Chương 1: TỔNG QUAN VỀ
ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI
Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, để nền kinh tế của một nước phát
triển thì vốn đầu tư là một yếu tố không thể thiếu. Bên cạnh nguồn vốn từ trong
nước thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn vốn vô cùng quan trọng. yếu
tố này không những quan trọng đối với các nước đang phát triển mà còn ngay cả
các nước phát triển trên thế giới cũng rất quan tâm đến vẫn đề thu hút nguồn vốn
này.
Đặc biệt khi hiện tại Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại
thế giới WTO thì việc thu hút và sử dụng vốn đầu tư nước ngoài FDI là hết sức cần
thiết. Tuy nhiên có rất nhiều yếu tố tác động cũng như các nhân tố thúc đẩy quyết
định đầu tư trực tiếp nước ngoài, gồm cả những yếu tố của môi trường đầu tư quốc
tế, của nước đi đầu tư và cả nước nhận đầu tư…
1. 1. Một số khái niệm
- Đầu tư là việc sử dụng một lượng tài sản nhất định như vốn, công nghệ, đất
đai,…vào một hoạt động kinh tế cụ thể nhằm tạo ra một hoặc nhiều sản phẩm cho
xã hội để thu lợi nhuận.
- Đầu tư nước ngoài là sự di chuyển tài sản như vốn, công nghệ, kỹ năng
quản lý,…từ nước này sang nước khác để kinh doanh nhằm mục đích thu lợi
nhuận cáo trên phạm vi toàn cầu.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài (Foreign Direct Investment, viết tắt là FDI) xảy
ra khi một nhà đầu tư từ một nước (nước chủ đầu tư hay nước sở tại) có được một
tài sản ở một nước khác (nước nhận đầu tư hay nước chủ nhà) cùng với quyền
quản lý tài sản đó.
1.2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Đầu tư trực tiếp nước ngoài có những đặc điểm chủ yếu sau:
1
Thứ nhất, FDI gắn liền với việc di chuyển vốn đầu tư, tức là tiền và các loại
tài sản khác giữa các quốc gia, hệ quả là làm tăng lượng tiền và tài sản của nền
kinh tế nước tiếp nhận đầu tư và làm giảm lượng tiền và tài sản nước đi đầu tư.
Thứ hai là đầu tư trực tiếp nước ngoài được tiến hành thông qua việc bỏ vốn
thành lập các doanh nghiệp mới (liên doanh hoặc sở hữu 100% vốn), hợp đồng hợp
tác kinh doanh, mua lại các chi nhánh hoặc doanh nghiệp hiện có, mua cổ phiếu ở
mức khống chế hoặc tiến hành các hoạt động hợp nhất và chuyển nhượng doanh
nghiệp.
Thứ ba,nhà đầu tư nước ngoài là chủ sở hữu hoàn toàn vốn đầu tư hoặc cùng
sở hữu vốn đầu tư với một tỷ lệ nhất định đủ mức tham gia quản lý trực tiếp hoạt
động của doanh nghiệp.
Thứ tư là hoạt động đầu tư của tư nhân, chịu sự điều tiết của các quan hệ thị
trường trên quy mô toàn cầu, ít bị ảnh hưởng của các mối quan hệ chính trị giữa
các nước, các chính phủ và mục tiêu cơ bản luôn là đạt lợi nhuận cao.
Thứ năm,nhà đầu tư trực tiếp kiểm soát và điều hành quá trình vận động của
dòng vốn đầu tư.
Thứ sáu,FDI bao gồm hoạt động đầu tư từ nước ngoài vào trong nước và đầu
tư từ trong nước ra nước ngoài, do vậy bao gồm cả vốn di chuyển vào một nước và
dòng vốn di chuyển ra khỏi nền kinh tế của nước đó.
Thứ bảy, FDI chủ yếu là do các công ty xuyên quốc gia thực hiện.
Các đặc điểm nêu trên mang tính chất chung cho tất cả các hoạt động FDI
trên toàn thế giới. Đối với Việt Nam, quá trình tiếp nhận FDI diễn ra đã được 20
năm và những đặc điểm nêu trên cũng đã thể hiện rõ nét. Chính những đặc điểm
này đòi hỏi thể chế pháp lý, môi trường và chính sách thu hút FDI phải chú ý để
vừa thực hiện mục tiêu thu hút đầu tư, vừa bảo đảm mối quan hệ cân đối giữa kênh
đầu tư FDI với các kênh đầu tư khác của nền kinh tế.
1.3. Các hình thức của đầu tư trực tiếp nước ngoài
1.3.1. Phân theo hình thức nắm vốn chủ sở hữu
1.3.1.1. Phân theo mục đích đầu tư
2
Nếu xét theo mục đích đầu tư, FDI được phân thành 2 loại chính: Đầu tư theo
chiều ngang (Horizontal Integration-HI) và Đầu tư theo chiều dọc (Vertical
Integration - VI). Hình thức HI phù hợp với các chủ đầu tư có lợi thế cạnh tranh, ví
dụ về công nghệ, kỹ năng quản lý,…trong sản xuất một loại sản phẩm nào đó. Với
lợi thế này, họ có thể kiếm lợi nhuận cao khi chuyển sản xuất sản phẩm ra nước
ngoài. Mục đích của hình thức này là mở rộng và thôn tính thị trường ở nước ngoài
đối với cùng loại sản phẩm có lợi thế cạnh tranh ở nước ngoài, do đó thường dẫn
đến cạnh tranh độc quyền. Đây là hình thức đầu tư ra nước ngoài điển hình của Mỹ
và được thực hiện chủ yếu giữa các nước phát triển.
Khác với hình thức HI, hình thức VI là đầu tư ra nước ngoài với mục đích là
khai thác nguồn nguyên liệu tự nhiên và các yếu tố sản xuất đầu vào rẻ như lao
động, đất đai,…Khi đầu tư ra nước ngoài, các chủ đầu tư thường chú ý đến khai
thác các lợi thế cạnh tranh của các yếu tố đầu vào giữa các khâu sản xuất ra một
loại sản phẩm trong phân công lao động quốc tế. Do đó, các sản phẩm thường được
hoàn thiện qua các khâu lắp ráp ở các nước nhận đầu tư. Sau đó các sản phẩm này
có thể lại được khẩu về nước đầu tư hoặc xuất khẩu sang nước khác. Đây là hình
thức đầu tư ra nước ngoài điển hình của Nhật Bản, theo kiểu mô hình đàn nhạn
bay, và được thực hiện khá phổ biến ở các nước đang phát triển.
Ví dụ: Grand-place Việt Nam (GPV) – một ví dụ về đầu tư theo chiều dọc
Grand-place Việt Nam là một công ty được thành lập bởi BIO (Belgian
Investment Company For Developing Countries) chuyên về socola được sản xuất
tại Việt Nam, từ khâu trồng ca cao cho đến khi sản phẩm cuối cùng được hình
thành.
Bắt đầu hoạt động tại Việt nam năm 1994, GPV là nhà sản xuất socola Bỉ.
Đến năm 2009, công ty đã sản xuất và cung cấp cho các khách sạn, nhà hàngbánh
kẹo, tiệm kem,…trong nước hơn 3000 tấn mỗi năm. Thêm vào đó, GPV còn có sản
phẩm xuất khẩu sang nhiều nước ở Bắc Mỹ và Châu Á.
3
Nhận thấy điều kiện cũng như tiềm năng trồng ca cao ở Việt Nam, BIO đã hỗ
trợ, hướng dẫn người đân địa phương về kĩ thuật trồng và chế biến ca cao; sau đó
đề xuất chiến lược sản xuất socola ngay tại khu vực ca cap được trồng. Bằng việc
cho ra đời loại ca cao “made in Vietnam”, GPV đã tạo được giá trị gia tăng cao
thông qua việc tận dụng nguồn nguyên liệu địa phương cùng những kiến thức và
công nghệ BIO đã chuyển giao trong quá trình sản xuất.
