Tải bản đầy đủ (.doc) (205 trang)

DHTT trong môn toán ở trường THPT qua chủ đề PT và BPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.43 MB, 205 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Theo tinh thần đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, Nghị quyết Đại hội XI
của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: "Trong quá trình giáo dục phải kiên trì
nguyên tắc lấy HS làm trung tâm. Việc thay đổi phương pháp dạy và học là một
công việc to lớn, khó khăn, phức tạp, tác động đến tất cả các khâu từ nội dung,
chương trình, SGK, trình độ đào tạo, thi cử, đến đánh giá, kiểm định chất lượng.
Đây là công việc liên quan tới tất cả các bộ phận cấu thành của giáo dục nên cần
có sự đổi mới đồng bộ từ nội dung đến phương pháp để đạt được mục đích đổi mới
căn bản và toàn diện giáo dục, đào tạo”[98]. Do đó, nhiệm vụ đặt ra đối với GV là
phải đổi mới PPDH, nhằm phát huy được tính tích cực học tập của HS, tăng cường
khả năng tự học, tự khám phá, đáp ứng yêu cầu đào tạo con người mới như mục tiêu
giáo dục đã đề ra. Hơn nữa, cùng với đà phát triển không ngừng của nền kinh tế tri
thức, việc nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo càng cần phải đi vào chiều sâu.
Trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều được hình thành
bằng những HĐ thuần tuý cá nhân. Lớp học là môi trường giao tiếp giữa thầy và
trò, trò và trò, tạo nên sự tương tác, mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên con
đường đi tới những tri thức mới. Thông qua sự tương tác, thảo luận, tranh luận tập
thể, ý kiến của mỗi cá nhân được bộc lộ, được điều chỉnh, khẳng định hay bác bỏ,
các thành viên trong nhóm chia sẻ các suy nghĩ, băn khoăn, kinh nghiệm, hiểu biết
bản thân, cùng nhau xây dựng nhận thức, thái độ mới. Bằng cách nói ra những điều
đang nghĩ, mỗi người có thể nhận rõ trình độ hiểu biết của mình về chủ đề nêu ra,
thấy mình cần học hỏi thêm những gì. Bài học trở thành quá trình học hỏi lẫn nhau
chứ không phải chỉ là sự tiếp nhận thụ động; các em còn học được ở bạn tri thức, kĩ
năng và còn được rèn luyện phong cách sống hòa nhập, biết lắng nghe, biết phê
phán, biết tham gia.
DHTT là một hướng đi mới trong đổi mới phương pháp dạy và học hiện nay.
Trong cuốn “Giáo dục – một kho báu tiềm ẩn” do Giắc Đờ-lo làm tổng chủ biên, tác
giả đã đưa ra nhận định đi vào thế kỷ mới quan hệ thày trò (phương pháp tương tác




2

thày trò) giữ vai trò trung tâm trong nhà trường. Vai trò của sự tương tác còn được
thể hiện trong tác phẩm “Dạy học và PPDH trong nhà trường”, tác giả Phan Trọng
Ngọ đã ví tri thức được nảy sinh từ sự tương tác giống như “lửa không được phát
sinh từ cái bùi nhùi hay từ các viên đá mà được nảy sinh khi các viên đá được cọ
sát vào nhau”[61, tr. 295]. Khi viết lời tựa cho tác phẩm “Tiến tới một phương pháp
SPTT” của hai tác giả Jean- Marc Denommé & Madeleine Roy, nhà khoa học Phạm
Minh Hạc đã nhấn mạnh: “Sự tương tác hỗ trợ, cùng nhau hợp tác đi vào con
đường tiếp thu, lĩnh hội các tri thức, kỹ năng, thái độ thành vốn sống, ăn nhập vào
vốn kinh nghiệm của bản thân, tạo nên một tiềm năng và tiếp đó thành nhân cách,
thành năng lực HĐ của từng người – thành người, làm người và ở đời.”[38, tr. 12]
Trong quá trình dạy học hiện đại, quan hệ tương tác hết sức được xem trọng.
Xét ở góc độ nào đó, nó phải được nhìn nhận như một nguyên tắc then chốt của dạy
học hiện đại. Tức là cho dù đối tượng dạy học là ai, nội dung dạy học là gì, thì để
dạy và học tốt được đều phải có sự tương tác tích cực giữa người học với các nhân
tố của quá trình dạy học. Trong quá trình dạy học môn Toán ở trường THPT hiện
nay, đã thể hiện được sự tương tác trong dạy học, nhưng chưa rõ nét, hầu hết là
tương tác một chiều giữa thầy – trò. Sự tác động qua lại giữa người học – môi
trường còn mờ nhạt. Vậy DHTT trong môn Toán có thể áp dụng một cách phù hợp
ở trường THPT của nước ta hiện nay không? Vai trò của người dạy, người học, môi
trường trong DHTT như thế nào? Sử dụng các biện pháp nào để DHTT đạt hiệu
quả? Đó còn là câu hỏi cần có lời giải đáp thỏa đáng.
PT và BPT là một trong những nội dung cơ bản của chương trình Toán phổ
thông. Đây cũng là một nội dung quan trọng nhằm rèn luyện trí tuệ cho HS. Tìm
các cách giải khác nhau của một PT hay BPT sẽ giúp HS linh hoạt trong lựa chọn
phương pháp giải các bài toán thuộc nội dung này. Điều đó kích thích tư duy biện
chứng, tư duy sáng tạo cho các em. Tuy nhiên, PT và BPT nếu đi sâu cũng là một

