LỜI MỞ ĐẦU
Tồn cầu hóa nền kinh tế là q trình phổ biến theo hướng nhất thể hóa trên phạm vi
toàn cầu những giá trị, tri thức, những hoạt động những mơ hình cấu trúc trong lĩnh vực
kinh tế và khoa học kĩ thuật. Chính vì thế việc phát triển quan hệ thương mại quốc tế là rất
quan trọng đối với bất kì quốc gia nào. Trong đó các nước đang phát triển tham gia với
động lực là mở rộng thị trường xuất khẩu tạo mối liên kết giữa các quốc gia, khu vực với
nhiều hình thức phong phú và hiệu quả. Và cho đến nay một số quốc gia đang phát triển đã
có tiến bộ vượt bậc như: Ở Đơng Nam Á có Thái Lan, Malayxia, Singapo đã chuyển mạnh
sang hướng xuất khẩu và có thành quả tốt. Tận dụng những lợi thế của mình về lao động và
nguồn tài nguyên phong phú, việc tham gia thương mại quốc tế giúp cho các nước đang
phát triển có nhiều cơ hội việc làm, nâng cao mức sống dân cư và cịn có cơ hội hội nhập
vào thị trường tài chính tồn cầu. Để phân tích những lợi thế này nhóm em xin đưa ra đề tài
nguyên cứu: ‘‘So sánh sự khác nhau trong nội dung của các khái niệm lợi thế trong
thương mại quốc tế. Theo các dấu hiệu lợi thế, hãy phân tích nội dung quan hệ thương
mại của các nước đang phát triển với các nước phát triển. Bình luận về hiệu ứng (trước
mắt và lâu dài) của mối quan hệ thương mại này đối với các nước đang phát triển’’
nhằm có cái nhìn đúng đắn về mối quan hệ này từ đó có thể đưa ra các giải pháp phù hợp để
phát triển thương mại quốc tế tại các nước đang phát triển.
1
1. So sánh sự khác nhau trong nội dung của các khái niệm lợi thế trong thương mại
quốc tế
1.1 Các khái niệm lợi thế
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
Lợi thế tuyệt đối là lợi thế đạt được trong trao đổi thương mại quốc tế khi mỗi quốc gia
tập trung chuyên mơn hố vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có mức chi phí sản xuất
thấp hơn hẳn so với các quốc gia khác và thấp hơn mức chi phí trung bình của quốc tế thì tất
cả các quốc gia đều cùng có lợi. Nếu một quốc gia khơng thu được gì, hoặc bị lỗ, họ sẽ từ
chối thương mại.
Thương mại giữa hai quốc gia được dựa trên cơ sở lợi thế tuyệt đối. Khi một quốc gia
sản xuất một hàng hóa có hiệu quả hơn so với quốc gia khác nhưng kém hiệu quả hơn trong
sản xuất hàng hóa thứ hai, haiquốc gia có thể thu được lợi ích bằng cách mỗi quốc gia
chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu hàng hóa có lợi thế tuyệt đối, nhập khẩu hàng hóa
khơng có lợi thế. Thơng qua q trình này, các nguồn lực được sử dụng một cách hiệu quả
nhất và sản lượng của cả hai hàng hóa đều tăng. Sự tăng lên về sản lượng của haihàng hóa
này do lượng thặng dư từ chun mơn hóa trong sản xuất được phân bố lại giữa hai quốc gia
thông qua thương mại.
Theo khía cạnh này, một quốc gia cũng tương tự như một cá nhân, không nên cố gắng
sản xuất tất cả hànghóa cho mình, mà nên tập trung sản xuất hàng hóa mình có sở trường
nhất, đem trao đổi một phần sản phẩm đó lấy sản phẩm khác cần dùng, theo cách này tổng
sản lượng của các cá nhân cộng lại sẽ tăng, phúc lợi của mỗi các nhân cũng tăng.
Lý thuyết lợi thế so sánh
Lợi thế so sánh hay Ưu thế so sánh là một nguyên tắc trong kinh tế học phát biểu rằng
mỗi quốc gia sẽ được lợi khi nó chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu những hàng hóa mà
mình có thể sản xuất với chi phí tương đối thấp (hay tương đối có hiệu quả hơn các nước
khác); ngược lại, mỗi quốc gia sẽ được lợi nếu nó nhập khẩu những hàng hóa mà mình có
thể sản xuất với chi phí tương đối cao (hay tương đối không hiệu quả bằng các nước khác).
Nguyên tắc lợi thế so sánh cho rằng một nước có thể thu được lợi từ thương mại bất kể nó
tuyệt đối có hiệu quả hơn hay tuyệt đối khơng hiệu quả bằng các nước khác trong việc sản
xuất mọi hàng hóa.
Nguyên tắc lợi thế so sánh là khái niệm trọng yếu trong nghiên cứu thương mại quốc tế.
Nhà kinh tế học được giải thưởng Nobel năm 1970 Paul Samuelson đã viết: "Mặc dù có
những hạn chế, lý thuyết lợi thế so sánh vẫn là một trong những chân lý sâu sắc nhất của
mọi môn kinh tế học. Các quốc gia không quan tâm đến lợi thế so sánh đều phải trả một cái
giá rất đắt bằng mức sống và tăng trưởng kinh tế của chính mình."
2
Lý thuyết lợi thế nguồn lực
Lý thuyết lợi thế nguồn lực cho rằng các nước có nhiều vốn sẽ có lợi thế về chi phí về
giá cả trong sản xuất hàng hóa cơng nghiệp những hàng hóa cần nhiều vốn hơn lao động.
Họ có lợi nhuận trong việc chun mơn hóa sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nhiều vốn
để đổi lại nhập khẩu những mặt hàng có hàm lượng lao động từ những nước dồi dào về lao
động. Lý thuyết về lợi thế nguồn lực:
- Những sản phẩm khác nhau đòi hỏi các yếu tố sản xuất khác nhau. Ví dụ, sản phẩm
nơng nghiệp địi hỏi nhiều lao động trên một đơn vị tư bản hơn so với sản phẩm cơng
nghiệp, những sản phẩm địi hỏi nhiều vốn hơn so với với 1 đơn vị lao động hơn phần lớn
những sản phẩm thô. Tỷ lê các yếu tố sản xuất những hàng hóa khác nhau sẽ phụ thuộc vào
tương quan giá cả của chúng
- Các nước có mức độ sẵn có về các yếu tố nguồn lực khác nhau. Nhìn chung, các nước
phát triển dồi dào về nguồn vốn trong khi phần lớn các nước đang phát triển tương đối dồi
dào nguồn lao động
1.2 So sánh sự khác nhau trong nội dụng của các khái niệm lợi thế trong thương mại
quốc tế
1.2.1. Giống nhau
- Đề cao vai trò của các cá nhân và doanh nghiệp, ủng hộ một nền thương mại tự do,
khơng có sự can thiệp của chính phủ.
- Các quốc gia đều nhận được lợi ích từ việc tham gia thương mại quốc tế.
- Thấy được tính ưu việt của chun mơn hóa
- Khơng có chi phí vận chuyển về hàng hóa
- Những hàng hóa trao đổi giống hệt nhau
- Các nhân tố sản xuất chuyển dịch một cách hồn hảo.
