Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Ưu nhược điểm của các loại hình công ty

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (118.02 KB, 11 trang )

DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN
1. Ưu điểm
Do là chủ sở hữu duy nhất của doanh nghiệp nên doanh nghiệp tư nhân hoàn toàn chủ động
trong việc quyết định các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Chế
độ trách nhiệm vô hạn của chủ doanh nghiệp tư nhân tạo sự tin tưởng cho đối tác, khách hàng
và giúp cho doanh nghiệp ít chịu sự ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật như các loại hình doanh
nghiệp khác.
2. Nhược điểm


Nếu chế độ sở hữu và chịu trách nhiệm như phân tích ở bên trên được coi là một ưu điểm
của DNTN thì nó cũng là một nhược điểm rất lớn của loại hình doanh nghiệp này. Việc
không có sự tách bạch về tài sản giữa chủ doanh nghiệp và doanh nghiệp dẫn đến khi có
rủi ro xảy ra, chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ phải chịu trách nhiệm vô hạn bằng toàn bộ tài
sản của mình và của cả DNTN chứ không chỉ giới hạn trong phạm vi số vốn góp vào
doanh nghiệp như ở loại hình công ty TNHH hoặc CTCP.



DNTN không có tư cách pháp nhân, điều này cũng là một nhược điểm khá lớn. Bởi
không phải nghiễm nhiên mà pháp luật lại trao tư cách pháp nhân cho một tổ chức để hoạt
động trên thực tế. Tư cách pháp nhân sẽ giúp cho doanh nghiệp tạo lòng tin trước khách
hàng khi giao dịch bởi nó có sự tách bạch về tài sản và khả năng chịu trách nhiệm cao
hơn khi có rủi ro xảy ra.



Về cách thức huy động vốn: Nếu như công ty Cổ phần có quyền phát hành cả cổ phiếu và
trái phiếu, công ty TNHH có quyền phát hành trái phiếu để huy động vốn (đây là lợi thế
của hai loại hình này) thì DNTN lại không được phát hành bất kỳ loại chứng khoán nào.
Chính quy định này đã hạn chế đi khả năng tài chính để mở rộng phạm vi kinh doanh của


DNTN khi khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp là có hạn. Bởi vậy, đây cũng là một quy
định gây bất lợi cho nhà đầu tư khi quyết định đầu tư vào loại hình này.

CÔNG TY CỔ PHẦN
1. Ưu điểm


Chế độ trách nhiệm của công ty cổ phần là trách nhiệm hữu hạn, các cổ đông chỉ chịu
trách nhiệm về nợ và các nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi vốn góp nên
mức độ rủi do của các cổ đông không cao;



Cơ cấu vốn của công ty cổ phần hết sức linh hoạt tạo điều kiện nhiều người cùng góp
vốn vào công ty;



Khả năng huy động vốn của công ty cổ phần rất cao thông qua việc phát hành cổ phần
chào bán hoặc cổ phiếu ra công chúng, đây là đặc điểm riêng có của công ty cổ phần;
1




Việc chuyển nhượng vốn trong công ty cổ phần là tương đối dễ dàng, do vậy phạm vi
đối tượng được tham gia công ty cổ phần là rất rộng, ngay cả các cán bộ công chức cũng
có quyền mua cổ phiếu của công ty cổ phần.

2. Nhược điểm



Việc quản lý và điều hành công ty cổ phần rất phức tạp do số lượng các cổ đông có
thể rất lớn, có nhiều người không hề quen biết nhau và thậm chí có thể có sự phân hóa
thành các nhóm cổ động đối kháng nhau về lợi ích;



Việc thành lập và quản lý công ty cổ phần cũng phức tạp hơn các loại hình công ty
khác do bị ràng buộc chặt chẽ bởi các quy định của pháp luật, đặc biệt về chế độ tài chính,
Kế toán.