Với chiến lược kinh doanh như vậy, GPV đa giảm thiểu được chi phí nhập
khẩu nguyên liệu đầu vào, gia tăng hiệu quả sản xuất cũng như giá trị xuất khẩu
của socola. (Nguồn: website chính thức của BIO www.bio-invest.be)
1.3.1.2. Phân theo chiến lược đầu tư
Xét theo chiến lược đầu tư, đầu tư được thực hiện qua 2 kênh chủ yếu là Đầu
tư mới (Greenfield Investment – GI) và Mua lại & sáp nhập (Mergers and
Acquisitions – M&A).
Đầu tư mới là việc các chủ đầu tư thực hiện đầu tư mới ở nước ngoài thông qua
việc xây dựng các doanh nghiệp mới. Đây là kênh đầu tư truyền thống của FDI và
cũng là kênh chủ yếu để các nhà đầu tư các nước phát triển đầu tư vào nước đang
phát triển.
Ngược lại, kênh M&A là các chủ đầu tư tiến hành đầu tư thông qua việc mua
lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Kênh đầu tư này chủ yếu
được thực hiện ở các nước phát triển, các nước mới công nghiệp hóa và rất phổ
biến trong những năm gần đây.
Ta có thể so sánh một chút về 2 hình thức trên, cả về ưu và nhược điểm. Về
vấn đề bổ sung vốn đầu tư, trong khi hình thức GI bổ sung ngay một lượng vốn
đầu tư nhất định cho nước nhận đầu tư thì hình thức M&A lại chủ yếu là chuyển sở
hữu từ các doanh nghiệp đang tồn tại ở nước chủ nhà cho các công ty nước ngoài.
Tuy nhiên về dài hạn, hình thức M&A này cũng sẽ thu hút mạnh được nguồn vốn
từ bên ngoài cho nước chủ nhà nhờ mở rộng quy mô hoạt động của họ.
Thứ hai, về vấn đề tạo việc làm, hình thức GI tạo ngay được việc làm cho nước
chủ nhà, trong khi hình thức M&A không những không tạo được việc làm ngay mà
4
còn có thể tăng thêm tình trạng căng thẳng về việc làm cũng như vấn đề thất
nghiệp.
Vấn đề thứ ba là chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. GI tác động trực tiếp đến
thay đổi cơ cấu ngành kinh tế thông qua việc xây dựng các doanh nghiệp mới,
trong khi đó M&A lại không tác động đến trong ngắn hạn.
Cuối cùng là vấn đề về cạnh tranh và an ninh quốc gia. Trong khi GI thúc đẩy
cạnh tranh thì M&A lại không tác động đáng kể đến tình trạng cạnh tranh về mặt
ngắn hạn, nhưng về dài hạn lại có thể làm tăng khả năng cạnh tranh độc quyền.
Mặt khác, M&A có thể ảnh hưởng đến an ninh của nước chủ nhà nhiều hơn hình
thức GI bởi vì tài sản của nước chủ nhà rơi vào tay của người nước ngoài.
1.3.1.3. Phân theo tính chất sở hữu
Trong luật đầu tư của các nước chủ nhà có quy định tỷ lệ sở hữu của các nhà
đầu tư nước ngoài tùy theo lĩnh vực đầu tư. Xét theo mức độ nắm giữ cổ phần và
mức độ tham gia vào hoạt động của nhà đầu tư nước ngoài, FDI có thể được thực
hiện dưới hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, doanh nghiệp liên doanh,
hợp đồng hợp tác kinh doanh, hợp đồng xây dựng – khai thác – chuyển giao
(BOT), công ty cổ phần có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, mua lại và sáp nhập,
công ty mẹ - con, chi nhánh công ty nước ngoài,…
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài, do nhà đầu tư nước
-
ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh
doanh.
Về mặt pháp lý, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là công ty trách nhiệm hữu
hạn hoặc cổ phần, có tư cách pháp nhân theo pháp luật tại nước chủ nhà, chịu sự
kiểm soát của pháp luật nước sở tại. Về mặt kinh doanh, doanh nghiệp 100% vốn
nước ngoài hoạt động theo sự điều hành, quản lý của chủ đầu tư nước ngoài nhưng
vẫn phải tùy thuộc vào điều kiện môi trường kinh doanh tại nước sở tại như điều
kiện về chính trị, kinh tế, luật pháp, văn hóa, mức độ cạnh tranh,…
5
Với hình thức kinh doanh như thế này, nước chủ nhà có thê giải quyết được
công ăn việc làm mà không cần bỏ đầu tư vốn cũng như có thể tập trung thu hút
vốn, công nghệ nước ngoài vào những lĩnh vực khuyến khích xuất khẩu. Tuy nhiên
nước chủ nhà khó có thể tiếp thu kinh nghiệm quản lý và công nghệ nước ngoài để
nâng cao trình độ quản lý, cán bộ kỹ thuật ở các doanh nghiệp trong nước như so
với hình thức liên doanh.
Đồi với nhà đầu tư nước ngoài, hình thức đầu tư 100% giúp họ chủ động trong
quản lý điều hành doanh nghiệp, chủ động tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực,
triển khai nhanh dự án đầu tư để thực hiện chiến lược toàn cầu của tập đoàn.
Nhưng đồng thời, chủ đầu tư cũng phải gánh chịu toàn bộ rủi ro và chi phí nhiều
hơn cho nghiên cứu tiếp cận một thị trường mới.
- Doanh nghiệp liên doanh
Là doanh nghiệp được thành lập tại nước chủ nhà trên cơ sở hợp đồng liên
doanh ký kết giữa bên hoặc các bên với nước chủ nhà với bên hoặc các bên nước
ngoài đầu tư, kinh doanh tại nước chủ nhà.
Về mặt pháp lý, doanh nghiệp liên doanh là một loại công ty trách nhiệm hữu
hạn, có tư cách pháp nhân theo pháp luật của nước chủ nhà; mỗi bên liên doanh
chịu trách nhiệm với bên kia, với doanh nghiệp liên doanh trong phạm vi vốn góp
của mình vào vốn pháp định của công ty liên doanh.
Về phương diện kinh doanh, doanh nghiệp liên doanh do các bên tham gia góp
vốn, cùng quản lý, cùng phân phối lợi nhuận và cũng cùng chia sẻ rủi rophát sinh.
Lợi nhuận thu được và rủi ro gánh chịu được phân chia theo tỷ lệ góp vốn.
Thông qua hình thức liên doanh, nước chủ nhà sẽ kiểm soát và học được kinh
nghiệm trực tiếp quản lý tiên tiến của nhà đầu tư nước ngoài, đông thời được chia
sẻ lợi nhuận với các nhà chủ đầu tư nước ngoài. Còn đối với các nhà đầu tư nước
ngoài, đầu tư dưới dạng doanh nghiệp liên doanh giúp họ tận dụng được hệ thống
phân phối có sẵn của các đối tác nước chủ nhà, được đầu tư vào những lĩnh vực
kinh doanh dễ thu lời, lĩnh vực bị cấm hoặc hạn chế đối với hình thức khác. Họ
cũng không mất thời gian và chi phí trong việc nghiên cứu thị trường mới và xây
6
dựng các mối quan hệ đồng thời chia sẻ được chi phí và rủi ro đầu tư với đối tác
nước chủ nhà.
- Hợp đồng hợp tác kinh doanh (hợp doanh)
Là văn bản được kí kết giữa hai bên hoặc nhiều bên (gọi là các bên hợp doanh)
quy định trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên (nước ngoài và
sở tại) để tiến hành đầu tư kinh doanh ở nước chủ nhà mà không thành lập pháp
nhân mới.