- Khơng có thuế quan và rào cản thương mại
- Thơng tin hồn hảo dẫn đến cả người bán và người mua đều biết nơi có hàng hoá rẻ
nhất trên thị trường quốc tế.
1.2.2. Khác nhau
Lý thuyết lợi thế tuyệt đối
Sử dụng yếu tố chi phí sản xuất trong quá trình tạo ra một sản phẩm để so sánh lợi thế
giữa các quốc gia trong quá trình tham gia thương mại quốc tế. Mỗi quốc gia tập trung
chun mơn hố vào sản xuất và trao đổi những sản phẩm có mức chi phí sản xuất thấp hơn
hẳn so với các quốc gia khác. Xét theo chi phí sản xuất thì trong ví dụ dưới đây, Việt Nam
sản xuất thép và quần áo đều có chi phí cao hơn Nga. Lợi thế tuyệt đối chỉ ra rằng Việt Nam
khơng có khả năng xuất khẩu sản phẩm nào sang Nga.
3
Sản phẩm
Thép (1 đơn vị)
Quần áo (1 đơn vị)
Chi phí sản xuất (ngày công theo lao động)
Việt Nam
Nga
25
16
5
4
Lý thuyết lợi thế so sánh
Sử dụng yếu tố chi phí cơ hội trong quá trình tạo ra một sản phẩm để so sánh lợi thế
giữa các quốc gia trong quá trình tham gia thương mại quốc tế. Xét ví dụ ở trên ta thấy, để
sản xuất 1 đơn vị thép ở Việt Nam cần 5 đơn vị quần áo trong khi ở Nga chỉ cần 4 đơn vị.
Nhưng ngược lại chi phí sản xuất quần áo ở Việt Nam lại thấp hơn ở Nga, để sản xuất ra 1
đơn vị quần áo ở Việt Nam cần 1/5 đơn vị thép, trong khi ở Nga cần 1/ 4 đơn vị. Điều này
chỉ ra rằng Việt Nam và Nga có thể trao đổi sản phẩm cho nhau. Nga xuất khẩu thép sang
Việt Nam và Việt Nam xuất khẩu quần áo sang Nga.
Lý thuyết lợi thế nguồn lực
Trong các lý thuyết về lợi thế so sánh mới chỉ đề cập đến những nguồn lực cụ thể như:
vốn, hao phí lao động, nguyên vật liệu... tức là những nguồn lực cụ thể có hình hài, cân
đong đo đếm được, tính được hệ số so sánh mà ta gọi đó là nguồn lực hữu hình. Bên cạnh
đó cịn có nguồn lực vơ hình, khó đo đếm (vị trí địa lý, tiềm năng du lịch, nguồn nhân lực trí
tuệ) cần được đánh giá đúng tầm quan trọng của chúng để có biện pháp khai thác. Lý thuyết
lợi thế nguồn lực phân tích sâu về ngun nhân vì sao giữa các nước lại có chi phí so sánh
khác nhau. Đó chính là do sự khác nhau về mức độ sử dụng yếu tố để sản xuất sản phẩm sẽ
quyết định sự khác biệt về chi phí so sánh. Trong ví dụ ở trên, Việt Nam là nước tương đối
sẵn về lao động sẽ sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may là mặt hàng cần nhiều lao động. Còn
Nga là nước tương đối sẵn có về vốn sẽ sản xuất và xuất khẩu thép, là mặt hàng cần nhiều
vốn.
2. Phân tích nội dung thương mại quốc tế của các nước đang phát triển đối với các
nước phát triển theo các dấu hiệu lợi thế
Từ việc phân tích mối quan hệ thương mại qua các dấu hiệu lợi thế dẫn đến nội dung
hoạt động xuất nhập khẩu ở dưới
2.1 Hoạt động xuất khẩu
Theo Các lý thuyết lợi thế ở trên thì bất kỳ một quốc gia nào muốn phát triển kinh tế thì
phải biết được thế mạnh cũng như lợi thế lớn nhất của mình để từ đó tập trung các nguồn
lực vào khai thác, sử dụng và phát huy hơn nữa các lợi thế đó .Có như vậy mới có thể đem
về lợi ích tối đa cho đất nước.Điều này lại càng quan trọng với những nước đang phát triển.
Hầu hết các nước đang phát triển đều là những nước có một khu vực nơng nghiệp rất lớn;
nơng nghiệp vẫn luôn chiếm tỉ trọng cao trong nền kinh tế quốc dân, lực lượng lao động dồi
dào nhưng trình độ dân trí, tay nghề thấp, tiềm lực về vốn lại khơng có nên chưa thể đủ khả
4
năng để phát triển sản xuất những ngành công nghiệp nặng, những ngành có hàm lượng chất
xám cao. Từ đặc điểm tự nhiên, kinh tế, lao động,…cho thấy lợi thế lớn nhất của các nước
đang phát triển chính là trong sản xuất nông nghiệp và sản xuất các mặt hàng sử dụng nhiều
lao động . Do đó:
Vận dụng lý thuyết lợi thế tuyệt đối: Ngay giai đoạn đầu tiên, các nước đang phát
triển (ĐPT) đã chủ yếu tập trung vào sản xuất, xuất khẩu những mặt hàng nông sản, những
mặt hàng thô chưa qua sơ chế và sau này là những mặt hàng công nghiệp nhẹ sản xuất hàng
tiêu dùng như dệt may, giầy dép,… những mặt hàng sử dụng nhiều lao động.
Trên cơ sở lý thuyết lợi thế so sánh các nước ĐPT cũng xác định: khi tham gia thương
mại quốc tế bên cạnh việc chú trọng xuất khẩu những mặt hàng thế mạnh là nông sản và
hàng tiêu dùng cũngcần chủ trọng xuất khẩu những mặt hàng khác ít bất lợi nhất như: như
các mặt hàng thuộc các ngành ngược như gia cơng chế tạo.
Tiếp đó, các nước ĐPT cần tích cực và chủ trương thu hút vốn, công nghệ và kinh
nghiệm quản lý tiên tiến từ bên ngoài để thay thế mặt hàng xuất khẩu theo hướng tăng tỷ
trọng những mặt hàng có hàm lượng chất xám cao để tăng kim ngạch xuất khẩu, đồng thời
giảm các mặt hàng là nguyên liệu thô chưa qua sơ chế để sử dụng một cách có hiệu quả hơn
các nguồn lực để phát triển kinh tế một cách bền vững ( vận dụng lý thuyết lợi thế nguồn
lực).
Để phát huy hiệu quả của các lợi thế, các nước ĐPT đã tích cực mở cửa thương mại,
tham gia hội nhập quốc tế nhằm mở rộng hơn thị trường, thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng
có lợi thế sang các nước phát triển.
Từ năm 1970 đến năm 2005. Thương mại tăng trưởng đặc biệt nhanh tại các nước đang
phát triển: Ở các nước thu nhập trung bình và thấp, xuất khẩu tính theo tỷ lệ phần trăm GDP
gần như tăng gấp ba; Ở các nước Đông và Đông nam Á :xuất khẩu tăng từ 7 phần trăm
GDP vào năm 1970 lên 38 phần trăm vào năm 2005.
Xuất khẩu cũng gia tăng đáng kể ở các nước ĐPT tại châu Mỹ Latinh và Nam Á.
