Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Luận văn Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thế kỷ XX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 101 trang )

Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Việt Nam - một quốc gia có bề dày lịch sử, được hình thành tương đối
sớm trong khu vực Đông Nam Á, cư dân nơi đây đã sớm gây dựng cho mình
một nền văn hóa dân tộc Việt Nam gắn với kinh tế nông nghiệp lúa nước.
Được sự ưu đãi của vị trí địa lý, nằm trên trục Bắc - Nam, trên địa bàn giao
thoa của hai nền văn minh lớn là Trung Quốc và Ấn Độ. Trong quá trình phát
triển, Việt Nam có những điều kiện thuận lợi để phát huy những giá trị văn
hóa bản địa cũng như tiếp thu có chọn lọc những văn hóa nhân loại để làm
giàu thêm, đa dạng thêm nền văn hóa dân tộc.
Văn kiện hội nghị lần thứ V, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
VIII đã khẳng định“Văn hóa Việt Nam là thành quả hàng nghìn năm lao động
sáng tạo, đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân
tộc Việt Nam, là kết quả giao lưu và tiếp thu tinh hoa của nền văn minh thế
giới để không ngừng hoàn thiện mình, văn hóa Việt Nam đã hun đúc nên tâm
hồn, khí phách, bản lĩnh Việt Nam làm rạng rỡ lịch sử vẻ vang của dân tộc”.
Văn hóa truyền thống có sức sống mãnh liệt, nhờ vậy dù cho đất nước
trong suốt một thời gian dài có chìm đắm dưới vó ngựa của quân xâm lược, dù
cho một số đáng kể các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần có bị mất
mát hoặc bị tiêu hủy đi do sự tàn bạo của kẻ thù thì dân tộc Việt Nam cùng với
nền văn hóa lâu đời cũng đã không vì thế mà bị tiêu diệt hoặc bị đồng hóa.
Đã từ lâu khi nói đến văn hóa làng, nét văn hóa của nông thôn Việt
Nam, chúng ta liên tưởng ngay tới những hình ảnh rất đặc trưng làm nên biểu
tượng làng quê Việt Nam. Đó là hình ảnh “cây đa, bến nước, sân đình”. Từ
bao đời nay, Đình làng là hình ảnh thân quen, gắn bó với tâm hồn của mọi
người dân Việt, là nơi chứng kiến những sinh hoạt, lề thói và mọi thay đổi
trong đời sống xã hội của làng quê Việt Nam qua bao thế kỷ.
Nhắc tới văn hóa Làng, chúng ta không thể bỏ quên hình ảnh ngôi đình


1


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

làng, hình ảnh đó đã đi vào thơ ca dân tộc:
“Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói thương mình bấy nhiêu.”
Ngày nay khi nhịp sống hiện đại, xô bồ ngày càng thành xu thế của xã
hội, ta mới chợt nhận ra rằng hình ảnh Làng Việt bình dị xưa với những “cây
đa, bến nước, sân đình” đã dần lui vào quá khứ để nhường chỗ cho những
thay đổi mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường, biết bao vẻ đẹp thuần khiết nơi
thôn quê nay gần như không còn nữa.
Xây dựng nền kinh tế năng động phát triển là quan trọng, xong để có sự
phát triển bền vững, hài hòa cần phải đi đôi với việc giữ gìn, kế thừa và phát
huy nền văn hóa cổ truyền dân tộc.
Mái đình làng Việt với những lễ hội dân gian đươc diễn ra vào mỗi dịp
tết đến xuân về từ lâu đã thấm sâu vào tiềm thức của mỗi người dân đất Việt,
nó được coi là biểu tượng là linh hồn của cộng đồng làng xã Việt Nam.
Tìm hiểu về Đình làng giúp chúng ta phần nào hiểu sâu sắc hơn về làng
xã Việt Nam truyền thống, tư duy, tín ngưỡng, phong tục tập quán của làng
quê Việt Nam từ xưa đến nay, cũng như nhận thấy nét đẹp trong cách nghĩ,
cách sống của những người dân quê chất phác và vô cùng hồn hậu ấy.
Theo năm tháng do chiến tranh, thiên tai hay do nhận thức của người
dân, nhiều ngôi đình bị xuống cấp hay đã bị sử dụng không đúng với ý nghĩa
của nó gây ra một vết thương lớn cho văn hóa cổ truyền dân tộc.
Vì vậy vấn đề đặt ra là phải khôi phục lại những di sản truyền thống đã
và đang bị phai mờ của làng quê Việt Nam.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Văn hóa là một phạm trù rộng bao gồm cả văn hóa vật chất và văn hóa

tinh thần, khi nhắc đến văn hóa tinh thần chúng ta không thể không nhắc đến
những phong tục tập quán, tín ngưỡng dân gian như thờ cúng tổ tiên, thờ thành
hoàng làng, thờ những người có công với dân làng, những người có công với

2


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

dân tộc…vv. Đó là nét đẹp truyền thống bao đời của người dân đất Việt.
Đình làng và các lĩnh vực văn hóa truyền thống có liên quan đến đình
làng luôn là đề tài được các nhà nghiên cứu sử học, kiến trúc, mỹ thuật quan
tâm tác giả Hà Văn Tấn, Nguyễn Văn Kự trong cuốn “Đình Việt Nam” NXB
thành phố Hồ Chí Minh 2002 giới thiệu kiến trúc các ngôi đình tiêu biểu và
hội làng truyền thống một số nơi ở Việt Nam.
Họa sĩ Lê Thanh Đức với “Nét đẹp đình làng” NXB Mỹ Thuật giới
thiệu bức tranh toàn cảnh cùng với nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc truyền
thống qua các ngôi Đình làng ở Việt Nam.
Tác giả Huỳnh Ngọc Trảng cuốn “Đình Nam Bộ xưa và nay” cũng cho
chúng ta nét đẹp đình Nam Bộ qua nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc cũng
như lễ hội dân gian truyền thống của người dân Nam Bộ.
Trong cuốn “Sổ tay hành hương đất phương Nam” NXB văn hóa dân
tộc 2012 đã cho chúng ta thấy được phần nào kiến trúc đình Nam Bộ hiểu rõ
hơn về những đồ thờ tự trong ngôi đình Nam Bộ xưa.
Trong những bài tham luận hội thảo “Người Việt Nam bộ lần thứ 2”
tháng 9 năm 1999 đã có phần so sánh đình Nam bộ với đình Bắc bộ. Trong
cuốn “ Đình, Miếu và lễ hội dân gian Miền Nam” NXB Đồng Tháp năm
1994, Tác giả Sơn Nam cũng đã giới thiệu về nghệ thuật kiến trúc và trang trí
trong các ngôi đình ở Miền Nam.
Tác giả Tôn Nữ Quỳnh Trân cuốn “Văn hóa làng xã trước sự thách

thức của đô thị hóa tại Thành phố Hồ Chí Minh” NXB Trẻ năm 1999 cũng đề
cập đến vị trí vai trò những ngôi đình cũng như số phận của nó trước sự đô thị
hóa của Thành phố Hồ Chí Minh.
Đình làng cũng là đề tài được nhà nghiên cứu Trịnh Cao Tưởng quan
tâm nghiên cứu với bài viết “Kiến trúc đình làng” đăng trên tạp chí khảo cổ
học số 2/1989.
Cuốn “Đình, Chùa, Lăng Tẩm nổi tiếng Việt Nam” của Trần Mạnh