Về mặt pháp lý, hợp doanh là một thực thể kinh doanh hoạt động theo pháp luật
của nước sở tại, chịu sự điều chỉnh của pháp luật nước sở tại. Về mặt kinh doanh,
các bên thực hiện các hoạt động kinh doanh trên cơ sở kí kết một hợp đồng hợp tác
mà không hình thành một pháp nhân mới. Với kết quả kinh doanh thu được, hình
thức hợp doanh phân chia theo tỉ lệ góp vốn hoặc do thỏa thuận giữa các bên.
Nghĩa vụ tài chính đối với nước sở tại được các bên hợp doanh thực hiện một các
riêng rẽ. Hình thức này có ưu điểm giúp nước nhận đầu tư giải quyết tình trạng
thiếu vốn, thiếu công nghệ, tạo ra thị trường mới nhưng vẫn đảm bảo được an ninh
quốc gia và nắm được quyền điều hành dự án. Tuy nhiên rất khó thu hút được đầu
tư dưới hình thức này và chỉ thực hiện được với một số lĩnh vực dễ sinh lời. Đối
với bên ngoài, hình thức hợp doanh giúp tận dụng sẵn hệ thống phân phối có sẵn
của đối phương nước sở tại, giúp dễ thâm nhập hơn vào những lĩnh vực hạn chế
đầu tư và thâm nhập thị trường truyền thống của nước chủ nhà. Nhà đầu tư cũng
không mất thời gian và chi phí cho việc nghiên cứu thị trường mới, xấy dựng các
mối quan hệ, không bị tác động lớn do khác biệt về mặt văn hóa, chia sẻ được phí
rủi ro và đầu tư. Tuy nhiên, nhược điểm chính của hình thức này là nhà đầu tư
nước ngoài không được trực tiếp quản lý điều hành dự án và mối quan hệ hợp tác
với đối tác nước sở tại thiếu tính chắc chắn. Chính điều này đã làm họ trở nên e dè
hơn khi đầu tư theo hình thức này.
Ví dụ: Hợp đồng hợp tác kinh doanh của Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Nghệ
An.
7
Hợp đồng hợp tác kinh doanh giữa Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Nghệ An
(PVNC), thành viên của Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Việt Nam và Công ty
CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN Turbo – one Hàn Quốc được kí kết vào
ngày 28/06/2012. Theo nội dung hợp đồng, hai bên thống nhất đầu tư nâng cấp
trang thiết bị tại nhà mày đóng tàu Nghệ An với tổng mức đầu tưu giai đoạn I dự
kiến là 4 triệu USD. Phía Turbo – one sẽ trả chi phí cho PVNC 15% tổng giá trị
đầu tư nâng cấp nhà máy đóng tàu, tương đương 600.000 USD, từ tháng 7/2012
đến tháng 12/2012. Hai bên dự kiến đi vào chính thức sản xuất, thực hiện đơn
hàng đầu tiên vào tháng 8/2012.
Phía PVNC có trách nhiệm quản lý, vận hành nhà máy, trực tiếp thực hiện các
công việc tại nhà máy như lắp ráp, kiểm tra, xuất xưởng; chịu trách nhiệm đầu tư,
nâng cấp trang thiết bị tại nhà máy đảm bảo các điều kiện kỹ thuật để thực hiện
các đơn hàng, đồng thời cung cấp cán bộ, công nhân đủ số lượng, chất lượng để
thực hiện dự án. Phía Turbo – one sẽ chịu trách nhiệm tìm kiếm đơn đặt hàng đảm
bảo kế hoạch mục tiêu mà các bên đã thống nhất; phụ trách thiết kế, hỗ trợ kỹ
thuật và cung cấp các thiết bị chính của tàu và hỗ trợ đào tạo nhân công (Nguồn:
website của Tổng công ty Xây lắp Dầu khí Nghệ An ).
- Hợp đồng BOT (Xây dựng – Khai thác – Chuyển giao)
Là văn bản kí kết giữa các nhà đầu tư nước ngoài với các cơ quan có thẩm
quyền của nước chủ nhà để đầu tư xây dựng, mở rộng nâng cấp, khai thác công
trình kết cấu hạ tầng trong một thời gian nhất định (thu hồi vốn và có lợi nhuận
hợp lý), sau đó chuyển giao không bồi hoàn toàn bộ công trình cho nước chủ nhà.
Đặc trưng quan trọng của hình thức này là: cơ sở pháp lý là hợp đồng, vốn đầu
tư của nước ngoài, hoạt động dưới các hình thức doanh nghiệp liên doanh hoặc
100% vốn nước ngoài, chuyển giao không bồi hoàn cho nước chủ nhà, đối tượng là
các công trình cơ sở hạ tầng.
Ngoài ra, BOT còn có một số dạng khác như BOT (xây dựng – chuyển giao khai thác) được hình thành cũng như tương tự BOT, nhưng sau khi xây dựng xong
8
công trình, nhà đầu tư nước ngoài giao lại cho nước chủ nhà, chính phủ đầu tư
nước chủ nhà dành cho nhà đầu tư nước ngoài quyền khai thác công trình đó trong
một thời gian nhất định để thu hồi vốn đầu tư và có lợi nhuận hợp lý; BT (xây
dựng – chuyển giao) được hình thành cũng giống như BOT và BTO nhưng sau khi
xây dựng xong, nhà đầu tư bàn gaio lại công trình cho nước chủ nhà, chính phủ
nước chủ nhà trả cho nhà đầu tư nước ngoài chi phí liên quan tới công trình và một
tỷ lệ lãi hợp lý.
Qua hình thức đầu tư nói trên, nhiều quốc gia nhận đầu tư có thể thu hút được
vốn đầu tư vào những cơ sở hạ tầng đòi hỏi có vốn lớn, do đó giảm được nguy cơ
sức ép cho ngân sách nhà nước, đồng thời nhanh chóng có được công trình kết cấu
hạ tầng hoàn chỉnh, giúp khai thác nguồn lực trong nước và thu hút thêm FDI để
phát triển kinh tế.
Nhược điểm của hình thức trên là khó tiếp nhận kinh nghiệm quản lý và khó
kiểm soát được công trình. Nhà nước cũng phải chịu mọi rủi ro ngoài khả năng
kiểm soát của nhà đầu tư. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, do được chủ động trong
việc quản lý điều hành và tự chủ kinh doanh, hiệu quả của vốn đầu tư của họ được
đảm bảo và lợi nhuận không bị chia sẻ. Ngoài ra các dự án đầu tư ở nước sở tại
đảm bảo và tránh được rủi ro bất thường ngoài khả năng kiểm soát.
Công ty cổ phần có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Là doanh nghiệp trong đó vốn điều lệ được chia thành nhiều phần khác nhau
được gọi là cổ phần, các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản
khác của doanh nghiệp trong phạm vi vốn góp. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân
có số lượng tối đa không hạn chế, từ 3 trở lên. Công ty có quyền phát hành chứng
khoán ra công chúng và các cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của
mình cho người khác.
Công ty cổ phần có đại hội cổ đông, hội đồng quản trị và giám đốc. Đại hội cổ
đông bao gồm tất cả các cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết định cao
nhất. Ở một số quốc gia công ty cổ phần có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập
9
theo cách: thành lập mới, cổ phần hóa doanh nghiệp FDI (doanh nghiệp liên doanh
và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài) đang hoạt động, mua lại cổ phần của
doanh nghiệp trong nước cổ phần hóa.
Mua lại và Sáp nhập (M&A)
-
Đây là hình thức đầu tư mà các nhà đầu tư chủ yếu tiến hành đầu tư thông qua
việc mua lại và sáp nhập các doanh nghiệp hiện có ở nước ngoài. Đầu tư theo hình
thức M&A là xu hướng phổ biến hiện nay và hình thức này chiếm tỷ trọng lớn
trong tổng FDI trên thế giới. Phần lớn các vụ M&A được thực hiện giữa TNCs lớn
và tập trung vào các lĩnh vực như công nghiệp ô tô, dược phẩm, viễn thông và tài
chính ở các nước phát triển.