Nhưng ở Trung Đông, Bắc Phi và phần lớn châu Phi cận Sahara ít có thay đổi hơn. Các sản
phẩm xuất khẩu chính vẫn là dầu hoả , các sản phẩm dầu khác, đồng, vàng, các nguyên vật
liệu thô, khống sản, và hàng nơng sản như ca cao và cà phê; nhưng khơng có hàng cơng
nghiệp chế tạo. Năm 1970, xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của các nước Trung
Đông và Bắc Phi (37 phần trăm), và châu Phi cận Sahara (22 phần trăm) lớn hơn nhiều so
với các khu vực chính khác, nhưng đến năm 2002, tỷ số giữa xuất khẩu trên GDP không
thay đổi lắm.Nhiều nước ĐPT đã trở thành những nước dẫn đầu về xuất khẩu một số các
mặt hàng nông sản như Thái Lan dẫn đầu về xuất khẩu gạo, Brazil dẫn đầu về xuất khẩu
chuối, các nước Trung Đông dẫn đầu về xuất khẩu dầu mỏ,….
Cùng với thời gian, người lao động ngày càng tiếp thu được các kỹ năng mới và gia
tăng năng suất, thành phần hàng xuất khẩu ở các nước ĐPT cũng thay đổi, giảm dần hàng
hoá sơ khai (nơng nghiệp, khống sản, và ngun liệu thơ) đồng thời tăng dần hàng công
5
nghiệp chế tạo ( hàng dệt may, da giầy, quần áo, linh kiện điện tử, vi tính..). Bảng 1 trình
bày sự thay đổi thành phần hàng xuất khẩu của 17 nước đang phát triển.Năm 1970, hàng sơ
khai xuất khẩu của Mauritius chủ yếu là mía; hàng cơng nghiệp chế tạo chỉ chiếm 2 phần
trăm kim ngạch xuất khẩu. Nhưng đến năm 2005, ba phần tư kim ngạch xuất khẩu là từ
hàng công nghiệp chế tạo, khi Mauritius trở thành nước xuất khẩu chính các mặt hàng dệt
sợi và may mặc. Sri Lanka cũng trải qua diễn tiến thay đổi gần giống hệt như vậy, và có sự
thay đổi lớn tại một số nước khác. Nhưng ở những nước có tăng trưởng kinh tế và xuất khẩu
trì trệ, như Argentina, Honduras, và Senegal, xuất khẩu hàng công nghiệp chế tạo vẫn chiếm
tỷ trọng tương đối nhỏ trong tổng số.
Bảng 1: Sự thay đổi trong thành phần hàng xuất khẩu của một số nước ĐPT
Tỷ phần trong tổng kim ngạch xuất khẩu
Quốc gia
1970
2005
Mặt hàng sơ
Mặt hàng công Mặt hàng sơ
Mặt hàng công
khai
nghiệp chế tạo khai
nghiệp chế tạo
Algeria
93
7
48
52
Argentina
86
14
87
13
Honduras
92
8
98
2
Ấn Độ
48
52
23
77
Indonesia
99
1
19
82
Hàn Quốc
23
77
7
93
Malaysia
93
7
23
77
Mauritius
98
2
25
75
Mexico
68
32
73
27
Pakistan
43
57
10
90
Peru
99
1
48
52
Senegal
81
19
78
22
Singapore
72
28
15
85
Sri Lanka
99
1
26
74
Thái Lan
95
5
15
85
Tunisia
81
19
19
81
Venezuela
99
1
66
34
Nguồn: Ngân hàng Thế giới, Các chỉ báo phát triển thế giới 2005 (Washington D.C.:
Ngân hàng Thế giới, 2005).
Về thị trường xuất khẩu, đối với hầu hết các nước ĐPT, hoạt động xuất khẩu sang các
nước phát triển vẫn là chủ yếu. Tuy nhiên trong những năm gần đây xu hướng này đã có
những thay đổi đặc biệt là ở châu Á .Gần một nửa hàng xuất khẩu của châu Á ngày nay là
xuất sang các nước châu Á khác so với chỉ khoảng một phần tư vào năm 1980. Nguyên vật
liệu thơ và hàng hố trung gian sản xuất tại một nước châu Á ngày nay có thể được xuất
sang một nước láng giềng để làm ra thành phẩm sau cùng rồi xuất đi nước khác. Hơn nữa,
khi thu nhập ở châu Á tăng mạnh, các nước này trở thành điểm đến sau cùng cho nhiều
nguyên vật liệu thô và hàng hố tiêu dùng. Một tỷ trọng lớn xuất khẩu khí gas tự nhiên của
Indonesia được xuất sang Hàn Quốc và các nước khác trong khu vực. Sự vươn lên thật ấn
6
tượng của Trung Quốc đặc biệt đáng kể: Kim ngạch nhập khẩu cũng tăng nhanh như xuất
khẩu, và đất nước này hiện là một trong những thị trường lớn nhất trên thế giới. Tỷ trọng
đáng kể hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu của Trung Quốc được lắp ráp từ các linh kiện
nhập từ các nước khác trong các khu vực. Các mặt hàng lương thực thực phẩm từ
Philippines hiện được bán ở Trung Quốc nhiều hơn là xuất sang Hoa Kỳ
7
2.2 Hoạt động nhập khẩu
Tận dụng các lợi thế của các mình về vốn, nước đang phát triển nhập khẩu những
mặt hàng có hàm lượng vốn cao. Nhóm hàng chủ yếu nhập khẩu chủ yếu là nhóm hàng
có tính chất cơng nghệ cao như: nhóm hàng máy móc, thiết bị, linh kiện điện tử. Số
lượng nhập khẩu các mặt hàng này chiếm tỷ trọng lớn. Và nhóm hàng này đang có xu
hướng tăng lên do nhu cầu thúc đẩy xuất khẩu cũng nhu nhu cầu sản xuất kinh doanh
tại các nước này đang tăng lên. Tại các nước này tình trạng nhập siêu cao cho thấy khả
năng cạnh tranh không cao của các hàng hóa thay thế nhập khẩu. Nhưng bên cạnh đó
tình trạng nhập siêu cịn có thể coi là điều kiện để cải thiện nhập siêu trong chu kì kinh
doanh tiếp theo khi máy móc thiết bị nhập về để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Tại
các nước này, nhập khẩu chưa bền vững do vẫn chú trọng nhập khẩu cơng nghệ trung
gian, chưa có biện pháp dài hạn để kiềm chế nhập siêu cũng như chưa có những chính
sách khuyến khích xuất khẩu đúng mực. Nhập khẩu chưa quản lý tốt tại các nước đang
phát triển đã góp phần làm tăng nguy cơ ơ nhiễm và suy thối mơi trường , tình trạng
nhập khẩu hàng hóa khơng được đảm bảo các quy định an tồn và mơi trường cịn khá
là phổ biến tại các quốc gia này. Việc nhập khẩu các thiết bị lạc hậu, thực phẩm kém
chất lượng, hóa chất độc hại chưa được ngăn chặn. Quản lý nhập khẩu chưa tốt làm nảy
sinh hiện tượng gian lận thương mại, một số nhóm người thu lợi bất chính từ hoạt động
nhập khẩu, làm trầm trọng hơn sự bất ổn định về kinh tế xã hội
Hiện nay để cải thiện cán cân thanh tốn của mình, các nước đang phát triển đang
lỗ lực trong chiến lược hạn chế các mặt hàng nhập khẩu, khuyến khích nhập khẩu
những mặt hàng xa xỉ. Đã có những chính sách phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ và
ngành công nghiệp thay thế. Các mặt hàng này thường là các mặt hàng tiêu dùng công
nghiệp bằng các nguồn cung cấp và sản xuất trong nước. Để hạn chế nhập khẩu, các
nước đang phát triển thực hiện các hàng rào thuế quan hoạch hạn ngạch đối với các
mặt hàng đó, sau đó cố gắng xây dựng nền công nghiệp trong nước về sản phẩm đó.
