Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TỰ HỌC BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN THCS MODULE 37

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.32 KB, 19 trang )

TỰ HỌC BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
NĂM HỌC 2015 – 2016
MODULE 37:
GIÁO DỤC VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG Ở TRƯỜNG THCS
Nội dung 1: PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
Hoạt động 1: Tìm hiểu những thách thức đối với địa phương, quốc gia và toàn
cầu.
1/ Nhiệm vụ: Trả lời câu hỏi sau:
? Thuật ngữ phát triển bền vững bất đầu xuất hiện từ bao giờ? Phát triển bền vững
có nghĩa là gì?
Trả lời:
Thế kỉ XXI được đánh giá như một thời đại hậu công nghiệp hoá, hậu tri thức, nơi cơ
cấu xã hội dần dần được xây dựng trên những khả năng mang tính luận lí, tuyến tính,
chuyên biệt và đầy những kí tự nhị nguyên của thông tin sổ.
Hội đồng Thế giới về Môi trường và Phát triển đã đặt ra ý tưởng về sự bền vững nằm
trong khái niệm sau: “Xã hội bền vững chính là một cộng đồng đáp ứng được nhu cầu
của hiện tại mà không đánh mất khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ trong tương
lai".
Phát triển bền vững là một khái niệm không giới hạn và vẫn còn thảo luận. Tuy
nhiên, khái niệm này cũng có một số nguyên tắc căn bản, bao gồm:
Tích hợp các chính sách và hoạt động của kinh tế với môi trường;
Nguyên tắc phòng ngừa;
Nhận thức những chiêu kích toàn cầu;
Định giá trị môi trường;
Bảo đảm công bằng giữa các thế hệ và ngay trong từng thế hệ;
Bảo tồn sự toàn vẹn của sinh thái và đa dạng sinh học;
Sự tham gia của toàn thể cộng đồng.
Khái niệm phát triển bền vững được hình thành và trải qua các mốc sự kiện trên thế
giới như sau:
Năm 1963: cuốn sách Mùa xuân câm lặng của nữ văn sĩ Rachel Carson, với những
tiết lộ về những hiểm hoạ của thuốc trừ sâu DDT, đã hoài nghi một cách biện chứng


niềm tin của nhân loại vào tiến bộ khoa học kĩ thuật này và giúp tạo ra một sân khấu
cho các phong trào môi trường. DDT, thuốc trừ sâu mạnh nhất từng được biết đến
trên thế giới, đã làm tổn thương tới các hệ tự nhiên. chỉ một lần phun DDT để diệt
một loài sâu hại cây trồng, nó không chỉ diệt được loài sâu bệnh trong nhiều tuần
hoặc nhiều tháng, mà đồng thời cũng tiêu diệt luôn nhiều loài côn trùng có lợi khác
và tồn lưu như một độc chất trong môi trường. Mùa xuân câm lặng đã làm thay đổi
nhận thức của người dân Mĩ về môi trường, góp phần thúc đẩy các chính1sách về môi
trường của đất nước này.
Tháng 4/1965: câu lạc bộ Rome được thành lập. Đây là một tổ chức phi chính phủ, hỗ
trợ cho việc nghiên cứu “Những vấn đề của thế giới" - một cụm từ được đặt ra nhằm


diễn tả những vấn đề chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường và công nghệ trên toàn
cầu với tầm nhìn lâu dài. Tổ chức này đã tập hợp những nhà khoa học, nhà nghiên
cứu, nhà kinh doanh cũng như các nhà lãnh đạo của các quốc gia trên thế giới (Trong
nhiều năm, Câu lạc bộ Rome đã công bố một số lượng lớn các báo cáo, bao gồm cả
bản báo cáo Giới hạn của sự tăng trưởng- Năm 1972- đề cập tới hậu quả của việc
tăng dân số quá nhanh, sự hữu hạn của các nguồn tài nguyên...).
Näm 1970, UNESCO thành lập chương trình Con người và Sinh quyển, với mục tiêu
là phát triển cơ sở khoa học cho việc sử dựng hợp lí và bảo tồn các tài nguyên của
sinh quyển và cải thiện quan hệ toàn cầu giữa loài người và môi trường.
Tháng 6 /1972, Hội nghị của Liên hợp quốc về Con người và môi trường: tổ chức tại
Stockholm, Thụy Điển được đánh giá là hành động đầu tiên đánh dấu sự nỗ lực
chung của toàn thể nhân loại, nhằm giải quyết các vấn đề về môi trường. Hội nghị có
113 quốc gia tham dự và đã đạt được những kết quả chính sau:
- Khởi động các cuộc đối thoại Bắc- Nam;
- Khởi động chương trình “Viễn cảnh toàn cầu";
- Khởi động sự tham gia của các tổ chức phi chính phủ trong giám sát và bảo vệ môi
trường;
Thành lập chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP); Đề nghị Đại hội

đồng Liên hợp quốc lấy ngày 5/6 làm Ngày Môi trường Thế giới và quyết định vào
ngày này hằng năm, Liên hợp quốc và tất cả chính phủ trên phạm vi toàn thế giới tiến
hành các hoạt động nhằm tái khẳng định mối quan tâm của cả thế giới đổi với việc
gìn giữ và cải thiện môi trường sống cho nhân loại. Hội nghị đã có một tuyên bố về
môi trường con người, thỏa thuận về một chương trình hành động quốc tế rộng lớn,
thành lập chương trình Môi trường của Liên hợp quốc (UNEP), Ban Thư kí thường
trực về môi trường đặt tại Kenya và thành lập Quỹ Môi trường.
Näm 1980, tiếp theo Hội nghị Stockholm, tổ chức Hiệp hội Bảo tồn Thiên nhiên Thế
giới (IUCN), chương trình Môi trường Liên họp quốc (UNEP) và Quỹ Bảo vệ Thiên
nhiên Thế giới (WWF) đã đưa ra chiến lược bảo tồn thế giới. Chiến lược này thúc
giục các nước soạn thảo các chiến luợc bảo tồn quốc gia của mình. Ba mục tiêu chính
về bảo tồn tài nguyên sinh vật được nhấn manh trong chiến lược như sau:
+ Duy trì những hệ sinh thái cơ bản và những hệ hỗ trợ sự sống (như cải tạo đất, tái
sinh các nguồn dinh dưỡng, bảo vệ an toàn nguồn nước);
- Bảo tồn tính đa dạng sinh học;
- Bảo đảm sử dựng một cách bền vững các loài và các hệ sinh thái.
Từ khi Chiến lược bảo tồn thế giới được công bố tới nay, đã có trên 60 chiến lược
bảo tồn quốc gia được phê duyệt. Trong chiến lược này, thuật ngữ Phát triển bền
vững lần đầu tiên được nhắc tới, tuy nhiên mới chỉ nhấn mạnh ở góc độ bền vững
sinh thái. Tiếp theo chiến lược này, năm 1991 một công trình khoa học có tiêu đề cứu
lấy Trải Đất - Chiến lược cho cuộc sống bền vững đã được IUCN, UNEP và WWF
soạn thảo và công bố (cuốn sách này đã được Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và
Môi trường dịch ra tiếng Việt vào năm 1993). Trong đó, nhiều khuyến nghị về cải
2
cách luật pháp, thể chế và quản trị đã được đề xuất.
Năm 1904, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã uỷ nhiệm cho bà Gro Harlem Brundtland,
khi đó là Thủ tướng Na Uy, quyền thành lập và làm chủ tịch uỷ ban Quốc tế về Môi
trường và Phát triển (WCED), nay còn được biết đến với tên uỷ ban Brundtland. Tới



nay, uỷ ban này đã được ghi nhận có những cống hiến rất giá trị cho việc đẩy manh
sự phát triển bền vững.
Năm 1907, hoạt động của uỷ ban Môi trường và Phát triển Thế giới trở nên nóng
bỏng khi công bố báo cáo có tựa đề “Tương lai của chúng ta". Bản báo cáo này lần
đầu tiên công bố chính thức thuật ngữ “phát triển bền vững", sự định nghĩa cũng như
một cái nhìn mới về cách hoạch định các chiến lược phát triển lâu dài.
Năm 1909, bản báo cáo “Tương lai của chúng ta" đã được đưa ra bàn bạc tại Đại hội
đồng Liên hợp quốc và đã dẫn đến sự ra đòi của Nghị quyết 44/220 – tiền đề cho việc
tổ chức Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc.
Năm 1992, Hội nghị về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc (UNCED) tại
Rio de Janeiro, Brazil. Tại đây, các đại biểu tham gia đã thống nhất những Nguyên
tắc cơ bản và phát động một chương trình hành động vì sự phát triển bền vững mang
tên chương trình Nghị sự 21 (Agenda21). với sự tham gia của đại diện hơn 200 nước
trên thế giới cùng một số lượng lớn các tổ chức phi chính phủ. Hội nghị đã thông qua
các văn bản quan trọng:
- Tuyên bố Rio về Môi trường và phát triển với 27 Nguyên tắc chung, xác định những
quyền và trách nhiệm của các quốc gia nhằm làm cho thế giới phát triển bền vững;
- Chương trình Nghị Sự 21 về phát triển bền vững;
- Tuyên bố các Nguyên tắc quản lí, bảo vệ và phát triển bền vững rừng;
- Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu nhằm ổn định các khí gây
hiệu ứng nhà kính ở mức độ không gây đảo lộn nguy hiểm cho hệ thổng khí hậu toàn
cầu;
- Công ước về Đa dạng sinh học.
Đây là các văn kiện quốc tế quan trọng có mối liên quan với nhau, được quán triệt
trong suốt thế kỉ XXI.
Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững đã trở thành chiến lược phát triển
của toàn cầu trong thế kỉ XXI, và “Mục tiêu phát triển Thiên niên kỉ", với các nội
dung (xóa đói; giảm nghèo; phổ cập giáo dục tiểu học; thúc đẩy bình đẳng giới tính,
đồng thời nâng cao quyền lợi của nữ giới; giảm tỉ lệ trẻ em tử vong; cải thiện và đảm
bảo sức khỏe sản phụ; Đấu tranh với các loại bệnh như HIV, sốt xuất huyết; bảo vệ