-
Công ty mẹ - con (Holding company)
Đây là một tổ chức các công ty gồm “công ty mẹ” và các “công ty con, cháu”.
Mối liên kết giữa công ty mẹ và công ty con, cháu là mối liên kết về vốn. công ty
mẹ sở hữu vốn cổ phần trong các công ty con, cháu. Nó chi phối các công ty con,
cháu về mặt tài chính và chiến lược phát triển. Do vậy, lượng sở hữu vốn của các
của các công ty con, cháu là sở hữu hỗn hợp (nhiều chủ) nhưng có một chủ (công
ty mẹ) đóng vai trò khống chế và chi phối tài chính. Dạng phổ biến của công ty mẹ
- con là công ty cổ phần và các công ty con, cháu vẫn có tư cách pháp nhân độc
lập.
-
Chi nhánh công ty nước ngoài
Khác với công ty con 100% vốn nước ngoài, hình thức chi nhánh không phải là
một pháp nhân độc lập và nếu như trách nhiệm của công ty con chỉ giới hạn trong
phạm vi tài sản của nước sở tại thì trách nhiệm của chi nhánh, theo quy định của
một số nước, không giới hạn trong phạm vi tài sản của một chi nhánh, mà còn
được mở rộng đến cả phần tài sản của công ty mẹ ở nước ngoài.
10
1.3.2. Phân theo hình thức không nắm vốn chủ sở hữu
Ngoài các hình thức đầu tư trực tiếp nói trên, nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài
có thể tham gia các hình thức như nhượng quyền thương mại (Franchising), cấp
phép ( Licensing) , thuê ngoài (Outsourcing),… Đây là các hình thức mà thông qua
đó các công ty đa quốc gia điều phối các hoạt động trong chuỗi giá trị toàn cầu của
họ và ảnh hưởng đến việc quản lý công ty của nước chủ nhà mà không cần sở hữu
cổ phần trong các công ty này. Các hoạt động đầu tư không nắm vốn chủ sở hữu
xuyên biên giới diễn ra trên toàn thế giới và đặc biệt quan trọng ở các nước đang
phát triển. Các hoạt động này tạo ra được hơn 2000 tỷ USD trong năm 2009, trong
đó hợp đồng sản xuất và dịch vụ thuê ngoài chiếm khoảng 1100 – 1300 tỷ USD,
nhượng quyền thương mại chiếm khoảng 330 – 350 tỷ USD và hoạt động cấp phép
chiếm khoảng 340 – 360 tỷ USD.
-
Nhượng quyền thương mại (Franchising)
Hình thức này là quan hệ hợp đồng trong đó một công ty quốc tế (bên nhượng
quyền) cho phép công ty nước chủ nhà ( bên nhận quyền) vận hành một doanh
nghiệp theo hệ thống mô hình được phát triển bởi bên nhượng quyền bằng cách trả
một khoản chi phí hoặc đánh dấu lên các hàng hóa, dịch vụ được cung cấp bởi bên
nhượng quyền. Nói cách khác , bên nhượng quyền (franchisor) sẽ chuyển mô hình
kinh doanh, nhãn hiệu hàng háo, dịch vụ, bí quyết kinh doanh, biểu tượng kinh
doanh, quảng cáo cho bên nhận quyền (franchisee). Bên nhận quyền sau khi kí hợp
đồng nhượng quyền được phép khai thác kinh doanh trên một không gian địa lý
nhất định và phải trả một khoản phí nhượng quyền và tỷ lệ phần trăm doanh thu
định ký cho bên nhượng quyền trong một khoảng thời gian nhất định. Bên cạnh
việc tiến hành hoạt động kinh doanh độc lập, nhiều cá nahan và doanh nghiệp lựa
chọn con đường đơn giản hơn để khởi đầu kinh doanh, đó là gia nhập hệ thống
nhượng quyền thương mại (franchising netwwork). Ví dụ tiêu biểu của hình thức
11
này có thể kể đến hệ thống tiệm đồ ăn nhanh McDonald, KFC,… hoặc hệ thống
các tiệm cà phê Trung Nguyên, Starbuck hoặc hệ thống các siêu thị bán lẻ,…
-
Cấp phép (Licensing)
Là hợp đồng chuyển giao một số quyền tài sản nào đó giữa hai hoặc nhiều bên
theo những điều kiện nhất định về việc phân chia quyền và nghĩa vụ cụ thể giữa
những bên đó. Theo hợp đồng này, một công ty quốc tế sẽ cấp phép cho một công
ty nước chủ nhà quyền sở hữu trí tuệ, ví dụ như bản quyền, bí mật thương mại,…
trên cơ sở nước chủ nhà phải thanh toán phí sử dụng. Giấy cấp phép có thể có
nhiều hình thức khác nhau, bao gồm giấy cấp phép thương hiệu, cấp giấy phép sản
phẩm và cấp giấy phép quy trình.
-
Thuê ngoài (Outsourcing)
Là việc một thể nhân hay pháp nhân chuyển giao việc thực hiện toàn bộ một
chức năng sản xuất – kinh doanh nào đó, bao gồm cả tài sản vật chất và nhân lực
cho nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài chuyên môn hóa trong lĩnh vực đó. Các nước
đang phát triển ở Châu Á là địa điểm hàng đầu làm dịch vụ gia công cho các tạp
đoàn ở các nước lớn phát triển. Riêng 3 quốc gia như Ấn Độ, Phi-lip-pin và Trung
Quốc đã chiếm 65% doanh thu xuất khẩu toàn cầu trong năm 2009, nhờ đáng kể
vào xuất khẩu hàng gia công. Có thể kể đến một số trung tâm nhận thuê người lớn
trên thế giới là Bangalore, Mumbai, New Delhi, Chennai, Pune của Ấn Độ;
Manila, Cebu của Phi-líp-pin; Dublin của Irelan; Thượng Hải của Trung Quốc,…
1.4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài
Mặc dù FDI vẫn chịu chi phối của Chính Phủ nhưng FDI ít lệ thuộc vào mối
quan hệ chính trị giữa hai bên. Mặt khác bên nước ngoài trực tiếp tham gia quản lý
sản xuất , kinhh doanh nên mức độ khả thi của dự án khá cao, đặc biệt là trong việc
tiếp cận thị trường quốc tế để mở rộng xuất khẩu.Do quyền lợi gắn chặt với dự án ,
họ quan tâm tới hiệu quả kinh doạnh nên có thể lựa chọn công nghệ thích hợp ,
12
nâng cao trình độ quản lý và tay nghề của công nhân . Vì vậy , FDI ngày càng có
vai trò to lớn đối với việc thúc đẩy quá trình phát triển kinh tế ở các nước đầu tư và
các nước nhận đầu tư .
-
Đối với nước đầu tư
Đầu tư ra nước ngoài giúp nâng cao hiệu quả sử dụng những lợi thế sản xuất ở
các nước tiếp nhận đầu tư, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao tỷ suất lợi nhuận của
vốn đầu tư và xây dựng được thị trường cung cấp nguyên liệu ổn định với giá phải
chăng. Mặt khác đầu tư ra nước ngoài giúp bành trướng sức mạnh kinh tế và nâng
cao uy tín chính trị. Thông qua việc xây dựng nhà máy sản xuất và thị trường tiêu
thụ ở nước ngoài mà các nước đầu tư mở rộng được thị trường tiêu thụ, tránh được
hàng rào bảo hộ mậu dịch của các nước.
Đối với nước nhận đầu tư
Đối với các nước kinh tế phát triển, FDI có tác dụng lớn trong việc giải quyết
-
những khó khăn về kinh tế, xã hội như thất nghiệp và lạm phát…Qua FDI các tổ
chức kinh tế nước ngoài mua lại những công ty doanh nghiệp có nguy cơ phá sản,
giúp cải thiện tình hình thanh toán và tạo công ăn việc làm cho người lao động.