8
3. Bình luận về hiệu ứng của mối quan hệ thương mại của các nước đang phát
triển với các nước phát triển
3.1 Hiệu ứng trước mắt
Cái được
Quan hệ thương mại với các nước phát triển đem lại cho các nước đang phát triển
nhiều tác động tích cực như: Tăng thu nhập quốc dân, Thúc đẩy phát triển kinh tế xã
hội…
Tăng thu nhập quốc dân
Một trong những biện pháp mà các chính phủ các nước đang phát triển hay sử dụng
để tăng thu nhập quốc dân là tham gia hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ
thương mại với các nước tìm kiếm thị trường trong xuất nhập khẩu và tiêu thụ hàng
hoá. Quan hệ thương mại với các nước phát triển sẽ giúp các nước đang phát triển dễ
dàng hơn trong việc thực hiện mục tiêu gia tăng tăng thu nhập quốc dân. Các nghiên
cứu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cho thấy các biện pháp hạn chế thương mại của các
quốc gia đang phát triển cao gấp bốn lần so với của các nước có thu nhập cao. Như vậy,
các nước phát triển muốn gia tăng thu nhập cần thiết phải việc tham gia các quan hệ
thương mại và bỏ bớt các rào cản.
Theo Ngân hàng Thế giới, các quốc gia đang phát triển sẽ được hưởng lợi khoảng
một nửa trong tổng số tất cả các lợi ích kinh tế từ tự do hóa thương mại hàng hóa. Thu
nhập hàng năm của các nước đang phát triển dự kiến đến năm 2015 sẽ tăng thêm 142 tỷ
đơ-la, tương đương 49% lợi ích tồn cầu. Nếu tính cả những phát triển đầy năng động
của các nền kinh tế thì mức tăng đó sẽ lên tới 259 tỷ đơ-la, tương đương 56% lợi ích
tồn cầu. Ngân hàng Thế giới cũng cho biết, đối với các quốc gia đang phát triển đã
giảm bớt rào cản thương mại, mức thu nhập bình quân đầu người thực tế đã tăng nhanh
xấp xỉ ba lần (5%/năm) trong khi các quốc gia đang phát triển khác chỉ đạt 1,4%.
Các nước phát triển chính là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho các sản phẩm của các
nước đang phát triển. Do dó, phát triển quan hệ thương mại với các nước phát triển sẽ
đem lại thêm một nguồn thu nhập từ xuất khẩu cho các nước đang phát triển. Hơn nữa,
khi tham gia vào quan hệ thương mại với các nước phát triển, các nước đang phát triển
có thể thu hút thêm được vốn đầu tư và nhập khẩu máy móc thiết bị hiện đại từ các
nước phát triển có cơng nghệ tiên tiến để từ đó phát triển cơng nghệ kỹ thuật của nước
mình, tăng năng suất lao động, đẩy mạnh phát triển sản xuất trong nước. Thu nhập quốc
dân phản ánh một cách khái qt nhất quy mơ sản lượng hàng hố và dịch vụ đã làm ra
trong một năm của một quốc gia, do vậy, gia tăng khả năng sản xuất hàng hoá dịch vụ
trong nước đồng nghĩa với việc gia tăng thu nhập quốc dân của quốc gia đó.
Thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội
9
Quan hệ thương mại phát triển sẽ thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế-xã hội,
tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thay đổi cơ cấu vật chất của tổng sản
phẩm xã hội. Quan hê ̣ thương ma ̣i với các nước phát triể n giúp cho các nước đang phát
triể n có thêm nhu cầu tiêu dùng và tích lũy, học hỏi kinh nghiệm và cải thiện mơi
trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh
tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp.
Quan hệ thương mại của các nước đang phát triển với các nước phát triển giúp các
quốc gia được hưởng lợi nhờ chuyên sản xuất những hàng hóa và dịch vụ mà họ sản
xuất hiệu quả nhất và nhờ trao đổi những hàng hóa và dịch vụ này để có được những
hàng hóa và dịch vụ mà các quốc gia khác sản xuất với chất lượng cao hơn nhưng có
giá thấp hơn. Với cách làm như vậy, các quốc gia sẽ được hưởng lợi từ việc sản xuất
hiệu quả hơn, người tiêu dùng có nhiều sự lựa chọn hơn, hàng hóa và dịch vụ có chất
lượng tốt hơn nhưng giá rẻ hơn.
Việc dỡ bỏ những rào cản do chính phủ dựng lên đối với thương mại sẽ cho phép
mỗi cá nhân được tiếp cận thị trường rộng lớn của thế giới với đầy đủ các loại mặt
hàng, từ thực phẩm, quần áo, các mặt hàng chế tạo khác cho tới những dịch vụ tạo
thành cơ sở hạ tầng của một nền kinh tế hiện đại, từ tài chính tới viễn thơng, giao thông
và giáo dục. Các cá nhân các nước được thụ hưởng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ đa
dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh tranh; được tiếp cận và giao lưu
nhiều hơn với thế giới bên ngồi, từ đó có cơ hội phát triển và tìm kiếm việc làm cả ở
trong lẫn ngồi nước.
Các quốc gia đang phát triển có tiềm năng được hưởng lợi rất nhiều từ việc tăng cường
tự do hóa thương mại trong các lĩnh vực nơng nghiệp, hàng hóa chế tạo và dịch vụ. Các
nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới và Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD)
đều cho thấy điều quan trọng nhất mà các nước phát triển có thể làm để đem lại lợi ích
cho các nước đang phát triển là cắt giảm mạnh thuế quan nông nghiệp. Việc loại bỏ các
biện pháp bảo hộ nông nghiệp của cả các quốc gia phát triển và đang phát triển có thể
sẽ đem lại khoảng 2/3 (63%) lợi ích tiềm năng cho các quốc gia đang phát triển. Các
nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới đã chỉ ra rằng nếu giảm thuế nhập khẩu, người ta
có thể sẽ gia tăng 93% phúc lợi từ việc loại bỏ các hình thức bảo hộ nơng nghiệp trên
khắp thế giới, trong khi đó, nếu giảm trợ cấp ở trong nước, người ta chỉ tăng được 5%
phúc lợi, nếu giảm trợ cấp xuất khẩu, họ chỉ tăng phúc lợi được 2% mà thôi. Rõ ràng là
tất cả mọi phúc lợi mà các quốc gia đang phát triển được hưởng nhờ việc loại bỏ các
hình thức bảo hộ trong lĩnh vực thương mại nơng nghiệp tồn cầu đều xuất phát từ việc
dỡ bỏ thuế quan nhập khẩu.
