Tải bản đầy đủ (.docx) (39 trang)

Tiểu luận tổng quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (300.32 KB, 39 trang )

1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Sự phát triển của lực lượng sản xuất cùng với xu thế toàn cầu hóa đã
thúc đẩy đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) tăng mạnh trong những thập niên
gần đây. Trong quá trình phát triển, FDI cũng bộc lộ những hạn chế nhất định
đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư như: gây mất cân bằng về cơ cấu ngành, gia
tăng khoảng cách giàu nghèo, tranh chấp giữa chủ doanh nghiệp với người lao
động, tình trạng chuyển giá, trốn thuế của các doanh nghiệp, công nghệ lạc
hậu gây ô nhiễm môi trường, lãng phí tài nguyên đất,… Tuy nhiên, bằng
chứng từ các công trình nghiên cứu cho thấy FDI có tác động rất mạnh mẽ
đến sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia tiếp nhận đầu tư. Chính dòng vốn FDI
đã thúc đẩy nền công nghiệp trong nước phát triển, tạo việc làm và tăng thu
nhập cho người lao động, có đóng góp lớn vào GDP của các nước đang phát
triển.
Như vậy, có thể khẳng định rằng dòng vốn FDI có tác động hai mặt tới
sự phát triển của nước chủ nhà. Các quốc gia tiếp nhận FDI với mong muốn
phát triển đất nước. Nhưng sự phát triển bền vững mới là lựa chọn tối ưu cho
tất cả các quốc gia và vũng lãnh thổ. Vậy làm thế nào để nước chủ nhà vừa có
thể tận dụng được những tác động tích cực của dòng vốn FDI vừa đảm bảo
được mục tiêu phát triển bền vững của quốc gia mình? Để làm được điều đó,
chúng ta cần đo lường được tác động của vốn FDI tới sự phát triển bền vững
quốc gia, vùng lãnh thổ, rồi từ đó đề xuất các giải pháp giúp thu hút, quản lý
và khai thác tốt vốn FDI.


2

I.



Tính cấp thiết của đề tài
Từ sau cải cách kinh tế năm 1986, Việt Nam đã thực hiện chủ trương

hội nhập kinh tế quốc tế. Mở đầu bằng việc thông qua Luật Đầu tư Nước
ngoài vào năm 1987. Sau đó nước ta tiến hành ký kết các hiệp định thương
mại song phương, đa phương như: Hiệp định thương mại Việt-Mỹ, hiệp đinh
đối tác kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản,… Việt Nam đã trở thành thành
viên của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), thành viên của diễn
đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), tham gia Diễn đàn
kinh tế Á-Âu (ASEM) và là thành viên của tổ chức thương mại thế giới
(WTO).
Song song với mở cửa cho thương mại, Việt Nam đã và đang tích cực
cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài. Việt Nam đã ký kết trên 90 Hiệp định thương mại song phương, gần 60
Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư, 54 Hiệp định chống đánh thuế hai
lần1. Trong đó phạm vi điều chỉnh của các hiệp định đều mở rộng hơn so với
những qui định hiện hành của Luật Đầu tư Nước ngoài tại Việt Nam. Các nỗ
lực của Chính phủ Việt Nam đã đem lại những kết quả đáng khích lệ về thu
hút vốn FDI vào Việt Nam. Tính đến hết năm 2012,theo số liệu của Tổng cục
thống kê, Việt Nam đã thu hút được 15.904 dự án với tổng vốn đăng ký đạt
246339,4 triệu USD và đóng góp khoảng 19% vào GDP năm 2012. Trong đó,
tỉnh Hải Dương thu hút được khoảng 240 dự án FDI với tổng số vốn đăng ký
ước đạt 5500 triệu USD, là một trong những tỉnh thành có mức độ thu hút
FDI lớn nhất cả nước.

1 Theo Lâm Quỳnh Anh – Văn phòng UBQG – HTKTQT, Những thành tựu trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam



3

Vốn FDI ngoài việc góp phần làm tăng ngân sách nhà nước, còn góp
phần làm tăng đầu tư xã hội và tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực sản
xuất công nghiệp và xuất khẩu, tạo thêm việc làm, cải thiện nguồn nhân lực.
Bên cạnh những tác động tích cực,vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài còn
có những ảnh hưởng không tốt đến sự PTBV của vùng lãnh thổ. Việc thu hút
FDI càng nhiều thì quỹ đất dành cho sản xuất nông lâm nghiệp càng bị thu
hẹp, một bộ phận lớn lao động trong nông nghiệp phải chuyển đổi nghề
nghiệp và đối diện với nguy cơ thất nghiệp cao. Những dự án FDI nếu không
được thực hiện sẽ làm tăng tỷ lệ đất hoang hóa. Nhiều khu công nghiệp được
hình thành và đi vào hoạt động, lượng chất thải đẩy ra môi trường ngày càng
nhiều gây ô nhiễm môi trường trong tương lai.
Xuất phát từ những tác động hai mặt đó của vốn FDI, tác giả hy vọng
bản thân sẽ có những nghiên cứu hữu ích đóng góp cho công tác thu hút và
quản lý vốn FDI theo hướng PTBV tỉnh Hải Dương nói riêng và các tỉnh
thành khác trong cả nước nói chung. Chính vì vậy, tác giả đã lựa chọn hướng
nghiên cứu: “Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài tới sự PTBV của tỉnh
Hải Dương” làm đề tài nghiên cứu cho luận án tiến sĩ của mình.
II.
II.1.
II.1.1.

Tổng quan tình hình nghiên cứu
Các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài
Các công trình nghiên cứu về tác động của FDI đối với nước tiếp nhận
đầu tư
Tác động của FDI lên sự tăng trưởng và phát triển kinh tế từ lâu đã

được các nhà kinh tế học nghiên cứu rất sâu trong các nghiên cứu lý thuyết

cũng như thực nghiệm cho từng nước cụ thể. Trên thế giới có khá nhiều nhà
kinh tế đã nghiên cứu đánh giá tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế, họ
thường sử dụng phương pháp phân tích định lượng để kiểm định và lượng hoá
các tác động này và đưa ra nhiều kết luận không thống nhất về tác động của
FDI tới nền kinh tế.