FDI còn tạo điều kiện tăng thu ngân sách dưới hình thức các loại thuế để cải thiện
tình hình bội chi ngân sách, tạo ra môi trường cạnh tranh thúc đẩy sự phát triển
kinh tế và thương mại, giúp người lao động và cán bộ quản lý học hỏi kinh nghiệm
quản lý của các nước khác.
Đối với các nước đang phát triển: FDI giúp đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế
thông qua việc tao ra những doanh nghiệp mới, thu hút thêm lao động, giải quyết
một phần nạn thất nghiệp ở những nước này.
FDI giúp các nước đang phát triển khắc phục được tình trạng thiếu vốn kéo
dài. Nhờ vậy mà mâu thuẫn giữa nhu cầu phát triển to lớn với nguồn tài chính khan
hiếm được giải quyết, đặc biệt là trong thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp hoá13
hiện đại hoá. Theo sau FDI là máy móc thiết bị và công nghệ mới giúp các nước
đang phát triển tiếp cận với khoa học-kỹ thuật mới. Quá trình đưa công nghệ vào
sản xuất giúp tiết kiệm được chi phí và nâng cao khả năng cạnh tranh của các nước
đang phát triển trên thị trường quốc tế.
Cùng với FDI, những kiến thức quản lý kinh tế, xã hội hiện đại được du nhập
vào các nước đang phát triển, các tổ chức sản xuất trong nứơc bắt kịp phương thức
quản lý công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động quen dần với phong cách làm
việc công nghiệp cũng như hình thành dần đội ngũ những nhà doanh nghiệp giỏi.
FDI giúp các nước đang phát triển mở cửa thị trường hàng hoá nước ngoài và đi
kèm với nó là những hoạt động Marketing được mở rộng không ngừng.
Ngoài ra, FDI còn giúp tăng thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc đánh
thuế các công ty nước ngoài. Từ đó các nước đang phát triển có nhiều khả năng
hơn trong việc huy động nguồn tài chính cho các dự án phát triển.
CHƯƠNG 2: CÁC NHÂN TỐ THÚC ĐẨY QUYẾT ĐỊNH ĐẦU
TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI CỦA NƯỚC ĐI ĐẦU TƯ
2.1. Lợi thế của quốc gia
2.1.1. Tiềm lực kinh tế
14
Một quốc gia sẽ chưa thể hoạch định đầu tư ra nước ngoài khi khả năng tích
lũy nội địa còn quá thấp. Điều này có nghĩa là việc nhu cầu vốn đầu tư của nền
kinh tế còn rất cao. Trái lại, khi nền tế có khả năng tích lũy cao, mức độ sự trữ
ngoại tệ lớn thì lúc đó sẽ có nhu cầu đầu tư ra nước ngoài để khai thác hiệu quả của
nguồn vốn dư thừa này. Bởi vậy, mức độ tích lũy của nền kinh tế có vai trò như
tăng hoặc giảm áp lực thúc đẩy dòng vốn đầu tư nước ngoài. Thực tế cho thấy,
những nước có đầu tư ra nước ngoài lớn thường là những nước có mức tích lũy
cao.
Ví dụ: Đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản.
Hiện nay Nhật Bản đã tự do hóa hoạt động đầu tư ra nước ngoài. Tuy nhiên
nước này thực hiện chính sách mở cửa đầu tư đầu tư ra nước ngoài theo một lộ
trình chắc chắn và có tính toán. Việc tự do hóa đầu tư ra nước ngoài chỉ thực hiện
khi nền kinh tế và các doanh nghiệp Nhật Bản có tiềm lực tài chính mạnh, quy mô
sản xuất tốt và cần mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra bên ngoài để tăng năng lực sản
xuất cho nền kinh tế trong nước.
Thực tế cho thấy đầu tư ra nước ngoài của Nhật Bản tăng tỷ lệ thuận so với tỉ
lệ sự trữ ngoại tệ của nước này. Năm 2008 đầu tư ra nước ngoài của Nhật bản
vượt qua con số 130 tỷ đô la , ở thời điểm đó, dự trữ ngoại tệ của Nhật Bản cũng
vượt ngưỡng 1000 tỷ đô la.
2.1.2. Tiềm lực khoa học và công nghệ
Vì đầu tư nước ngoài luôn gắn liền với chuyển giao công nghệ nên nước đầu tư
có tiềm năng công nghệ lớn sẽ khuyến khích các công ty của họ đầu tư ra nước
ngoài để tiêu thụ nguồn công nghệ này. Thực tế cho thấy những nước đầu tư ra
nước ngoài lớn thường là những nước chiếm tỷ trọng cung cấp công nghệ cao trên
thị trường công nghệ thế giới. FDI không chỉ đi theo hướng từ nước phát triển hơn
15
sang nước kém phát triển hơn mà thậm chí chiều ngược lại còn mạnh mẽ hơn nữa:
Nhật Bản là nước tích cực đầu tư trực tiếp vào Mỹ để khai thác đội ngũ chuyên gia
ở Mỹ.
Ví dụ, các công ty ô tô của Nhật Bản đã mở các bộ phận thiết kế xe ở Mỹ để
sử dụng các chuyên gia người Mỹ. Các công ty máy tính của Nhật Bản cũng vậy.
Không chỉ Nhật Bản đầu tư vào Mỹ, các nước công nghiệp phát triển khác cũng có
chính sách tương tự. Trung Quốc gần đây đẩy mạnh đầu tư trực tiếp ra nước
ngoài, trong đó có đầu tư vào Mỹ. Việc công ty đa quốc gia quốc tịch Trung Quốc
là Lenovo mua bộ phận sản xuất máy tính xách tay của công ty đa quốc gia mang
quốc tịch Mỹ là IBM được xem là một chiến lược để Lenovo tiếp cận công nghệ
sản xuất máy tính ưu việt của IBM. Hay việc TCL (Trung Quốc) trong sáp nhập
với Thompson (Pháp) thành TCL-Thompson Electronics, việc National Offshore
Oil Corporation (Trung Quốc) trong ngành khai thác dầu lửa mua lại Unocal
(Mỹ) cũng với chiến lược như vậy.
2.1.3. Các chính sách xã hội
Thông thường, đầu tư ra nước ngoài và tạo việc làm trong nước có mối quan
hệ ngược chiều nhau. Việc chuyển vốn ra nước ngoài dẫn tới giảm đầu tư nội địa,
do đó làm giảm cơ hội việc làm trong nước. vì thế có khả năng gia tăng tình trạng
thất nghiệp và các vẫn đề xã hội khác. Bởi vậy, nếu nước đi đầu tư có mức trợ cấp
phúc lợi xã hội cao, chủ yếu là trợ cấp thất nghiệp thì sẽ giảm được làm sóng phản
đối chuyển vốn đầu tư ra nước ngoài.
2.1.4. Khả năng tiếp cận và khai thác nguồn lực
- Về tìm kiếm nguồn lực:
Mục đích của đầu tư là để có được nguồn lực chất lượng cao với chi phí thấp
hơn so với nước sở tại, lao động phổ thông, trung bình hoặc đội ngũ có tay nghề
cao, chuyên môn hóa và có tác phong lao động kỉ luật.Nhờ vậy, nhà đầu tư có thể
tiết kiệm được chi phí đào tạo nhân lực và có khả năng sự thích ứng với công việc
mới của người lao động sẽ cao hơn.
16
-
Tiếp cận nguồn tài nguyên thiên nhiên
Để có nguồn nguyên liệu thô, nhiều công ty đa quốc gia tìm cách đầu tư vào
những nước có nguồn tài nguyên phong phú. Các nhà đầu tư sẽ chú ý hơn nếu
nước nhận đầu tư có các điều kiện như nguồn khoáng sản dồi dào với trữ lượng
lớn.