môi trường; thúc đẩy phát triển hợp tác toàn cầu) đã được tập trung thực hiện.
Năm 2002, Hội nghị thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững nhóm họp tại
lohannesburg, Nam Phi là dịp cho các bên tham gia nhìn lại những việc đã làm 10
năm qua theo phương hướng mà Tuyên ngôn Rio và Chương trình Nghị sự 21 đã
vạch ra, tiếp tục tiến hành với một số mục tiêu được ưu tiên. Những mục tiêu này bao
gồm Xóa nghèo đói, phát triển những sản phẩm tái sinh hoặc thân thiện với môi
trường, nhằm thay thế các sản phẩm gây ô nhiễm, bảo vệ và quản lí các nguồn tài
nguyên Thiên nhiên. Hội nghị cũng đề cập tới chủ đề toàn cầu hoá gắn với các vấn đề
liên quan tới sức khỏe và phát triển. Các đại diện của các quốc gia tham gia Hội nghị
cũng cam kết phát triển chiến lược về phát triển bền vững tại mỗi quốc gia trước năm
2005.
3
Như vậy, có thể thấy rằng thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào
năm 1900 trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung rất đơn giản:
"Sự phát triển của nhân loại không thể chỉ chủ trọng tới phát triển kinh tế mà còn phải


tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến mới trường sinh thái
học".
Khái niệm này' được khẳng định trong Báo cáo BrundtLand (năm 1937). Báo cáo này
ghi rõ: Phát triển bền vững là "sự phát triển có thểẩảp ứng được nhữngnhu cầu hiện
tại mà khởng ảnh hưởng, tổn hại đến những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ
tương lai..”. Nói cách khác, phát triển bền vững phải bảo đẳm có sự phát triển kinh tế
hiệu quả, xã hội công bằng và môi trường được bảo vệ, gìn giữ. Đề đạt được điều
này, tất cả các thành phần kinh tế - xã hội, nhà cầm quyền, các tổ chức xã hội... phải
bắt tay nhau thực hiện nhằm mục đích dung hòa ba lĩnh vực chính: kinh tế - xã hộimôi trường.
2/ Nhiệm vụ: Trả lời câu hỏi sau:
Sự tham gia của các nước và Việt Nam về vấn đề phát triển bền vững nói chung ở
cấp toàn cầu và cấp độ quốc gia như thế nào?

Trả lời:
Sự hình thành khái niệm phát triển bền vững ở Việt Nam:
Việt Nam đã sớm tham gia vào tiến trình chung của thế giới trong việc xây dựng
chương trình Nghị sự 21.
Năm 1992, đoàn đại biểu chính phủ Việt Nam tham dự Hội nghị thượng đỉnh thế giới
về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janero (Braxin), đã kí Tuyên bố chung của thế
giới về môi trường và phát triển, chương trình Nghị sự 21 toàn cầu, cam kết xây dựng
chiến lược phát triển bền vững quốc gia và chương trình Nghị sự 21 địa phương.
Năm 3004, Việt Nam đã phê chuẩn chiến luợc quốc gia về bảo vệ môi trường thời kì
đến 2010 và định hướng đến 2020. Việt Nam cũng đã tham gia nhiều cam kết quốc tế
nhằm bảo vệ môi trường và phát triển xã hội.
Việt Nam cam kết thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỉ của thế giới. Hội đồng Phát
triển bền vững Quốc gia cũng đã được thành lập theo Quyết định số 1032/QĐ - TTg
ngày 27/9/2005 của Thủ tướng chính phủ. Hội đồng do Phó Thủ tướng chính phủ làm
chủ tịch, Bộ trương Bộ Kế hoạch và Đầu tư là phó chủ tịch thường trực. Cơ quan
Thường trực giúp việc cho Hội đồng Phát triển bền vững là Văn phòng Phát triển
bền vững, đặt tại Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Hoà nhâp với cộng đồng quốc tế, trong
quá trình đổi mới kinh tế và xã hội, phát triển bền vững, với những nội hàm phát
triển toàn diện và có hiệu quả về kinh tế, đi đôi với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội và bảo vệ môi trường, luôn luôn là mục tiêu phát triển trong từng thời kì kế hoạch
của đất nước.
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã thông qua mục tiêu chiến lược 10 năm (2001 2010), mà nội dung tập trung vào những nhân tố phát triển bền vững: “Đưa nước ta
ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần
của nhân dân. Tạo nền tảng để đến năm 2030 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp theo hướng hiện đại; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ,
kết cấu hạ tầng, tiềm lực kinh tế, quốc phòng, an ninh được tăng cường; thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành về cơ bản. Vị 4thế của
nước ta trên trường quốc tế được nâng cao".
Đề thực hiện mục tiêu phát triển bền vững như Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc
đã đề ra và thực hiện cam kết quốc tế về phát triển bền vững, Thủ tướng chính phủ đã

phê duyệt Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình


Nghị sự 21 của Việt Nam). Đây là chiến lược khung, bao gồm những định hướng lớn,
làm cơ sở pháp lí để các bộ, ngành, địa phương các tổ chức và cá nhân triển khai thực
hiện và phổi hợp hành động, nhằm Bảo đảm phát triển bền vững đất nước trong thế
kỉ XXI. Định hướng chiến lược về phát triển bền vững ở Việt Nam nêu lên những
thách thức mà Việt Nam dang phải đổi mặt, đề xuất những chủ trương, chính sách,
công cụ pháp luật và những lĩnh vực hoạt động ưu tiên để thực hiện mục tiêu phát
triển bền vững, với những định hướng chiến lược phát triển dài hạn, văn bản định
hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam sẽ thường xuyên được xem xét, bổ
sung và điều chỉnh cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển, cập nhật những kiến
thức và nhận thức mới nhằm hoàn thiện hơn về con đường phát triển bền vững ở Việt
Nam
Năm 2002, tại Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về Phát triển bền vững nhóm họp tại
lohannesburg, Nam Phi, Việt Nam cũng đã cam kết và bất tay vào hành động với Dự
án VIE/01/021 "Hỗ trợ xây dựng và thực hiện Chương trình Nghị sự 21 của Việt
Nam" bắt đầu vào tháng 11 /2001 và kết thúc vào tháng 12/2005 nhằm tạo tiên đề cho
việc thực hiện Vietnam Agenda 21.
Ngày 17/0/2004, Thủ tướng chính phủ ra Quyết định số 153/2004/QĐ- TTg về việc
ban hành Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam (Chương trình
Nghị sự 21 của Việt Nam).
Ngày 12/4, Thủ tướng chính phủ ra Quyết định số 432/QĐ-TTg phê duyệt Chiến luợc
Phát triển bền vững Việt Nam giai đoạn 2011- 2020 với quan điểm, mục tiêu chỉ đạo
như sau:
- Quan điểm chỉ đạo:
Con người là trung tâm của phát triển bền vững. Phát huy tổi đa nhân tố con người
với vai trò là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của phát triển bền vững; đáp
ứng ngày càng đầy đủ hơn nhu cầu vật chất và tinh thần của mọi tầng lớp nhân dân;
xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh; xây dựng nền

kinh tế độc lập tự chủ và chủ động hội nhập quốc tế để phát triển bền vững đất nước.
Phát triển bền vững là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp
chặt chẽ, hợp lí và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài
nguyên, môi trường; bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội.
Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, các cấp chính quyền, các
bộ, ngành, địa phương các cơ quan, doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng
dân cư và mỗi người dân.
Tạo lập điều kiện để mọi người, mọi cộng đồng trong xã hội có cơ hội bình đẳng để
phát triển; được tiếp cận những nguồn lực chung; được tham gia, đóng góp và hường
lợi; tạo ra những nền tảng vật chất, tri thức và văn hóa tốt đẹp cho những thế hệ mai
sau, sử dựng tiết kiệm, hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là loại tài nguyên không thể tái
tạo; gìn giữ và cải thiện mới trường sống; dựng xã hội học tập; xây dựng lối sống
thân thiện môi trường, sản xuất và tiêu dùng bền vững.
Khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực cho phát triển bền vững đất nước.
5
Công nghệ hiện đại, sạch và thân thiện với mới trường cần được ưu tiên sử dựng rộng
rãi trong các ngành sản xuất.
- Mục tiêu:


Mục tiêu tổng quát: tăng trưởng bền vững, có hiệu quả, đi đôi với tiến bộ, công bằng
xã hội, bảo vệ tài nguyên và môi trường, giữ vững ổn định chính trị-xã hội, bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Các mục tiêu cụ thể:
+ Bảo đẳm ổn định kinh tế vĩ mô, đặc biệt là các cân đối lớn; giữ vững an ninh lương
thực, an ninh năng lượng, an ninh tài chính, chuyển đổi mô hình tăng trường sang
phát triển hài hòa giữa chiều rộng và chiều sâu; từng bước thực hiện tăng trưởng
nhanh, phát triển kinh tế các bon thấp; sử dựng tiết kiệm, hiệu quả mọi nguồn lực.
+ Xây dựng xã hội dân chủ, kỉ cương, đồng thuận, công bằng, văn minh; nền văn hoá
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; con người phát

triển toàn diện về trí tuệ, đạo đức, thể chất, tinh thần, năng lực sáng tạo, ý thức công
dân, tuân thủ pháp luật. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ trở thành động
lực phát triển quan trọng. Giữ vững ổn định chính trị-xã hội, bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, thong nhất và toàn vẹn lãnh thổ quốc gia.
Giảm thiểu các tác động tiêu cực của hoạt động kinh tế đến môi trường. khai thác hợp
lí và sử dựng cồ hiệu quả các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đặc biệt là tài nguyên
không tái tạo, phòng ngừa, kiểm soát và khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải
thiện chất luợng môi trường, bảo vệ và phát triển rừng, bảo tồn đa dạng sinh học, hạn
chế tác hại của thiên tai, chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, nhất là
nước biển dâng.
Tóm lại:
Phát triển bền vững không chỉ đơn thuần được hiểu là sự phát triển được duy trì một
cách liên tục mà hơn thế, phát triển là sự nỗ lực liên tục nhằm đạt được trạng thái bền
vững trên mọi lĩnh vực. Phát triển bền vững là một quá trình duy trì sự cân bằng cơ
học của con người với tính công bằng, sự phồn vinh, chất lượng cuộc sống và tính
bền vững của môi trường tự nhiên.
Phát triển bền vững bao gồm ba thành phần cơ bản: môi trường bền vững, xã hội bền
vững, kinh tế bền vững:
- Khía cạnh môi trường trong phát triển bền vững đòi hỏi phải duy trì sự cân bằng
giữa bảo vệ môi trường tự nhiên với sự khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục
vụ lợi ích con người; duy trì mức độ khai thác những nguồn tài nguyên ở một giới
hạn cho phép; tiếp tục hỗ trợ điều kiện sống cho con người và các sinh vật sống trên
Trái Đất
- Khía cạnh xã hội của phát triển bền vững cần được tập trung vào sự phát triển sự
công bằng xã hội, luôn tạo điều kiện thuận lợi cho lĩnh vực phát triển con người và cổ
gắng cho tất cả mọi người cơ hội phát triển tiềm năng bản thân và có điều kiện sống
chấp nhận được.
- Yếu tố kinh tế đóng một vai trò không thể thiếu trong phát triển bền vững. Nó đòi
hỏi sự phát triển hệ thống kinh tế được sử dụng những nguồn tài nguyên Thiên nhiên
một cách bình đẳng; khẳng định sự tồn tại cũng như phát triển của bất cứ ngành kinh

doanh, sản xuất nào cũng được dựa trên những nguyên tắc đạo lí cơ bản. Yếu tố được
6
chú trọng ở đây là tạo ra sự thịnh vượng chung cho tất cả mọi người, không chỉ tập
trung mang lại lợi nhuận cho một số ít; không được làm ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển của hệ sinh thái cũng như không xâm phạm những quyền cơ bản của con người.
Nội dung 2: GIÁO DỤC VÌ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG


Trả lời các câu hỏi sau:
1/ Giáo dục có vai trò như thế nào trong phát triển bền vững?
Phản hồi:
Giáo dục và phát triển bền vững: Giáo dục là một nguồn sức mạnh cho tương lai.
Giáo dục đóng vai trò chủ đạo thúc đẩy sự phát triển của mỗi quốc gia, đáp ứng
những nhu cầu và nguyện vọng trong xã hội. Trong khi mối quan hệ giữa giáo dục và
sự phát triển bền vững còn trừu tượng, thì giáo dục chính là chìa khóa khai thông
tiềm năng của một quốc gia để phát triển và đạt được sự bền vững. Đặc biệt khi giáo
dục trực tiếp giúp cải thiện năng suất nông nghiệp, cung cấp kĩ năng làm việc cho
những ngành công nghiệp mới, cải thiện vị thế của phụ nữ trong xã hội, nó sẽ thúc
đẩy nhiệm vụ bảo vệ môi trường, xây dựng năng lực cho việc ra quyết định đúng đắn
và phù hợp với đạo đức và nâng cao chất lượng cuộc sống cho mọi người.
Giáo dục có thể đảm bảo rằng mọi công dân, từ trẻ em đến người già, có kiến thức về
những thay đổi cần thiết, có khả năng xây dựng tầm nhìn về tương lai, có cam kết
thực hiện dân chủ, có các kĩ năng cần thiết và có động lực để hành động tích cực
nhằm tạo ra thay đổi. Đó chính là giáo dục vì sự phát triển bền vững.
Giáo dục có vai trò quan trọng trong việc giúp người học hình thành hành vĩ và thái
độ cần thiết cho phát triển bền vững, đồng thời có được năng lực và hành động cụ thể
vì một xã hội bền vững cả về kinh tế, môi trường hoá; một lối sống hài hoà với việc
sử dụng bền vững và công bằng các nguồn lợi tài nguyên thiên nhiên cũng như chuẩn
bị cho cá nhân đổi phó với những khỏ khăn và thách thức, tăng cường khả năng thích
nghi. Giáo dục còn dạy cho người học biết tôn trọng và bảo vệ môi trường, chấp nhận

các phuơng thức sản xuất và các kiểu tiêu dùng lành mạnh, hài hoà giữa các nhu cầu
cơ bản trực tiếp với các quyền lợi dài hạn.
Giáo dục giúp người học hiểu được bản thân mình và những người khác, hiểu được
sợi dây gắn kết giữa con người với môi trường tự nhiên - xã hội rộng lớn, thúc đẩy
phát triển bền vững và nâng cao khả năng giải quyết các vấn đề liên quan đến môi
trường và phát triển.
Giáo dục vì phát triển bền vững “mở ra cho tất cả mọi người cơ hội giáo dục, cho
phép họ tiếp thu được các tri thúc và giá trị cũng như học được các phương pháp
hành động và phong cách sống cần thiết cho một tương lai bền vững và sự thay đổi
xã hội một cách tích cực" (UNESCO, 2005).
Định hướng tại giáo dục vì một tương lai bền vững
Trước những khó khăn trong tìm kiếm lối thoát thay thế cho sự phát triển hiện nay,
ông Jacques Delors – chủ tịch uỷ ban Giáo dục trong thế kỉ XXI của UNESCO đã chỉ
rõ các vai trò khác nhau của giáo dục. Ồng đặt câu hỏi: “Tại sao những thách thức to
lớn này không trở thành mối quan tâm trong các chính sách giáo dục?" “Điều cần
thiết ờ đây là tất cả mọi người cần có trách nhiệm quan tâm tới cả mục đích và công
cụ giáo dục... để xây dựng những phuơng thúc mà nhờ đó các chính sách giáo dục có
thể góp phần cải tạo thế giới tốt đẹp hơn, đóng góp vào quá trình phát triển con người
bền vững, tăng cường hiểu biết lẫn nhau và thực thi dân chủ.
7
Nếu thành công, giáo dục sẽ trở thành trung tâm của sự phát triển cá nhân, cộng đồng
và dân tộc. Giáo dục ho trợ giới tre phát triển năng lực; trở nên có trách nhiệm với
cuộc sống của bản thân; quan tâm đến gia đình, bạn bè, những người xung quanh;
làm việc hiệu quả và bền vững; đóng góp các lợi ích xã hội, vàn hoá và cộng đồng;


giảm thiểu các tác động tiêu cực từ lối sống cá nhân; phổi hợp với những người khác
để trở thành những công dân tích cực, có trách nhiệm với địa phương, đất nước và
toàn cầu.
Với tất cả các nội dung đó, các chuyên gia giáo dục đưa ra 5 trụ cột chính của giáo

dục là:
Học để biết: có kiến thức, giá trị và những kĩ năng để hiểu biết và tìm kiếm tri thúc
và kinh nghiệm.
Học để làm: có kiến thức, giá trị và những kĩ năng để chủ động tham gia vào công
việc sản xuất và giải tri.
Học để chung sống: có kiến thức, giá trị và những kĩ năng cho hoà bình cho hợp tác
cộng đồng giữa các nền văn hoá trên thế giới.
Học để tồn tại: có kiến thức, giá trị và những kĩ năng để có đuợc hạnh phúc cá nhân
và gia đình.
Học để thay đổi bản thân, thay đổi xã hội: có kiến thức, giá trị và những kĩ năng để
tự đánh giá bản thân trở thành công dân tích cực
Những ý tưởng giáo dục vì sự phát triển bền vững ban đầu được thể hiện trong
chương 36 của chương trình Nghị sự 21 với tên gọi “Tăng cường giáo dục, đào tạo và
nhận thức của cộng đồng', chương này chỉ ra vai trò của giáo dục trong quá trình tìm
kiếm một cách thức phát triển theo hướng tôn trọng và bảo vệ môi trường tự nhiên,
chú trọng tầm quan trọng của công tác định hướng và định hướng lai giáo dục nhằm
tôn vinh các giá trị và hành vi tôn trọng môi trường; đồng thời vạch ra đường lối thực
hiện công tác đó.
Thập kỉ Giáo dục vì phát triển bền vững 2005 - 2014 đuợc Liên hợp quốc chính thức
phát động tháng 3/2005 theo Nghị quyết 57/254 của Đại Hội đồng thông qua ngày
20/12/2002. Cam kết quốc tế lần này đặt giáo dục vào trung tâm, coi đó vừa là nền
tảng, vừa là phương thức hữu hiệu để triển khai các cam kết phát triển bền vững. Liên
hợp quốc cũng đã chỉ định UNESCO là cơ quan chịu trách nhiệm triển khai các hoạt
động của Thập kỉ và xây dựng một kế hoạch triển khai toàn cầu.
Mục đích chung của Thập kỉ là thúc đẩy giáo dục với vai trò là nền tảng cho một xã
hội bền vững hơn và lồng ghép nội dung của phát triển bền vững vào hệ thống giáo
dục ở tất cả các cấp nhằm khuyến khích sự thay đổi trong cách ứng xử để có đuợc
một tương lai bền vững cho tất cả mọi người. Mục đích của Thập kỉ này không chỉ là
quá trình hình thành và tăng cường nhận thức về phát triển bền vững cho mọi người
mà còn là cả quá trình biến đổi những nhận thức đó thành hành động cụ thể vì một