4

Các lý thuyết tân cổ điển truyền thống mà đại diện là mô hình Solow
(1957)[35] đã không thể chỉ ra mối liên kết giữa FDI và sự tăng trưởng kinh
tế. Ở hầu hết các nghiên cứu sau đó đều liên kết với các học thuyết tăng
trưởng nội sinh mới, như Romer (1986)[34] và Lucas (1998)[31] tập trung
vào mối quan hệ chi tiết giữa công nghệ và tăng trưởng kinh tế. Họ đều cho
rằng FDI có thể tác động tích cực lên sự tăng trưởng kinh tế, không chỉ tác
động trực tiếp thông qua việc tăng cường tạo vốn, cơ hội việc làm và xuất
khẩu mà còn có tác động gián tiếp thông qua việc nâng cao nguồn nhân lực và
tiến độ công nghệ cũng như nâng cao khả năng sản xuất ở nước nhận FDI.
Theo Borensztein và các cộng sự (1998) [18], mối quan hệ giữa dòng chảy
vốn FDI và tăng trưởng kinh tế thường có xu hướng phụ thuộc vào một số đặc
điểm của nước nhận đầu tư, như trình độ nguồn nhân lực và công nghệ. Cụ
thể, Borensztein và các cộng sự đã kiểm tra tác động của FDI lên tăng trưởng
kinh tế bằng phương pháp hồi quy bộ dữ liệu về FDI ở cả các nước công
nghiệp và các nước đang phát triển. Họ cho rằng FDI là một phương tiện quan
trọng trong việc chuyển giao công nghệ và đóng góp cho sự tăng trưởng nhiều
hơn so với đầu tư trong nước. Tuy nhiên, họ lại phát hiện rằng FDI không thể
làm cho năng suất tăng cao hơn được trừ khi nguồn nhân lực đạt đến một
ngưỡng nhất định.
Sử dụng phương pháp phân tích dữ liệu chéo và mô hình hồi qui theo
phương pháp bình phương nhỏ nhất (OLS), Balasubramanyam (1996) và các

cộng sự [15] đã tìm ra những tác động tăng trưởng tích cực của FDI và xem
xét dòng chảy FDI vào một quốc gia đang phát triển như là một đại lượng đo
lường khả năng trao đổi của nước đó với các quốc gia khác. Họ cho rằng FDI
quan trọng hơn đối với sự tăng trưởng kinh tế của các quốc gia thúc đẩy xuất
khẩu hơn là so với các quốc gia nhập khẩu thay thế, điều này ám chỉ rằng tác
động của FDI ở mỗi quốc gia thì khác nhau và chính sách thương mại có thể
tác động lên vai trò của FDI trong sự tăng trưởng kinh tế. UNCTAD (1999)
[36] đã khẳng định FDI có thể tác động tích cực hoặc tiêu cực lên sản lượng,
phụ thuộc vào các biến điều kiện khác như: GDP bình quân trên đầu người,
thành tựu giáo dục, tỷ lệ đầu tư trong nước, tình hình chính trị, các điều khoản


5

thương mại và tình trạng phát triển tài chính của quốc gia. Sử dụng dữ liệu
của 80 quốc gia trong giai đoạn từ năm 1971 đến 1995, Choe (2003) [22] phát
hiện một quan hệ nhân quả 2 chiều giữa FDI và tăng trưởng kinh tế nhưng tác
động từ tăng trưởng kinh tế lên FDI lại rõ ràng hơn. Lix và Liu (2005) [30],
bằng cách sử dụng dữ liệu bảng của 84 quốc gia trong giai đoạn từ năm 1970
đến 1999, đã lập ra một hệ phương trình đồng thời giữa GDP và FDI. Hai
người đã kết luận rằng tự bản thân FDI không chỉ trực tiếp thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế mà còn gián tiếp thúc đẩy thông qua các quan hệ tương tác của
nó, mối tương tác giữa FDI và nguồn nhân lực tạo nên một tác động tích cực
mạnh mẽ đối với sự tăng trưởng kinh tế ở các nước đang phát triển, trong khi
mối tương tác giữa FDI và khoảng cách công nghệ lại tạo ra tác động tiêu cực
đáng kể.
Trong các phân tích dữ liệu chuỗi thời gian, Bende-Nabende và Ferd
(1998) [16] đã phát triển một mô hình phương trình đồng thời nhằm phân tích
sự tăng trưởng kinh tế ở Đài Loan đối với biến FDI và biến chính sách của
Chính phủ. Với những phân tích về các tác động trực tiếp và hiệu ứng số

nhân, cả hai đã xác định rằng FDI có khả năng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
và các biến chính sách có khả năng thúc đẩy tăng trưởng tốt nhất là biến phát
triển cơ sở hạ tầng và tự do hóa. Mặt khác, Chan (2000) [19] đã phân tích vai
trò của FDI trong lĩnh vực chế biến sản xuất tại Đài Loan bằng cách kiểm tra
quan hệ nhân quả Granger của một mô hình đa biến. Ông tìm hiểu mối quan
hệ giữa FDI và tác động lan tỏa như đầu tư cố định, xuất khẩu và chuyển giao
công nghệ và đã phát hiện ra rằng chuyển giao công nghệ là kênh chính giúp
FDI tác động lên nền kinh tế Đài Loan.
Zhang (2001) [39] đã nghiên cứu mối quan hệ nhân quả giữa FDI và
sản lượng bằng mô hình hồi quy vector (VAR) ở 11 quốc gia ở Đông Á và
Mỹ Latinh. Ông phát hiện ra rằng tác động của FDI ở các nước Đông Á đáng
kể hơn ở các nước Mỹ Latinh. Ông ghi nhận một tập hợp các chính sách
thường có xu hướng thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế cho các nước nhận đầu
tư bằng cách áp dụng chế độ tự do hóa thương mại, cải thiện giáo dục, từ đó
cải thiện điều kiện nguồn nhân lực, khuyến khích FDI theo định hướng xuất


6

khẩu và giữ vững cân bằng kinh tế vĩ mô. Bende-Nabende và các cộng sự
(2003) [17] đã nghiên cứu 5 quốc gia ở Đông Á bằng cách sử dụng phân tích
mô hình VAR và đã khẳng định tác động tích cực của FDI. Tuy nhiên, tác
động lên hiệu ứng lan tỏa ở mỗi nước là khác nhau. Mô hình VAR với dữ liệu
mảng cũng đã được Baharumshah và Thanoon (2006) [14] ước lượng để tìm
hiểu mối quan hệ giữa FDI, tiết kiệm và tăng trưởng kinh tế ở 8 nước Đông Á
và Đông Nam Á. Họ khẳng định có các tác động tích cực lâu dài của FDI và
tiết kiệm trên tăng trưởng kinh tế.
Sử dụng phương pháp hồi quy dữ liệu mảng GMM với bộ dữ liệu từ
1980 – 2003 tại 79 quốc gia, Jonathan A. Battena and Xuan Vinh Vo (2009)
[27], đã xây dựng mô hình nghiên cứu với: biến phụ thuộc (FDI); các biến