Cái mất
10
Thua thiệt về thị trường
Quan hệ thương mại của các nước đang phát triển với các nước phát triển thật sự
góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất kinh tế toàn cầu. Song, đây là một cuộc cạnh
tranh quyết liệt và nghiệt ngã giữa các quốc gia. Kẻ mạnh thắng, kẻ yếu thua và thiệt
thòi. Và thực tế là phần lớn các nước đang phát triển đều bị thua thiệt trong mối quan hệ
này bởi các ngành sản xuất trong nước của các nước này khả năng cạnh tranh yếu và
tính hiệu quả thấp.
Tham gia quan hệ thương mại với các nước phát triển, các nước đang phát triển sẽ
phải đối mặt với việc hàng hoá từ các nước phát triển sản xuất với công nghệ hiện đại,
mẫu mã đẹp, chất lượng tốt, trình độ quản lý cao nên giá thành phù hợp ồ ạt vào chèn
ép hàng hoá của những đơn vị sản xuất kinh doanh trong nước do kỹ thuật, công nghệ
và quản lý chưa tốt nên chất lượng thấp mà giá thành lại cao. Từ đó dẫn đến tình trạng
hàng hố do các nước đang phát triển sản xuất ra lại không tiêu thụ được ở ngay tại
chính thị trường của nước đang phát triển ấy.
Chất lượng hàng xuất khẩu của các nước đang phát triển thường chưa cao, nhất là
trong khâu chế biến chưa được đầu tư thích đáng, chỉ mới qua khâu sơ chế nên khi tham
gia thị trường thế giới sức cạnh tranh kém, chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường.
Do chất lượng hàng xuất khẩu còn hạn chế, dẫn đến giá hàng xuất khẩu của các nước
đang phát triển thường thua xa so với giá của các mặt hàng cùng loại trên thị trường thế
giới.
Hơn nữa, vấn đề thông tin về thị trường thế giới phục vụ cho nhu cầu hoạt động
kinh doanh xuất khẩu cũng như phục vụ cho nhu cầu về công tác quản lý xuất khẩu và
công tác nghiên cứu ở các nước đang phát triển nhìn chung cịn q ít ỏi, chưa đáp ứng
được nhu cầu thực tế địi hỏi. Trong khi đó, hoạt động xuất khẩu địi hỏi phải có thơng
tin sâu rộng vế thị trường để theo dõi kịp thời về diễn biến cung cầu và giá cả trên thị
trường thế giới. Do nghiên cứu thị trường còn hạn chế, chưa am hiểu thị trường cũng
như tuân thủ đúng các quy định, yêu cầu và cam kết về chất lượng sản phẩm, quy cách
đóng gói, ghi nhãn mác bao bì… theo luật lệ của các quốc gia phát triển cũng như các
thông lệ, luật pháp Quốc tế... dẫn đến tình trạng các doanh nhiệp xuất khẩu của các
nước đang phát triển nhiều khi còn phải chịu thiệt thịi về giá cả, hàng hố xuất đi bị trả
lại vì khơng đủ tiêu chuẩn… cũng như khó nắm bắt được những cơ hội và ứng xử kịp
thời những diễn biến của thị trường thương mại quốc tế dẫn tới thua thiệt trên thị
trường quốc tế.
Không những thế vấn đề nợ nước ngoài cũng trở thành gánh nặng đối với các nước
đang phát triển. Số liệu thống kê của Liên hợp quốc cho thấy, nợ nước ngoài của các
nước này đã tăng hơn 300 lần trong 4 thập niên. Trong đó, có những nước mà tổng số
11
nợ đã vượt xa so với tổng thu nhập quốc dân. Những bi kịch về nợ nước ngoài của các
nước đang phát triển không chỉ được biểu hiện ở tổng số nợ khổng lồ mà cịn là tình
trạng nhiều nước khơng có khả năng thanh tốn dù chỉ là lãi suất hằng năm, trong khi
dó tốc độ của các khoản vay vẫn gia tăng và khơng hề có dấu hiệu giảm bớt. Cùng với
nợ nần là tình trạng bất bình đẳng trong trao đổi mậu dịch – thương mại giữa các nước
đang phát triển và phát triển. Chỉ tính riêng qua trao đổi không ngang giá, các nước phát
triển mỗi năm thu về món lợi hàng chục tỉ USD.
Bịn rút tài nguyên
Ở các nước đang phát triển, nhất là các nước nghèo và trình độ phát triển trung bình
ở châu Á, châu Phi và châu mỹ La Tinh... trình độ công nghệ thấp hơn các nước phát
triển, sản xuất chủ yếu dựa vào nông nghiệp, khai thác và xuất khẩu thô tài nguyên
thiên nhiên, lao động giá rẻ… Xuất khẩu tài nguyên, khoáng sản đã và đang mang về
cho các nước đang phát triển một nguồn thu nhập đáng kể mỗi năm. Tuy nhiên, trong
quan hệ với các nước phát triển, khi các nước đang phát triển cho phép các nước phát
triển đầu tư khai thác tài nguyên ở đất nước mình, các nước đang phát triển có thể đối
mặt với nguy cơ bị khai thác và bòn rút tài nguyên thiên nhiên mà đối tượng hưởng lợi
không phải người dân các nước đang phát triển mà lại là các công ty đến từ các quốc
gia phát triển. Như trong quý 1-2012 Ngân hàng trung ương Philippines chỉ mua được
618kg vàng từ các công ty địa phương (32,3 triệu USD), giảm rất mạnh so với mức
7.943kg so với cùng kỳ năm 2011. Con số 618kg chỉ chiếm 3% tổng lượng vàng khai
thác được, 97% còn lại đã bị tuồn sang Trung Quốc khiến Philippines vừa mất tài
nguyên vừa mất tiền thuế.
Việc tăng xuất khẩu các sản phẩm nông nghiệp như cà phê, cao su (thiên nhiên)… ở các
nước đang phát triển cũng khiến nhiều héc ta rừng đã biến mất để dành cho trồng cây
công nghiệp. Số liệu của tổ chức Lương Nông Thế giới (FAO) cho thấy hằng năm có 13
triệu hec-ta rừng bị mất đi. Có đến hơn 30 quốc gia có tỷ lệ rừng bị giảm hằng năm trên
1%. Trong khi đó chỉ có 20 nước cố gắng trồng rừng nhưng diện tích rừng trồng hằng
năm cũng chỉ phủ thêm được gần 1% diện tích.
3.2 Hiệu ứng lâu dài
Cái được
Thương mại quốc tế thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế của mỗi quốc
gia theo hướng tích cực
Xu hướng có tính quy luật chung của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là chuyển
dịch theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Muốn chuyển một nền kinh tế từ nông
nghiệp sang kinh tế công – nơng nghiệp để từ đó chuyển sang nền kinh tế công nghiệp
phát triển. Nội dung cụ thể của xu thế này thể hiện ở tỷ trọng nơng nghiệp có xu hướng
12
ngày càng giảm đi trong khi đó tỷ trọng cơng nghiệp và dịch vụ ngày càng tăng trong
tổng GDP, giai đoạn đầu tốc độ tăng của công nghiệp sẽ cao hơn dịch vụ, nhưng giai
đoạn sau, khi nền kinh tế đã phát triển cao, thì dịch vụ sẽ tăng nhanh hơn.
