếu tố nêu trên cũng là những yếu tố khách quan mà cán bộ khai thác
cần phải chú ý khi tiến hành đánh giá rủi ro và bảo hiểm cho bất kì một công trình
xây dựng lắp đặt nào.
* Các yếu tố chủ quan.
Các yếu tố chủ quan cần lưu ý: Là những yếu tố do con người tác động vào
công trình xây dựng như:
- Kinh nghiệm của chủ thầu trong việc xây dựng nhiều loại công trình khác
nhau và trong một loại công trình cụ thể. Nếu chủ thầu là người có nhiều kinh
nghiệm, tình hình tài chính khả quan và có uy tín thì khả năng xảy ra rủi ro chắc
chắn sẽ thấp hơn so với các chủ thầu thiếu kinh nghiệm và không có uy tín. Vì vậy
việc đánh giá tìm hiểu về chủ thầu là rất quan trọng.
- Chủ đầu tư là Người được bảo hiểm trong đơn bảo hiểm cho nên họ có
những ảnh hưởng nhất định tới công trình được bảo hiểm. Do vậy khai thác viên
nên thường xuyên duy trì liên lạc và mối quan hệ tốt với chủ đầu tư.
- Tiến độ thi công: nếu công trình thi công với tiến độ càng nhanh thì rủi ro
xảy ra càng lớn, ảnh hưởng xấu đến chất lượng công trình khi nhà thầu chỉ quan
tâm nhiều đến số lượng mà bỏ qua chất lượng.
Mặt khác, khai thác viên cũng cần xem xét xem để đảm bảo tiến độ thi công
họ có sử dụng phương pháp gì đặc biệt không, phương pháp đó đã được qua kiểm
24


nghiệm thực tế hay chưa… để đưa ra các kiến nghị, hoặc áp dụng các điều khoản
sửa đổi hợp lý.

- Thời gian tiến hành công việc: khai thác viên cần nắm rõ thời gian tiến hành
thi công công trình là theo ca kíp hay chỉ theo giờ hành chính. Vì nếu làm việc liên
tục người lao động sẽ không đảm bảo sức khỏe để làm tốt công việc điều này làm
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình.
Ngoài ra khai thác viên cũng cần phải chú ý cả đến thời gian tiến hành thi
công công trình là vào mùa mưa hay mùa khô để có thể đánh giá chính xác rủi ro
đối với công trình bảo hiểm.
- Chất lượng, số lượng của nguyên vật liệu, máy móc dùng trong thi công
công trình.
- Trình độ tay nghề của đội ngũ công nhân.
- Trình độ của kiến trúc sư, tư vấn, kỹ sư.
- Giá trị của công trình theo hợp đồng xây dựng: Phải là giá trị phù hợp,
không quá thấp hay quá cao so với giá trị ghi trong hợp đồng xây dựng. Nếu
NĐBH yêu cầu bảo hiểm với giá trị quá thấp thì khai thác viên phải giải thích,
thuyết phục; nếu cần thiết có thể áp dụng điều khoản bồi thường theo tỷ lệ. Trong
quá trình xây dựng nếu giá cả tăng thì giá trị bảo hiểm và phí cũng phải được điều
chỉnh cho hợp lý.
3.2 Vai trò của công tác khai thác.
Khai thác chính là hoạt động bán, giới thiệu dịch vụ và các sản phẩm bảo
hiểm cho bên mua bảo hiểm của nhà bảo hiểm. Khai thác là khâu đầu tiên của quy
trình triển khai bảo hiểm. Bất kỳ một công ty bảo hiểm nào cũng phải trải qua khâu
khai thác bảo hiểm.
25


×