độc lập (lạm phát, vốn thị trường chứng khoán, độ năng động thị trường
chứng khoán, độ hiệu quả của thị trường chứng khoán, nợ nội địa, đầu tư nội
địa, trình độ giáo dục, độ mở nền kinh tế, rủi ro quốc tế). Các phân tích cho
kết quả rằng FDI có tác động tích cực mạnh mẽ lên tăng trưởng kinh tế đối
với các nước có trình độ học vấn cao, có mở cửa đối với thương mại quốc tế
và phát triển thị trường chứng khoán, mức tăng trưởng dân số thấp hơn và
mức độ rủi ro thấp hơn. Các tác giả cũng đưa ra giải pháp rằng các nước đang
thực hiện cải cách nhằm mục tiêu hạn chế vốn đầu tư ra nước ngoài và kiểm
soát nguồn vốn nên thay đổi cách làm, nên thực hiện chính sách để đảm bảo
các mục tiêu vĩ mô chính sách xã hội như giáo dục và cải cách thể chế để tận
dụng lợi ích từ nguồn vốn FDI. Xiaohui Liu, Chang Shu, Peter Sinclair (2009)
[38], nghiên cứu về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng
kinh tế ở 9 quốc gia Châu Á. Bằng cách sử dụng bộ dữ liệu từ 1990-2004 và
áp dụng mô hình VAR với biến đầu vào: FDI; GDP, xuất khẩu, nhập khẩu.
Các tác giả đã tìm thấy mối quan hệ nhân quả giữa FDI, thương mại, sắp nhập
và mua lại M&A và tăng trưởng kinh tế ở hầu hết các nước Châu Á trong
nghiên cứu, có mối quan hệ nhân quả một chiều từ M&A đến tăng trưởng và
thương mại. Những phát hiện này cho thấy việc mở rộng xuất khẩu, tự do hóa
nhập khẩu, dòng vốn FDI vào bên trong và M&A là những yếu tố không thể
thiếu trong quá trình tăng trưởng trong nền kinh tế châu Á.


7

Adam P. Balcerzak, Mirosława Żurek (2011) [12], nghiên cứu về mối
quan hệ giữa đầu tư trực tiếp nước ngoài và thị trường lao động. Sử dụng bộ
dữ liệu theo quý từ 1995- 2009 tại Ba Lan, bằng cách sử dụng mô hình VAR
với biến đầu vào: FDI (Đầu tư trực tiếp nước ngoài); BAEL (tỷ lệ thất
nghiệp); GDP (tổng sản phẩm quốc nội); DEM (tổng cầu nội địa); SAL
(lương trung bình trong nền kinh tế); EIK (tỷ lệ tổng xuất khẩu trên nhập

khẩu). Tác giả nhận thấy rằng có mối quan hệ kinh tế phụ thuộc lẫn nhau giữa
FDI và thị trường lao động trong dài hạn và thúc đẩy FDI dẫn đến giảm tỷ lệ
thất nghiệp. Điều này gợi ý các khuyến nghị chính sách khuyến khích dòng
vốn FDI để tạo ảnh hưởng tích cực về lâu dài đối với thị trường lao động tại
Ba Lan.
Trong nghiên cứu của Kevin D. Curwin, Matthew C.Mahutga (2011)
[28], bằng phương pháp hồi quy số liệu mảng với bộ dữ liệu 2009 – 2010 của
25 quốc gia, các tác giả đã xây dựng mô hình: biến phụ thuộc (2 biến phụ
thuộc lần lượt cho 2 mô hình là phần trăm thay đổi trong GDP và tỷ lệ FDI
tính bằng dòng vốn FDI vào chia cho vốn FDI) và biến độc lập: nguồn nhân
lực, lực lượng lao động, dân số, giáo dục, mức độ công nghiệp hóa, độ mở
nền kinh tế (các biến độc lập được sử dụng chung cho cả hai mô hình FDI,
GDP). Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng những quốc gia sẽ có nền công
nghiệp hóa phát triển với việc xã hội hóa nền kinh tế mà không cần dòng vốn
FDI. Bằng chứng này cho thấy FDI không ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế
cả trong ngắn hạn và dài hạn. Các tác giả đề nghị cần phải xem xét những
thay đổi đầu ra FDI trong thời gian thực để kiểm soát các nguồn vốn thay thế
những ngành kém phát triển, từ đó cải thiện hiệu quả dòng vốn FDI.
II.1.2.

Các công trình nghiên cứu về phát triển bền vững
Vai trò của cộng đồng trong PTBV và bảo vệ môi trường cũng được

nhấn mạnh trong các nghiên cứu những năm gần đây. Dara O’Rourke (2004)
với nghiên cứu Community-driven Regulation: Balancing Development and
Environmental in Viet Nam đã tập trung vào các vấn đề phát sinh về quản lý
môi trường trong nỗ lực cân bằng giữa phát triển công nghiệp và bảo vệ môi


8


trường. Nghiên cứu thực hiện khảo sát 6 nhà máy và cộng đồng ở hai tỉnh
Đồng Nai và Phú Thọ. Theo ông, công tác quản lý môi trường của chính phủ
còn tồn tại những điểm yếu và xung đột, nhưng các chính quyền địa phương
(cấp tỉnh, cấp huyện, cấp xã) đôi khi đã đáp ứng với khiếu nại của công chúng
và thực hiện điều tiết ô nhiễm công nghiệp. Như vây, trong các trường hợp
này, ông kết luận rằng áp lực của cộng đồng sẽ thực hiện công bằng trong các
cuộc xung đột môi trường, thúc đẩy chính quyền địa phương phản ứng với sự
cố ô nhiễm cụ thể, gây sức ép với cơ quan môi trường để cải thiện việc giám
sát, thực thi và mở rộng nhận thức của công chúng về các vấn đề môi trường.
Michael Hibbard và Chin Chun Tang (2004) đã áp dụng phương pháp
nghiên cứu dựa vào con người và hướng tiếp cận xã hội trong nghiên cứu
PTBV tại Việt Nam và thực hiện một nghiên cứu trường hợp quản lý rừng
ngập mặn ở miền Nam Việt Nam dưới góc nhìn của xã hội. Trong bài viết
“Sustainable Community Development: A Social Approach from Vietnam”
các tác giả tập trung phân tích các nỗ lực của chính phủ, các tổ chức phi chính
phủ và cộng đồng dân cư, đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò đóng góp vào
PTBV của người phụ nữ trong cộng đồng.
II.2.
II.2.1.

Các công trình nghiên cứu trong nước
Các công trình nghiên cứu về tác động của FDI
Hầu hết các công trình nghiên cứu đều khẳng định FDI có tác động hai

mặt tới các vấn đề kinh tế và xã hội của khu vực tiếp nhận đầu tư.
Tác giả Phạm Sỹ Thành (2011)[4] có bài đăng trên Cổng Thông tin
Kinh tế Việt Nam: “Về vai trò của vốn FDI – Nghiên cứu so sánh trường hợp
Việt Nam và Trung Quốc”. Ông đã đưa ra một số kết luận chủ yếu sau: (i) Sự
tập trung của doanh nghiệp FDI trong các ngành thâm dụng lao động khiến

hiệu ứng lan tỏa kĩ thuật của các doanh nghiệp này ở Việt Nam rất yếu kém.
(ii) Sự tập trung của doanh nghiệp FDI trong các ngành thâm dụng lao động
làm chậm quá trình nâng cao tiền lương cho công nhân viên Việt Nam. Bởi lẽ,
“giá trị gia tăng” từ lao động chân tay (lao động giản đơn) luôn đặt người lao
động vào tình thế bất lợi trong việc đòi hỏi được hưởng mức phân chia cao