Tất cả những điều trên có nghĩa là việc vận dụng các tài sản riêng của doanh
nghiệp ở nước ngoài thông qua FDI sẽ có lợi hơn các cách sử dụng khác. Để có
mặt trên một thị trường, các chủ đầu tư có nhiều hình thức thâm nhập khác nhau
(xuất khẩu, cấp giấy phép, nhượng quyền, liên doanh góp vốn với chủ đầu tư nước
sở tại, lập chi nhánh,…). Doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường nước ngoài
bằng cách đơn giản là xuất khẩu sản phẩm của mình.
Ví dụ: Tập đoàn Samsung là một tập đoàn đa quốc gia của Hàn Quốc có
tổng hành dinh đặt tại Samsung Town, Seoul. Tập đoàn có nhiều công ty con, hầu
hết hoạt động dưới thương hiệu Samsung, là tập đoàn thương mại lớn nhất Hàn
Quốc. Tính đến đầu 2014, Samsung có mặt ở tổng cộng 90 quốc gia với 673 văn
phòng trên toàn cầu với tổng cộng 425 nghìn nhân viên. Khởi đầu, Samsung chỉ là
một công ty buôn bán nhỏ. Thế nhưng chỉ 3 thập kỉ sau, tập đoàn Samsung đã đa
dạng hóa các ngành nghề bao gồm chế biến thực phẩm, dệt may, bảo hiểm, chứng
khoán và bán lẻ. Từ những năm 90, Samsung mở rộng hoạt động trên quy mô toàn
cầu, tập trung vào lĩnh vực điện tử, điện thoại di động và chất bán dẫn, đóng góp
chủ yếu vào doanh thu của tập đoàn. Các sản phẩm điện tử của tập đoàn thường
là hàng hóa độc quyền, cùng với dây chuyền sản xuất hay các phát minh công
nghệ cao, đây là một ưu thế lớn trong việc tiếp cận thị trường, đa dạng hóa sản
phẩm.
Việt Nam là một nước có dân số đông, thị trường tiêu thụ lớn, cộng với điều
kiện sản xuất thuận lợi như giá nhân công rẻ, nhiều khu công nghiệp lớn nhỏ trên
phạm vi cả nước…nên đã tạo ra một sự thu hút đầu tư tương đối lớn. Có mặt tại
17
Việt Nam gần 20 năm kể từ năm 1996, tính đến cuối 2014, Samsung đã đầu tư vào
Việt Nam với tổng số tiền là 12,6 tỷ USD. Theo báo cáo của Bộ Kế hoạch & Đầu
tư, tổng số vốn đầu tư vào các lĩnh vực trên tại Việt Nam của Samsung đến năm
2017 có thể tăng lên 20 tỷ USD.
2.1.5. Các chính sách kinh tế vĩ mô
Những chính sách kinh tế vĩ mô có tác động mạnh đến thúc đẩy đầu tư ra nước
ngoài là các chính sách về tài chính – tiền tệ, xuất nhập khẩu và quản lý ngoại hối.
Các chính sách này có liên quan đến các mặt: hiệu quả sư dụng vốn của các nhà
đầu tư (hiệu quả trong nước càng cao thì họ càng hít đầu tư ra nước ngoài), khả
năng xuất khẩu (trong nước càng khó xuất khẩu thì các nhà đầu tư đều muốn đầu
tư ra ngoài) và khả năng nhập khẩu (càng dễ nhập khẩu các sản phẩm nước ngoài
thì các nhà đầu tư càng muốn chuyển sản xuất ra nước ngoài sau đó nhập sản phẩm
đó về nước).
-
Chính sách tài chính – tiền tệ
Sự thay đổi các chính sách tài chính – tiền tệ từ thực hiện chính sách thắt chặt
tiền tệ sang nới lỏng hay ngược lại hoặc hỗn hợp sẽ tác động mạnh đến lãi suất
thực tế, qua đó làm tăng hoặc giảm khả năng của các nhà đầu tư.
Thay đổi chính sách tài chính – tiền tệ còn ảnh hưởng trực tiếp đến lạm phát,
qua đó tác động gián tiếp làm giảm đầu tư ra nước ngoài. Khi lạm phát cao sẽ làm
cho đồng nội địa bị mất giá và khi đó cùng một đơn vị tiền tệ của bản địa sẽ mua
được ít các dịch vụ hơn ở nước ngoài. Tình hình ngược lại khi đồng tiền của nước
đầu tư lên giá so với các ngoại tệ khác.
Các chính sách xuất nhập khẩu có ảnh hưởng đến đầu tư ra nước ngoài ở chỗ:
các ưu đãi khuyến khích xuất khẩu trong các hiệp định thương mại song phương và
đa phương của nước đi đầu tư sẽ tạo cơ hội cho hàng hóa của công ty nước này
thâm nhập vào thị trường nước ngoài dễ dàng. Vì thế động lực đầu tư ra nước
ngoài để vượt qua các rào cản thương mại bị giảm xuống. Đối với nhập khẩu cũng
18
vậy, nếu như nước đầu tư giảm các rào cản nhập khẩu hàng hóa từ nước ngoài,
nhất là từ các nước đang phát triển thì sẽ thúc đẩy các công ty của họ đầu tư ra
nước ngoài để khai thác lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế, tìm kiếm
các nguồn nguyên liệu tự nhiên và thị trường tiêu thụ, sau đó nhập khẩu thành
phẩm về nước.
-
Chính sách quản lý ngoại hối
Về tỷ giá hối đoái, tỷ giá hối đoái cao hay tỷ giá hối đoái thấp đều có ảnh
hưởng lớn đến phương hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Đứng trên góc độ của
nhà đầu tư, tỷ giá hối đoái thấp hay nội tệ tăng giá và ngoại tệ giảm giá sẽ kích
thích người nhà đầu tư đầu tư ra nước ngoài vì các chi phí cho việc giá thành tài
nguyên hay thị trường lao động của nước nhận đầu tư đều sẽ rẻ hơn. Ngược lại, tỷ
giá hối đoái cao tức nội tệ giảm giá và ngoại tệ tăng giá, nghĩa là nội tệ rẻ một cách
tương đối so với ngoại tệ,làm cho hàng hóa trong nước rẻ hơn so với hàng hóa
nước ngoài, như vậy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc các nhà đầu tư có quyết định
đầu tư ra nước ngoài hay không.
Vì vậy, để thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước, chính phủ phải thực hiện ổn định
tỷ giá, linh hoạt hoá dần chính sách tỷ giá, đảm bảo môi trường ổn định tương đối
và công khai minh bạch việc quyết định hướng đi của tỷ giá để điều tiết sự dịch
chuyển của các dòng vốn góp phần ổn định kinh tế vĩ mô.
Các chính sách nới lỏng hoặc thắt chặt quản lý ngoại hối ở nước đầu tư có tác
động mạnh đối với đầu tư ra nước ngoài. Nếu nới lỏng quản lý ngoại hối theo
hướng tự do hóa thị trường vốn thì các nhà đầu tưu được quyền tự do chuyển vốn
ra nước ngoài. Ngược lại họ phải tuân thủ các quy chế giới hạn chuyển vốn ra khỏi
quốc gia. Thực tế cho thấy, việc xóa bỏ các quy định quản lý ngoại hối của Nhật
Bản năm 1983, Hà Lan năm 1988,…đã thúc đẩy mạnh mẽ dòng vốn đầu tư ra nước
ngoài của các nước này.