nội dung khó, cần có PPDH thích hợp để đem lại hiệu quả cao. Vận dụng DHTT
trong dạy học chủ đề PT và BPT có thể giúp HS tích cực hóa việc học của mình.
Trong trào lưu đổi mới PPDH hiện nay, có nhiều PPDH tích cực đã được áp dụng


3

trong dạy học môn Toán ở trường phổ thông nhưng chưa có công trình nào nghiên
cứu việc DHTT với chủ đề PT và BPT.
Từ những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài nghiên cứu là : "DHTT trong môn Toán
ở trường THPT qua chủ đề PT và BPT” với mong muốn đưa đề tài nghiên cứu này áp
dụng vào thực tiễn, nhằm nâng cao chất lượng dạy học môn Toán ở trường THPT.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận về DHTT và thực tiễn DHTT, đề
xuất một số biện pháp DHTT trong môn Toán qua chủ đề PT và BPT nhằm góp
phần nâng cao hiệu quả dạy học Toán ở trường THPT.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể nghiên cứu: Quá trình dạy học môn Toán ở trường THPT .
- Đối tượng nghiên cứu: Quá trình DHTT môn Toán ở trường THPT.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu đề xuất được một số biện pháp DHTT trong môn Toán phù hợp với thực
tiễn dạy học ở trường THPT thì có thể giúp HS học tập tích cực, chủ động và sáng
tạo, góp phần nâng cao hiệu quả dạy học môn Toán ở trường THPT.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu một số vấn đề lý luận về DHTT, mối quan hệ giữa DHTT với
các PPDH khác và việc vận dụng DHTT trong môn Toán.
- Đưa ra những yêu cầu cần thực hiện trong các giai đoạn tổ chức DHTT
trong môn Toán ở trường THPT.
- Đề xuất một số biện pháp DHTT trong môn Toán qua chủ đề PT và BPT.
- TN sư phạm để kiểm nghiệm tính khả thi và hiệu quả của các biện pháp

DHTT đã đề xuất thông qua dạy học chủ đề PT và BPT ở trường THPT.
6. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu việc vận dụng DHTT trong dạy học chủ đề PT và BPT ở trường THPT.


4

7. Phương pháp nghiên cứu
7.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận
- Nghiên cứu các văn kiện của Đảng, Nhà nước về giáo dục đào tạo, chương
trình và SGK Toán THPT, định hướng đổi mới PPDH nói chung và dạy học toán
phổ thông nói riêng.
- Nghiên cứu các sách báo tài liệu, các công trình nghiên cứu về DHTT, quan
điểm SPTT và những công trình có liên quan đến đề tài luận án.
7.2. Phương pháp điều tra quan sát
- Dự giờ, trao đổi với thầy cô giáo tại trường đại học cũng như các trường phổ
thông về việc tổ chức HĐ tương tác trong dạy học môn Toán.
- Điều tra nhằm tìm hiểu thực tế khả năng DHTT trong dạy học môn Toán ở
trường phổ thông.
7.3. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Nhằm kiểm nghiệm trên thực tiễn một phần tính khả thi và hiệu quả của đề tài
nghiên cứu.
7.4. Phương pháp chuyên gia
- Tham khảo ý kiến của các chuyên gia
7.5. Phương pháp thống kê toán học
- Xử lý các kết quả điều tra và TN.
8. Nội dung đưa ra bảo vệ
- Những quan niệm của tác giả luận án về DHTT, tình huống DHTT và các
kiểu tình huống DHTT có cơ sở khoa học và phù hợp với thực tiễn;
- Các giai đoạn tổ chức DHTT, các biện pháp DHTT trong môn Toán ở