9

hơn từ lợi nhuận doanh nghiệp. (iii) Sự tập trung của doanh nghiệp FDI trong
các ngành thâm dụng lao động khó lòng hỗ trợ công nghiệp Việt Nam phát
triển theo chiều sâu và hiện đại. (iv) Sự yếu kém của các ngành công nghiệp
phụ trợ làm suy yếu sức hấp dẫn của Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư nước
ngoài đồng thời làm giảm thiểu ngay chính tác động tích cực của doanh
nghiệp FDI trong việc truyền bá/chuyển giao công nghệ.
Một trong những nghiên cứu định lượng tiên phong đánh giá sâu về tác
động của FDI tới phát triển về kinh tế đó là Nguyễn Thị Tuệ Anh (2006)[2]
cùng các cộng sự có nghiên cứu về tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài
tới tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Nhóm tác giả đã tiến hành các phân tích
định lượng đánh giá tác động của FDI tới tăng trưởng kinh tế qua kênh hình
thành tài sản vốn, sau đó đánh giá tác động tràn của FDI tới doanh nghiệp.
Nhóm tác giả khẳng định FDI đã đóng góp tích cực vào tăng trưởng ở Việt
Nam và mức độ đóng góp tăng lên khi Việt Nam chính thức hội nhập vào nền
kinh tế khu vực và thế giới. Đồng thời, ở góc độ vi mô thì:
- Khu vực có vốn FDI có năng suất và thu nhập cao hơn các khu vực
khác.
- Sự xuất hiện của doanh nghiệp FDI làm thay đổi NSLĐ của các
doanh nghiệp trong nước theo hướng tích cực cho thấy dấu hiệu của việc xuất
hiện tác động tràn tích cực. Xét trên giác độ loại hình doanh nghiệp, sự xuất
hiện của doanh nghiệp FDI dường như không có ảnh hưởng gì tới NSLĐ của

DNNN cùng ngành nói chung và trong từng nhóm khảo sát nói riêng, trong
khi đó lại có tác động làm tăng NSLĐ của các DNTN nói chung và DNTN ở
ngành dệt-may và chế biến thực phẩm nói riêng biến động thất thường về FDI
đăng ký sẽ bất lợi cho tăng trưởng kinh tế.
- Khu vực có vốn FDI tập trung trong các ngành sản xuất thay thế nhập
khẩu, tức được bảo hộ và trong chừng mực nào đó có sức mạnh thị trường.
Do vậy, khả năng sinh ra tác động tràn tích cực hay tác động lan tỏa chắc
chắn bị hạn chế. FDI tập trung cao trong các ngành được bảo hộ, tập trung


10

vốn có thể ngăn cản quá trình di chuyển lao động giữa các doanh nghiệp FDI
sang doanh nghiệp trong nước, hoặc sang các ngành khác, nhấtlà di chuyển
lao động có trình độ kỹ năng. Có chăng chỉ là di chuyển lao động giữa các
doanh nghiệp FDI. Như vậy, khả năng xuất hiện tác động tràn tích cực do di
chuyển lao động là rất hạn chế.
Tiếp theo là nghiên cứu của Đào Thị Bích Thủy (2012)[7] “Tác động
của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến tăng trưởng kinh tế trong mô hình nền
kinh tế đang phát triển”. Tác động rõ ràng nhất của đầu tư trực tiếp nước
ngoài là sự bổ sung nguồn vốn vật chất cho nền kinh tế và do vậy giúp gia
tăng sản lượng tiềm năng. Tuy nhiên, lượng đầu tư nước ngoài tại mỗi thời
kỳ, ngoài việc được xác định bởi trữ lượng vốn thuộc sở hữu trong nước, còn
bị chi phối bởi yếu tố công nghệ sản xuất và lãi suất thế giới theo phương
trình trong đó Kd, Kf là nguồn vốn vật chất thuộc sở hữu trong nước và nước
ngoài, H, là vốn nhân lực và lãi suất thế giới. Sau khi phân tích, tác giả đi đến
kết luận: (i) Trong ngắn hạn, khu vực nước ngoài sử dụng hàm sản xuất
Cobb-Douglas với công nghệ sử dụng vốn vật chất càng cao thì càng có tác
động tích cực đến sản lượng của nền kinh tế, thu nhập quốc dân và số lượng
việc làm cho lao động phổ thông. Còn sự gia tăng trong lãi suất thế giới có tác

động làm tăng sản lượng của khu vực sản xuất trong nước song làm giảm sản
lượng của khu vực sản xuất nước ngoài. Như vậy, tác động của sự thay đổi
trong lãi suất thế giới đối với sản lượng của nền kinh tế GDP và thu nhập
quốc dân GNP là không rõ ràng. (ii) Trong dài hạn, sự tác động của vốn FDI
đến GDP và GNP phụ thuộc vào chính sách đầu tư trong nước. Cụ thể, tỷ
trọng đầu tư cho vốn nhân lực cao hơn so với vốn vật chất sẽ dẫn đến tốc độ
tăng trưởng cao hơn cho cả GDP và GNP song lại tạo ra ít việc làm hơn cho
lao động phổ thông.
Trong luận án tiến sĩ “Mô hình phân tích mối quan hệ của FDI và tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam”, tác giả Hồ Đắc Nghĩa (2014)[3] sử dụng mộ hình
VAR và đi đến kết luận: nhịp tăng vốn FDI sẽ tác động tới nhịp tăng GDP từ
năm thứ 2 và kéo dài khoảng 4 năm. Tuy nhiên 1% tăng của FDI có tác động
không đáng kể đến nhịp tăng của GDP. Và chiều ngược lại, 1% tăng của GDP


11

có thể mang lại hiệu ứng 0,101% tăng FDI ngay ở năm thứ nhất, và làm tăng
FDI từ 0,04% đến 0,06% ở 2 năm tiếp theo sau đó có dấu hiệu tắt dần. Ngoài
ra trong luận án, tác giả còn đánh giá ảnh hưởng của FDI đến các doanh
nghiệp trong nước bằng phương pháp bán tham số Levinsohn – Petrin. Kết
quả chỉ ra rằng phần chia vốn nước ngoài có tác động thuận chiều tới giá trị
doanh thu của các doanh nghiệp trong ngành chế tác. Và khi ước lượng theo
phương pháp số liệu hỗn hợp với ảnh hưởng cố định, tác giả chỉ ra thêm rằng
đầu tư nước ngoài đã kích thích cải tiến công nghệ, tổ chức quản lý tốt hơn
trong các doanh nghiệp cùng ngành không chỉ trực tiếp mà còn thông qua tác
động gián tiếp. Kết quả trong cả hai phương pháp ước lượng đều cho thấy
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thì hiệu quả sử dụng lao động cao
hơn so với doanh nghiệp không có vốn đầu tư nước ngoài.
Ở cấp độ vùng, luận án tiến sĩ “Đầu tư trực tiếp nước ngoài và tăng

trưởng kinh tế ở các vùng của Việt Nam” của Nguyễn Minh Tiến (2014)[8] sử
dụng mô hình phân tích và xử lý dữ liệu theo phương pháp GMM sai phân
với cập nhật của Arellano-Bond, đồng thời khai thác phương pháp hồi quy
các vector đồng liên kết dài hạn và đặc tính năng động trong ngắn hạn của
phương pháp PMG. Kết quả cho thấy dòng vốn FDI có vai trò tích cực đối
với tăng trưởng kinh tế ở vùng đồng bằng sông Hồng; FDI thể hiện tác động
dương đối với tăng trưởng kinh tế ở liên kết vùng thuộc miền Nam; và FDI
theo đặc tính đô thị chỉ tồn tại tác động dương đến tăng trưởng ở liên kết vùng
thuộc miền Bắc; bên cạnh đó đặc tính năng động ngắn hạn không đạt bền
vững.
Bên cạnh những ảnh hưởng tích cực của FDI thì nước ta còn phải chịu
một số vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh. Luận án tiến sĩ của Trần Quang Thắng
(2012)[5] đã rút ra kết luận về những vấn đề kinh tế xã hội nảy sinh trong FDI
tại Việt Nam như sau:
-