Chủ sở hữu (thường và đa số) không trực tiếp tham gia vào hoạt động hàng ngày của
công ty đồng thời, loại hình công ty cổ phần cũng có nguy cơ dễ bị người khác, công ty
khác thôn tính.

CÔNG TY TNHH 1 THÀNH VIÊN
Lợi thế của công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là chủ sở hữu công ty có toàn quyền
quyết định mọi vấn đề liên quan đến hoạt động của công ty.
CÔNG TY TNHH HAI THÀNH VIÊN TRỞ LÊN
1. Ưu điểm


Do có tư cách pháp nhân nên các thành viên công ty chỉ trách nhiệm về các hoạt động
của công ty trong phạm vi số vốn góp vào công ty nên ít gây rủi ro cho người góp vốn;




Số lượng thành viên công ty trách nhiệm không nhiều và các thành viên thường là
người quen biết, tin cậy nhau, nên việc quản lý, điều hành công ty không quá phức tạp;



Chế độ chuyển nhượng vốn được điều chỉnh chặt chẽ nên nhà đầu tư dễ dàng kiểm
soát được việc thay đổi các thành viên, hạn chế sự thâm nhập của người lạ vào công ty.

2. Nhược điểm


Công ty trách nhiệm hữu hạn chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật hơn là doanh
nghiệp tư nhân hay công ty hợp danh;



Việc huy động vốn của công ty trách nhiệm hữu hạn bị hạn chế do không có quyền
phát hành cổ phiếu.



Chế độ trách nhiệm hữu hạn nên uy tín của công ty trước đối tác, bạn hàng cũng phần
nào bị ảnh hưởng

CÔNG TY HỢP DANH
2


1. Ưu điểm



Ưu điểm của công ty hợp danh là kết hợp được uy tín cá nhân của nhiều người (Các thành



viên công ty) để tạo dựng hình ảnh cho công ty.
Do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn của các thành viên hợp danh mà công ty hợp



danh dễ dàng tạo được sự tin cậy của các bạn hàng, đối tác kinh doanh.
Việc điều hành quản lý công ty không quá phức tạp do số lượng các thành viên ít và là
những người có uy tín, tuyệt đối tin tưởng nhau.

2. Nhược điểm


Hạn chế của công ty hợp danh là do chế độ liên đới chịu trách nhiệm vô hạn nên mức
độ rủi ro của các thành viên hợp danh là rất cao. Thông thường chỉ áp dụng với các



doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực chuyên môn như Công ty Luật
Hơn nữa, việc Luật Doanh nghiệp 2014 quy định công ty hợp danh có thể có cả thành
viên hợp danh và thành viên góp vốn (điều này có sự khác biệt với mô hình công ty
hợp danh trên thế giới) do đó, đã vô hình gây ra sự phức tạp trong cơ cấu quản lý,
quản trị điều hành, cũng như quyền và nghĩa vụ của các thành viên trong công ty. Đây
cũng là một điểm mà các nhà đầu tư cần lưu ý trước khi quyết định đầu tư vào loại
hình công ty này.


SO SÁNH SỰ KHÁC NHAU LUẬT DOANH NGHIỆP 2014-2005
Một là, tư duy mở khi luật chỉ quy định những vấn đề chung nhất, mang tính định hướng,
(thậm chí có nhiều điểm là gợi mở) về thành lập, tổ chức quản lý, tổ chức lại, giải thể và hoạt
động có liên quan của doanh nghiệp, về chi tiết thì nhường lại cho doanh nghiệp tự do, tự
nguyện, cam kết, thoả thuận theo các quy định của Pháp luật. Thay đổi này vô cùng quan
trọng, từ đó doanh nghiệp chủ động, sáng tạo hơn khi được tự lựa chọn các mô hình, phương
thức .v.v. phù hợp với hoạt động của mình.
Ví dụ như: Cho phép công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể có một hoặc nhiều
người đại diện theo pháp luật; cho phép công ty cổ phần có thể chọn một trong hai mô hình tổ
chức, quản lý; Cho phép lựa chọn cách bầu dồn phiếu hay không bầu dồn phiếu khi bầu thành
viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát công ty cổ phần .v.v.
Luật mới bỏ chương quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp, thay bằng một vài điều khoản
tại chương tổ chức thực hiện cũng theo tư duy như vậy, nghĩa là các cơ quan nhà nước quản