cuộc sống bền vững cả về kinh tế, môi trường và xã hội.
2/ Giáo dục vì sự phát triển bền vững đem lại lợi ích gì cho người dạy và người học?
Phản hồi: Giáo dục vì sự phát triển bên vững:
Giáo dục vì phát triển bền vững là một quan điểm giáo dục nhằm tăng cường trách
nhiệm của mọi người để tạo ra một tương lai bền vững. Giáo dục vì phát triển bền
vững là dành cho mọi người, ờ tát cả các lĩnh vực cuộc sống và trong mọi hoàn cảnh
giáo dục. Giáo dục vì phát triển bền vững liên kết sự tham gia của nhiều thành phần
8
và các đổi tác liên quan bao gồm cả các cơ quan truyền thông, các thành phần tư
nhân, áp dụng tất cả hình thái và phương pháp nâng cao nhận thức cộng đồng, giáo
dục và đào tạo nhằm tăng cường một sự hiểu biết sâu sắc và rộng lớn hơn về phát
triển bền vững.


“Mục tiêu cuối cùng của Thập kỉ đó là giáo dục vì sự phát triển bền vững không chỉ
là một khẩu hiệu. Nó phải là một thục tiến cụ thể đổi với tất cả chúng ta- mỗi cá nhân,
tổ chức, chính phủ- trong tất cả các quyết định và hành động hằng ngày của chúng ta,
với mục đích hứa hẹn một hành tinh bền vững và một thế giới an bình hơn cho con
cái của chúng ta, cháu chắt của chúng ta và những thế hệ kế cận sau này'. Các nguyên
tắc của phát triển bền vững phải có mặt trong trường học của trẻ em, trong giáo dục
đại học và sau đại học, trong giáo dục không chính quy và trong các hoạt động học
tập dựa vào cộng đồng. Điều này có nghĩa là giáo dục sẽ phải thay đổi để có thể nêu
lên và giải quyết những vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và môi trường mà chúng ta
đang đối mặt trong thế kỉ XXI".
(Trích phát biểu của Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO trong lễ phát
động Thập kỉ Giáo dục vì sự phát triển bền vững tại New York ngay 1/3/2005).
Để đạt được những mục tiêu này, giáo dục vì sự phát triển bền vững phải kết hợp một
số lĩnh vực như giáo dục về môi trường, giáo dục toàn cầu, giáo dục kinh tế, giáo dục
phát triển, giáo dục đa dạng vân hoá, giáo dục bảo tồn, giáo dục ngoài trời, giáo dục
về sự thay đổi toàn cầu và các lĩnh vực khác. Giáo dục vì sự phát triển bền vững có

phạm vi rất rộng và bao hàm nhiều khía cạnh các lĩnh vực đã được hình thành và rất
bổ ích trên. Giáo dục vì sự phát triển bền vững hàm chứa nhiều nội dung từ các môn
học truyền thống như giáo dục công dân, khoa học, địa lí và các môn khác". (Nguồn:
Second Nature)
Giáo viên và nhà trường có đóng góp đặc biệt cho giáo dục vì sự phát triển bền vững,
đẩy mạnh các mục tiêu giáo dục thông qua việc lụa chọn các nội dung và phưong
pháp để dạy học sinh. Nội dung lụa chọn để dạy sẽ ảnh hướng đến kiến thúc được
tiếp thu của học sinh. Các phương pháp dạy - họcsẽ quyết định sẽ phát triển các kĩ
năng và thái độ của học sinh.
Tóm lại: Giáo dục vì sự phát triển bền vững là quá trình học tập suốt đời hướng tới
việc công dân có kiến thức và trách nhiệm, có khả năng giải quyết vấn đề một cách
sáng tạo, có hiểu biết về khoa học và xã hội, cam kết thực hiện các hành động cá
nhân và hợp tác có trách nhiệm. Những hành động này sẽ đảm bảo một tương lai có
kinh tế thịnh vương và môi trường trong lành. Giáo dục vi sự phát triển bền vững trở
thành một công cụ để kết nối tốt hơn giữa trường học với doanh nghiệp, giữa nhà
trường với cộng đồng. (Nguồn: Second Nature -An educational năm 1974)
Giáo dục vì sự phát triển bền vững là một nền giáo dục đẩy mạnh quá trình giải thích
và thông hiểu ý nghĩa của phát triển bền vững. Quá trình này khuyến khích người học
chủ động cam kết với những mục tiêu bền vững để xây dựng một nếp sống biết cách
tiêu dùng các nguồn lực một cách công bằng và lâu bền. Điều này rất khác với khái
niệm giáo dục môi trường, vì bất cứ chủ đề nào của cuộc sống cũng có thể trú thành
nguồn dẫn để tiến hành giáo dục phát triển bền vững. Trong khi đó, giáo dục môi
trường thường bỏ qua sự tích hợp và thống nhất của các hệ thổng xã hội và tự nhiên.
vì thế, mục tiêu của giáo dục phát triển bền vững là nâng tư duy và cảm xúc của con
người lên một tầm cao mới - tầm mức của tư duy có hệ thống và mang tính hợp tác.
9
“Nghĩ toàn cầu, hành động cục bộ" (Think Globally; Act Locativi - Đó chính là chiến
lược cho một ý thức và nếp sống vì sự phát triển bền vững. Quá trình giáo dục nếp
sống này đòi hỏi mỗi người học là một chuyên gia dựphòng cho tương lai, là một



công dân có trách nhiệm và là một nhân tố tham gia toàn diện vào quá trình sống và
phát triển của cộng đồng toàn cầu.
3/ Giáo dục vì sự phát triển bền vững khác gì với giáo dục thông thường?
Liên Hiệp Quốc đã công bố 2005 – 2015 là thập kỷ của nền giáo dục vì sự Phát triển
bền vững (Education for Sustainable Development), gọi tắt là Giáo dục bền vững
(GDBV) (Sustainability Education). GDBV được định nghĩa là quá trình học dẫn đến
kết quả là hình thành nơi người học khả năng giải quyết vấn đề, trình độ hiểu biết về
khoa học và xã hội và những hành động hợp tác cần thiết để đảm bảo cho một xã hội
công bằng, thịnh vượng và môi trường trong lành (PCSD,1999). Năm 2003,
UNESCO được đề cử điều hành thập kỉ Giáo dục vì sự Phát triển bền vững (Decade
of Education for Sustainable Development-DESD). ESD muốn phá bỏ lối giáo dục
truyền thống như: học theo môn học và ủng hộ lối học kết hợp liên ngành trong
GDBV ; học theo giá trị; học có tư duy chứ không học thuộc lòng; tiếp cận đa
phương pháp, đa hình thức: thơ, kịch, vẽ, tranh luận…; tham gia vào việc ra quyết
định; tiếp cận thông tin địa phương phù hợp vẫn hơn thông tin cấp quốc gia (Unesco,
2003).
Chúng ta cũng đã biết Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu hiện tại
nhưng không phá hủy khả năng đáp ứng nhu cầu cho các thế hệ tương lai.
Trong nhiều năm qua, giáo dục Môi trường (GDMT) đã được ngành giáo dục nước ta
quan tâm và mong muốn lồng ghép vào các môn học ở bậc phổ thông. Tuy nhiên việc
thực hiện lồng ghép GDMT qua các môn học ở bậc phổ thông nói trên chưa trở thành
phổ biến; ngoài ra, GDMT ở nước ta hiện nay cũng còn nặng về “GD về MT”, trong
khi nguyên tắc “GD vì MT và trong MT” chưa được quan tâm đầy đủ. Hơn nữa, bên
cạnh GDMT, thì Giáo dục bền vững (GDBV) cũng đang trở thành một yêu cầu cấp
thiết, đặc biệt trong tình hình nước ta đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá và
hiện đại hóa; Cũng như quá trình đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ và sự phân hoá
giàu nghèo ngày càng trở nên sâu sắc. Tuy nhiên, cho đến nay thì những hoạt động
này ở nước ta cũng như tại TP HCM cũng còn rất hiếm hoi.
Như vậy GDMT và GDBV cùng có những tính chất giống nhau như bảo vệ Môi