Trong sự vận động chung, ngoại thương với các hoạt động xuất nhập khẩu hàng
hóa và dịch vụ có vị trí, vai trị đặc biệt quan trọng của nó tác động đến toan bộ q
trình sản xuất hàng hóa, từ sản xuất, lưu thông, phân phối đến tiêu dùng. Đặc biệt đối
với các ngành sản xuất vật chất cơ bản như công nghiệp, nông nghiệp… ngoại thương
đã tác động trực tiếp đến cả đầu vào và đầu ra của quá trình tái sản xuất, do đó đã góp
phần thúc đẩy nhanh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Ngoại thương cũng tạo ra các “mối
liên hệ ngược”, “mối liên hệ gián tiếp” giữa các ngành, tạo ra khả năng xây dựng cơ
cấu kinh tế năng động.
Góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và mức sống thực tế cho các
tầng lớp dân cư
Có thể nói đây là tác động có ý nghĩa quan trọng nhất bởi mục tiêu cuối cùng của
sự tăng trưởng là con người, hướng tới con người. Con người vừa là động lực, vừa là
mục tiêu của sự phát triển.
Hoạt động ngoại thương thông qua cách giải quyết quan hệ xuất khẩu-nhập khẩu có
tác động trực tiếp đến việc làm và do đó, đến thu nhập và mức sống thực tế của người
dân.
Hiện nay, để phát triển kinh tế các nước đều cố gắng tận dụng mọi lợi thế mà nước
mình có được. Đối với các nước đang phát triển thường có dân số đơng, lao động dư
thừa nhiều, nhất là lao động của nền sản xuất hàng hóa cịn kém, vốn đầu tư cho phát
triển thiếu. Vì thế, nên hướng sản xuất hàng hóa xuất khẩu vào những ngành sử dụng
lợi thế của đất nước. Khi xuất khẩu tăng trưởng thường kéo theo sự gia tăng sản xuất
trong nước. Cầu lao động tăng nhanh dẫn tới giải quyết công ăn việc làm cho phần lớn
lao động dư thừa. Người lao động có việc làm tức là có thu nhập, bởi vậy mức sống của
họ được cải thiện đáng kể.
Bên cạnh đó, hoạt động xuất nhập khẩu không chỉ đáp ứng cho sản xuất mà cịn
cho cả tiêu dùng. Hàng nội vì phải cạnh tranh với hàng ngoại nên không ngừng nâng
cao chất lượng và hà giá bán. Người được hưởng lợi ở đây chính là người tiêu dùng
ngày càng được sử dụng những hàng hóa đa chủng loại và chất lượng cao.
Cái mất
Lợi thế so sánh của các nước đang phát triển nói chung trong đó có Việt Nam là các
lợi thế tĩnh hay còn gọi các lợi thế cấp thấp (sản xuất ra sản phẩm sử dụng nhiều yếu tố
lao động, giá trị gia tăng thấp), thực chất đây là lợi thế về chi phí sản xuất. Trong giao
lưu kinh tế các nước thì các ngành sử dụng nhiều nguyên liệu, lao động... có lợi thế là
chi phí sản xuất thấp, hàng hố xuất khẩu sẽ có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực
13
và quốc tế. Đồng thời sẽ hấp dẫn và thu hút nước ngoài trực tiếp đầu tư (FDI) để sử
dụng các nguồn lực đó. Song các lợi thế này khơng tồn tại lâu dài do sự hạn chế của tài
nguyên, lao động và sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Do vậy, lợi thế này khó cạnh
tranh nổi với những nước có lợi thế cấp cao (vốn, lao động, trình độ khoa học kỹ thuật
cao...). Trên cơ sở các hoạt động sản xuất, các công ty xuyên quốc gia có thể tận dụng
triệt để lợi thế và điều kiện sản xuất của các quốc gia đã có, nhằm tạo ra các sản phẩm
hoàn chỉnh, các linh kiện và chi tiết… tại các quốc gia trong điều kiện tự do mậu dịch.
Hơn nữa, giá cả của các loại hàng hoá và dịch vụ được sản xuất ra chủ yếu dựa trên
lợi thế về điều kiện sản xuất cấp thấp (nguyên liệu thô, gia công và sơ chế) luôn rẻ hơn
so với các mặt hàng chế biến dựa trên lợi thế về các điều kiện sản xuất cấp cao hơn (lao
động được đào tạo, cơng nghệ trung bình thích hợp). Chẳng hạn như ở Việt Nam, hiện
tại đang xuất khẩu dầu thơ, gạo, khống sản… nếu khơng đi thẳng vào cơng nghệ hiện
đại sử dụng lao động dồi dào để sản xuất hàng xuất khẩu thì Việt Nam sẽ phải chịu
thiệt thòi về giá hàng xuất khẩu (giá trị gia tăng thấp).
Vậy, các quốc gia nếu chỉ đơn thuần sử dụng lợi thế cấp thấp này, có thể bị bế tắc
ở mức năng suất thấp khi nguồn FDI và xuất khẩu chỉ nhắm vào việc khai thác lợi thế
từ nguồn tài nguyên thiên nhiên dồi dào và chí phí lao động rẻ mà không quan tâm đến
việc nâng cao năng suất và chuyển đổi cơ cấu.
Bởi các lợi thế này, do khơng có khả năng tái sinh nên nó sẽ mất dần đi và các quốc
gia này phải đối diện với sự cạn kiệt tài nguyên và cạn kiệt lao động rẻ.
Cạn kiệt tài nguyên
Điều này xảy ra khi chính sách phát triển xuất khẩu của một quốc gia quá chú trọng
đến chỉ tiêu về số lượng, chưa thật sự quan tâm đến chất lượng và hiệu quả xuất khẩu.
Việc tăng trưởng xuất khẩu cao trong ngắn hạn trên cơ sở khai thác các lợi thế sẵn có
của quốc gia về tài nguyên thiên nhiên, về lao động, dù mang lại nhiều ngoại tệ cho đất
nước, nhưng chưa chắc đã đảm bảo tính bền vững nếu chỉ tập trung xuất khẩu sản phẩm
thơ, sơ chế. Khống sản là thứ tài ngun không thể tái tạo, việc xuất khẩu này chỉ
mang giá trị gia tăng thấp, làm cạn kiệt tài nguyên và gây ơ nhiễm mơi trường và chỉ
đem lại lợi ích cho một bộ phận tham gia hoạt động xuất khẩu và làm tổn hại đến lợi ích
của đa số và cộng đồng.
Cạn kiệt lao động rẻ
Lao động giá rẻ từng được xem là một “bảo bối” quan trọng giúp kinh tế nhiều
quốc gia đang phát triển thu hút đầu tư nước ngoài song thứ bảo bối này đang ngày
càng “mất thiêng” theo thời gian.