3


lý doanh nghiệp theo chức năng, nhiệm vụ quyền hạn đã được pháp luật chuyên ngành quy
định, do đó không phải và không cần ghi điều đó vào Luật Doanh nghiệp!

Hai là, đẩy mạnh việc ứng dụng công nghệ thông tin như việc luật hóa Cổng thông tin quốc
gia về đăng ký doanh nghiệp hay bằng việc quy định cuộc họp được ghi biên bản và có thể
ghi âm hoặc ghi và lưu giữ dưới hình thức điện tử khác đã có bước tiến bộ vượt bậc so với
quy định cũ là chỉ ghi vào sổ biên bản.
Luật cũng thống nhất cách hiểu về nhiều điểm mà từ trước tới nay gây nhiều tranh cãi như
việc chốt lại địa điểm họp được xác định là nơi chủ tọa tham dự họp, mọi người không nhất
thiết phải cùng ngồi họp một chỗ.
Ba là, luật hóa việc dùng mã số thuế làm mã số doanh nghiệp, chuyển đổi doanh nghiệp tư
nhân thành công ty TNHH, tăng cường việc bảo vệ cổ đông nhỏ (cổ đông, nhóm cổ đông sở
hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 06 tháng có quyền tự mình hoặc

nhân danh công ty khởi kiện...).
Bãi bỏ nhiều điều khoản đã được chứng minh là hiệu quả thực thi rất thấp, như việc đăng ký
danh sách cổ đông nắm giữ 5% vốn điều lệ công ty cổ phần, hoặc bãi bỏ việc gây cản trở cho
hoạt động của Doanh nghiệp như cấm một người đã làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) công ty
cổ phần không được làm Giám đốc (Tổng Giám đốc) Công ty khác.

Bốn là, Giấy Chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (CNĐKDN) chỉ còn 4 nội dung so với 10
nội dung trước đây (bỏ mục ngành nghề kinh doanh, danh sách cổ đông sáng lập, Chi nhánh,
Văn phòng dại diện, Địa điểm kinh doanh .v.v.)
Trong đó, điểm được nhận được sự quan tâm đặc biệt là bỏ ghi ngành nghề kinh doanh trong
Giấy CNĐKDN; bỏ việc xác định vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề .v.v. Điều này đã hiện
thực hóa quyền tự do kinh doanh tất cả ngành nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại
Hiến pháp, làm cho doanh nghiệp trở thành công cụ kinh doanh thực sự an toàn, đa công
năng và rẻ hơn .v.v.
Năm là, cách tiếp cận mới hoàn toàn về con dấu doanh nghiệp, mang tính "cách mạng".
Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh
nghiệp theo quy định của pháp luật. Thay vì phải đăng ký với cơ quan Công an như hiện nay,
4


Doanh nghiệp chỉ cần thông báo mẫu dấu với cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng tải công
khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Có lẽ đây là một trong những
điểm gây nhiều bàn cãi nhất ngay từ khâu soạn thảo và cả khi thông qua, tuy vậy việc này
chắc chắn sẽ giải quyết được rất nhiều vướng mắc, bất cập hiện nay về con dấu doanh
nghiệp.
Sáu là, cùng với Luật Đầu tư 2014, Luật mới đã chính thức bãi bỏ nội dung Giấy chứng nhận
đăng ký đầu tư có thể đồng thời là Giấy CNĐKDN. Qua đó, các nhà đầu tư nước ngoài muốn
thành lập doanh nghiệp tại Việt Nam đều phải được cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư sau
đó sẽ thành lập doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh nghiệp.
Bảy là, quy định các nguyên tắc để xác định, đăng ký vốn thực của công ty, giải quyết tình