3


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

Thường chủ biên, NXB Văn hóa Thông Tin năm 1999 đã giới thiệu lịch sử
kiến trúc các thành lũy, đền, tháp, đình … trên đất nước Việt Nam từ xưa đến
nay trong đó có 1 phần giới thiệu về các ngôi đình đã được xếp hạng quốc gia.
Trong cuốn “Một số cơ sở tín ngưỡng dân gian” của Ban quản lý di tích
lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh năm 2001 cũng đã giới thiệu những ngôi đình
tiêu biểu trong Thành phố Hồ Chí Minh với những kiến trúc độc đáo.
Nhìn chung các bài viết, các công trình nghiên cứu trên đã đề cập khá
toàn diện sinh động nét đẹp cổ kính của những ngôi đình làng và đây có thể
coi là một đề tài không mới ở hệ thống tổng quát.
Tuy nhiên chưa có một công trình nào chuyên sâu, nghiên cứu có hệ
thống về các ngôi đình làng ở Thành phố Hồ Chí Minh.
Chính vì ý nghĩa thực tiễn và ý nghĩa khoa học của viêc nghiên cứu về
hệ thống đình làng ở Thành phố Hồ Chí Minh nên tác giả đã chọn đề tài trên
để nghiên cứu.
3.Đối tƣợng, nhiệm vụ, mục đích và phạm vi nghiên cứu.
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu.
Là hệ thống những ngôi Đình làng Việt trên địa bàn thành phố Hồ Chí

Minh, thực trạng cũng như công tác bảo tồn, tôn tạo của các cấp chính quyền
địa phương với những di tích lịch sử văn hóa này.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu.
Dựa vào các tài liệu đa dạng, phong phú, luận văn nghiên cứu, tìm hiểu khía
cạnh niên đại, không gian phân bố, nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc đình làng, các vị
thần được thờ trong đình làng, vai trò của đình làng trong đời sống và rút ra những
điểm tương đồng cũng như những đặc trưng riêng biệt của đình làng.
3.3 Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: nghiên cứu hệ thống đình làng thế kỷ XX
Về không gian: tập trung nghiên cứu về những ngôi đình ở thành phố
Hồ Chí Minh.
3.4 Mục đích nghiên cứu.

4


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

Mong muốn được hiểu thêm về những ngôi đình trên thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng và cả nước nói chung. Đưa ra một cái nhìn tổng thể về các
ngôi đình làng trên nhiều phương diện khác nhau. Từ đó có những đề xuất
đóng góp cho công tác bảo tồn quy hoạch, phát huy giá trị di tích đình làng
trong thời đại ngày nay.
4. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu.
4.1 Nguồn tƣ liệu
Nguồn tư liệu thành văn gồm các công trình nghiên cứu, sách báo, tạp
chí, luận văn…của một số ngôi đình làng cùng những bài viết có liên quan
đến vấn đề đình làng nói chung và hệ thống đình làng ở Thành phố Hồ Chí
Minh nói riêng.
Những câu chuyện truyền miệng, thần thoại ca dao dân ca…

4.2 Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để hoàn thành luận văn tác giả dùng phương pháp luận và phương
pháp cụ thể.
Phương pháp luận bao gồm phương pháp biện chứng, phương pháp lịch
sử và phương pháp logic.
Phương pháp biện chứng là đặt vấn đề cần nghiên cứu trong mối quan
hệ biện chứng với các ngôi đình làng ở các địa phương khác cũng như đình
làng miền Bắc để thấy được những điểm tương đồng và những điểm khác biệt
trong nghệ thuật kiến trúc của những ngôi đình làng. Đặc biệt là sự phản ánh
rõ nét tín ngưỡng thờ thần trong các ngôi đình làng Việt.
Phương pháp lịch sử được sử dụng xuyên suốt trong quá trình nghiên
cứu thực hiện đề tài. Thông qua việc xử lý thông tin từ các nguồn tài liệu khác
nhau có cái nhìn toàn diện về những nét đẹp nghệ thuật kiến trúc và xây dựng
của những ngôi đình làng.

.

Bên cạnh những phương pháp trên để đạt được hiệu quả cao trong quá
trình nghiên cứu, sử dụng phương pháp so sánh, đối chiếu, thống kê, tổng hợp

5


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

,giám định tư liệu.
5. Đóng góp luận văn
Qua đây chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về một di sản văn hóa vật thể.
Luận văn rút ra những đặc trưng riêng biệt giữa các đình với nhau, làm rõ vai trò
của đình làng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta, góp phần vào công

tác giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa cổ truyền dân tộc Việt Nam nói chung.

CHƢƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN
CỦA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THẾ KỈ XX
1.1 Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thành phố Hồ Chí Minh
1.1.1 Vị trí địa lý
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong toạ độ địa lý khoảng 10010’ –

6


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

10038 vĩ độ bắc và 106022’ – 106054’ kinh độ đông.
Thành phố Hồ Chí Minh có địa giới hành chính chung với các tỉnh
Bình Dương ở phía Bắc, Tây Ninh ở phía Tây Bắc, phía Đông và Đông Bắc
giáp Đồng Nai, phía Đông Nam giáp Bà Rịa - Vũng Tàu, phía Tây và Tây
Nam giáp Long An và Tiền Giang, phía Nam giáp biển Đông với chiều dài bờ
biển khoảng 15 km.
Thành phố Hồ Chí Minh nằm ở trung tâm Nam Bộ, cách thủ đô Hà Nội
1.738 km về phía Đông Nam. Là thành phố cảng lớn nhất đất nước, hội tụ đủ
các điều kiện thuận lợi về giao thông đường bộ, đường thuỷ, đường sắt,
đường hàng không, là một đầu mối giao thông kinh tế lớn nối liền với các địa
phương trong nước và quốc tế.
1.1.2 Điều kiện tự nhiên
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng chuyển tiếp giữa miền Ðông
Nam bộ và đồng bằng Sông Cửu Long. Địa hình thành phố Hồ Chí Minh
phần lớn bằng phẳng, có ít đồi núi ở phía Bắc và Đông Bắc, với độ cao giảm
dần theo hướng Đông Nam.

Ðịa hình tổng quát có dạng thấp dần từ Bắc xuống Nam và từ Ðông
sang Tây. Nó có thể chia thành 3 tiểu vùng địa hình.
Vùng cao nằm ở phía Bắc - Ðông Bắc và một phần Tây Bắc (thuộc bắc
huyện Củ Chi, đông bắc quận Thủ Ðức và quận 9), với dạng địa hình lượn
sóng, độ cao trung bình 10 - 25 m và xen kẽ có những đồi gò độ cao nhất tới
32m, như đồi Long Bình (quận 9).
Vùng thấp trũng ở phía Nam - Tây Nam và Ðông Nam thành phố
(thuộc các quận 9, 8, 7 và các huyện Bình Chánh, Nhà Bè, Cần Giờ). Vùng
này có độ cao trung bình trên dưới 1m và cao nhất 2m, thấp nhất 0,5m.
Vùng trung bình, phân bố ở khu vực Trung tâm Thành phố, gồm phần lớn
nội thành cũ, một phần các quận 2, Thủ Ðức, toàn bộ quận 12 và huyện Hóc
Môn. Vùng này có độ cao trung bình 5 - 10m. Nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông

7


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

Đồng Nai - Sài Gòn, Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới sông ngòi kênh rạch
rất phát triển, có các hồ chứa nước lớn sông Sài gòn, Kênh Đông.
Sông Ðồng Nai bắt nguồn từ cao nguyên Langbiang (Ðà Lạt) và hợp
lưu bởi nhiều sông khác, như sông La Ngà, sông Bé.
Nhìn chung, địa hình Thành phố Hồ Chí Minh không phức tạp, song
cũng khá đa dạng, có điều kiện để phát triển nhiều mặt.
Với vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên thuận lợi, Sài Gòn - nơi một thời
được mệnh danh là "Hòn ngọc Viễn Đông" đã là trung tâm thương mại và là
nơi hội tụ của nhiều dân tộc anh em, mỗi dân tộc có tín ngưỡng, sắc thái văn
hoá riêng góp phần tạo nên một nền văn hoá đa dạng.
1.2 Sự thay đổi địa giới hành chính qua các thời kỳ lịch sử
Con người xuất hiện ở khu vực Sài Gòn từ khá sớm. Các cuộc khai

quật khảo cổ trên địa phận Sài Gòn và khu vực lân cận cho thấy ở đấy đã tồn
tại nhiều nền văn hóa từ thời kỳ đồ đá cho tới thời kim khí. Những cư dân cổ
từ nhiều thiên nhiên kỷ trước đã biết đến kỹ thuật canh tác nông nhiệp. Văn
hóa Sa Huỳnh đã từng tồn tại trên khu vực này với những nét rất riêng. Thời
kỳ văn hóa Óc Eo, từ đầu công nguyên cho tới thế kỷ VII, khu vực miền nam
Đông Dương có nhiều tiểu quốc và Sài Gòn khi đó là miền đất có quan hệ với
những vương quốc này.
Thành phố Hồ Chí Minh dưới thời Gia Định phủ
Hai địa danh Sài Gòn và Bến Nghé đã xuất hiện sớm từ năm 1623, đó
là hai đồn thu thuế của chúa Nguyễn, sau đã trở thành hai trung tâm khá lớn.
Sự nghiệp “mở mang bờ cõi” xưa chính là do “lưu dân tự động tiến hành
trước bằng khẩn hoang lập ấp, rồi nhà nước phong kiến mới đến sau để lập
phủ huyện cai trị”.[28; tr.475].
Năm 1698 đánh dấu việc lập phủ huyện “mùa xuân năm Mậu dần đời
vua Hiển Tông Hiếu Minh hoàng đế (tức chúa Minh tên Nguyễn phước
Chu) sai thống xuất chưởng cơ Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh sang kinh

8


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

lược Cao Miên lấy đất Nông Nại đặt làm Gia Định, lập xứ Đồng Nai làm
huyện Phước Long dựng dinh Tuấn Biên, lập xứ Sài Gòn làm huyện Tân
Bình dựng dinh Phiên Trấn, mỗi dinh đặt chức lưu thủ cai bạ và ký lục để
quản trị” [28; tr.475].
Xứ Sài Gòn rộng từ hữu ngạn sông Sài Gòn đến sông Vàm Cỏ. Trên đó
lập huyện Tân Bình [28; tr.475].
Dinh phiên Trấn được dựng lên để cai trị huyện Tân Bình. Dinh vừa là
lỵ sở vừa là đơn vị hành chính. Đàng Ngoài chia ra 13 trấn, còn Đàng Trong

chia ra 11 dinh. Tuy nhiên miền Nam là đất mới khai mở nên dinh, phiên, trấn
chỉ coi một huyện Tân Bình, còn phủ Gia Định gồm cả hai huyện Tân Bình và
Phước Long.
Năm 1698 sau khi đã có khá đông lưu dân tới khẩn hoang lập ấp chúa
Nguyễn mới đặt phủ huyện tại miền Đông Nam Bộ. Phủ Gia Định rộng từ bờ
biển Bà Rịa tới sông Vàm Cỏ. Huyện Phước Long ở tây ngạn sông Sài Gòn.
Huyện Tân Bình ở hữu ngạn sông Sài Gòn.
Năm 1757, phủ Gia Định bao trùm khắp Nam Bộ. Ngoài ba dinh và
một trấn ở trên lập thêm các đạo Trường Đồn, Đông Khẩu, Tân Châu, Châu
Đốc, Kiên Giang và Long Xuyên.
Năm 1772 vùng Sài Gòn - Bến Nghé đã trở nên thành phố với đầy đủ ý
nghĩa của nó.
Năm 1790 trên bản đồ đã ghi rõ vị trí của Thành phố Hồ Chí Minh và
mệnh danh chung là Thành phố Sài Gòn. Địa bàn Thành phố đã phân làm hai
vùng có bộ mặt khác nhau. Vùng kẻ chợ nằm trong “cựu lũy” và vùng quê rất
rộng nằm trong địa phận các tổng Bình Dương, Tân Long và Bình An.
Thành phố Hồ Chí Minh dưới thời Gia Định trấn và Gia Định Thành.
Năm 1788, Nguyễn Ánh tái chiếm Sài Gòn, lấy nơi đây làm cơ sở để
chống lại Tây Sơn. Năm 1790, với sự giúp đỡ của hai sĩ quan công binh người
Pháp, Theodore Lebrun và Victor Olivier de Puymanel, Nguyễn Ánh cho xây
dựng Thành Bát Quái làm trụ sở của chính quyền mới. "Gia Định thành" khi

9


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

đó được đổi thành "Gia Định kinh”.
Năm 1802 sau khi lấy được Huế, Nguyễn Ánh bỏ Gia Định kinh “cải
Gia Định phủ làm Gia Định trấn”[28; tr.478]. Đó là : Dinh Phiên trấn

Địa bàn thành phố có phần lớn vẫn nằm trong địa phận 2 tổng Bình
Dương, Tân Long của huyện Tân Bình thuộc dinh phiên Trấn và phần nhỏ
nằm trong địa phận tổng Bình An của huyện Phước Long thuộc dinh Trấn
biên như cũ. Vùng đô thị hóa Sài Gòn - Bến Nghé cùng với thành Bát quái
vẫn là trung tâm quan trọng cả về chính trị lẫn kinh tế hàng đầu của nước Việt
Nam. Đó là những nơi “đô hộ cả nước không đâu sánh bằng”[28; tr.480]
Khi tổng trấn Lê Văn Duyệt mất năm 1832 lập tức Gia Định Thành bị
giải thể bãi chức tổng Trấn, thực thi chính sách tự trị và tập quyền của triều
đình Huế.
Thành phố Hồ Chí Minh dưới thời lục tỉnh và Nam Kỳ lục tỉnh
Bắc thành giải thể, các Trấn đổi thành Tỉnh. Trong Nam khi Lê Văn
Duyệt chết, giải thể Gia Định thành. Đổi 5 trấn thành 6 tỉnh. Không dùng võ
tướng làm trấn thủ mà đặt văn quan làm các chức tổng đốc, tuần phủ, bố
chánh, án sát để cai trị tỉnh gồm các tỉnh:
Biên Hòa, Phiên An, Vĩnh Long, An Giang, Định Tường, Hà Tiên, năm
1834 gọi chung sáu tỉnh là Nam kỳ lục tỉnh.
Năm 1836 cải tên tỉnh Phiên An ra tỉnh Gia Định và lập thêm phủ mới
là phủ Tây Ninh.
Thành phố Hồ Chí Minh dưới thời Nam Kỳ thuộc địa Pháp
Đầu năm 1959 quân pháp tới hạ thành Gia Định và chiếm đóng một
phần vùng đô thị hóa Sài Gòn - Bến Nghé làm đầu cầu. Đầu năm 1861 pháp
hạ đại đồn Chí Hòa rồi chiếm đánh Mỹ Tho, tỉnh Định Tường. Cuối năm pháp
chiếm Biên Hòa. Đầu năm 1862, Bà Rịa mất sau đó là Vĩnh Long. Ngày 5-61862 tại Trường Thi, Phan Thanh Giản, đại diện triều đình Huế ký “hòa ước
nhâm tuất” nhượng cho pháp ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ là Biên Hòa, Gia