Tạo sức ép cạnh tranh đối với doanh nghiệp trong nước;
Làm mất cân đối ngành, vùng kinh tế;
Xuất hiện tình trạng chuyển giá;
Chuyển giao công nghệ lạc hậu;


12

-

Gây ô nhiễm môi trường sinh thái;
Những bất cập về điều kiện làm việc và sinh hoạt của người lao động;
Tranh chấp giữa chủ sử dụng lao động và người lao động;
Nguy cơ thâm hụt thương mại và một số vấn đề xã hội nảy sinh khác.

Trên cơ sở bài học kinh nghiệm của các nước đang phát triển Châu Á,

tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những vấn đề trên tại
Việt Nam. Điển hình như: (i) Thiết lập hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp trong
việc nhập khẩu công nghệ thích hợp, khuyến khích hoạt động R&D; (ii) Thu
hút FDI có lựa chọn gắn với phát triển bền vững; (iii) Tăng đầu tư cho việc
nâng cao chất lượng đào tạo nghề theo phương châm lấy doanh nghiệp làm
trọng tâm; (iv) Gắn FDI với chuyển dịch cơ cấu kinh tế; (v) Cải thiện điều
kiện làm việc, sinh hoạt và thực hiện chương trình an sinh xã hội cho người
lao động làm việc tại các khu công nghiệp; (vi) Khuyến khích các doanh
nghiệp FDI tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước và đẩy mạnh
xuất khẩu; (vii) Tăng cường liên kết giữa các địa phương trong thu hút FDI.
II.2.2.

Các công trình nghiên cứu về sự phát triển bền vững
Về nội dung của PTBV, tác giả Vũ Quốc Tuấn (2006)[9] có bài đăng

trên Cổng Thông tin Kinh tế Việt Nam, Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế
Trung ương. Theo tác giả, PTBV bao gồm sáu nội dung chủ yếu sau:
- Tăng trưởng kinh tế nhanh trên cơ sở giải phóng mạnh mẽ sức sản
xuất, phát huy tiềm năng của các thành phần kinh tế, khuyến khích phát triển
mạnh mẽ kinh tế tư nhân, thu hút đầu tư nước ngoài, đẩy mạnh sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế.
- Tăng trưởng kinh tế phải đi đôi giải quyết các vấn đề xã hội như tiến
bộ và công bằng xã hội, tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm nghèo, tệ nạn xã
hội và phòng chống tham nhũng.
- Bảo vệ và cải thiện môi trường.


13


- Phát triển văn hóa, giáo dục và khoa học công nghệ để nêu cao giá trị
con người Việt Nam và tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Bảo đảm tự do dân chủ.
- Phát triển con người, Nhà nước cần có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng
và trọng dụng nhân tài. Đó chính là chỗ dựa vững chắc để phát triển bền
vững.
Luận án tiến sĩ của Nguyễn Minh Thu (2013)[6] đề xuất quy trình và
phương pháp tính chỉ số tổng hợp đánh giá PTBV ở Việt Nam. Đây là nghiên
cứu toàn diện đầu tiên về mặt phương pháp luận, gồm các bước: (i) Tính các
chỉ số riêng biệt dựa trên các chỉ tiêu trong hệ thống chỉ tiêu thống kê PTBV;
(ii) Tính bốn chỉ số thành phần tương ứng với bốn nhóm chỉ tiêu thống kê
PTBV; (iii) Tính chỉ số tổng hợp PTBV trên cơ sở tính bình quân. Trong từng
bước, luận án phân chia thành các trường hợp cụ thể để lựa chọn công thức
tính và các yếu tố tương ứng phù hợp. Tác giả tính toán thử nghiệm chỉ số
PTBV ở Việt Nam giai đoạn 2001 – 2010 trên cơ sở các công thức đã đề xuất.
Việc tính toán này tạo điều kiện đánh giá thực trạng bền vững trong quá trình
phát triển của Việt nam trong giai đoạn trên. Kết quả cho thấy sự phát triển
của nước ta không thực sự bền vững.
II.3.

Một số vấn đề đặt ra cần tiếp tục nghiên cứu
Các bằng chứng thực nghiệm được nghiên cứu trong những năm qua là

những minh chứng thuyết phục nhất cho lý thuyết về vai trò của vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đối với nước tiếp nhận đầu tư. Đồng thời, những kết quả
nghiên cứu khác nhau dựa trên những điều kiện riêng biệt đã làm phong phú
thêm cho kho tàng lý luận này. Các trường phái lý thuyết đều khẳng định
dòng vốn FDI có tác động hai mặt tới sự phát triển của nước tiếp nhận. Tuy

nhiên, vấn đề đặt ra là:


14

Thứ nhất, cơ sở để hình thành các tác động của dòng vốn FDI là gì?
Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này, nhưng kết quả
nghiên cứu còn nhiều ý kiến chưa thống nhất. Khi vấn đề trên được sáng tỏ
thì các nước tiếp nhận sẽ chỉ rõ được điều kiện nào để có thể phát huy tối đa
những tác động tích cực và hạn chế tới mức thấp nhất những tác động tiêu cực
của FDI. Đây là vấn đề mà bất cứ quốc gia, vũng lãnh thổ nào cũng cần phải
thực sự quan tâm nghiên cứu.
Thứ hai, vai trò của FDI đối với quốc gia đang phát triển là rất lớn và
không thể phủ nhận. Nhưng, trong xu thế hiện nay, sự PTBV luôn được các
quốc gia, vùng lãnh thổ đặt lên hàng đầu. Vậy làm thế nào để địa phương,
quốc gia tiếp nhận đầu tư vừa phát huy được tác động tích cực của dòng vốn
FDI vừa đảm bảo được sự PTBV là vấn đề quan trọng mà khoa học cần tiếp
tục nghiên cứu làm rõ.
Thứ ba, trong các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án có
rất ít công trình nghiên cứu đo lường tác động của FDI tới sự PTBV của một
quốc gia hay địa phương. Và cho đến nay, chưa có công trình nghiên cứu nào
đánh giá một các sâu sắc và toàn diện về tác động của đầu tư trực tiếp nước
ngoài tới sự PTBV của tỉnh Hải Dương. Do đó, vấn đề luận án lựa chọn làm
đề tài nghiên cứu là một khoảng trống lớn cần được lấp đầy.
Những nội dung cơ bản cần được nghiên cứu trong luận án bao gồm:
Một là, hệ thống hóa cơ sở lý luận về vốn FDI và các tác động của vốn
FDI tới sự phát triển kinh tế, xã hội và môi trường của địa phương tiếp nhận
đầu tư.
Hai là, hệ thống hóa cơ sở lý luận và các chỉ tiêu đo lường, đánh giá sự
PTBV của một địa phương.