trạng vốn không có thực (ảo) nhưng không thể xử lý được như hiện nay. Trong đó điểm mới
nhất là cho phép Công ty TNHH một thành viên được giảm vốn điều lệ.
Tám là, chính thức thay đổi theo đúng thông lệ quốc tế khi giảm tỷ lệ dự họp từ 65% (Luật
cũ) xuống còn 51%. Khi có số cổ đông dự họp đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết
là cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành. Đồng thời, Luật quy định về thành viên hội
đồng quản trị độc lập, không tham gia điều hành trực tiếp doanh nghiệp; Bãi bỏ việc Đại hội
đồng cổ đông bầu trực tiếp Chủ tịch hội đồng quản trị.

Chín là, không yêu cầu các công ty cùng loại mới được hợp nhất, sáp nhập, chia, tách đồng
thời quy định rõ ràng về quyền lợi, nghĩa vụ, trách nhiệm cũng như trình tự thủ tục, hồ sơ
.v.v. Đổi mới hết sức quan trọng này chắc chắn sẽ góp phần thúc đẩy thị trường mua bán
doanh nghiệp (M&A) đang hết sức sôi động như hiện nay.
Mười là, chỉ quy định 5 trường hợp bị thu hồi Giấy CNĐKDN so với 8 trường hợp của Luật
cũ. Đồng thời Luật mới cũng có các quy định nhằm giúp doanh nghiệp rút khỏi thị trường
thuận lợi hơn, nhanh hơn và rẻ hơn.
Đăng kí kinh doanh
Luật Doanh nghiệp 2014 với mục tiêu đưa doanh nghiệp trở thành công cụ kinh doanh rẻ hơn
và an toàn hơn nhằm hấp dẫn nhà đầu tư, tăng cường thu hút đầu tư và huy động tốt mọi
nguồn lực và vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh.

5


Trên cơ sở đó, Luật Doanh nghiệp 2014 đã tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp khi quy
định giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh không bắt buộc ghi ngành nghề kinh doanh; Tách
bạch giấy chứng nhận đầu tư và giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh; Bãi bỏ các yêu cầu và
điều kiện kinh doanh tại thời điểm đăng kí thành lập doanh nghiệp; Hài hoà thủ tục đăng kí
doanh nghiệp với thuế lao động, bảo hiểm xã hội; Doanh nghiệp tự quyết con dấu, nội dung
và hình thức con dấu; Doanh nghiệp có thể có nhiều hơn một người đại diện theo pháp luật.
Về vốn điều lệ và thời hạn góp vốn của công ty

Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định các nguyên tắc để xác định, đăng ký vốn thực góp
của công ty, giải quyết tình trạng vốn không có thực (ảo) nhưng không thể xử lý được như
hiện nay. Trong đó điểm mới nhất là cho phép Công ty TNHH một thành viên, công ty cổ
phần được giảm vốn điều lệ.
Theo đó, Công ty TNHH một thành viên, công ty cổ phần, công ty TNHH hai thành viên trở
lên nếu không góp đủ vốn điều lệ trong thời hạn quy định như đã cam kết khi đăng ký thành
lập doanh nghiệp thì được quyền đăng ký điều chỉnh giảm vốn bằng giá trị số vốn thực góp.
Trong trường hợp này, chủ sở hữu, thành viên, cổ đông chưa thanh toán hoặc chưa thanh toán
đủ vốn điều lệ đã đăng ký góp, số cổ phần đã đăng ký mua phải chịu trách nhiệm tương ứng
với tổng giá trị phần vốn góp, mệnh giá cổ phần đã đăng ký mua đối với các nghĩa vụ tài
chính của công ty phát sinh trong thời hạn cam kết góp.
Trong quá trình hoạt động doanh nghiệp cũng có thể điều chỉnh giảm vốn bằng cách hoàn trả
một phần vốn góp trong vốn điều lệ của Công ty theo các điều kiện quy định tại Luật Doanh
nghiệp năm 2014.
Luật Doanh nghiệp năm 2014 áp dụng thống nhất thời hạn phải thanh toán đủ phần vốn góp
khi thành lập công ty, quy định rút ngắn thời hạn góp vốn đối với chủ sở hữu, thành viên
công ty TNHH phải góp đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành lập doanh
nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
trong khi quy định hiện hành về thời hạn góp vốn tối đa đối với Công ty TNHH một thành
viên và hai thành viên trở lên là 36 tháng.
Mô hình quản trị công ty cổ phần
Theo đó trên thế giới có nhiều mô hình quản trị công ty cổ phần như: Mô hình hội đồng hai
cấp, mô hình hội đồng một cấp. Ở Việt Nam trước đó đã quản lý công ty cổ phần theo Luật
doanh nghiệp ban hành 2005. Theo đó, cấu trúc gồm: Đại hội đông Hội đồng quản trị, Giám
đốc/tổng giám đốc và ban kiểm soát.