trường THPT có tính khả thi và hiệu quả.
9. Đóng góp mới của luận án
- Hệ thống hoá và làm sáng tỏ thêm một số vấn đề lý luận về DHTT và việc
vận dụng DHTT trong môn Toán ở trường THPT.
- Đưa ra những yêu cầu cần thực hiện trong các giai đoạn tổ chức DHTT môn
Toán ở trường THPT và rút ra các kết luận sư phạm.


5

- Đề xuất một số biện pháp DHTT trong môn Toán ở trường THPT qua chủ
đề PT và BPT.
10. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của
luận án gồm 4 chương.
Chương 1. DHTT trong môn Toán
Chương 2. Tổ chức DHTT trong môn Toán ở trường THPT
Chương 3. Một số biện pháp DHTT trong môn Toán qua chủ đề PT và BPT
Chương 4. Thực nghiệm sư phạm


6

Chương 1. DẠY HỌC TƯƠNG TÁC TRONG MÔN TOÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu về dạy học tương tác
1.1.1. Những kết quả nghiên cứu trên thế giới
Quan hệ tương tác giữa các yếu tố của HĐ dạy và học đã được đề cập từ rất
sớm trong lịch sử giáo dục của nhân loại. Khổng Tử (551 – 479 TCN) hay Socrate
(469 – TCN) đã tỏ thái độ hết sức trân trọng đối với người thầy giáo và đề cao vai
trò tích cực, chủ động trong học tập của người học khi mô tả HĐ dạy học.

Tư tưởng SPTT đã được nhiều người nghiên cứu. Trong các tài liệu sư phạm
của Liên Xô, Đức trước đây, người ta đã nói nhiều đến tương tác Dạy - Học. Các
nhà giáo dục Liên Xô như : N.V. Savin, T.A. Ilina, B.P. Êsipốp, Iu.K. Babanxki,…
đã đánh giá tính chất nhiều nhân tố trong quá trình dạy học (ba nhân tố : Dạy – Nội
dung – Học), khẳng định mối quan hệ qua lại giữa hai yếu tố Dạy và Học. Tuy
nhiên, vẫn chưa bao quát hết chức năng và cấu trúc của từng yếu tố, chưa nêu rõ
được cơ chế tác động qua lại giữa các yếu tố thuộc cấu trúc HĐ dạy học nên chưa
có tác dụng phát huy hết tính tích cực, chủ động của HS trong quá trình dạy học.
Vào những năm 90 của thế kỉ XX, nhóm tác giả người Pháp là Guy
Brousseau, Claude Margolinas, Claude Comiti,... cũng đã nghiên cứu sự tương tác
giữa các yếu tố của HĐ dạy học trong lí thuyết tình huống môn Toán [81, tr. 115].
Họ đã đặt cơ sở khoa học cho những tác động sư phạm, thúc đẩy HĐ học của HS
lên đến mức cao mà vẫn không làm lu mờ, hạ thấp vai trò của thày giáo với tư cách
là người “khởi xướng” và cũng là người “kết thúc” một tình huống dạy học. Guy
Brousseau đã nghiên cứu mối quan hệ tương tác và tương hỗ giữa người dạy (dạy) người học (học) và môi trường trong quá trình dạy học. Trong đó môi trường được
xem xét dưới góc độ tình huống. Theo ông, có hai loại tình huống trong dạy học là
tình huống didactic và tình huống a- didactic. G.Brousseau và các cộng sự của ông
đã đưa ra các phương tiện, các công cụ để kích thích hứng thú và xây dựng các tình
huống dạy học, đặc biệt cách thức gia tăng sự tương tác, hợp tác giữa Dạy – Học –
Môi trường để dạy học đạt hiệu quả cao. Trong những công trình nghiên cứu, các
tác giả đã phân tích kĩ các vấn đề cơ bản của quan điểm SPTT như:


7

- Xác nhận cấu trúc HĐ dạy học bao gồm bốn nhân tố: Học (Người học); Dạy
(Người dạy); Kiến thức (Khái niệm khoa học); Môi trường (Điều kiện dạy học cụ thể).
- Phân tích hai vai trò khác nhau của thầy giáo trong tình huống dạy học: đề
xuất tình huống và tổ chức cho HS giải quyết tình huống để tìm thấy kiến thức và
tạo điều kiện để HS chính xác hoá kiến thức thành tri thức khoa học ( mà các tác giả

gọi là uỷ thác một tình huống và thể chế hoá kiến thức).
- Phân loại tình huống dạy học và mức độ can thiệp của thày giáo trong từng
loại tình huống.
- Môi trường (theo các tác giả) không phải là một yếu tố tĩnh, bất động, mà
đích thực là một thành tố thuộc cấu trúc HĐ dạy học. Môi trường không chỉ ảnh
hưởng đến người học, mà quan trọng ở chỗ nó làm thay đổi người học, người dạy
nhằm đảm bảo sự thích nghi của họ trước những đòi hỏi của môi trường, và ngược
lại, người học và người dạy cũng làm thay đổi chính môi trường nữa.
Jean- Marc Denommé & Madeleine Roy là hai tác giả cuốn sách “Tiến tới một
phương pháp SPTT (bộ ba: Người học - người dạy – môi trường)” [38] và “SPTT
một tiếp cận khoa học thần kinh về học và dạy” [37] đã khởi xướng một cách tiếp
cận sư phạm, gọi là phương pháp SPTT. Hai cuốn sách này trình bày về sự tương
tác giữa ba tác nhân trong quá trình dạy học là người dạy, người học và môi trường.
Chất lượng dạy học tốt hay không là do sự tương tác của ba tác nhân này có tốt hay
không. Trong hai cuốn sách này, các tác giả này đã nói tới một trường phái sư phạm
học tương tác cùng nền tảng lý luận của nó. Tư tưởng sư phạm học tương tác được
J.M.Denommé và M.Roy giới thiệu lần đầu tiên ở Việt Nam vào năm 2000. Trong
công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã giới thiệu những kết quả sau:
- HĐ dạy học: Giáo dục là sự tương tác lẫn nhau giữa ba yếu tố: Người dạy –
người học và môi trường.
- Xác định chức năng của từng yếu tố (người học – người thợ ; người dạy –
người hướng dẫn; môi trường và các ảnh hưởng của nó).
- Xác định quan hệ qua lại (tác giả gọi là các liên đới) giữa các yếu tố và giữa
các bộ phận trong một yếu tố.


8

- Đặc biệt, tác giả đã phân tích kỹ cơ sở thần kinh nhận thức (bộ máy học) và
các điều kiện khác (như vốn sống, xúc cảm, phong cách học và dạy,...) ở người học

làm cơ sở cho các tác động sư phạm có hiệu quả.
- Xác nhận các thành phần không thể thiếu của sư phạm học tương tác đó là sư
phạm hứng thú, sư phạm hợp tác, và sư phạm thành công, các khâu của HĐ dạy học
( như lập kế hoạch, tổ chức HĐ và hợp tác).
J.M. Denommé và M.Roy đã thành công trong việc mô tả yếu tố môi trường
một cách cụ thể và trực quan. Tuy nhiên môi trường ở đây được nhìn nhận trên
nhiều bình diện, nhiều mức độ khác nhau, nhưng vẫn chỉ dừng lại ở việc xem xét
môi trường như một yếu tố tĩnh, có sẵn, tồn tại xung quanh và ảnh hưởng đến người
dạy, người học và HĐ của họ.
Từ những phân tích trên, có thể thấy hai nhóm tác giả đã có những điểm tương
đồng như: xác nhận các yếu tố cơ bản của sư phạm học tương tác là Dạy – Học –
Môi trường, chức năng của từng yếu tố và làm rõ quan hệ giữa các yếu tố trong HĐ
dạy học. Tuy nhiên J.M. Denommé và M.Roy đã thành công trong việc mô tả yếu tố
môi trường một cách cụ thể và trực quan, nhưng lại chưa làm rõ bằng cách nào và
công cụ nào để các nhà sư phạm phát huy tác động tích cực của môi trường đến
người học. Trong khi đó, G.Brousseau và các cộng sự của ông đã đưa được ra
phương tiện, các công cụ để kích thích sự hứng thú và xây dựng các tình huống dạy
học, và các cách thức gia tăng sự tương tác, hợp tác giữa Dạy – Học – Môi trường
để dạy học đạt hiệu quả cao. Như vậy các tác giả đã kế thừa, bổ sung cho nhau làm
cho tư tưởng SPTT phát triển và ngày càng phong phú.
Gần đây, trong cuốn sách “The construction of new mathematical knowledge
in classroom interaction” (Xây dựng kiến thức toán học mới trong lớp học tương
tác), tác giả Heinz Steinbring [101] cũng đưa ra cách tiếp cận dạy học theo quan
điểm sư phạm này. Nội dung cuốn sách đề cập tới sự kết nối và đa dạng của những
khái niệm cơ bản của lý thuyết nền và nhận thức về bản chất của kiến thức toán học.
Tác giả xây dựng những lý thuyết cơ bản và phương pháp nhận thức theo định
hướng phân tích sự tương tác trong toán học cùng những kiến thức toán học và hệ