10


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX


Định và Định Tường. Pháp liền tổ chức lại việc cai trị và phân ranh hành
chính ba tỉnh đó.
Suốt từ năm 1888 đến 1941địa bàn Thành Phố dưới thời thuộcPháp lúc
này gồm 20 tỉnh : Gia Định, Châu Đốc, Hà Tiên, Rạch Gía, Trà Vinh, Sa Đéc,
Bến Tre, Long Xuyên, Tân An, Sóc Trăng, Thủ Dầu Một, Tây Ninh, Biên
Hòa, Mỹ Tho, Bà Rịa, Chợ Lớn, Vĩnh Long, Gò Công, Cần Thơ, Bạc
Liêu.[28; tr.486]
Năm 1944 thiết lập tỉnh Tân Bình lỵ sở đặt tại xã Phú Nhuận.
Trong thời gian kháng chiến chín năm chống Pháp ta làm chủ bán công
khai trên phần lớn địa phận hai tỉnh Gia Định và Chợ Lớn.
Hai thành phố Sài Gòn, Chợ Lớn lập năm 1865 đến năm 1931 hai thành
phố sát nhập với nhau thành địa phương Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1952 gọi là
thủ đô Sài Gòn - Chợ Lớn. Năm 1954 gọi là đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn,
năm sau gọi là đô thành Sài Gòn.

Thành Phố Hồ Chí Minh sau 1954 đến nay.
Thành phố Sài Gòn từ năm 1955 đến 1975 sau hiệp định Giơ-ne-vơ thủ
đô Sài Gòn - Chợ Lớn đổi ra đô thành Sài Gòn - Chợ Lớn, rồi chỉ gọi là Đô
Thành Sài Gòn.
Từ 30/04/1975, Chính quyền Việt Nam Cộng hòa bị xóa bỏ và Chính
phủ Cách mạng lâm thời Cộng Hòa miền Nam Việt Nam quản lý miền Nam.
Thành Đô Sài Gòn, tỉnh Gia Định và 2 quận Củ Chi và Phú Hòa kế cận dưới
thời chính quyền Việt Nam Cộng hòa, được hợp nhất thành 1 đơn vị hành
chính gọi là thành phố Sài Gòn - Gia Định. Đầu năm 1976, Đảng bộ và Ủy
ban Nhân dân thành phố bắt đầu hoạt động. Ngày 2 tháng 7 năm 1976, Quốc
hội đầu tiên của nước Việt Nam thống nhất quyết định đổi tên nước thành
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, đồng thời đổi tên thành phố Sài Gòn -

11



Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

Gia Định thành "Thành phố Hồ Chí Minh", theo tên của chủ tịch nước đầu
tiên của nước ta.
Với tổng diện tích 2.095 km², Thành phố Hồ Chí Minh trở thành đô thị
lớn nhất Việt Nam. 11 quận nội thành của Sài Gòn trước đây được chia lại
thành 8 quận. Bốn quận Gò Vấp, Phú Nhuận, Bình Thạnh, Tân Bình được
thành lập. Khu vực ngoại thành gồm 5 huyện: Thủ Đức, Hóc Môn, Củ Chi,
Bình Chánh, Nhà Bè. Năm 1978, thành phố nhận thêm huyện Duyên Hải của
tỉnh Đồng Nai. Năm 1979, các đơn vị hành chính cơ sở được phân chia lại,
toàn thành phố có 261 phường, 86 xã. Sau đợt điều chỉnh tiếp theo vào năm
1989, thành phố còn 182 phường và 100 xã, thị trấn. Đến năm 1997, phân
chia hành chính của thành phố lại thay đổi, gồm 17 quận, 5 huyện với 303
phường xã, thị trấn. Hiện nay, Thành phố Hồ Chí Minh gồm 19 quận nội
thành và 5 huyện ngoại thành với 322 phường, xã và thị trấn.

1.3 Đình làng Việt trƣớc thế kỷ xx.
Người Việt Nam tự ngàn xưa đã gắn bó với làng quê. Dù cho ngày nay,
sức ép của kinh tế thị trường và lối sống náo nhiệt xô bồ đang đẩy bà con ra
thành phố, thì hồn quê vẫn còn đậm nét trong sâu thẳm tâm thức mỗi người dân
Việt, bởi họ luôn ấp ủ hình bóng tuổi thơ với cây đa, bến nước, mái đình. Kết
tinh nhiều đời của văn hóa làng, chính là ngôi đình làng cổ kính Việt Nam.
Khắp dải đất Việt Nam, đâu có cộng đồng người Kinh, ở đó có ngôi
đình. Ngay từ thế kỷ XII, triều Lý đã ra chiếu chỉ quy định “mỗi làng xã trong
cả nước phải dựng riêng một ngôi đình” [24; tr. 11].
Đình làng là ngôi nhà chung của cả làng. Trong từ điển Tiếng Việt do
Hoàng Phê chủ biên được Viện ngôn ngữ học - Nhà xuất bản Đà Nẵng xuất
bản năm 2000 đã chỉ ra: “Đình là nhà công cộng của làng thời trước, dùng
làm nơi thờ thành hoàng và họp việc làng (thường là nhà to, rộng nhất làng)”.


12


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

Trong Hán Việt từ nguyên, Bửu Kế cho rằng: Đình có nghĩa là dân chúng yên
ổn, chỗ mọi người tụ họp nghỉ ngơi, đình là nơi thờ thần trong làng, đình là
cái đình, nơi tụ họp dân làng khi có việc chung.
Như vậy, có thể nói, đình làng có ý nghĩa là ngôi nhà công cộng của
cộng đồng làng xã với ba chức năng được thực hiện: hành chính, tôn giáo và
văn hóa. Về chức năng hành chính, đình là chỗ để họp bàn các việc làng, để
xử kiện, phạt vạ… theo những quy ước của làng. Về chức năng tôn giáo, đình
là nơi thờ thần của làng, thường là một vị nhưng cũng có khi nhiều vị, được
gọi là Thành Hoàng làng. Về chức năng văn hóa, đình là nơi biểu diễn các
kịch hát, như tuồng,chèo, hát cửa đình - một hình thức đã phát triển trong các
thế kỷ trước, nơi tiến hành các lễ hội, các trò chơi…
Thực ra, qua thực tế tìm hiểu, tôi thấy rằng không phải ngay từ đầu
đình làng đã có đầy đủ các chức năng trên mà những chức năng này dần xuất
phát theo nhu cầu của đời sống nhân dân trong các làng. Thêm vào đó, trong
các hoạt động của đời sống hàng ngày của dân làng, những chức năng trên
không bao giờ được tách bạch, mà đan xen hòa quyện, gắn bó với nhau không
tách rời.
Thế kỷ XVII, nhiều cư dân người Việt đã đến khẩn hoang tại vùng Bến
Nghé - Sài Gòn xưa. Trong quá trình khẩn hoang, các nhóm cư dân người
Việt đã hình thành các đơn vị cư trú như lân ấp, nhiều ấp hợp lại thành làng
hay thôn. Mỗi làng đều có nhu cầu phải xây dựng 1 ngôi đình như là ngôi nhà
chung của làng, vừa là nơi họp bàn và giải quyết những việc chung của làng,
xã, đồng thời là trụ sở hành chính của làng và là nơi duy trì các lễ hội mang
tính truyền thống văn hóa tín ngưỡng dân gian của làng.