Ba là, đánh giá một cách khái quát sự PTBV của tỉnh Hải Dương thông
qua việc tính và phân tích một số chỉ tiêu cụ thể.


15

Bốn là, kiểm tra và đo lường mối quan hệ giữa FDI với các chỉ tiêu
đánh giá sự PTBV của tỉnh Hải Dương trên các khía cạnh: kinh tế, xã hội,
môi trường.
Năm là, đề xuất một số quan điểm, giải pháp giúp tỉnh Hải Dương vừa
phát huy được những tác động tích cực của FDI vừa đảm bảo được mục tiêu
PTBV của tỉnh.
III.
Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu
III.1.
Cơ sở lý thuyết
III.1.1. Lý thuyết về FDI và tác động của FDI lên nước
III.1.1.1.
Lý luận chung về vốn FDI

tiếp nhận đầu tư

Theo tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế (OECD), đầu tư trực tiếp
nước ngoài phản ánh những lợi ích khách quan lâu dài mà một thực thể kinh
tế tại một nước (nhà đầu tư) đạt được thông qua một cơ sở kinh tế tại một nền
kinh tế khác. Lợi ích lâu dài thể hiện ở chỗ sự tồn tại một mối quan hệ dài hạn
giữa nhà đầu tư với doanh nghiệp được đầu tư. Nhà đầu tư có được ảnh
hưởng quan trọng và hiệu quả trong việc quản lý doanh nghiệp đó.
Theo Uỷ ban Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển
(UNCTAD), FDI là một khoản đầu tư bao gồm mối quan hệ trong dài hạn,

phản ánh lợi ích và quyền kiểm soát lâu dài của một thực thể thường trú ở một
nền kinh tế (nhà đầu tư nước ngoài hay công ty mẹ nước ngoài) trong một
doanh nghiệp thường trú ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu
tư nước ngoài (doanh nghiệp đầu tư nước ngoài trực tiếp, doanh nghiệp liên
doanh hoặc chi nhánh nước ngoài).
Theo Quỹ tiền tệ Quốc tế (IMF), FDI là việc đầu tư vốn được thực hiện
ở các doanh nghiệp hoạt động ở nước ngoài nhằm thu về những lợi ích lâu dài
cho nhà đầu tư. Mục đích của nhà đầu tư là giành được tiếng nói có hiệu quả
trong việc quản lý doanh nghiệp đó. Cũng theo IMF, đầu tư trực tiếp nước
ngoài xảy ra khi nhà đầu tư nước ngoài mở rộng một mối quan hệ lâu dài với
một doanh nghiệp của nước tiếp nhận đầu tư và có cổ phần trong doanh


16

nghiệp đủ để duy trì một mức ảnh hưởng quan trọng trong việc quản lý
doanh nghiệp này.
Theo Ngân hàng Thế Giới (WB), FDI là dòng đầu tư ròng (thuần) vào
một quốc gia đề nhà đầu tư có được quyền quản lý lâu dài (nếu nắm được ít
nhất 10% cổ phần thường) trong một doanh nghiệp hoạt động trong một nền
kinh tế khác (đối với chủ đầu tư).
Theo điều 2, Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (12/11/1996): “Đầu
tư trực tiếp nước ngoài là việc nhà đầu tư nước ngoài đưa vốn vào Việt Nam
bằng tiền mặt hoặc bất cứ tài sản nào để tiến hành các hoạt động đầu tư theo
quy định của Luật này”.

III.1.1.2.

Một số lý thuyết về FDI


Lý thuyết về thương mại quốc tế
Khởi đầu là Eli Heckscher (1919) và Bertil Ohlin (1933), lý thuyết giải
thích hiện tượng đầu tư quốc tế dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các
yếu tố đầu tư (vốn, lao động) giữa các quốc gia.
Phát triển lý thuyết trên, năm 1960 Mc. Dougall đã đề xuất một mô
hình lý thuyết về sự vận động của vốn. Ông cho rằng luồng vốn đầu tư sẽ
chuyển từ nước có lãi suất thấp sang nước có lãi suất cao cho đến khi đạt
được trạng thái cân bằng (lãi suất hai nước bằng nhau). Sau đầu tư, cả hai
nước trên đều thu được lợi nhuận và làm cho sản lượng chung của thế giới
tăng lên so với trước khi đầu tư. Sau khi đưa ra mô hình về FDI, Mac.
Dougall đã kết luận đầu tư trực tiếp nước ngoài vừa tạo ra thu nhập cho nhà
đầu tư trong nước và nước ngoài, vừa tạo ra công ăn việc làm tăng thu nhập
cho người lao động.
Lý thuyết tổ chức công nghiệp hay lợi thế độc quyền


17

Lý thuyết tổ chức công nghiệp do Stephen Hymer (1960) và Charles
Kindleberger (1969) nêu ra. Theo lý thuyết này, sự phát triển và thành công
của hình thức đầu tư liên kết theo chiều dọc phụ thuộc vào 3 yếu tố: (i) các
giai đoạn khác nhau của hoạt động sản xuất kinh doanh được liên kết theo
chiều dọc đã góp phần giảm bớt chi phí sản xuất; (ii) việc sản xuất và khai
thác kỹ thuật mới; (iii) những tiến bộ trong ngành giao thông và thông tin liên
lạc đã tạo cơ hội cho mở rộng hoạt động ra đầu tư nước ngoài.
Chiến lược liên kết chiều dọc của các công ty đa quốc gia là đặt các
công đoạn sản xuất ở những vị trí khác nhau trên phạm vi toàn cầu, nhằm tận
dụng lợi thế so sánh ở các nền kinh tế khác nhau, hạ thấp giá thành sản phẩm
thông qua sản xuất hàng loạt và chuyên môn hoá, tăng khả năng cạnh tranh
của công ty trên thị trường. Để đạt được điều đó thì các công ty phải có lợi thế

độc quyền.
Lý thuyết vòng đời sản phẩm
Lý thuyết này được Hirsch (1965) đưa ra trước tiên và sau đó được
Vernon (1966) phát triển một cách có hệ thống. Lý thuyết này lý giải cả đầu
tư quốc tế lẫn thương mại quốc tế, coi đầu tư quốc tế là một giai đoạn tự
nhiên trong vòng đời sản phẩm. Lý thuyết này cho thấy vai trò của các phát
minh, sáng chế trong thương mại và đầu tư quốc tế bằng cách phân tích quá
trình quốc tế hoá sản xuất theo các giai đoạn nối tiếp nhau. Ưu điểm của lý
thuyết này là đưa vào được nhiều yếu tố cho phép lý giải sự thay đổi theo
ngành hoặc việc dịch chuyển dần các hoạt động công nghiệp của các nước
tiên phong về công nghệ.
Theo lý thuyết này, ban đầu phần lớn các sản phẩm mới được sản xuất
tại nước phát minh ra nó và được xuất khẩu đi các nước khác. Nhưng khi sản
phẩm mới đã được chấp nhận rộng rãi trên thị trường thế giới thì sản phẩm
bắt đầu được sản xuất ở các nước khác. Kết quả rất có thể là sản phẩm sau đó
sẽ được xuất khẩu trở lại nước đầu tư, và nước tiếp nhận đầu tư trở thành
nước xuất khẩu. Và như vậy, thuyết này đề cập đến tác động của FDI tới cán