9


thống giao tiếp cần thiết trong quá trình nhận thức toán. Tác giả khẳng định người
học giữ vị trí trung tâm trong quá trình dạy học. Tác giả đề cao vai trò của sự giao
tiếp và sự tranh luận trong lớp học. Ông còn đưa ra các mẫu giao tiếp quen thuộc
được đúc rút từ những kinh nghiệm. Theo ông, đối với trẻ em khi học toán, tranh
luận về một nội dung nào đó là một cách phát triển những kiến thức toán của mình.
Hơn nữa, sự tranh luận về toán học của những sinh viên trẻ là sự thể hiện những
điều kịên nhận thức về kiến thức toán học. Ông còn nhấn mạnh mục tiêu dạy học có
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc tìm hiểu và phân tích bài dạy nhất là trong quá
trình dạy và học tương tác. Trong cuốn sách này, Heinz Steinbring đưa ra khái niệm
cơ bản của lý thuyết nền và những nét chính về cách lựa chọn phương pháp luận
nghiên cứu trong sự tương tác ở lớp học toán. Ông đã minh hoạ bằng một loạt khái
niệm học tập toán ở trường Tiểu học mà ông đã phân tích rõ điều kiện của việc xây
dựng những kiến thức toán học mới trong sự tương tác ở lớp học. Cuốn sách đã đưa
ra cách tiếp cận mới trong dạy và học toán đặc biệt là nhận thức luận về bản chất
của kiến thức Toán cùng với cách giao tiếp trong dạy học Toán. Tuy nhiên, hàng
loạt các ví dụ Heinz Steinbring minh hoạ ở đây chủ yếu trong toán Tiểu học mà
chưa thấy mở rộng hơn trong các bậc học cao hơn...
Hiện nay, trên thế giới đang sử dụng một công cụ trong giảng dạy tạo được
môi trường tương tác cao đó là Bảng điện tử tương tác Activboard. Bảng điện tử
này được xem như sản phẩm nòng cốt trong việc xây dựng giải pháp lớp học tương
tác của công ty Promethean (Anh quốc) [97]. Đây cũng là công ty đi tiên phong về
lĩnh vực xây dựng lớp học tương tác, đưa truyền thông đa phương tiện phục vụ cho
việc dạy và học. Loại bảng này có chức năng của màn hình tiếp xúc trực tiếp, cho
phép người sử dụng dùng bút thể hiện tự do những nội dung cần trình bày và kết nối
được với các môi trường mạng, Internet. Các GV và HS các cấp đều có thể dùng hệ
thống này để xây dựng, tiếp cận các bài giảng điện tử, giáo án hay các thư viện số
hóa trên mạng; trình bày những cuộc thảo luận nhóm, trắc nghiệm trực tiếp nhờ
những phần mềm đi kèm.