Khi kinh tế ngày càng phát triển thì cuộc sống người dân, trong đó có người lao
động, cũng ngày càng được cải thiện. Kéo theo đó là đòi hỏi thu nhập ngày càng tăng
14
cao, đi đôi với việc cải thiện điều kiện làm việc của đông đảo người lao động.Tốc độ
tăng trưởng mạnh mẽ của các nền kinh tế đã khuyên khích các nhóm người lao động
địi hỏi họ phải được trả mức lương cũng như các phúc lợi ở mức cao hơn và được bảo
vệ tốt hơn.Các quốc gia sẽ phải đấu tranh với chi phí lao động cũng như lạm phát tăng
cao. Trong khi các nhà kinh tế cho rằng mức lương tăng lên sẽ không phá hủy năng lực
cạnh tranh hay tăng trưởng của nền kinh tế, các nhà sản xuất lớn đều cho rằng điều này
sẽ khiến dòng vốn đầu tư giảm mạnh. Hầu hết các nhà kinh tế đều cho rằng các công ty
cũng như nền kinh tế trong khu vực có đủ khả năng để chi trả mức lương cao hơn mà
không ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của quốc gia.Thêm vào đó, lao động chỉ
chiếm 1 phần nhỏ trong chi phí sản xuất. Do đó, tăng lương sẽ khơng ảnh hưởng q
nhiều đến chi phí sản xuất các sản phẩm xuất khẩu. Hơn nữa, chính phủ các nước Đông
Nam Á cũng tự nhận trong bối cảnh lợi thế về xuất khẩu ngày giảm đi, tăng lương
chính là biện pháp giúp họ đạt được mục tiêu khác: xây dựng tầng lớp người tiêu dùng
trung lưu để chuyển hướng nền kinh tế.
4. Định hướng và giải pháp phát triển quan hệ thương mại quốc tế của các nước
đang phát triển đối với các nước phát triển
4.1 Định hướng phát triển quan hệ thương mại quốc tế tại các nước đang phát
triển
Giải quyết vấn đề tốc độ tăng trưởng phải trên nền tảng giải quyết vấn đề chất
lượng tăng trưởng. Theo đó, trong dài hạn, cần chấm dứt quan điểm phải đạt được tốc
độ tăng trưởng nhanh với mọi giá theo mơ hình tăng trưởng nhờ khai thác chiều rộng,
tăng trưởng nhờ dốc sức vào tăng khối lượng vốn đầu tư và vào khai thác tài nguyên;
chuyển dần sang mơ hình sang mơ hình tăng trưởng dựa vào hiệu quả và bền vững, tập
trung nhiều hơn, quyết liệt hơn vào mục tiêu chất lượng dài hạn. Cụ thể là, cần chú
trọng nâng cao hiệu quả đầu tư, hướng vào các điểm cực tăng trưởng dài hạn của nền
kinh tế trên cơ sở nguyên lý phân phối nguồn lực đóng vai trị quyết định, tn theo quy
luật tự do cạnh tranh lành mạnh. Từ những tư duy về mô hình tăng trưởng kinh tế hợp
lý, thực hiện đẩy mạnh cải cách thể chế, chú trọng tạo lập những cơ sở nâng cao năng
lực cạnh tranh củng cố các cơ sở tăng trưỏng dài hạn. Tuy nhiên cũng cần phải xác định
rõ lộ trình cho việc thực hiện chuyển đổi mơ hình tăng trưởng, trước mắt, một sự kết
hợp theo kiểu " lưỡng nan" trong điều kiện chúng ta đồng thời phải thực hiện của 2
nhiệm vụ tăng trưởng nhanh và tăng trưởng hướng về chất lượng trở nên hợp lý hơn và
trong q trình đó hướng dần sự phát triển theo đúng quy luật của nó. c, trình độ khoa
học công nghệ, tăng cường ảnh hưởng của nhân tố TFP, nâng cao hiệu quả sử dụng
vốn, tăng năng suất lao động, hướng hoạt động của nền kinh tế theo các ngành, các lĩnh
vực tạo nhiều giá trị gia tăng, giảm chi phí trung gian, chủ động sản xuất và xuất khẩu
15
các sản phẩm hàng hóa có dung lượng cơng nghệ cao trên cơ sở khai thác triệt để lợi thế
của đất nước và thực hiện đồng bộ hóa q trình khai thác và chế biến sản phẩm. Như
thế.chúng ta sẽ chuyển dần từ việc tăng trưởng chiều rộng dựa vào khai thác tài nguyên,
lao động giá rẻ sang xây dựng các DN có thương hiệu, có năng lực cạnh tranh quốc tế,
thế giới, phát triển KHCN, dựa vào đội ngũ lao động có trình độ, trí thức.
Về lâu dài, các quốc gia đang phát triển nói chung và Việt Nam nói riêng cần học
tập kinh nghiệm của Nhật Bản, NIES mau chóng chuyển từ lợi thế so sánh cấp thấp
sang lợi thế so sánh cấp cao hơn (sản xuất ra sản phẩm cần nhiều vốn, lao động phải
được đào tạo, cơng nghệ trung bình và cao, năng suất lao động cao và giá trị gia tăng
trong sản phẩm lớn). Trong mơ hình: lợi thế so sánh trong trường hợp nhiều mặt hàng,
thời kỳ đầu của q trình cơng nghiệp hố Việt Nam chỉ có lợi thế so sánh cấp thấp,
biểu hiện sản xuất ở một số nhóm hàng, mặt hàng sử dụng nhiều lao động và lợi thế về
tài nguyên tự nhiên. Nhưng với q trình phát triển (cơng nghiệp hố, hiện đại hố),
Việt Nam sẽ có một bước chuyển rất căn bản: mở rộng lợi thế so sánh ra nhiều mặt
hàng, nhóm hàng có giá trị cao. Muốn vậy phải kết hợp đồng thời nhiều yếu tố: vị trí
địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên sẵn có và nguồn nhân lực phong phú, trong đó
nguồn nhân lực là một yếu tố rất quan trọng cho việc thực hiện cơng nghiệp hố, hiện
đại hố đất nước trong bối cảnh phát triển hiện nay, bởi nó tạo ra bước nhảy vọt về
năng suất.
Định hướng chủ đạo trong lĩnh vực nhập khẩu: phải cần khuyến khích nhập khẩu
cơng nghệ cao, cơng nghệ tiên tiến, công nghệ nguồn, hạn chế nhập khẩu các loại hàng
hóa đã sản xuất trong nước, nhập khẩu hàng xa xỉ, có chính sách phát triển ngành cơng
nghiệp hỗ trợ và các ngành công nghiệp thay thế nhập khẩu.Đồng thời, cần áp dụng các
biện pháp hạn chế nhập khẩu để bảo vệ sản xuất trong nước thông qua việc xây dựng
các biện pháp phi thuế quan phù hợp với các cam kết hội nhập kinh tế quốc tế, các biện
pháp tự vệ khẩn cấp, áp thuế chống bán phá giá, các tiêu chuẩn kỹ thuật, các biện pháp
kiểm dịch động thực vật...
Định hướng cuối cùng khá quan trọng được nhấn mạnh là, ngăn chặn việc nhập
lậu hàng từ các nước ASEAN và Trung Quốc, tranh thủ mở cửa thị trường trong các
FTA mới để đa dạng hóa thị trường nhập khẩu và nhập khẩu cơng nghệ nguồn. Tồn
bộ quan điểm chiến lược thương mại này muốn thành công, phải gắn với sự đổi mới tư
duy và cuộc tái cấu trúc nền kinh tế hiện nay của Việt Nam.
Phải có tầm nhìn dài hạn trong mục tiêu tăng trưởng kinh tế: Cần phải có cái nhìn
dài hạn trong tăng trưởng, quan điểm này đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách
tăng trưởng hướng đến các chính sách để tạo ra, duy trì và củng cố các cơ sở tăng
trưởng dài hạn như yếu tố vốn nhân lực, cơ sở hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, một cấu trúc
16
kinh tế hợp lý, cân đối, không dựa trên cơ sở vay mượn. Theo thơng điệp này, có thể
phải chấp nhận tạm thời trong một số năm trước mắt nền kinh tế không đạt được tốc
độ tăng trưởng cao như kỳ vọng vì phải dốc sức vào việc tạo lập và củng cố cơ sở tăng
trưởng dài hạn, nhưng suốt cả giai đoạn dài sau đó nó nhất định đạt được mục tiêu tăng
trưởng cao và bền vững.