18

cân thương mại và qua đó có ảnh hưởng tới tăng trưởng kinh tế của nước sở
tại.
Lý thuyết Kojima
Nhà kinh tế học Kojima (1973) của Nhật Bản đã mở rộng mô hình của
Akamatsu (1962) và đưa ra lý thuyết vĩ mô về đầu tư trực tiếp nước ngoài
trong khuôn khổ các yếu tố sản xuất tương đối từ thuyết thương mại quốc tế
của Heckscher-Ohlin và dựa trên những kinh nghiệm của Nhật Bản trong bối
cảnh hậu chiến tranh. Ông kết luận, đầu tư FDI thực sự có thể thúc đẩy
thương mại và tăng trưởng kinh tế. Đầu tư FDI, thông qua việc đào tạo và

chuyển giao công nghệ, có ảnh hưởng từ từ đối với việc tăng cường khả năng
cạnh tranh của ngành công nghiệp đặc thù tại quốc gia sở tại, và cuối cùng là
nâng cao khả năng sản xuất của ngành công nghiệp đó. Ông kết luận rằng
khoảng cách về công nghệ giữa quốc gia đầu tư và quốc gia sở tại càng nhỏ
thì việc chuyển giao và nâng cấp công nghệ sẽ càng dễ dàng hơn về sau này.
III.1.1.3.

Tác động của FDI lên nước tiếp nhận đầu tư

Các nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng, FDI có tác động tới
sự phát triển cả về kinh tế, xã hội và môi trường đối với nước tiếp nhận đầu
tư.
Tác động tới kinh tế
FDI tác động tích cực tới sự tăng trưởng và phát triển về kinh tế của
nước sở tại thông qua việc bổ sung nguồn vốn, chuyển giao công nghệ, mở
rộng thị trường, thúc đẩy xuất khẩu, làm tăng ngân sách cho nước chủ nhà và
thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Nhưng sự chuyển dịch đó có thể làm mất
cân bằng cơ cấu, thu hẹp quỹ đất cho sản xuất nông-lâm nghiệp, không phù
hợp với định hướng phát triển nếu quốc gia tiếp nhận đầu tư không có chính
sách thu hút đúng đắn.
Tác động tới xã hội


19

FDI giúp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo việc làm và
tăng thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên, FDI có thể làm gia tăng khoảng
cách giàu nghèo giữa các cá nhân với cá nhân và giữa các khu vực với nhau.
Đồng thời làm gia tăng áp lực thất nghiệp cho những lao động xuất phát từ
nông-lâm nghiệp, đặc biệt là những lao động có độ tuổi không còn trẻ.

Tác động tới môi trường tự nhiên
Cho tới nay, các nghiên cứu đều chỉ ra rằng FDI hầu như không có tác
động tích cực tới môi trường. Những tác động tiêu cực mà FDI gây ra cho
môi trường nước sở tại như: Khai thác cạn kiệt tài nguyên, làm ô nhiễm môi
trường đất, nước và không khí.
III.1.2. Lý
III.1.2.1.

thuyết về phát triển bền vững
Khái niệm phát triển bền vững

Thuật ngữ "phát triển bền vững" xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1980
trong ấn phẩm Chiến lược bảo tồn Thế giới (công bố bởi Hiệp hội Bảo tồn
Thiên nhiên và Tài nguyên Thiên nhiên Quốc tế - IUCN) với nội dung: “Sự
phát triển của nhân loại không thể chỉ chú trọng tới phát triển kinh tế mà còn
phải tôn trọng những nhu cầu tất yếu của xã hội và sự tác động đến môi
trường sinh thái học” [[20], tr.18-19]. Tuy nhiên, chiến lược này chỉ nhấn
mạnh phát triển bền vững ở góc độ bền vững về sinh thái với ba mục tiêu: duy
trì hệ sinh thái cơ bản và những hệ hỗ trợ sự sống; bảo tồn tính đa dạng di
truyền; bảo đảm sử dụng bền vững các loài và các hệ sinh thái.
Khái niệm “phát triển bền vững” được công bố chính thức và phổ biến
rộng rãi vào năm 1987 qua Báo cáo Brundtland (còn gọi là báo cáo Tương lai
chung của chúng ta) của Ủy ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED)
thuộc Liên hiệp quốc. Báo cáo này ghi rõ "phát triển bền vững là sự phát triển
có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến
những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai" [[21], tr.37]. Mục
tiêu của phát triển bền vững mà WCED đưa ra là làm thế nào để đạt được


20


phát triển ở hiện tại mà không ảnh hưởng đến cuộc sống và sự phát triển sau
này.
Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và phát triển ở Rio de
Janero (Brazil) năm 1992 và Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về phát triển
bền vững ở Johannesburg (Cộng hoà Nam Phi) năm 2002 đã khẳng định:
Phát triển bền vững PTBV được khái quát hóa theo ba mặt, gồm phát triển
kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Ba mặt này kết hợp chặt chẽ,
hợp lý, hài hoà với nhau trong quá trình phát triển. Các đại biểu cũng thống
nhất những nguyên tắc cơ bản, phát động một chương trình hành động vì sự
phát triển bền vững có tên Chương trình nghị sự 21 (AGENDA-21). Từ đó,
Chương trình Nghị sự 21 về PTBV và Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ đã trở
thành chiến luợc phát triển của toàn cầu và được tập trung thực hiện.
Ở Việt Nam, theo nghiên cứu của Viện chiến lược phát triển, PTBV
được hiểu một cách toàn diện: “Phát triển bền vững bao trùm các mặt của đời
sống xã hội, nghĩa là phải gắn kết sự phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội, gìn giữ và cải thiện môi trường, giữ vững ổn định chính
trị - xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh” [[11], tr.122].
Như vậy, có thể thấy PTBV là sự phát triển được kết hợp hài hòa giữa
ba mục tiêu lớn: tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội, gìn giữ và cải thiện
môi trường.
III.1.2.2.

Nội dung phát triển bền vững

Năm 2004, Việt Nam đã xây dựng được cho mình chương trình nghị sự
21 (AGENDA-21). Trong đó, Việt Nam nêu rõ mục tiêu tổng quát của phát
triển bền vững là “đạt được sự đầy đủ về vật chất, sự giàu có về văn hoá và
tinh thần, sự bình đẳng của các công dân và sự đồng thuận của xã hội, sự hài
hoà giữa con người và tự nhiên; phát triển phải kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài

hoà được ba mặt là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường”
[[1], tr.21]. Như vậy, nội dung phát triển bền vững gồm ba nhân tố cụ thể: về
kinh tế, xã hội và môi trường.