Đến cuối thế kỷ XIX, thực dân Pháp ban hành một số nghị định đã tước
quyền phân cấp đất đai của làng xã Nam Bộ trong đó có Sài Gòn - Gia Định,
những chính sách trên của thực dân pháp đã làm cho đình làng không còn là
một thiết chế hữu cơ với tổ chức hành chính của cộng đồng làng xã và làm

13


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

cho quyền tự trị của làng, xã không còn dẫn đến đình làng ở Nam Bộ nói
chung và ở Sài Gòn - Gia Định nói riêng đã trở thành cơ sở tín ngưỡng dân
gian xã hội. Đình không còn là cơ sở tín ngưỡng chỉ riêng của cộng đồng dân
cư gắn với đơn vị hành chính làng, xã như trước mà đã trở thành đình hội,
thành viên của hội đình gồm cả những xã ở địa phương khác ngoài làng xã.
Đình làng buổi đầu là trung tâm hành chính và sinh hoạt cộng đồng, là
trung tâm hoạt động văn hóa - xã hội và là nơi thực hành các nghi lễ tín
ngưỡng dân gian truyền thống của cộng đồng.
Kiến trúc của đình ở Thành Phố Hồ Chí Minh khá đa dạng, nhưng về
cơ bản nằm chung trong truyền thống đình Nam Bộ, bao gồm có kiến trúc
chính và các kiến trúc phụ khác bao bọc xung quanh, như đông lang, tây lang,
nhà túc, nhà bếp, võ ca và một số miếu thờ ở hai bên phía trước hay cạnh hai
bên của đình.
Ngày xưa vật liệu xây dựng còn thô sơ, nghèo nàn, tùy hoàn cảnh địa
phương các đình ở thành phố Hồ Chí Minh thường được xây cất bằng:
Ghè ống: một loại gạch cổ hình tròn như cái ống, lớn cỡ bình nước 1
lít, dài khoảng 25 phân, đầu dưới bịt kín, đầu trên là miệng hơi túm lại một
chút, làm bằng đất sét tốt nung kỹ, chắc hơn gạch thường, chịu đựng trên 100
năm. Những hình ảnh tượng trưng cho sự linh thiêng như Tứ linh (Long,
Lân, Quy, Phụng), Ông Hổ, Lưỡng long tranh châu, Lưỡng long chầu

nguyệt… được đắp trên các mái đình, trên án thờ, trước cổng đình, bằng vôi
vữa trộn mật đường và nước nhớt của các loại vỏ cây bời lời, dây tơ hồng
hoặc các cây có chất keo, độ bền có khi đến 200 năm.
Nóc đình xưa lợp ngói “âm dương”, đến giữa thế kỷ XIX lợp “ngói vảy
cá”, từ thế kỷ XX lợp “ngói tây” là ngói làm theo khuôn của Pháp, bằng xi
măng và cát, bền chắc hơn ngói ta bằng đất sét.
Chính điện: Chia làm ba gian, gian giữa để bàn thờ chính, trên vách có
treo tấm biển viết chữ “Thần” bằng Hán tự thật lớn. Hai bên để bàn thờ hai vị

14


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

thần tả - hữu, là hai vị thần hỗ trợ cho thần chính. Trước bàn thờ có cặp chim
lạc đứng trên lưng rùa. Kế đến là hai giá cắm lô bộ, binh khí (thường là 18
môn binh khí - thập bát ban võ nghệ), trống, chiêng và một khoảng trống để
Hương chức lạy cúng.
Đồ thờ để trên bàn Thần gọi là “tam sự” gồm có chính giữa là lư
hương, hai bên là hai cây đèn, hoặc “ngũ sự” thêm hai ống cắm nhang. Tam
sự hay ngũ sự bày thẳng một đường phía ngoài hương án, phía trong có hai
độc bình. Chính giữa là một cái khay chân quì, trên để ba cái đài, mỗi đài có
chén đựng rượu, cơi trầu và bát nước.
Võ ca, võ quy: Ngạch cửa của chánh điện dính liền với một gian rộng
bằng ba gian trong, thành một nền hình chữ nhật gọi là võ ca, gồm một
khoảng nền trống để ghế ngồi ngay giữa, hai bên là sạp gỗ đóng như bậc
thang, là nơi dân chúng ngồi xem hát gọi là võ quy. Phía trong là sân khấu để
đoàn hát bộ trình diễn mỗi khi cúng kiến hầu vị Thần xem.
Kiến trúc thường là kiểu nhà vuông. Có bốn cột cái gọi là tứ trụ trên cơ
sở đó mở rộng diện tích ra các bên nhờ các cột phụ và hệ thống kèo.

Có trường hợp ngôi nhà chính là ngôi nhà có ba gian hai chái, các đình
thường phải có nhà võ ca, nhà túc, nhà bếp … cũng có đình làm theo kiểu
phương đình có bốn mái, do đó bốn mặt đều là mặt tiền. Đặc biệt có đình làm
theo kiểu chữ Đinh…võ ca và võ qui nằm ngang, nhưng chính điện trở đòn
dòng dọc giống như kiến trúc một số đình miền Bắc.
Phía trước cổng đình thường có một bệ gạch thờ thần Nông, hai bên
thường có hai ngôi miếu thờ ngũ hành nương nương và sơn quân thần hổ.
Ngũ hành nương nương là biểu tượng cho 5 yếu tố cấu thành vũ trụ
(kim, mộc, thủy, hỏa, thổ ) thần Hổ và thần Nông là hai trong tám vị thần mà
cư dân có nền nông ngiệp truyền thống thường tôn thờ.
Do ảnh hưởng chung của quan niệm và phong cách Á đông, các ngôi
đình ở Thành phố Hồ Chí Minh thường xây theo kiểu nội công ngoại quốc ở

15


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

dạng biến thể. Các đình thường chú trọng đến dẫy hành lang bao bọc xung
quanh, tượng trưng cho kiểu bộ vi, phía ngoài của chữ quốc biểu trưng cho
kiểu nhà vườn có kiến trúc đình được xây dựng theo kiểu nhiều dẫy nhà, cách
gọi dân gian gọi là kiểu sắp đọi, hay còn gọi là kiểu chữ Nhị(二), chữ
Tam(三), ngôi nhà sau cùng gọi là chính tẩm và chỉ mở cửa khi có tế lễ, hội
hè. Phía trước chính tẩm là bái đường.
Nhìn chung kiến trúc những ngôi đình cổ ở Thành phố Hồ Chí Minh có
sự tiếp thu hoặc ảnh hưởng kiểu nhà xuyên trính - nhà rường ở miền trung,
các cột cái nối với nhau bằng cây trính, cây xuyên, các vì kèo nối với nhau
bằng cây xà dọc, chính giữa cây xà ngang có một cây làm trụ đỡ đầu kèo trên
nóc. Đa số cột đình có hình dáng tròn. Bốn cột cái của chính điện thường
trang trí hình lưỡng long triều nguyệt, các đầu trụ và hai bên hồi của đình có