trường, nâng cao chất lượng cuộc sống và ổn định xã hội; đồng thời lại có những
điểm khác biệt như: GDBV chú trọng đến việc sử dụng tài nguyên một cách khôn
ngoan để không gây tai hại cho các thế hệ tương lai chứ không chỉ chú ý đến những
tác động tiêu cực trên MT. Ngoài ra GDBV còn nhấn mạnh đến thể chế chính trị và
kinh tế, ví dụ: chất lượng cuộc sống, dân chủ, an sinh toàn cầu (NCSE,2003).
Một trường học bền vững chính là trường đặt trọng tâm trên việc học hỏi từ cộng
đồng (Henderson, K. & Tilbury, 2004), trong đó, trẻ con, người lớn và cộng đồng
giao lưu và học hỏi cùng nhau. Vì vậy Giáo dục vì sự bền vững khác với GDMT
truyền thống ở chỗ nhấn mạnh đến những vấn đề xã hội phức tạp và đòi hỏi công dân
phải có các kỹ năng tư duy phê phán, kỹ năng hợp tác, tham gia và hành động
(Henderson, K. & Tilbury, 2004).
3/ Ở Việt Nam đã có những chương trình và hoạt động giáo dục vì sự phát triển bền
10
vững nào?
Trả lời: Trên bình diện toàn thế giới hay tại mỗi khu vực và ở mỗi quốc gia xuất hiện
biết bao vấn đề bức xúc lại mang tính phổ biến. Kinh tế càng tăng trưởng thì tình
trạng khan hiếm các loại nguyên liệu, năng lượng do sự cạn kiệt các nguồn tài nguyên


không tái tạo được ngày càng tăng thêm, môi trường thiên nhiên càng bị hủy hoại,
cân bằng sinh thái bị phá vỡ, dẫn tới sự trả thù của thiên nhiên gây ra những thiên tai
vô cùng thảm khốc.
Đó là sự tăng trưởng kinh tế không cùng nhịp với tiến bộ và phát triển xã hội, đôi khi
ngược chiều với phát triển xã hội. Cụ thể là, có tăng trưởng kinh tế nhưng không có
tiến bộ và công bằng xã hội; tăng trưởng kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, đô thị
hóa, dẫn tới làm méo mó nông thôn; tăng trưởng kinh tế nhưng thu nhập của người
lao động không tăng; tăng trưởng kinh tế nhưng văn hóa, đạo đức bị suy đồi; tăng
trưởng kinh tế lại làm dãn cách hơn sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội, dẫn tới sự
bất ổn trong xã hội và điều này đã trở thành một trong những vấn đề nóng bỏng ở
nhiều quốc gia. Vậy nên, quá trình phát triển có sự điều tiết hài hòa giữa tăng trưởng

kinh tế với bảo đảm bình ổn xã hội và bảo vệ môi trường đang trở thành yêu cầu bức
thiết đối với toàn thế giới.
Phát triển bền vững
Quan niệm về phát triển bền vững dần được hình thành từ thực tiễn đời sống xã hội
và có tính tất yếu. Tư duy về phát triển bền vững manh nha trong cả quá trình sản
xuất xã hội và bắt đầu từ việc nhìn nhận tầm quan trọng của bảo vệ môi trường và
tiếp đó là nhận ra sự cần thiết phải giải quyết những bất ổn trong xã hội. Chính vì thế,
năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh về Môi trường và Phát triển của Liên hợp quốc
được tổ chức ở Ri-ô đơ Gia-nê-rô đề ra Chương trình nghị sự toàn cầu cho thế kỷ
XXI, theo đó, phát triển bền vững được xác định là: “Một sự phát triển thỏa mãn
những nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm hại đến khả năng đáp ứng những
nhu cầu của thế hệ tương lai”. Theo đó, ba trụ cột phát triển bền vững được xác định
là: Thứ nhất, bền vững về mặt kinh tế, hay phát triển kinh tế bền vững là phát triển
nhanh và an toàn, chất lượng; Thứ hai, bền vững về mặt xã hội là công bằng xã hội và
phát triển con người, chỉ số phát triển con người (HDI) là tiêu chí cao nhất về phát
triển xã hội, bao gồm: thu nhập bình quân đầu người; trình độ dân trí, giáo dục, sức
khỏe, tuổi thọ, mức hưởng thụ về văn hóa, văn minh; Thứ ba, bền vững về sinh thái
môi trường là khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường
và cải thiện chất lượng môi trường sống.
Cho tới nay, quan niệm về phát triển bền vững trên bình diện quốc tế có được sự
thống nhất chung và mục tiêu để thực hiện phát triển bền vững trở thành mục tiêu
thiên niên kỷ.
Ở Việt Nam, chủ đề phát triển bền vững cũng đã được chú ý nhiều trong giới nghiên
cứu cũng như những nhà hoạch định đường lối, chính sách. Quan niệm về phát triển
bền vững thường được tiếp cận theo hai khía cạnh:
Một là, phát triển bền vững là phát triển trong mối quan hệ duy trì những giá trị môi
trường sống, coi giá trị môi trường sinh thái là một trong những yếu tố cấu thành
những giá trị cao nhất cần đạt tới của sự phát triển.
Hai là, phát triển bền vững là sự phát triển dài hạn, cho hôm nay và cho mai sau; phát
triển hôm nay không làm ảnh hưởng tới mai sau.

11
Trong mục 4, Điều 3, Luật Bảo vệ môi trường, phát triển bền vững được định nghĩa:
“Phát triển bền vững là phát triển đáp ứng được nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không
làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu đó của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết
hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, bảo đảm tiến bộ xã hội và bảo vệ môi


trường”. Đây là định nghĩa có tính tổng quát, nêu bật những yêu cầu và mục tiêu
trọng yếu nhất của phát triển bền vững, phù hợp với điều kiện và tình hình ở Việt
Nam.
Từ nội hàm khái niệm phát triển bền vững, rõ ràng là, để đạt được mục tiêu phát triển
bền vững cần giải quyết hàng loạt các vấn đề thuộc ba lĩnh vực là kinh tế, xã hội và
môi trường.
Thứ nhất, bền vững kinh tế. Mỗi nền kinh tế được coi là bền vững cần đạt được
những yêu cầu sau:
- Có tăng trưởng GDP và GDP đầu người đạt mức cao. Nước phát triển có thu nhập
cao vẫn phải giữ nhịp độ tăng trưởng, nước càng nghèo có thu nhập thấp càng phải
tăng trưởng mức độ cao. Các nước đang phát triển trong điều kiện hiện nay cần tăng
trưởng GDP vào khoảng 5%/năm thì mới có thể xem có biểu hiện phát triển bền vững
về kinh tế.
- Trường hợp có tăng trưởng GDP cao nhưng mức GDP bình quân đầu người thấp thì
vẫn coi là chưa đạt yêu cầu phát triển bền vững.
- Cơ cấu GDP cũng là vấn đề cần xem xét. Chỉ khi tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ
trong GDP cao hơn nông nghiệp thì tăng trưởng mới có thể đạt được bền vững.
- Tăng trưởng kinh tế phải là tăng trưởng có hiệu quả cao, không chấp nhận tăng
trưởng bằng mọi giá.
Thứ hai, bền vững về xã hội. Tính bền vững về phát triển xã hội ở mỗi quốc gia được
đánh giá bằng các tiêu chí, như HDI, hệ số bình đẳng thu nhập, các chỉ tiêu về giáo
dục, y tế, phúc lợi xã hội, hưởng thụ văn hóa. Ngoài ra, bền vững về xã hội là sự bảo
đảm đời sống xã hội hài hòa; có sự bình đẳng giữa các giai tầng trong xã hội, bình

đẳng giới; mức độ chênh lệch giàu nghèo không cao quá và có xu hướng gần lại;
chênh lệch đời sống giữa các vùng miền không lớn.
Thứ ba, bền vững về môi trường. Quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển
nông nghiệp, du lịch; quá trình đô thị hóa, xây dựng nông thôn mới,... đều tác động
đến môi trường và gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường, điều kiện tự nhiên. Bền
vững về môi trường là khi sử dụng các yếu tố tự nhiên đó, chất lượng môi trường
sống của con người phải được bảo đảm. Đó là bảo đảm sự trong sạch về không khí,
nước, đất, không gian địa lý, cảnh quan. Chất lượng của các yếu tố trên luôn cần
được coi trọng và thường xuyên được đánh giá kiểm định theo những tiêu chuẩn quốc
gia hoặc quốc tế.
Chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam và những kết quả ban đầu
Bắt nhịp bước đi của thời đại, Đảng và Chính phủ đã sớm nhận thức tầm quan trọng
của phát triển bền vững. Ngày 25-6-1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 36-CT/TW về
tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước. Trong các văn kiện Đại hội IX, X, và đặc biệt là văn kiện Đại hội XI của
Đảng, quan điểm phát triển bền vững càng được chú trọng hơn và nhấn mạnh nhiều
lần trên nhiều góc độ tiếp cận. Để chỉ đạo thực hiện thành công Chiến lược phát triển
kinh tế - xã hội 2011-2020, Đảng ta đã đưa ra 5 quan điểm phát triển, trong đó, quan
12
điểm đầu tiên là: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, phát triển bền
vững là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược”.
Thực hiện quan điểm của Đảng, căn cứ vào Chương trình hành động thế kỷ XXI của


quốc tế, ngày 17-8-2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số
154/2004/QĐ-TTg “Định hướng chiến lược phát triển bền vững ở Việt Nam” (còn
gọi là Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam). Định hướng chiến lược phát triển bền
vững ở Việt Nam nêu bật những vấn đề đang đặt ra trong ba lĩnh vực kinh tế, xã hội
và môi trường, những thách thức mà nước ta đang phải đối phó. Chiến lược đã tạo lập
mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường; đã xác định