6


Nhưng tới mô hình tổ chức quản trị theo Luật doanh nghiệp 2014 cấu trúc mô hình sẽ gồm

Đại hội đồng cổ đông, hội đồng quản trị (thành viên, thành viên độc lập), Giám đốc/tổng
giám đốc.
Quy trình ra quyết định của công ty
Chính thức thay đổi theo đúng thông lệ quốc tế khi giảm tỷ lệ dự họp từ 65% (Luật Doanh
nghiệp năm 2005) xuống còn 51%. Và các nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông được thông
qua khi được số cổ đông đại diện cho ít nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết của tất cả các cổ
đông dự họp tán thành (Luật Doanh nghiệp năm 2005 là 65%; trường họp thông qua nghị
quyết dưới hình thức lấy ý kiến bằng văn bản là ít nhất 75%).
Luật quy định về thành viên hội đồng quản trị độc lập, không tham gia điều hành trực tiếp
doanh nghiệp; Bãi bỏ việc Đại hội đồng cổ đông bầu trực tiếp Chủ tịch hội đồng quản trị.
Bảo vệ cổ đông
Luật Doanh nghiệp 2014 có quy định chi tiết về các cổ đông phổ thông và cổ đông ưu đãi
biểu quyết, cổ đông ưu đãi cổ tức. cổ đông ưuu đãi hoàn lại, cổ đông sáng lập.
Tổ chức lại, giải thể
Luật quy định rõ từng trường hợp bị giải thể và trình tự giải thể gồm các bước sau: phải có
quyết định giải thể doanh nghiệp trong đó nêu rõ lý do giải thể sau đó tiến hành thanh lý tài
sản, ưu tiên thanh toán nợ thuế.
Điểm mới trong quản lý doanh nghiệp nhà nước
Luật Doanh nghiệp 2014 bổ sung một chương hoàn toàn mới về doanh nghiệp nhà nước. Đây
là nội dung lâu nay chưa có luật nào quy định cụ thể. Trong đó, quy định về các lĩnh vực kinh
doanh của nhà nước. Ngoài ra luật còn quy định về cơ cấu tổ chức quản lý và hoạt động, công
bố thông tin định kỳ, công bố thông tin bất thường.
Bốn lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước được kinh doanh:
- Doanh nghiệp cung ứng sản phẩm, dịch vụ công ích thiết yếu cho xã hội.
- Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh.
- Doanh nghiệp hoạt dộng trong lĩnh vực độc quyền tự nhiên.
- Doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đầu tư lớn, tạo động lực cho sự phát triển các
ngành, lĩnh vực khác và nền kinh tế.
Tách riêng thủ tục thành lập doanh nghiệp với các thủ tục về đầu tư dự án
Luật Doanh nghiệp 2014 đã tách riêng thủ tục thành lập doanh nghiệp với các thủ tục về đầu