21

Sơ đồ 3.1. Sơ đồ phát triển bền vững ở Việt Nam theo AGENDA-21
Theo quan điểm chung của thế giới, Việt Nam đã xác định nội dung
phát triển bền vững gồm ba trụ cột chính, được quản lý theo phân cấp dọc từ
trung ương tới địa phương. Cụ thể:
- Phát triển bền vững kinh tế bao gồm 5 nội dung:
+ Duy trì tăng trưởng kinh tế nhanh và ổn định trên cơ sở nâng cao
không ngừng tính hiệu quả, hàm lượng khoa học - công nghệ và sử dụng tiết
kiệm tài nguyên thiên nhiên và cải thiện môi trường.
+ Thay đổi mô hình và công nghệ sản xuất, mô hình tiêu dùng theo
hướng sạch hơn và thân thiện với môi trường.
+ Thực hiện quá trình "công nghiệp hoá sạch".
+ Phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững.
+ Phát triển bền vững vùng và xây dựng các cộng đồng địa phương
phát triển bền vững.
- Phát triển bền vững xã hội bao gồm 5 nội dung:
+ Tập trung nỗ lực để xoá đói, giảm nghèo, tạo thêm việc làm.
+ Tiếp tục hạ thấp tỷ lệ gia tăng dân số, giảm bớt sức ép của sự gia tăng
dân số và tình trạng thiếu việc làm.


22

+ Định hướng quá trình đô thị hoá và di dân nhằm phân bố hợp lý dân

cư và lực lượng lao động theo vùng, bảo vệ môi trường bền vững ở các địa
phương, trước hết là các đô thị.
+ Nâng cao chất lượng giáo dục để nâng cao dân trí, trình độ nghề
nghiệp thích hợp với yêu cầu của sự nghiệp phát triển đất nước.
+ Phát triển về số lượng và nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế và
chăm sóc sức khoẻ nhân dân, cải thiện các điều kiện lao động và vệ sinh môi
trường sống.
- Phát triển bền vững môi trường bao gồm 9 nội dung:
+ Sử dụng hợp lý, bền vững và chống thoái hoá tài nguyên đất.
+ Sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên khoáng sản.
+ Bảo vệ môi trường nước và sử dụng bền vững tài nguyên nước.
+ Bảo vệ môi trường và tài nguyên biển, ven biển, hải đảo.
+ Bảo vệ và phát triển rừng.
+ Giảm ô nhiễm không khí ở các đô thị và khu công nghiệp.
+ Quản lý chất thải rắn và chất thải nguy hại.
+ Bảo tồn đa dạng sinh học.
+ Giảm nhẹ biến đổi khí hậu và hạn chế những ảnh hưởng có hại của
biến đổi khí hậu, góp phần phòng, chống thiên tai.
III.1.2.3.

Hệ thống chỉ tiêu đánh giá phát triển bền vững

Bắt đầu vào năm 1995, đáp ứng yêu cầu của Hội đồng phát triển bền
vững của Liên hợp quốc (UN CSD), Ủy ban kinh tế và các vấn đề xã hội
Liên hợp quốc đã xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê gồm 134 chỉ tiêu


23

quốc gia về phát triển bền vững. Tuy nhiên, sau khi thực hiện, phần lớn các

quốc gia đều cho rằng hệ thống chỉ tiêu này bao gồm quá nhiều chỉ tiêu và
khó có thể quản lý được. Kết quả là, năm 2001, UN CSD đã đưa ra hệ thống
chỉ tiêu khuyến nghị gồm 15 chủ đề chính, 38 chủ đề nhánh và 58 chỉ tiêu. Hệ
thống chỉ tiêu này được sửa đổi một lần nữa vào năm 2006, được Ủy ban kinh
tế và các vấn đề xã hội giới thiệu trong ấn phẩm “Chỉ tiêu thống kê phát triển
bền vững: Hướng dẫn và phương pháp luận” được xuất bản năm 2007. Đây là
hệ thống chỉ tiêu tổng quát, phản ánh đa dạng các khía cạnh của phát triển bền
vững và là cơ sở để các quốc gia xây dựng hệ thống chỉ tiêu phát triển bền
vững cho riêng mình.
Theo xu hướng thế giới, Việt Nam đã nghiên cứu để xây dựng hệ thống
chỉ tiêu thống kê phát triển bền vững cho riêng mình. Quá trình này được các
Bộ, ban, ngành và các tổ chức rất quan tâm. Kết quả là có nhiều hệ thống chỉ
tiêu được đưa ra.
Được ban hành đầu tiên vào năm 1998 là hệ thống chỉ tiêu phát triển
bền vững do Cục môi trường thử nghiệm theo hướng dẫn của UN CSD. Hệ
thống chỉ tiêu này bao gồm 80 chỉ tiêu ở 4 lĩnh vực: lĩnh vực kinh tế (3 chỉ
tiêu); lĩnh vực xã hội (17 chỉ tiêu), lĩnh vực môi trường (44 chỉ tiêu) và lĩnh
vực quản lý môi trường (16 chỉ tiêu). Đây là hệ thống chỉ tiêu phát triển bền
vững đầu tiên của Việt Nam - một bộ chỉ tiêu quá đồ sộ và mất cân đối. Điều
đó gây nhiều khó khăn trong tổng hợp và xử lý số liệu và đánh giá thiếu chính
xác sự PTBV. Tiếp theo đó là chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2001- 2010,
chiến lược toàn diện tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo cũng lần lượt đưa ra
bộ chỉ tiêu đánh giá PTBV. Nhưng các bộ chỉ tiêu này đã không đáp ứng
được yêu cầu của sự PTBV.
Theo thời gian, hệ thống chỉ tiêu đánh giá phát triển bền vững dần được
hoàn thiện và đi vào thực tế. Ngày 12/4/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban
hành Quyết định 432/QĐ-TTg năm 2012 phê duyệt Chiến lược Phát triển bền
vững Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020. So sánh với hệ thống chỉ tiêu phát



24

triển bền vững do UN CSD khuyến nghị năm 2001, nhận thấy có những khác
biệt do thời gian cũng như do đặc điểm riêng của Việt Nam.


25

Bảng 3.1. Hệ thống chỉ tiêu thống kê giám sát và đánh giá phát triển bền vững ở Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020

TT

Chỉ tiêu

Cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, tổng hợp

Lộ trình
thực hiện

I

Các chỉ tiêu tổng hợp

1

GDP xanh (VND hoặc USD)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê)

2015


2

Chỉ số phát triển con người (HDI) (0-1)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê)

2015

3

Chỉ số bền vững môi trường (0-1)

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê)

2015

II

Các chỉ tiêu kinh tế

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê)

2011

Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê)

2011

4


5

Hiệu quả sử dụng vốn đầu tư (ICOR) (số đồng vốn đầu tư thực hiện tăng
thêm để tăng thêm 1 đồng GDP)
Năng suất lao động xã hội (USD/lao động)


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×