các tảng lân bằng gốm, ngói lợp là loại ngói âm dương.
Sự bài trí bên trong ngôi đình ở mỗi ngôi đình cụ thể có khác nhau ít
nhiều, tuy nhiên sự bài trí ở nhiều ngôi đình thường là:
Trong chính tẩm từ ngoài nhìn vào có đôi Hạc đứng lên lưng Rùa, hạc
thường đứng khá cao, đây là biểu tượng tượng trưng cho sự bền vững hai bên
có bầy nghi tượng, lỗ bộ, bát bửu, cờ, lao lam, hương án đươc sơn son thiếp
vàng rực rỡ, trong chính tẩm thường có sáu đến mười bàn thờ, hương án hội
đồng là nơi thờ sơn hà xã tắc và các vị phúc thần của địa phương, đồng thời là
nơi chúc tụng Vua nên thường treo hoành phi câu đối có những chữ “thánh
thọ vô cương ”, “Quốc thái dân an” [39; tr.18]. Sau hương án hội đồng là bàn
thờ chính với khám thờ, hương án được chạm trổ sơn son thiếp vàng lộng lẫy.
Giữa khám thờ là một chữ “Thần”.
Tả ban và hữu ban thờ các thần linh hậu cận bên tả và bên hữu của thần
hoàng làng, thờ tiền hiền và hậu hiền là thờ những người có công quy tập dân
chúng lập làng, xây dựng và bảo vệ làng trong quá trình phát triển, đặc biệt là
có công xây dựng những công trình phúc lợi đầu tiên của làng, xã.

16


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

Các Thần được xem là Thần cai quản, trông nom việc duy trì hoạt động
của Đình như: Thổ Công, Thổ Địa, Táo Quân,…đều phải thờ ở các khu vực
phía sau. Các vị Thần như Chúa Xứ Thánh Mẫu, Quan Thánh Đế Quân…chỉ
thờ trong các Miếu bên ngoài cạnh Đình.
Các Đình đều thờ Thần Thành Hoàng Bổn Cảnh, theo Trương Ngọc
Tường “Thành” là thành lũy, “Hoàng” là hào lũy, nó có nguồn gốc ở Trung
Quốc, tín ngưỡng thờ Thành Hoàng là sinh hoạt văn hóa thị dân, bao gồm
kinh thành, tỉnh thành, và quận, huyện thành.

Các đình thờ vị thần Thành Hoàng được coi là người có công trong
công cuộc khẩn hoang lập ấp, lập làng, thậm chí có đình còn đưa vị thần của
làng, xã là thần Thành Hoàng Bổn Cảnh có sắc phong.
Hàng năm, tại các đình ở Thành phố Hồ Chí Minh diễn ra khá nhiều
dịp cúng, lễ trong đó có một số lễ tiêu biểu: ngày lễ theo tiết là dạng các lễ
truyền thống chung của Người Việt, ngày tết Nguyên Đán cúng mừng tuổi
thần, sáng mùng 3 là lễ ra mắt. Chiều mùng 7 là ngày khai Hạ, ngày mùng 5
tháng 5 là ngày cúng Đoan Ngọ - tết giữa năm, cúng gạo mới gọi là “cúng
thường tân” lễ cúng đưa tiễn Thần ngày 25 tháng Chạp và lễ rước các thần về
đình ngày 30 tháng Chạp.
Ngoài ra, còn có lễ mang tính truyền thống của cư dân nông nghiệp,
gắn liền với cuộc sống lao động của làng, xã đó là lễ Thượng Điền, và Hạ
Điền là lễ bước vào làm mùa và thu hoạch mùa, có nơi gọi là lễ cầu Bông,
ngày tháng cụ thể tùy từng nơi gắn liền với tính chất mùa màng.
Một số ngày lễ liên quan đến tín ngưỡng Đạo giáo, Phật giáo cũng
được thâm nhập vào đình làng như “Thượng Nguyên Thiên Quan Tứ Phúc”
vào rằm tháng giêng, lễ “Hạ Nguyên Thủy Quan Giải Ách” vào rằm tháng 10,
nhất là lễ “Trung Nguyên Địa Quan Xá Tội” là lễ “Chẩn Tế Cô Hồn” từ giữa
tháng 7 và nơi nào tổ chức muộn nhất cũng chỉ trong tháng bẩy.

17


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

Tiều kết chương 1
Do có vị thế địa lý thuận lợi, ở vị trí tiếp giáp với vùng đồi núi Đông
Nam Bộ, đồng thời là nơi có những khu đất và gò đất cao tiếp giáp với vùng
đồng bằng Tây Nam bộ, từ thế kỷ 17 Sài gòn - Gia định đã từng là nơi tụ cư
của nhiều lớp cư dân trong công cuộc khẩn hoang vùng đất Nam bộ. Những

cư dân đến khẩn hoang và định cư lập nghiệp nơi đây, trước hết là người Việt
sau đó là cộng đồng người Hoa và một số cư dân khác.
Quá trình khẩn hoang lập ấp, thôn, làng các cộng đồng cư dân sống trên
địa bàn này đã cùng nhau đoàn kết, chung sống đấu tranh xây dựng làm cho
vùng đất này ngày càng trù phú và phát triển trên nhiều phương diện. Cùng
với quá trình xây dựng phát triển kinh tế nhằm bảo đảm cuộc sống vật chất,
nhiều cơ sở tín ngưỡng dân gian được hình thành, đã trở thành điểm nút cho
sợi dây gắn kết trong mối quan hệ nhiều chiều của các cộng đồng cư dân, là
nơi sinh hoạt văn hóa tinh thần cho các cộng đồng cư dân nơi đây.
Sự hình thành và phát triển mạnh mẽ nhất của những cơ sở tín ngưỡng
dân gian tại vùng đất thuộc Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay là từ thế kỷ 18
đến nửa đầu thế kỷ 20. Qúa trình hình thành và phát triển của các cơ sở tín
ngưỡng dân gian này luôn gắn liền với sự hình thành các nhóm cộng đồng cư
dân và sự phát triển của đời sống vật chất, nhu cầu đòi hỏi của đời sống tinh
thần trong mối quan hệ và sự gắn kết nhau trong cuộc sống.
Các cơ sở tín ngưỡng dân gian của các cộng đồng dân cư đã trở thành
minh chứng vật chất về sự phát triển kinh tế, văn hóa xã hội của thành phố Hồ
Chí Minh trong diễn trình lịch sử.

18


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

CHƢƠNG 2
HỆ THỐNG ĐÌNH LÀNG VIỆT
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH THẾ KỶ XX
2.1 Số lƣợng và sự phân bố Đình làng Việt.
Nhắc đến văn hóa làng Việt Nam chúng ta không thể không nhắc đến
“Đình làng”. Đình là ngôi nhà công cộng của cộng đồng làng xã Việt Nam.