tư dự án, cũng như với các thủ tục có liên quan về cổ phần, cổ phiếu. Với nhà đầu tư nước
ngoài, Luật đã tách giấy chứng nhận thành lập doanh nghiệp và chứng nhận đầu tư. Luật cũng
tạo ra cơ hội lớn hơn về khả năng gia nhập thị trường, Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh
7


là hình thức để Nhà nước ghi nhận sự hình thành và việc gia nhập thị trường của doanh
nghiệp.
Tại thời điểm thành lập doanh nghiệp, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp chưa
phát sinh, do vậy Luật đã tách biệt rõ giữa thủ tục thành lập doanh nghiệp và thủ tục đăng ký
kinh doanh, điều kiện kinh doanh. Trước đây có một số ngành nghề không rõ ràng giữa thành
lập doanh nghiệp và kinh doanh có điều kiện, ví dụ như lĩnh vực y tế, bắt buộc cá nhân thành
lập doanh nghiệp thì giám đốc phải có chứng chỉ hành nghề. Nhưng theo Luật Doanh nghiệp
2014, cá nhân cứ thành lập doanh nghiệp, còn điều kiện về ngành nghề kinh doanh, cá nhân
phải tuân thủ mới được làm. Quy định đó tạo sự thân thiện hơn cho khởi nghiệp và kinh
doanh nói chung.
Bãi bỏ quy định đề nghị doanh nghiệp cung cấp mã ngành khi thực hiện đăng ký kinh
doanh
Luật Doanh nghiệp năm 2014 đã bỏ quy định về việc doanh nghiệp phải hoạt động kinh
doanh theo đúng ngành, nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, mà chỉ quy
định về việc đáp ứng đủ điều kiện kinh doanh khi kinh doanh những ngành nghề đầu tư kinh
doanh có điều kiện theo quy định của pháp luật và bảo đảm duy trì đủ điều kiện đầu tư kinh
doanh đó trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Theo Luật này, doanh nghiệp được tự
chủ kinh doanh và lựa chọn hình thức tổ chức kinh doanh; chủ động lựa chọn ngành, nghề,
địa bàn, hình thức kinh doanh; chủ động điều chỉnh quy mô và ngành, nghề kinh doanh.
Như vậy, quy định về đề nghị doanh nghiệp cung cấp mã ngành khi thực hiện đăng ký kinh
doanh đã bị bãi bỏ. Doanh nghiệp sẽ không bị hạn chế số lượng ngành nghề hoạt động kinh
doanh. Các công ty thương mại và phân phối sẽ không cần cung cấp hàng nghìn mã ngành
cho sản phẩm thương mại của mình như trước, kể cả những sản phẩm mà họ dự định kinh
doanh trong tương lai.

Cải cách quan trọng về con dấu
Theo quy định tại Điều 44 Luật Doanh nghiệp năm 2014: Doanh nghiệp có quyền quyết định
về hình thức, số lượng và nội dung con dấu doanh nghiệp. Và trước khi sử dụng con dấu,
doanh nghiệp có nghĩa vụ thông báo mẫu con dấu với Cơ quan đăng ký kinh doanh để đăng
tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp.
Như vậy, đây là cách tiếp cận mới hoàn toàn về con dấu doanh nghiệp, dù chưa thể bỏ hoàn
toàn việc sử dụng con dấu nhưng đã có bước cải cách lớn.
Trước đây việc cấp, sử dụng con dấu của doanh nghiệp do Bộ Công an quy định thì nay theo
Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp Doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số
lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Thay vì phải đăng
ký với cơ quan Công an như hiện nay, Doanh nghiệp chỉ cần thông báo mẫu dấu với cơ quan
8