Các nước đang phát triển cần phải tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, cần chuyển
dịch theo hướng nâng giá trị gia tăng của hàng xuất khẩu, trong đó cần giảm tỷ trọng
hàng xuất khẩu thô, tăng tỷ trọng mặt hàng công nghiêp chế biến và những mặt hàng
có hàm lượng chất xám cao
4.2 Giải pháp phát triển thương mại quốc tế giữa các nước đang phát triển với
các nước phát triển
Hoàn thiện các lợi thế
Trước mắt, các nước phát triển cần tìm hiểu lợi thế của quốc gia mình, tiếp tục
hồn thiện lợi thế, phát huy lợi thế hiện tại để phát triển kinh tế. Các nước đang phát
triển thường có lợi thế là lao động rẻ nhưng trình độ lại khơng cao. Do đó cần thiết phải
đầu tư về nhân lực, nâng cao chất lượng lao động ở các nước đang phát triển để giá lao
động không chỉ rẻ mà chất lượng lao động cũng tốt.
Các nước đang phát triển có nhiều tài nguyên thiên nhiên, tuy nhiên, nhiều hay
không đôi khi còn phụ thuộc điều kiện khai thác thế nào. Các nước khai thác bừa bãi,
lãng phí tài nguyên thiên nhiên thì sẽ khơng thể khai thác lâu dài. Cần có sự quản lý
nghiêm ngặt việc khai thác tài nguyên và tập trung chú ý đến vấn đề môi trường ở khu
vực khai thác.
Trong các lý thuyết về lợi thế so sánh mới chỉ đề cập đến những nguồn lực cụ thể như:
vốn, hao phí lao động, nguyên vật liệu... tức là những nguồn lực cụ thể có hình hài, cân
đong đo đếm được, tính được hệ số so sánh mà ta gọi đó là nguồn lực hữu hình. Bên
cạnh đó cịn có nguồn lực vơ hình, khó đo đếm (vị trí địa lý, tiềm năng du lịch, nguồn
nhân lực trí tuệ) cần được đánh giá đúng tầm quan trọng của chúng để có biện pháp
khai thác. Các nguồn lực hữu hình có thể dự đốn được kết quả nhưng nguồn lực vơ
hình thì khó dự đốn cụ thể. Bởi vì sức mạnh nguồn lực vơ hình có thể tăng nhanh và
hiệu quả kinh tế lớn khi khai thác, đôi khi có thể tăng đột biến. Vấn đề đặt ra là cần đầu
tư đặc biệt cho nguồn nhân lực, khai thác triệt để yếu tố thuận lợi về vị trí địa lý của đất
nước. Thực tế con người không tạo ra yếu tố hữu hình nhưng có thể tạo ra yếu tố vơ
hình như: tạo mơi trường du lịch, bồi dưỡng văn hố, chun mơn nghiệp vụ cho nguồn
nhân lực...
Tóm lại, các nguồn lực có lợi thế so sánh để phát triển kinh trên đây không phải là
những giá trị cố định, để khơng mất đi tính lợi thế hoặc có lợi thế so sánh thì các nước
17
đang phát triển cần hồn thiện lợi thế, duy trì lợi thế. Tất cả tuỳ thuộc vào nhận thức và
cách đánh giá của chúng ta. Mỗi nguồn lực có tầm quan trọng và vị trí riêng của nó.
Song nguồn nhân lực, nhân lực có trí tuệ có tầm quan trọng bao trùm lên tất cả. Nâng
cao yếu tố đó mới thực sự tạo điều kiện đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cho việc biết
tìm hiểu vận dụng, tái tạo, bồi bổ để hoàn thiện, khai thác các nguồn lực có lợi thế của
đất nước.
Chuyển dần các lợi thế cạnh tranh
Những lợi thế so sánh về nhân lực, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý thuận lợi là
loại lợi thế tĩnh, lợi thế cấp thấp, thực chất đây là lợi thế về chi phí sản xuất. Trong giao
lưu kinh tế các nước thì các ngành sử dụng nhiều ngun liệu, lao động... có lợi thế là
chi phí sản xuất thấp, hàng hố xuất khẩu sẽ có sức cạnh tranh trên thị trường khu vực
và quốc tế đồng thời sẽ hấp dẫn và thu hút nước ngoài trực tiếp đầu tư (FDI) để sử dụng
các nguồn lực đó. Song các lợi thế này không tồn tại lâu dài do sự hạn chế của tài
nguyên, lao động và sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Do vậy, lợi thế này khó cạnh
tranh nổi với những nước có lợi thế cấp cao (vốn, lao động, trình độ khoa học kỹ thuật
cao...) trong khu vực. Chính vì thế, các nước đang phát triển cần chuyển dần lợi thế, tập
trung đầu tư vào khoa học công nghệ, nghiên cứu triển khai, phát huy năng lực sản xuất
trong nước và thu hút vốn đầu tư để tăng cường năng lực vốn và kỹ thuật.
Trung Quốc là trường hợp điển hình đã thành công trong việc sử dụng sức hấp dẫn
của thị trường to lớn và nhân công rẻ để thu hút đầu tư và tiếp thu công nghệ. Là một
nước nghèo và lạc hậu chỉ trong vài thập niên trước đây, năm 2010, Trung Quốc đã
vượt Nhật để trở thành cường quốc kinh tế thứ hai, và vượt Đức ở vị trí số một về kim
ngạch xuất khẩu trên thế giới.
Sự phát triển về kỹ thuật và tiến trình tồn cầu hóa nền kinh tế diễn ra nhanh hơn
trong những thập niên qua đã hỗ trợ cho việc mở rộng hoạt động của các dây chuyền
sản xuất xuyên quốc gia do các công ty đa quốc gia của các nước phát triển thực hiện,
nhằm hữu hiệu hóa và tối đa hóa lợi nhuận, dựa trên sự khai thác các lợi thế của các
nước đang phát triển. Các đại công ty đa quốc gia này đã thành công về phương diện
kinh doanh; song đồng thời, hoạt động thuê ngoài của họ cũng tạo cơ hội cho các nước
đang phát triển tiếp cận và nắm bắt kỹ thuật và quy trình sản xuất tiên tiến; dần dà phát
triển, vững mạnh, và trở thành đối thủ cạnh tranh với chính các nước phát triển.
18
KẾT LUẬN
Tóm lại, mỗi nước đang phát triển đều có những đặc điểm khác nhau về chính trị,
kinh tế, xã hội….việc nghiên cứu những lợi thế về thương mại quốc tế tại các quốc gia
này nhằm rút ra những đặc trưng, những đặc điểm cơ bản, những vấn đề cốt lõi về
thương mại quốc tế. Từ đó, giúp các nước có cái nhìn đúng đắn về những lợi ích, cũng
như tiêu cực mà thương mại quốc tế đem lại nhằm đưa ra các chính sách, chiến lược
phát triển kinh tế một cách hiệu quả nhất.
19