2.1.6. Lý thuyết về chu kỳ sản phẩm
19
Lý thuyết chu kỳ sản phẩm được Raymond Vernon đề xướng năm 1966, đề cập
tới chu kỳ sống của “sản phẩm mới” và những tác động của nó đến tình hình
thương mại quốc tế và đầu tư quốc tế. Đối với hầu hết các doanh nghiệp tham gia
kinh doanh quốc tế thì chu kỳ sống của các sản phẩm này bao gồm 3 giai đoạn:
Ở giai đoạn đầu, giai đoạn sản phẩm mới xuất hiện, sản phẩm chỉ được sản
xuất và tiêu dùng ở tại bản thân nước đó. Giai đoạn này chưa xuất hiện thương mại
quốc tế cũng như việc lưu chuyển dòng vốn quốc tế.
Giai đoạn thứ hai và thứ ba lần lượt là giai đoạn sản phẩm tăng trưởng và giai
đoạn sản phẩm được tiêu chuẩn hóa. Akamatsu Kaname (1962) cho rằng sản phẩm
mới, ban đầu được phát minh và sản xuất ở nước đầu tư, sau đó mới được xuất
khẩu ra thị trường nước ngoài. Tại nước nhập khẩu, ưu điểm của sản phẩm mới
làm nhu cầu trên thị trường bản địa tăng lên, nên nước nhập khẩu chuyển sang sản
xuất để thay thế sản phẩm nhập khẩu này bằng cách chủ yếu dựa vào vốn, kỹ thụât
của nước ngoài(giai đoạn sản phẩm tăng trưởng). Khi nhu cầu thị trường của sản
phẩm mới trên thị trường trong nước bão hòa, nhu cầu xuất khẩu lại xuất hiện (giai
đoạn sản phẩm được tiêu chuẩn hóa). Hiện tượng này diễn ra theo chu kỳ và do đó
dẫn đến sự hình thành FDI.
Nhưng, Raymond Vernon lại cho rằng khi sản xuất một sản phẩm đạt tới giai
đoạn chuẩn hóa trong chu kỳ phát triển của mình cũng là lúc thị trường sản phẩm
này có rất nhiều nhà cung cấp. Ở giai đoạn này, sản phẩm ít được cải tiến, nên cạnh
tranh giữa các nhà cung cấp dẫn tới quyết định giảm giá và do đó dẫn tới quyết
định cắt giảm chi phí sản xuất. Đây là lý do để các nhà cung cấp chuyển sản xuất
sản phẩm sang những nước cho phép chi phí sản xuất thấp hơn.
2.2. Lợi thế của doanh nghiệp
2.2.1.Về lợi thế đặc biệt của các công ty đa quốc gia
Với tác động của toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại, các công ty đa quốc
gia đã có nhiều thuận lợi hơn trong việc tìm kiếm những địa điểm hoạt động mang
lại hiệu quả cao nhất. Theo đó, các công ty này đẩy mạnh đầu tư ra nước ngoài
20
nhằm khai thác lợi thế so sánh của từng quốc gia, tận dụng các chính sách ưu đãi,
qua đó giảm chi phí sản xuất và nâng cao năng lực cạnh tranh cho mình.
Một số nghiên cứu cho rằng các công ty đa quốc gia có những lợi thế đặc thù
(chẳng hạn năng lực cơ bản) cho phép công ty vượt qua những trở ngại về chi phí ở
nước ngoài nên họ sẵn sàng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Khi chọn địa điểm đầu
tư, những công ty đa quốc gia sẽ chọn nơi nào có các điều kiện (lao động, tài
nguyên thiên nhiên, chính trị) cho phép họ phát huy các lợi thế đặc thù nói trên.
Những công ty đa quốc gia thường có lợi thế lớn về vốn và công nghệ đầu tư ra các
nước sẵn có nguồn nguyên liệu, giá nhân công rẻ và thường là thị trường tiêu thụ
tiềm năng...
2.2.2. Về lợi thế sở hữu của doanh nghiệp
Lợi thế về sở hữu hay còn gọi là lợi thế riêng của doanh nghiệp (ownership
advantages), tức là doanh nghiệp cần phải sở hữu một hoặc một số lợi thế cạnh
tranh đặc biệt như một số tài sản đặc biệt nhất định, lợi thế về tối thiểu hóa chi phí
giao dịch, công nghệ độc quyền sản phẩm, kiến thức kỹ thuật và kỹ năng quản lý
cùng tính kinh tế nhờ quy mô, uy tín,… Các lợi thế này giúp cho chủ đầu tư khắc
phục được những bất lợi trong cạnh tranh với các công ty khác cùng quốc gia hay
với chính những doanh nghiệp trong nước của nước nhận đầu tư, đặc biệt nó cho
phép chủ đầu tư vượt qua các khó khăn về chi phí hoạt động ở nước ngoài.
Chủ đầu tư khi xây dựng nhà máy ở nước ngoài phải trả những chi phí phụ trội
so với đối thủ cạnh tranh tại chính nước đó do sự khác biệt về văn hóa, luật pháp,
thể chế và ngôn ngữ hay do sự thiếu hiểu biết về thị trường nội địa, và các chi phí
thông tin liên lạc do dự khác biệt về địa lý. Các chi phí phụ trội này gọi là “chi phí
nước ngoài”. Vì vậy muốn tồn tại được ở nước ngoài, các chủ đầu tư sẽ phải tìm
cách để có được thu nhập cao hơn hoặc tiết kiệm được các chi phí khác để bù lại
chi phí nước ngoài. Muốn vậy chủ đầu tư phải có một số các lợi thế không bị chia
sẻ đối với các đối thủ cạnh tranh. Các lợi thế này phải là lợi thế riêng biệt của
21
doanh nghiệp, do doanh nghiệp sở hữu độc quyền và sẵn sàng chuyển giao trong
nội bộ chi nhánh, các công ty con ở các nước khác nhau. Khi khai thác các lợi thế
này ở nước ngoài, chủ đầu tư sẽ có thu nhập cận biên cao hơn hoặc chi phí cận
biên thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh, như vậy chủ đầu tư sẽ thu được lợi
nhuận nhiều hơn. Các lợi thế này được chia thành 3 nhóm cơ bản:
-
Kiến thức công nghệ: bao gồm các hoạt động phát minh (sản phẩm mới, quy trình
sản xuất, kỹ năng marketing và quản lý, năng lực sáng tạo, nền tảng kiển thức của
-
doanh nghiệp)
Giảm chi phí nhờ hoạt động với quy mô lớn (lợi thế quản lý chung): giảm chi phí
nhờ việc chia sẻ kiến thức, tiếp cận dễ hơn các nguồn tài chính lớn của các công ty
nước ngoài, và lợi thế từ việc đa dạng hóa mang tính quốc tế các tài sản rủi ro, đa
-
dạng hóa sản phẩm.
Lợi thế độc quyền tập trung vào MNCs dưới hình thức ưu tiên hoặc độc quyền tiếp
cận các thị trường đầu vào và đầu ra thông qua các quyền về bằng sáng chế, sở hữu
các nguồn tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, lợi thế về nội bộ hóa,…
Tất cả những điều trên có nghĩa là việc vận dụng các tài sản riêng của doanh
nghiệp ở nước ngoài thông qua FDI sẽ có lợi hơn các cách sử dụng khác. Để có
mặt trên một thị trường, các chủ đầu tư có nhiều hình thức thâm nập khác nhau
(xuất khẩu, cấp giấy phép, nhượng quyền, liên doanh góp vốn với chủ đầu tư nước
sở tại, lập chi nhánh,…). Doanh nghiệp có thể thâm nhập thị trường nước ngoài
bằng cách đơn giản là xuất khẩu sản phẩm của mình.
2.3. Các hoạt động thúc đẩy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của quốc gia
Các hoạt động thúc đẩy đầu tư ra nước ngoài của nước đầu tư chủ yếu bao
gồm: các hiệp định đầu tư song phương và đa phương, hiệp định tránh đánh thuế 2
lần, trợ giúp về tài chính trong các hoạt động xúc tiến đầu tư, bảo hiểm đầu tư,
cung cấp các thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài và chính sách đối ngoại
của nước đi đầu tư. Các hoạt động này tạo ra các cơ sở pháp lývà tiền đề cần thiết
22
cho các nhà đầu tư ở nước ngoài. Đây là các yếu tố quan trọng có tính quyết định
đến thúc đẩy dòng vốn đầu tư ra nước ngoài.