đăng ký kinh doanh để đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh
nghiệp. Quy định này giúp doanh nghiệp đỡ phiền hà, tốn kém về chi phí, thời gian.
Theo xu hướng phát triển phương thức giao dịch điện tử, thì việc dùng con dấu sẽ không còn
ý nghĩa nữa. Vì vậy, việc cải cách về con dấu là hoàn toàn phù hợp với xu thế chung của thế
giới. Hiện nay, con dấu doanh nghiệp còn bị ràng buộc bởi nhiều quy định về giao dịch trong
một số bộ luật, nếu bỏ hoàn toàn sẽ phát sinh số lượng công việc rất lớn và có thể chưa đảm
bảo chặt chẽ trong quản lý.
Về Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc bản điện tử. Theo quy định tại Điều 29 Luật
Doanh nghiệp năm 2014 thì nội dung của Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp chỉ còn 4
nội dung chính: tên doanh nghiệp và mã số doanh nghiệp; địa chỉ trụ sở chính của doanh
nghiệp; thông tin chi tiết nhân thân của cá nhân là người đại diện theo pháp luật, chủ DNTN,
thành viên hợp danh, thành viên công ty và thông tin của thành viên tổ chức; vốn điều lệ của
doanh nghiệp.
Như vậy, trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (CNĐKDN) sẽ không có nội dung
ngành, nghề kinh doanh kinh doanh và danh sách cổ đông sáng lập (đối với Công ty cổ phần).

Điều này dẫn đến việc khi thay đổi ngành, nghề kinh doanh; thay đổi cổ đông sáng lập đối
với công ty cổ phần và cổ đông là nhà đầu tư nước ngoài, doanh nghiệp chỉ phải thông báo
với cơ quan đăng ký kinh doanh để được bổ sung trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp mà
không phải đăng ký thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh để được cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp mới như hiện nay (Điều 32 Luật Doanh nghiệp năm 2014). Như vậy,
mỗi khi Doanh nghiệp thay đổi, bổ sung ngành nghề kinh doanh; thay đổi cổ đông sáng lập
đối với công ty cổ phần, sẽ không mất thời gian và thủ tục để chờ cấp lại Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp.
Điều quan trọng hơn cả là việc bỏ ghi ngành nghề kinh doanh trong Giấy CNĐKDN; bỏ việc
xác định vốn pháp định, chứng chỉ hành nghề … Điều này đã hiện thực hóa quyền tự do kinh
doanh tất cả ngành nghề mà pháp luật không cấm theo quy định tại Hiến pháp, làm cho doanh
nghiệp trở thành công cụ kinh doanh thực sự an toàn, đa công năng và rẻ hơn…
Theo quy định tại Điều 33 Luật Doanh nghiệp: Sau khi được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp hoặc khi thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, doanh nghiệp phải công bố
công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Đây là điểm mới trong lần
sửa đổi này. Bởi theo quy định hiện nay, doanh nghiệp được lựa chọn phương thức công bố
như đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan đăng ký kinh doanh hoặc một trong
các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong 3 số liên tiếp.
Doanh nghiệp Nhà nước quy định mới hoàn toàn so với Luật Doanh nghiệp năm 2005
9


Khái niệm Doanh nghiệp nhà nước theo quy định tại Khoản 8 Điều 4 Luật Doanh nghiệp năm
2014 đã có sự thay đổi so với trước đây: thay vì quy định Doanh nghiệp nhà nước là doanh
nghiệp trong đó Nhà nước sở hữu trên 50% vốn điều lệ thì Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy
định: Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
Như vậy, doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, còn lại nên cổ
phần hóa hết để bình đẳng về địa vị, bình đẳng về cơ hội và bình đẳng về bảo hộ của Nhà
nước. Luật cũng sửa đổi một số nội dung mới về việc xác định rõ ràng hơn địa vị pháp lý tập
đoàn kinh tế, bổ sung quy định rõ hơn về hình thức công ty mẹ - công ty con; cấm các công