khung thời gian để thực hiện và gắn trách nhiệm của các ngành, các địa phương, các
tổ chức và các nhóm xã hội; đã tính tới việc sử dụng các nguồn lực tổng hợp để thực
hiện chiến lược. Chính phủ cũng đã thành lập Hội đồng phát triển bền vững quốc gia
để chỉ đạo, giám sát việc thực hiện các mục tiêu đã đề ra.
Mặc dù việc triển khai tổ chức thực hiện Chiến lược phát triển bền vững chưa lâu
nhưng chúng ta đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho
các bước tiếp theo. Có thể nêu một số nét nổi bật.
Lĩnh vực kinh tế: Tính từ năm 2006 đến hết năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh
tế bình quân 6 năm đạt gần 7%; năm 2012, GDP tăng 5,03%, GDP bình quân đầu
người đạt 1.540 USD. Cơ cấu kinh tế cũng có những bước tiến triển tích cực, tỷ trọng
công nghiệp và dịch vụ trong cơ cấu GDP ngày càng tăng, khu vực nông nghiệp
trong cơ cấu GDP ngày càng giảm. An ninh lương thực được bảo đảm. Những thành
tựu đạt được trong lĩnh vực kinh tế đã góp phần tích cực vào việc phát triển bền vững
các lĩnh vực khác.
Lĩnh vực xã hội đạt một số chuyển biến tích cực. Đó là sự nghiệp giáo dục có bước
phát triển, chi ngân sách nhà nước cho giáo dục, đào tạo đạt tới 20% tổng chi ngân
sách; đến năm 2011, tất cả các tỉnh, thành phố đã đạt chuẩn giáo dục trung học cơ sở.
Việc giải quyết việc làm đạt kết quả tích cực: trong 6 năm (2006 - 2011), đã giải
quyết được việc làm cho hơn 9 triệu lao động. Năm 2012 đã tạo việc làm mới cho
hơn 1,5 triệu người; năm 2013, phấn đấu tạo việc làm cho 1,6 triệu người; tuyển mới
dạy nghề cho 1,9 triệu người; thực hiện chiến lược dạy nghề gắn với tạo việc làm.
Năm 2012, tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị là 3,53%, ở khu vực nông thôn là 1,55%.
Công tác xóa đói, giảm nghèo có nhiều tiến bộ, tỷ lệ hộ nghèo giảm còn 9,6% và đến
cuối năm 2013 ước còn 7,6%. Năm 2012, Việt Nam xếp thứ 127 trên tổng số 187
nước và vùng lãnh thổ về HDI và được xếp vào nhóm có tốc độ tăng chỉ số HDI cao.
Việt Nam hoàn thành 6/8 nhóm Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDG) do Liên hợp quốc đặt
ra cho các nước đang phát triển đến năm 2015.
Lĩnh vực môi trường trong những năm qua đã được chú trọng hơn. Việc bảo vệ tài
nguyên, môi trường đã đi vào nền nếp. Bằng những chính sách hợp lý, các giải pháp
quyết liệt, vấn đề bảo vệ môi trường sống, chống ô nhiễm các nguồn nước, không khí

đã được tất cả các địa phương, các ngành và các tầng lớp nhân dân đồng thuận và
cùng tham gia. Công tác trồng rừng, bảo vệ rừng được quan tâm hơn nên tình trạng
cháy và chặt phá rừng đã giảm đi.
Những vấn đề đặt ra và ba khâu đột phá:
Có thể thấy rõ rằng, trong những năm qua, chúng ta đã triển khai và thực hiện khá
13
thành công một số nhiệm vụ để hướng tới phát triển bền vững. Tuy nhiên, những
thành tựu và tiến bộ đã đạt được chưa tương xứng với tiềm năng của đất nước. Trình
độ phát triển kinh tế còn thấp so với các nước trên thế giới và ngay cả một số nước
trong khu vực. Xem xét ở ba khía cạnh để tăng trưởng bền vững là: kinh tế, xã hội và


môi trường để thấy rõ còn nhiều vấn đề đặt ra cần được giải quyết.
Thứ nhất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung vẫn còn yếu. Tích lũy
nội bộ còn thấp; tăng trưởng kinh tế có bước chững lại, thấp hơn mức tăng của những
năm trước do di chứng của cuộc khủng hoảng tài chính, suy thoái kinh tế toàn cầu.
Đầu tư của Nhà nước hiệu quả thấp, còn thất thoát và lãng phí. Tỷ lệ nợ công so với
GDP của các năm 2010, 2011, 2012 lần lượt là: 56,8%, 54,9% và 55,6%. Đây là mức
nợ tương đối cao. Cho dù tổng khối lượng nợ vẫn được coi là trong ngưỡng an toàn,
nhưng tiềm ẩn đằng sau đó là nhiều rủi ro.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng nhưng hiện tại chưa có chuyển biến đáng kể trong việc
đổi mới và phát triển các doanh nghiệp nhà nước. Kinh tế vĩ mô chưa thật ổn định,
còn những yếu tố thiếu vững chắc, các thành phần kinh tế chưa phát huy hết năng lực,
chưa thực sự được bình đẳng và yên tâm đầu tư kinh doanh. Cơ chế quản lý, chính
sách phân phối có mặt chưa hợp lý, chưa thúc đẩy tiết kiệm, tăng năng suất, kích
thích đầu tư phát triển. Hệ thống tài chính, ngân hàng đổi mới chậm, chất lượng hoạt
động hạn chế; môi trường đầu tư, kinh doanh còn một số vướng mắc, chưa tạo điều
kiện hỗ trợ tốt cho kinh tế phát triển...
Thứ hai, chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển, nhất
là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế, chưa chuyển mạnh sang đào

tạo theo nhu cầu xã hội. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học còn lạc
hậu, chậm đổi mới; cơ cấu đào tạo không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề.
Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Quản lý văn hóa còn bất
cập; môi trường văn hóa bị xâm hại, thiếu lành mạnh; các tệ nạn xã hội và sự xâm
nhập của các sản phẩm và dịch vụ độc hại làm suy đồi đạo đức, nhất là trong thanh,
thiếu niên ở mức đáng lo ngại.
Tình trạng thiếu việc làm còn cao. Chính sách tiền lương, thu nhập chưa động viên
được người lao động tận tâm với công việc. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là
ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn, xóa đói, giảm nghèo chưa bền vững, tình
trạng tái nghèo cao. Khoảng cách chênh lệnh giàu - nghèo còn khá lớn và ngày càng
giãn ra.
Chất lượng chăm sóc sức khỏe còn thấp, hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế
chưa đáp ứng được yêu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân. Vệ sinh an toàn thực
phẩm chưa được kiểm soát chặt chẽ.
Thứ ba, việc xây dựng pháp luật và chính sách bảo vệ môi trường còn thiếu và chậm,
thực hiện chưa nghiêm, hiệu lực, hiệu quả còn thấp. Môi trường ở nhiều nơi tiếp tục
xuống cấp, một số nơi đã tới mức báo động. Chưa có những giải pháp thực thi để đối
phó với sự biến đổi khí hậu; hậu quả thiên tai còn nặng nề; tình trạng chặt phá, cháy
rừng còn tiếp tục diễn ra. Ô nhiễm nguồn nước, đất, ô nhiễm không khí còn nghiêm
trọng ở một số nơi. Chưa huy động được nhiều nguồn lực để bảo vệ môi trường sinh
thái và môi trường sống của nhân dân.
Để giải quyết một cách căn bản và toàn diện những vấn đề đang đặt ra ở trên, Chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 đã xác định ba khâu đột phá mang tính
14
chiến lược, tạo tiền đề cấu trúc lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và
phát triển theo hướng bền vững. Thứ nhất, việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường
đồng bộ và hiện đại có tầm quan trọng đặc biệt. Có thể chế đầy đủ, các loại thị trường
sẽ phát triển mạnh với sức sống mới, được quản lý và giám sát tốt, môi trường cạnh



tranh lành mạnh sẽ làm cho việc phân bổ nguồn lực của đất nước cân bằng, tạo điều
kiện để tăng trưởng và phát triển kinh tế có hiệu quả cao. Hệ thống thể chế muốn có
chất lượng cao và hoạt động thực tiễn theo thể chế có hiệu quả, cần cải cách mạnh mẽ
nền hành chính quốc gia trên tất cả các nội dung về thể chế, tổ chức bộ máy, thủ tục
hành chính và tài chính công gắn với một hệ thống phân cấp hợp lý, hiệu quả, nâng
cao chất lượng quản trị công. Mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường cần được giải
quyết tốt theo hướng chuyển mạnh từ chỗ Nhà nước điều hành nền kinh tế sang Nhà
nước kiến tạo và phát triển. Chức năng của Nhà nước là xây dựng, quy hoạch phát
triển theo một chiến lược đúng đắn, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh và hội nhập
quốc tế, tăng cường giám sát và phát hiện các mất cân đối có thể xảy ra, bảo đảm ổn
định kinh tế vĩ mô và an toàn hệ thống; tập trung hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội
và phúc lợi xã hội, bảo đảm mọi người dân đều được hưởng thụ thành quả tăng
trưởng. Thứ hai, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực có chất
lượng cao; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng
khoa học, công nghệ. Đây là đột phá cội nguồn, quan trọng nhất để làm tăng sức
mạnh của quốc gia, tạo ra sức mạnh tổng hợp, có ảnh hưởng quyết định đến việc phát
triển kinh tế, ổn định xã hội và bảo vệ môi trường, phục vụ đắc lực cho chiến lược
phát triển bền vững. Điểm nhấn mới trong khâu đột phá này là đặt việc phát triển
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự gắn kết với việc phát
triển và ứng dụng khoa học, công nghệ. Chính điều này bảo đảm chuyển tiềm tăng trí
tuệ của nguồn nhân lực thành những thành quả ứng dụng và sáng tạo khoa học, công
nghệ - động lực then chốt của quá trình phát triển nhanh, bền vững. Thứ ba, kết cấu
hạ tầng là đường dẫn của sự phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện để phân bổ lực
lượng sản xuất, thúc đẩy lưu thông hàng hóa. Một hệ thống kết cấu hạ tầng phát triển
đồng bộ sẽ mở rộng không gian phát triển, kết nối các vùng kinh tế, làm tăng quy mô
sản xuất và tăng hiệu quả kinh tế. Để thực hiện tốt đột phá này, phải thay đổi cách
tiếp cận từ khâu quy hoạch, lựa chọn các ưu tiên đến phương thức huy động nguồn
lực và thủ tục triển khai các dự án.
Với những phân tích trên, có thể thấy, phát triển bền vững đã trở thành một phương
thức phát triển tổng hợp đa ngành, liên ngành, thành chương trình hành động với