Nơi đây ba chức năng được thực hiện là hành chính, tôn giáo và văn hóa. Về
chức năng hành chính Đình là chỗ để họp bàn các “việc làng” để xử kiện, phạt
vạ….theo những quy ước của làng. Về chức năng tôn giáo, đình là nơi thờ
thần của làng thường là một vị nhưng cũng có khi nhiều vị được gọi là
“Thành Hoàng” làng. Về chức năng văn hóa, đình là nơi biểu diễn các lịch hát
như hát chèo, hát cửa đình…một hình thức đã phát triển trong các thế kỷ
trước nơi tiến hành lễ hội, các trò chơi. Các chức năng trên không bao giờ
được tách bạch mà đan xen hòa quyện với nhau.
Có thể coi Đình là một tòa thị chính, một nhà thờ và một nhà văn hóa
cộng lại của làng xã Việt Nam. Ngôi đình là biểu tượng cho cộng đồng làng
xã Việt Nam, là một yếu tố hữu hình của văn hóa làng Việt Nam.
Về nguồn gốc của Đình làng có hai ý kiến khác nhau:
Một là xuất phát từ ngôi nhà chung trong làng, sau các chức năng được
bổ sung dần để trở thành ngôi đình. Trong cuốn “Đình Việt Nam” cho rằng

19


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

nguồn gốc của đình là ngôi nhà chung của cộng đồng làng.
Mặc dù còn thiếu chứng cớ ta tin rằng Đình - ngôi nhà chung của làng xã đã
xuất hiện từ lâu đời, nếu không phải là thời tiền sử thì cũng là thời sơ sử của dân
tộc. Tất nhiên là thời đó chưa được gọi là Đình một từ vay mượn của Trung Hoa.
Một ý kiến khác cho rằng Đình xuất phát từ đình trạm, sau trở thành
nơi thờ tự rồi thành Đình.
Ở thời Trần nước ta xuất hiện nhiều đình trạm.
Năm Tân Mão 1231 Thượng Hoàng Trần Thừa xuống chiếu quy định
trong nước hễ chỗ nào có đình trạm đều phải đắp tượng phật để thờ nguyện
trước đấy nước ta lập nhiều đình trạm, thường quét vôi trắng cho người đi

đường nghỉ chân. Khi Thượng Hoàng còn hàn vi, từng một lần nghỉ ở đấy
bỗng có một nhà sư bảo rằng “người trẻ tuổi này sau tất đại quý” nói xong
không thấy đâu nữa bởi vậy ngài lấy được thiên hạ thì ra lệnh này.
Sau này bổ sung thêm hai chức năng thờ cúng và công sở hai chức
năng này lấn át chức năng trạm nghỉ chân.
Như vậy chúng ta có thể thấy rằng Đình làng xuất hiện rất sớm ở nước
ta. Ngay từ khi ra đời ngôi đình đã gắn bó thân thiết với mỗi người dân Việt,
ngôi đình là môi trường trong đó nhiều truyền thống văn hóa được bảo lưu.
Việc xác định chính xác niên đại cho các ngôi đình ở Nam Bộ nói
chung và Thành Phố Hồ Chí Minh nói riêng là một công việc rất khó khăn
phức tạp. Bởi vì hầu hết các ngôi đình không còn nguyên vẹn mà đã qua
nhiều lần đại tu, sửa chữa, tôn tạo. Mỗi lần trùng tu, tôn tạo, đình lại bị bóc đi
lớp vỏ nguyên bản của nó và đươc khoác thêm chiếc áo mới, có sự thay đổi về
kiến trúc và thêm những bức trạm khắc mới. Ngoài ra do thời gian và đặc biệt
do chiến tranh đã làm mất đi những dữ liệu lịch sử, những cổ vật, hiện vật
quan trọng của các đình. Vì vậy việc xác định niên đại chủ yếu dựa vào nhiều
nguồn tư liệu khác nhau như truyền miệng, hệ thống sắc phong, văn bia,
thông qua những thông tin trên câu đối, kiến trúc, điêu khắc.

20


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

Thành Phố Hồ Chí Minh có 272 ngôi đình rải rác trên 18 quận huyện.
Số đình ở các quận trung tâm không cao chỉ có 29 ngôi đình, đa số Đình tập
trung ở các vùng ven và ngoại thành. Hệ thống Đình ở Thành Phố Hồ Chí
Minh còn tồn tại đến ngày nay đã phải trải qua nhiều biến động do chiến
tranh, loạn lạc, quy hoạch và đến nay là đô thị hóa.
Dưới đây là một số ngôi đình tiêu biểu ở Thành Phố Hồ Chí Minh.

- Đình Bình Hòa
Đình Bình Hòa tọa lạc tại số 15/77 Chu Văn An, phường 12, quận Bình
Thạnh. Đình Bình Hòa được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ XIX. Năm 1877,
đình được trùng tu lần đầu tiên năm 1924 đình được trùng tu lần thứ hai.
Đình được xây dựng trên gò đất cao, quay về hướng đông. Bố cục của
đình Bình Hòa rất điển hình cho kiểu kiến trúc cổ ở Thành phố Hồ Chí Minh
thế kỷ XVIII - XIX.
Mặt bằng kiến trúc chia thành hai trục chính song song với nhau có trục
chính và trục phụ.
Trục chính có Tiền Điện, Trung Điện và Chính Điện.
Trục phụ nằm bên trái có: nhà túc, nhà kho, nhà bếp, giữa hai trục có
khoảng trống Thiên Tỉnh.
Cổng Đình được xây dựng theo kiểu Tam Quan. Có bia Ông Hổ, hai
bên là Miếu Ngũ Hành và Miếu Thần Nông. Sân Đình rộng lát gạch tàu.
Tiền Điện hình chữ nhật, kiểu nhà ba gian hai chái. Tiền Điện có hai
cửa, mỗi cửa có 2 cánh sơn son. Từ Tiền Điện nhìn vào trong có thể thấy 4
hàng cột cao thẳng tắp, đen bóng có đường kính khoảng 0.35m - 0.4m cao
6m. Bộ cột như vậy rất hiếm trong các công trình cổ tại thành phố.
Tại Tiền Điện có đặt Long Đình, Long Đình bằng gỗ sơn son thiếp
vàng được làm như mái đình thu nhỏ.
Trên mái Trung Điện ở giữa được trang trí Lưỡng Long Tranh Châu,
hai bên là cá Chép hóa Long bằng gốm tráng men. Mái Đình không cong như
các Đình, chùa cổ ở Miền Bắc, các nét không bay lượn cầu kỳ mà chắc khỏe.
Đây là đặc điểm chung của các công trình kiến trúc cổ Miền Nam.

21


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX


Mái Trung Điện có hai tầng, làm theo kiểu mái chồng diềm.
Trung Điện có mái cao nhất, có 4 bàn thờ. Phía ngoài là bàn Nghi Án,
bên trong có 3 bàn thờ, ở giữa là bàn thờ hội đồng ngoại, bên trái là bàn thờ
Đông Hiến, bên phải là bàn thờ Tây Hiến.
Chính Điện được dựng theo kiểu tứ tượng, các xà gỗ bằng gỗ, vì kèo kẻ
chuyển kết hợp với tường hồi chịu lực.
Mái Chính Điện chỉ có một tầng, thấp hơn mái Trung Điện, không gian
nơi đây bị hạn chế tối đa ánh sáng từ bên ngoài đưa vào. Nơi thờ cúng thần
linh ánh sáng vần được tạo ra một cách mờ ảo cùng với khói nhang nghi ngút.
Trước Chính Điện đặt bàn thờ hội đồng nội. Trên có bài vị đề: “Cung
Thỉnh Đại Càn Quốc Gia Nam Hải Thần Chiêu Linh ứng Tứ Vị Thánh Nương
Vương”.[39; tr.47]. Bài vị được đặt trên ngai chạm đầu rồng phía trước ngai
là bộ bát bửu.
Cuối chính điện đặt bàn thờ thần, trên đặt bài vị để chữ “Thần” và bốn
bài vị khác.
Hai bên khám thờ thần là khám thờ nhỏ giống nhau, một bên là bàn thờ
hữu ban, một bên là bàn thờ tả ban, phía trên khám thờ chạm hoa văn cành lá
cách điệu lưỡng long triều nguyệt đường nét thanh mảnh.
Hai bên chính điện có mõ lớn, chiêng, bạch mã, trong chính điện có hai
cặp câu đối hình lòng máng được sơn son thiếp vàng:
Cặp thứ nhất.
-Thoại khí yết kim lư, đẩu chuyển trinh hồi anh phong nhược kiến
-Tường vân phủ tử các, đăng oanh chúc hoảng miếu mạo thường tân.
nghĩa là:
-Khí đẹp soi sáng lư vàng, ngôi sao sáng lặn rồi mọc thấy như anh
phong hiển hiện.
-Mây lành bao quanh gác tía, đèn đuốc sáng choang rực rỡ, xem như
miếu mạo mới toanh.[39; tr. 48]
Cặp thứ hai:


22


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

-Vọng lục hiệp chi dao, hải bất dương ba hàm mong thánh đức.
-Thống tứ dân chi chúng, nhơn giai bị tranh ích túy thần hưu.
Nghĩa là:
-Trông ra xa đất trời Đông Tây Nam Bắc thấy không dậy sóng là điều
mong nhờ nơi đức thánh.
-Rất đông dân tử sĩ nông công thương đều một lòng, ai nấy đều được
ban ơn càng thêm nhờ sự tốt đẹp của thần.[39; tr.49]
Trên chính điện còn có ba bức hoành.
-“Cầu chi tất linh” (có cầu ắt ứng 1980)
-“Thành tài phụ tướng”(đất này đã vun trồng nên vị tướng 1925)
-“Thần tứ phong cương” (thần ban cho cương thổ này 1938) [39. tr50]
Bên trục phụ có nhà túc, nhà kho và nhà bếp. Đây là một dãy nhà ba
gian hai chái, chạy dài song song với trục chính giữa trục phụ và trục chính có
khoảng trống làm sân thiên tỉnh. Nhà túc là nơi ban quản lý đình làm việc,
tiếp khách.
Tại nhà túc có ba bàn thờ.
-Giữa: Bàn thờ tiền hiền và hậu hiền.
-Bên phải: Bàn thờ anh hùng liệt sĩ.
-Trái : Tiền vãn, hậu vãn.
Nhìn chung, đình Bình Hòa cũng như hầu hết các ngôi đình khác ở
Thành phố Hồ Chí Minh, đều có vẻ đẹp mộc mạc giản dị, mọi sự trang trí đều
tập trung và các đồ thờ cúng bên trong.
Toàn bộ ngôi đình lợp ngói âm dương, hệ thống vì kèo bằng gỗ cửa
bằng gỗ sơn son.
Đình Bình Hòa thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh theo tục thờ thần của

người Việt Nam. Thờ thần ở đình Bình Hòa được vua Tự Đức phong sắc vào
năm 1853.
Vị thần được thờ tại đình gồm có:

23


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

1. Quản Giới Bổn Sứ Thành Hoàng Đại Vương
2. Kinh Đô Dục Lộ Thành Hoàng Đại Vương
3. Bổn Sứ Cao Các Quảng Độ
4. Châu Du Thành Hoàng Đại Vương
5. Đại Cân Quốc Gia Nam Hải, Chiêu Linh Ứng Tứ Vị Thánh
Nương Vương.
Ngoài ra tại đình còn thờ Tiền Hiền, Hậu Hiền, Tiền Vãn, Hậu Vãn.
Hàng tháng đình Bình Hòa cúng 2 ngày 15 và 30.
Sự thờ cúng tại đình Bình Hòa đã duy trì theo tục lệ cổ truyền của đình
Việt Nam. Đình là sự hiện diện của văn hóa làng xã được duy trì và phát huy
tính tích cực trong chế độ mới.
Các nghi lễ thờ cúng đã được giản lược để phù hợp với hoàn cảnh mới
trong môi trường đô thị.
-Đình Hưng phú.
Đình Hưng Phú tọa lạc tại số 617/19 Bến Ba Đình, phường 9, quận 8,
Thành phố Hồ Chí Minh. Đường Bến Ba Đình đã có từ lâu, đến ngày
23/01/1945 được đặt lên là Quai Arroyo Chinois, và đến năm 1955 được đổi tên
là Bến Ba Đình.
Đình Hưng Phú được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 19 khi thôn
Hưng Phú được thành lập (thôn Hưng Phú thuộc tổng Tân Phong Trung,
huyện Tân Long, phủ Tân Bình, tỉnh Gia Định).

Hưng Phú Đình thờ Thành Hoàng Bổn Cảnh là Phi Vận tướng quân
Nguyễn Phục - một danh tướng dưới triều Lê. Ngoài chức năng là nơi thờ
phụng Thành Hoàng Bổn Cảnh và các vị thần khác theo truyền thống tín
ngưỡng Nam Bộ, đình còn là trụ sở hành chính, nơi sinh hoạt cộng đồng.
Ngoài tướng quân Nguyễn Phục, đình còn thờ các vị:
-

Tả ban, Hữu ban

-

Hội đồng

24


Luận văn: Nghiên cứu hệ thống đình làng ở thành phố Hồ Chí Minh thể kỷ XX

-

Đông hiến, Hậu hiền

-

Quan Thánh đế quân

-

Bạch Mã Thái giám


-

Thần Hổ

-

Thần Nông

-

Thiên địa phụ mẫu

-

Ngũ hành nương nương

Đình Hưng Phú rộng khoảng 500m2, gồm 2 nếp nhà xây kiểu tứ trụ,
bốn cột cái ở giữa (tạo thành hình vuông) và các cột quân chung quanh đỡ
lấy bốn nóc mái kéo ra bốn phía. Nếp nhà phía trước gồm võ ca và tiền điện,
nếp nhà phía sau là chính điện và nhà túc, hai bên chính điện được mở rộng
thêm hai chái, chái bên phải là gian nghĩa từ.
Gian nghĩa từ thờ các vị Tiền hiền, Hậu hiền có công với làng xã. Từ
nghĩa từ có lối dẫn vào chính điện, giữa chính điện bày hương án thờ tướng
quan Nguyễn Phục. Chầu 2 bên hương án là đôi hạc đứng trên lưng rùa
bằng gỗ.
Sau hương án thờ thần có một bình phong lớn ngăn cách với án thờ
Quan Thánh đế quân ở phía sau. Ở vách tường ngay trên án thờ Quan Đế là
một phù điêu đắp nổi hình Quan Đế ngồi trên ngai, hai bên có Quan Bình và
Châu Xương đứng hầu. Bên trái án thờ Quan Đế có tượng ngựa Xích Thố, đối
xứng với tượng Bạch Mã thái giám ở bên phải.

Án thờ Tả ban và Hữu ban đặt ở hai góc cuối chính điện, ngang với án
thờ Quan Đế và tượng Bạch mã thái giám, ngựa Xích Thố. Hai án thờ này
được trang trí giống nhau.
Tiếp theo chính điện là tiền điện, được bài trí đơn giản, có 3 bàn thờ đặt
ngang nhau, giữa là bàn thờ Hội đồng, hai bên thờ Đông hiến, Tây hiến. Phía
trên ba bàn thờ này treo bức hoành phi.
Từ tiền điện có hai bậc tam cấp dẫn lên sân khấu ở võ ca. Sau lưng sân

25


×