2.3.1. Hiệp định đầu tư song phương và đa phương
Việc kí kết các hiệp định đầu tư với nước ngoài là cơ sở pháp lý quan trọng
hàng đầu để đảm bảo tin tưởng cho các nhà đầu tư khi đầu tư ở nước ngoài, cũng
như để tiếp cận thị trường và giảm xung đột thương mại. Hiệp định đầu tư song
phương ( Bilateral Investment treaties – BITs) là hiệp định được kí kết giữa nước
đầu tư với nước nhận đầu tư, còn hiệp định đầu tư đa phương (Multibilateral
agreement on investment – MAI) là hiệp định được kí kết giữa các chính phủ trong
một nhóm nước với nhau. Nội dung của hiệp định này quy định nhiều nguyên tắc
cơ bản nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong quá trình tiếp cận và
kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Vì thế, việc ký kết các hiệp định đầu tư của nước
đầu tư với các nước là yếu tố quan trọng thúc đẩy các công ty của họ đầu tư sang
nước ngoài.
Tư cuối thập kỷ 80, thế kỷ XX, số lượng BITs tăng lên nhanh chóng giữa các
nước phát triển và các nước đang phát triển, có tác động mạnh đến thúc đẩy dòng
vốn đầu tư của các nước phát triển vào các nước đang phát triển và nền kinh tế
đang chuyển đổi từ thời gian này.
2.3.2. Hiệp định tránh đánh thuế hai lần
Cùng với các hiệp định đầu tư trên, các hiệp định tránh đánh thuế 2 lần
(Double taxation treaties – DTTs) giữa các nước đầu tư với nước ngoài cũng tạo ra
các hấp dẫn về tài chính để các nhà đầu tư chuyển vốn ra nước ngoài. Bởi vì, hiệp
định tránh đánh thuế hai lần cho phép các nhà đầu tư nước ngoài chỉ phải nộp một
lần thuế ở nước nhận đầu tư, nhờ đó họ giảm bớt được chi phí đầu tư và tăng lợi
nhuận. Đây là biện pháp quan trọng khuyến khích đầu tư nước ngoài giữa các nước
tham gia đầu tư.
23
2.3.3. Trợ giúp về tài chính trong các hoạt động xúc tiến đầu tư và bảo
hiểm đầu tư
Để khuyến khích các công ty đầu tư ra nước ngoài (chủ yếu vào các nước đang
phát triển) nước đầu tư thường trợ giúp các nhà đầu tư của mình thông qua việc
thành lập các chương trình xúc tiến đầu tư và các tổ chức hỗ trợ đầu tư hải ngoại.
Chẳng hạn như các tổ chức xúc tiến và hỗ trợ đầu tư hải ngoại OPIC của Mỹ,
MOTI, JAIDO, JICA của Nhật Bản, KFW của Đức, FMO của Hà Lan, …phần lớn
các ODA của họ thực hiện thông qua các hoạt động này.
Mặt khác, việc đầu tư áp dụng chính sách bảo hiểm vốn đầu tư cho các nhà đầu
tư của họ ở nước ngoài cũng là yếu tố quan trọng tác động mạnh đến thúc đẩy đầu
tư ra nước ngoài. Vì đầu tư ra nước ngoài, nhất là vào các thị trường mới, thường
có độ mạo hiểm cao hơn đầu tư ở trong nước nên các nhà đầu tư rất cần chính phủ
bảo hiểm vốn đầu tư cho họ. Đặc điểm này được phản ánh rất rõ sau sự kiện năm
1992 khi chính phủ Nhật bản đầu tư vào Việt Nam đã làm cho dòng vốn đầu tư của
nước này vào Việt Nam tăng vọt.
2.3.4. Cung cấp các thông tin về môi trường đầu tư ở nước ngoài
Việc cung cấp đầy đủ, thường xuyên thông tin về môi trường đầu tư nước
ngoài và các chính sách đối ngoại của chính phủ nước đầu tư cho các nhà đầu tư sẽ
tác động rất lớn đến khả năng đi đầu tư của họ. Ví dụ trước khi Mỹ tuyên bố bãi bỏ
lệnh cấm vận kinh tế Việt Nam vào năm 1994, mặc dù có nhiều nahf đầu tư lớn
trên thế giới muốn đầu tư vào Việt Nam nhưng họ còn dè dặt hoặc chưa dám công
khai có mặt tại Việt Nam. Sau khi lệnh cấm vận vào Việt Nam bị bãi bỏ, nhiều nhà
đầu tư của các nước đã không ngần ngại đầu tư vào Việt Nam, khiến ho đầu tư
nước ngoài vào Việt Nam tăng nhanh trong đó có đầu tư của Mỹ.
Ví dụ: Nhật Bản đã hình thành hệ thống công cụ hỗ trợ các nhà đầu tư ra
nước ngoài rất hiệu quả gồm: Xúc tiến tìm kiếm thị trường thông qua Tổ chức Xúc
tiến Thương mại Nhật Bản (JETRO); hỗ trợ tài chính để triển khai các dự án đầu
24
tư thông qua hoạt động của Ngân hàng hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JBIC); hỗ trợ
phát triển hạ tầng cho nước nhận đầu tư thông qua nguồn viện trợ nước ngoài
ODA của Chính phủ Nhật Bản và hỗ trợ bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư thông
qua quan hệ cấp chính phủ và xã hiệp định song phương, đa phương đã kí kết với
các quốc gia trên thế giới.
Cũng tương tự Nhật Bản, Hàn Quốc cũng đã hình thành được hệ thống các
công cụ hỗ trợ các nhà đầu tư ra nước ngoài rất hiệu quả. Việc xúc tiến tìm kiếm
thị trường được hỗ trợ thông qua Tổ chức Thương mại Hàn Quốc (KOTRA); việc
hỗ trợ tài chính để triển khai các dự án đầu tư được hỗ trợ thông qua hoạt động
của Ngân hàng Xuất nhập khẩu Hàn Quốc; hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng cho
nước tiếp nhận đầu tư thông qua nguồn viện trợ nước ngoài ODA của Chính phủ
Hàn Quốc; và hỗ trợ về quyền lợi của nhà đàu tư thông qua quan hệ cấp Chính
phủ và các hiệp định song phương, đa phương đã kí kết với các quốc gia trên thế
giới.
2.3.5. Chính sách đối ngoại của nước đi đầu tư và xu hướng đối thoại
chính trị giữa các nước
Tăng cường các hoạt động trong ngoại giao, thúc đẩy giao lưu văn hóa quốc tế
và cung cấp ODA cho các nước đang phát triển cũng tác động mạnh đến dòng vốn
đầu tư ra nước ngoài của nước đầu tư. Hiện tượng này được biểu hiện rất rõ trong
các chuyến công tác ra nước ngoài của các lãnh đạo nước đầu tư, sẽ thường có
nhiều nhà doanh nghiệp đi cùng và trong các điều khoản cung cấp ODA cũng
thường có nhiểu quyền ưu tiên cho các nhà đầu tư của các nước cung cấp ODA.
Cùng với đó, tình hình chính trị cũng là một trong những yếu tố được các nhà
đầu tư quan tâm hàng đầu khi đánh giá môi trường tại nước nhận đầu tư. Nhà đầu
tư không chỉ quan tâm tới những gì diễn ra tại đất nước đang nhận đầu tư và còn
quan tâm đến cả tình hình chính trị của cả khu vực liên quan tới nước sẽ đầu tư.
Bởi vậy, xu hướng đối thoại chính trị giữa các nước là một yếu tố quan trọng, tác
25