nhiều tiêu chí ngày càng được cụ thể và rõ nét. Phát triển bền vững, vì vậy, mang tính
tất yếu và là mục tiêu cao đẹp nhất của quá trình phát triển./.
Nội dung 3: TÍCH HỢP PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG TRONG DẠY HỌC
Hoạt động 1: Tìm hiểu việc tích hợp phát triển bền vững vào dạy và học.
1/Có những cách nào để dạy và học về phát triển bền vững?
CÁC HÌNH THỨC TỔ CHỨC GIÁO DỤC BỀN VỮNG
1. GDBV qua môn học, qua các buổi hội thảo, tập huấn
Qua nhiều phân môn khác nhau (như “Con người và Môi trường”; “Dân số, ma tuý,
AIDS”; “Năng lượng”; “Lâm nghiệp”…), các kiến thức về phát triển bền vững,
những chỉ dẫn thực hiện cách sống bền vững trong đời sống hàng ngày trong vấn đề
15
sử dụng năng lượng, mua sắm, đi lại, rác thải và phế liệu, ,… được truyền đạt cho HS
dưới nhiều hình thức:
- Lồng ghép vào tiết học
- Lập các bảng thông tin hay các áp phích đặt gần hành lang, lối


đi trong trường
- Tổ chức hội thảo….
Khi lồng ghép vào tiết học, không chỉ đơn thuần GV trình bày, mà còn cần tổ chức
các hoạt động tích cực cho người học (thảo luận, tranh luận, thuyết trình, đóng vai,
…) hoặc SV tự tay sử dụng các dụng cụ đo đạc các chỉ số sử dụng năng lượng (ở các
nước tiên tiến SV được trang bị các dụng cụ đo đạc trong việc đánh giá tiết kiệm
năng lượng như đo ánh sáng-light meter, đo điện năng-watt meter, đo nhiệt độthermometer,…)
Hội thảo được tổ chức với sự hỗ trợ của các đơn vị sẽ có khả năng cung cấp miễn phí
các tài liệu cho người tham dự, không chỉ là các thông tin về chính những nội dung
trong buổi hội thảo, mà còn bao gồm cả những thông tin về bất cứ lĩnh vực nào của
phát triển bền vững.
2. Tổ chức sự kiện:
Sự kiện có thể được tổ chức vào một ngày đặc biệt: ngày Môi trường TG, ngày Đa

dạng sinh học TG,...Đặc điểm của hình thức này là huy động mọi người cùng tham
gia. Các hình thức tổ chức sự kiện như:
- Tổ chức một hội chợ với nhiều gian hàng của các khoa, lớp, trưng bày các thông tin,
các chỉ dẫn để sống bền vững hoặc bán các sản phẩm thân thiện với môi trường. Tuỳ
quy mô của hội chợ, có thể liên kết với các đơn vị kinh doanh sản xuất theo mô hình
bền vững (ví dụ đối với đơn vị sản xuất túi nylon tự hủy có thể phát miễn phí tại chỗ
cho người tham dự ).
- Tổ chức cuộc đi bộ (ví dụ đi bộ vì màu xanh của Trái đất); tổ chức cuộc chạy xe đạp
(kêu gọi tiết kiệm năng lượng và giảm khí thải gây hiệu ứng nhà kính)
3. Dự án, chiến dịch, cuộc thi:
Các dự án, cuộc thi cần vạch ra các mục tiêu cụ thể và kế hoạch để đạt được mục tiêu
một cách chi tiết, tỉ mỉ. Một Dự án thường tiến hành trong suốt học kì.
- Dự án có thể nhận được sự tài trợ (từ doanh nghiệp hay một tổ chức Môi trường)
thông qua một hợp đồng trong đó xác định rõ khi kết thúc dự án, người tham gia phải
hoàn thành những chỉ tiêu hợp đồng đề ra, ví dụ % số lượng điện đã tiết kiệm (giảm
tiêu thụ) được.
- Chiến dịch hành động cá nhân. Ví dụ “Chiến dịch 3-2-1” nhắm vào mục tiêu tiết
kiệm năng lượng và hạn chế rác thải. Cụ thể, mỗi cá nhân tham gia cam kết: Thực
hiện 3 hành động mỗi ngày như rút phích cắm điện ra khỏi ổ điện khi không sử dụng;
Tắt đèn khi không sử dụng; Nhặt phế liệu để tái chế (để bán ve chai); Thay thế 1
bóng đèn thông thường bằng một bóng đèn compact. Hoặc ví dụ khác: mang theo 2
túi đựng đồ khi đi mua sắm (không đi tay không, không dùng bao xốp). Bên cạnh các
hành động cá nhân, một số hoạt động khác huy động sự thi đua tập thể, sẽ góp phần
nâng cao nhận thức hữu hiệu hơn, như các chiến dịch giảm rác trong khuôn viên
trường (phòng làm việc, lớp học, kí túc xá, nhà ăn…). Quy mô chiến dịch có thể khác
nhau, nhưng cần có đánh giá, dựa trên các tiêu chí. Ví dụ: % lượng rác có thể tái chế
được; Số lượng phế liệu thu gom được; Lượng chất thải rắn/người ít nhất; Lượng rác
16
tái chế được lớn nhất
- Các nhóm sinh hoạt định kì, ví dụ câu lạc bộ sinh thái. Các thành viên của nhóm

họp mặt hàng tháng hay nửa tháng, để trao đổi tiến độ công tác. Hoạt động của câu
lạc bộ đa dạng, từ thu gom phế liệu; hoặc khảo sát tình hình sử dụng năng lượng


trong trường (ví dụ có bao nhiêu % các thiết bị năng lượng hiệu quả-energy
efficiency hoặc dán nhãn ngôi sao năng lượng -Energy Star); Đến thiết kế các tờ
bướm phát cho cộng đồng và gia đình mình.
4. Dạy cho HS cấp dưới:
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học giáo dục, ta biết rằng trong quá trình học, khả
năng lưu giữ thông tin được nhiều nhất là qua “dạy lại cho người khác” (90%) và kế
đến là “thu nhận kinh nghiệm bằng hành động” (75%). Do đó trong GDBV, việc tổ
chức chương trình ngoại khoá, trong đó người học lớp trên dạy lại cho cấp lớp dưới
không những giúp nâng cao kiến thức, nhận thức, kĩ năng cho người học mà còn giúp
họ hiểu biết sâu sắc hơn.
Trong việc tiếp cận với HS cấp 1,2 này, các SV có thể tiến hành nhiều hoạt động
phong phú, nhưng vẫn phải lấy HS làm trung tâm.
Người dạy (SV) có thể tổ chức các hoạt động như:
-Thuyết trình (SV)
-Trò chơi để lồng ghép giáo dục về nhận thức, thái độ đối với sự bền vững
-Thi đố về những kiến thức về PTBV
-Trình diễn: hát, vẽ, đóng kịch….
-Thảo luận, tranh luận ……..
5. Hành động vì cộng đồng:
Hoạt động này có thể tổ chức riêng hoặc kết hợp vào các chiến dịch của Trường,
Khoa, Đoàn TN. Ví dụ thu gom sách giáo khoa tặng cho HS một trường trung học ở
xã nghèo; thu gom các thiết bị, dụng cụ đồ gia dụng không cần đến (nhưng còn dùng
được) cho “ngày hội hàng cũ giá rẻ” vào dịp đầu năm học, chủ yếu cho các bạn ở khu
tập thể hoặc ở trọ. Hoặc góp phần cải thiện môi trường như vớt rác trên ao hồ, kênh
rạch. Ngoài ra, nhà ăn liên kết với các hộ nông dân sản xuất rau sạch để mua trực tiếp
các thực phẩm thân thiện môi trường, vừa giảm phí trung gian, vừa tăng thêm thu

nhập cho cộng đồng này.
6. Tham quan, thực địa:
Nghe và nhìn chiếm 25% khả năng lưu giữ thông tin trong quá trình dạy và học. Do
đó, người học cần được “mắt thấy, tai nghe” trực tiếp ngoài thiên nhiên hoặc cơ sở
sản xuất, dịch vụ.
Ở mỗi khoá học và mỗi ngành học, phân phối chương trình đều có thiết kế một học
phần tham quan thực tế cho SV. Để thúc đẩy GDBV, các khoa, bộ môn cần đưa vào
chuyến đi này những địa điểm điển hình về PTBV. Ví dụ tham quan nhà máy sản
xuất phân hữu cơ từ rác thải; nhà máy sản xuất thực phẩm từ nguồn thịt gia súc không
chứa các chất
độc hại (chất kích thích tăng trưởng, chất tăng trọng,….) hay nhà máy sản xuất các
tấm pa nô để tạo ra năng lượng từ Mặt Trời….;hoặc tìm hiểu các hộ nông dân với qui
trình sản xuất rau sạch; qui trình sản xuất và sử dụng biogas….
7. Thực hiện các mẫu hình Bền vững tại trường:
GDBV cho sinh viên cần thể hiện sự bền vững đó qua cơ sở vật chất của trường học
17
(trường học xanh, trường học thân thiện), ngoài ra nhân viên các phòng, ban… cần
được hướng dẫn cách tiết kiệm năng lượng và giảm rác thải khi sử dụng chúng (sử
dụng máy vi tính, máy in, máy chiếu, đèn, quạt, máy lạnh, giấy,…).
Để tiết kiệm năng lượng và sử dụng năng lượng hiệu quả, cần trang bị:


- Các máy móc, thiết bị có dán nhãn ngôi sao năng lượng, như: máy vi tính, máy
lạnh, máy chiếu, điện thoại…hoặc các máy móc đựơc cài đặt thiết bị kiểm soát điện
năng, bấm giờ ngắt điện (giúp sử dụng năng lượng ít hơn).
- Các thiết bị sử dụng nước trong nhà ăn, kí túc xá,…theo hướng tiết kiệm (ví dụ có
hệ thống hứng nước mưa, tưới nước nhỏ giọt, sử dụng vòi hoa sen, vòi nước với hệ
thống lỗ đục nhỏ hơn, ) hay các bóng đèn nên thiết kê` với điện năng vừa đủ (ví dụ 18
watt thay vì 26 watt).
- Hệ thống cửa sổ của các phòng bố trí sao cho đón được ánh sáng tự nhiên. Có khu

vực dành cho xe đạp…
- Có thùng rác 3 ngăn để phân loại rác tại nguồn.
- Sử dụng thực phẩm hữu cơ càng nhiều càng tốt; ….
Giáo viên cần có những kiến thức và kĩ năng nào để thúc đẩy giáo dục vì sự phát
triển bền vững?
Giáo viên cần linh hoạt và có kiến thức, kĩ năng tiếp cận và tổng hợp thông tin từ
nhiều nguồn và chuyên ngành khác nhau.
Để giải quyết các vấn đề xã hội, đòi hỏi có thông tin đầu vào từ nhiều môn học hoặc
chuyên ngành. Giống như việc bên ngoài lớp học, nhiều chuyên gia cần làm việc
chung với nhau để giải quyết các vấn đề trên thế giới thì trong lớp học, các môn học
cũng không nên bị tách rời một cách không cần thiết.
Hoạt động 2: Tổng kết
Việc lồng ghép nội dung giáo dục vì phát triển bền vững vào giáo dục đòi hỏi nhà
trường phải có một chính sách toàn diện và sự hợp tác của tất cả các giáo viên trong
trường, cũng như của sinh viên, phụ huynh và cộng đồng rộng lớn bên ngoài.
Đối với Việt Nam, quan điểm PTBV đã được thể hiện xuyên suốt trong quá trình
thực hiện “Kế hoạch quốc gia về môi trường và phát triển bền vững giai đoạn 19912000” và cũng đã được khẳng định trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng và Nhà
nước về tăng cường bảo vệ môi trường trong thời đại công nghiệp hoá-hiện đại hoá.
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2001-2010 của Việt Nam đã đề ra mục
tiêu tổng quát của phát triển bền vững “nhằm đạt được một cuộc sống đầy đủ về vật
chất, giàu có về tinh thần và văn hoá, bình đẳng và thống nhất xã hội. Phát triển phải
được kết hợp một cách hài hoà, hợp lý và đồng bộ trên cả 3 phương diện, đó là phát
triển kinh tế, bình đẳng xã hội và bảo vệ môi sinh”. Để đạt được mục tiêu PTBV đã
được đề ra, Chính phủ đã ban hành “Định hướng Chiến lược Phát triển Bền vững ở
Việt Nam” (Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam) trong đó nhấn mạnh tầm quan
trọng của giáo dục “Con người là trung tâm của sự phát triển bền vững. Một trong
những nhiệm vụ quan trọng nhất là cải thiện hệ thống giáo dục và tăng cường nhận
thức về phát triển bền vững cho mọi người dân, mọi cộng đồng, doanh nghiệp, các tổ
chức và các cơ quan của Nhà nước ở tất cả các cấp”.
Hưởng ứng sáng kiến của Liên Hợp quốc về Thập kỷ GDPTBV (2005-2014), Uỷ ban

Thập kỷ Giáo dục vì Phát triển Bền vững của Việt Nam đã được thành lập theo quyết
18
định số 295/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 11 tháng 11 năm 2005. Việt
Nam đã xây dựng một Kế hoạch hành động quốc gia cho Thập kỷ GDPTBV (20052014) tập trung vào bảy chiến lược chính để thực hiện GDPTBV bao gồm: Định
hướng và xây dựng tầm nhìn; Đóng góp và làm chủ; Liên kết và hợp tác; Xây dựng


năng lực và đào tạo; Nghiên cứu và đổi mới; Công nghệ truyền thông và thông tin;
Theo dõi và đánh giá. Trong 5 năm đầu Thập kỷ, các hoạt động của Uỷ ban chủ yếu
tập trung vào việc nâng cao nhận thức về GDPTBV, thí điểm các sáng kiến và dự án
và tạo ra các quan hệ hợp tác mới. Việt Nam đã tham gia một số hoạt động quốc tế và
khu vực nhằm xây dựng năng lực cho các bên liên quan để triển khai thực hiện Kế
hoạch hành động. Các hoạt động của Uỷ ban đã có những kết quả đáng khích lệ:
Mạng lưới các trường liên kết UNESCO tại Việt Nam phát triển mạnh; Trung tâm
học tập cộng đồng đã phát triển mạnh và rộng khắp đất nước, đưa giáo dục không
chính quy trở thành một bộ phận trong hệ thống giáo dục của Việt Nam và bổ trợ cho
“Giáo dục cho mọi người”; Phát triển mạng lưới các khu Dự trữ Sinh quyển Thế giới
tại Việt Nam và gắn kết với GDPTBV.
Nhiều nội dung PTBV đã được đưa vào chương trình giảng dạy chính khoá hoặc
ngoại khóa ở tất cả các cấp học của Việt Nam. Các chính sách và chương trình hành
động quốc gia về kinh tế, xã hội, môi trường đã góp phần đưa các chủ đề như bình
đẳng giới, quyền trẻ em, HIV/AID, giáo dục môi trường, bảo vệ đa dạng sinh học,
quản lý và giảm nhẹ thiên tai, phòng chống tham nhũng, … vào các chương trình
giáo dục chính qui và phi chính qui cho tất cả các cấp và các đối tượng. Tại cấp quốc
gia, nhiều hoạt động tập trung vào việc xây dựng mạng lưới hợp tác nghiên cứu và
nâng cao năng lực triển khai các hoạt động GDPTBV. Tại cấp địa phương, nhiều
trường học và cộng đồng đã thực hiện những chương trình giáo dục đa dạng đem lại
kiến thức và kỹ năng thiết thực để giải quyết các vấn đề xã hội – môi trường tại cấp
cơ sở. Trong nửa đầu của Thập kỷ, giáo dục đã nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và
đóng góp tích cực vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, nhằm đáp

ứng yêu cầu tăng trưởng mọi mặt của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế và
toàn cầu hóa.
Bên cạnh những thành tựu kể trên, nửa đầu Thập kỷ về GDPTBV cũng chứng kiến
những thách thức to lớn đối với vai trò và chất lượng của giáo dục. Hệ thống giáo dục
đã có nhiều tiến bộ nhưng còn nặng về giáo dục lý thuyết, nội dung và phương pháp
giảng dạy chậm được đổi mới. Trong những năm qua, việc lồng ghép các chủ đề
PTBV như giáo dục môi trường trong trường học gặp nhiều khó khăn do chương
trình giáo dục đã quá tải. Tích hợp các chủ đề kinh tế môi trường xã hội vào giáo dục
đã góp phần mang lại kiến thức mới, nhưng chưa đem lại sự thay đổi cả về nhận thức
và hành vi. Mặc dù nhận được quan tâm và ủng hộ từ các tổ chức chính phủ, phi
chính phủ, các trường đại học sư phạm và viện, trung tâm nghiên cứu, việc triển khai
GDPTBV gặp nhiều thách thức về hợp tác và liên kết giữa các cơ quan ban ngành.
Trong giáo dục chưa xác định được mục tiêu, lộ trình, giải pháp để thực hiện
GDPTBV nên khi thực hiện thường thiếu đồng bộ và thiếu hệ thống. Nhận thức về vị
trí và vai trò của GDPTBV còn chưa đầy đủ từ các cấp ủy Đảng, tổ chức chính trị xã
hội đến các tổ chức chính quyền, trường học và người dân. Và việc triển khai
GDPTBV gặp nhiều hạn chế trong huy động nguồn lực, khó khăn về tài chính, cơ sở
19
kỹ thuật và phương tiện.
====================Hoàn thành Module 37=======================



×