ty con trong cùng một nhóm công ty cùng nhau góp vốn, mua cổ phần để sở hữu chéo lẫn
nhau; bổ sung quy định nhằm minh bạch hóa cơ cấu và mối quan hệ giữa các công ty trong
tập đoàn kinh tế, như công khai điều lệ hoặc thỏa thuận về quy chế hoạt động chung tập đoàn.
Bên cạnh đó, Luật cũng sửa đổi một số nội dung liên quan đến việc bãi bỏ quy định hạn chế
sáp nhập, hợp nhất, chia, tách công ty đối với công ty cùng loại hình tổ chức. Cho phép các
công ty có cùng bản chất sở hữu có thể hợp nhất, sáp nhập, chia, tách, quy định rõ hơn và hợp
lý hơn trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp; thống nhất một đầu mối và tăng cường phối
hợp giữa các cơ quan đăng ký kinh doanh, thuế và công an trong giải quyết thủ tục giải thể
doanh nghiệp.
Về doanh nghiệp xã hội
Đây là một khái niệm mới được luật hóa quy định cụ thể tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm
2014. Doanh nghiệp xã hội không phải là một loại hình doanh nghiệp mà cũng giống như
doanh nghiệp thông thường khác được tổ chức và hoạt động theo một trong các loại hình
doanh nghiệp nhất định như: công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn…chỉ phân biệt ở
mục tiêu hoạt động và mục đích việc sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp.
Theo quy định tại Điều 10 Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì doanh nghiệp xã hội là doanh
nghiệp được đăng ký thành lập theo quy định của Luật này, mục tiêu hoạt động nhằm giải
quyết vấn đề xã hội, môi trường vì lợi ích cộng đồng và sử dụng ít nhất 51% tổng lợi nhuận
hằng năm của doanh nghiệp để tái đầu tư nhằm thực hiện mục tiêu xã hội, môi trường như đã
đăng ký. Ngoài các quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp theo quy định của Luật Doanh
nghiệp năm 2014, doanh nghiệp xã hội còn có một số quyền và nghĩa vụ quy định tại Khoản
2 Điều 10 Luật Doanh nghiệp.
Về vấn đề người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp
Theo Luật Doanh nghiệp sửa đổi, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp là cá nhân
đại diện cho doanh nghiệp thực hiện các quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch của doanh
nghiệp, đại diện cho doanh nghiệp với tư cách nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa

10



vụ liên quan trước Trọng tài, Tòa án và các quyền và nghĩa vụ khác theo quy định của pháp
luật. Công ty hoàn toàn có thể tự quyết định, chỉ định một người đại diện theo pháp luật.
Trường hợp cần thiết thì có quyền tự chủ quyết định việc có nhiều người đại diện theo pháp
luật; phạm vi quyền, nghĩa vụ của từng người đại diện phải được ghi rõ trong Điều lệ công ty.
Tùy từng nội dung giao dịch, người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp với thẩm quyền
tương ứng được quy định trong Điều lệ sẽ thực hiện giao dịch với các đối tác.
Không bắt buộc Phiếu lý lịch tư pháp trong Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 18 quy định: Trong một số trường hợp, khi đăng ký thành
lập doanh nghiệp, Cơ quan Đăng ký kinh doanh có thể yêu cầu người đăng ký thành lập
doanh nghiệp phải nộp Phiếu lý lịch tư pháp cho Cơ quan đăng ký kinh doanh. Đây là quy
định mới của Luật Doanh nghiệp năm 2014. Tuy nhiên, về cơ bản phiếu lý lịch tư pháp không
phải là tài liệu bắt buộc trong Hồ sơ đăng ký thành lập doanh nghiệp bởi nếu bắt buộc sẽ làm
tăng thêm thời gian thành lập doanh nghiệp tạo ra gánh nặng chi phí tuân thủ rất lớn cho cả
cơ quan nhà nước và doanh nghiệp, sẽ có tác động không thuận lợi cho môi trường đầu tư,
kinh doanh ở nước ta.

11



×