10

So với môi trường dạy học chỉ bằng sách vở truyền thống và hệ thống các
phòng học bộ môn có nối mạng máy tính, Activboard có nhiều ưu điểm vượt trội
hơn, tiết kiệm nhiều chi phí và hiện đang là sản phẩm được nhiều nền giáo dục quốc
gia trên thế giới ứng dụng.
Ưu điểm nổi bật của Hệ thống giảng dạy tương tác và đánh giá Activboard:
- Đây là công nghệ chuyên dùng cho phục vụ dạy và học, hàm lượng công
nghệ được ứng dụng đến 99% vào công tác giảng dạy và đánh giá hiệu quả dạy và
học giúp tiết kiệm tối đa hiệu quả đầu tư vào con người và vật chất.
- Với trình độ cơ bản về CNTT, GV bộ môn có thể vận dụng và khai thác
hiệu quả phần mềm, phần cứng vào công tác chuyên môn.
- Công nghệ điện từ trường cho phép xem bảng như một màn hình cảm ứng
toàn diện với độ chính xác tương tác tuyệt đối.
- Tương tác tích hợp vào hệ thống bài giảng và cho lưu lại thành tập tin.
- Cung cấp bộ công cụ giảng dạy tương tác và phong phú, đặc biệt là các
hiệu ứng tương tác tạo hiệu quả truyền đạt và tiếp thu kiến thức hiệu quả.
- Hệ thống thư viện hoàn hảo, thông minh và cho phép tự cập nhật.
- Công nghệ duy nhất có hệ thống đánh giá hiệu quả dạy và học theo qui
trình khép kín.
- Phần mềm và giáo trình được Việt hoá 100%.
- Tương thích với tất cả ngôn ngữ phần mềm khác, cho phép tương tác trên
bề mặt (powerpoint, word, excel, đồ hoạ), đặc biệt có chức năng Powerpoint
Converter giúp rút ngắn thời gian thiết kế lại bài giảng.
- Tất cả các ứng dụng chạy tương thích trên các hệ điều hành Window,
MAC, Linux.
- Công nghệ tạo ra giá trị kinh tế cao.
Promethean được nhiều danh hiệu và phần thưởng cao quí của các tổ chức
giáo dục uy tín thế giới vì có công đóng góp vào sự nghiệp giáo dục chung và sản

phẩm luôn được cải tiến công nghệ giáo dục làm nâng cao chất lượng dạy học và
đánh giá, đặc biệt tạo ra một động lực rất lớn giúp GV yêu nghề, sáng tạo; HS tích


11

cực và tiếp thu hiệu quả. Để có thể sử dụng bảng điện tử tương tác Activboard GV
có thể biên soạn giáo án bằng một trong các phần mềm: Activprimary, Activstudio,
Activsoftware Inspire Edition tùy theo cấp độ từng lớp học với những chức năng
chuyên biệt.
Hệ thống dạy và học tương tác (Digital Interactive Classroom) là một giải
pháp dạy và học hoàn chỉnh, tích hợp phần mềm và phần cứng. Đây là hệ thống
bảng điện tử thông minh tương tác trực tuyến, tạo môi trường tương tác toàn diện,
thu hút sự tập trung chú ý của trẻ, kích hoạt khả năng tư duy, sáng tạo với những bài
giảng thật sự sinh động, liên kết với thực tế cuộc sống. DHTT là xu hướng mới của
giáo dục hiện nay. Hình thức dạy học này mang đến cho người học một môi trường
lý tưởng để kiến tạo và tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua các họat động được thiết
kế bởi người dạy. Người học có điều kiện phát triển mạnh mẽ tính chủ động, tư duy
sáng tạo và các kỹ năng sử dụng những công cụ hiện đại của khoa học công nghệ,
đáp ứng nhu cầu của thực tiễn đối với sản phẩm đào tạo.
Trong các hình thức DHTT, sử dụng phần mềm và các phòng học đa chức
năng có nối mạng internet hoặc mạng nội bộ tỏ ra có nhiều ưu điểm và được nhiều
nước trên thế giới quan tâm theo đuổi. Kết hợp với các hình thức hội thảo và thực
hiện các tiểu luận theo nhóm, DHTT tạo ra sự phát triển toàn diện và nâng cao chất
lượng giảng dạy.
Hiện nay, chương trình giáo dục mầm non ở một số nước trên thế giới đang từng
bước đổi mới cả nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức HĐ. Vấn đề quan trọng
nhất là tạo một môi trường giáo dục tương tác tốt cho trẻ. Việc tổ chức HĐ DHTT
được quan tâm đúng mức sẽ tạo điều kiện cho cả GV và trẻ phát huy tính sáng tạo
trong việc thực hiện kế hoạch HĐ. Bên cạnh đó, trẻ sẽ chủ động, tự tin khi tiếp cận với

các sản phẩm CNTT mới.
1.1.2. Những kết quả nghiên cứu ở Việt Nam
Phương pháp SPTT được phổ biến ở Việt Nam vào năm 1992 tại Huế và
1995 tại trường Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh trong hội thảo Didactic


12

của những nước nói tiếng Pháp. Mặc dù vậy, thuật ngữ sư phạm học tương tác là
một thuật ngữ mới ở Việt Nam.
Trong thời gian gần đây, các nhà giáo Việt Nam đã trao đổi nhiều về tư tưởng
sư phạm mới này. Trong cuốn sách “Vận dụng lí luận vào thực tiễn dạy học môn
Toán ở trường phổ thông” [59], tác giả Bùi Văn Nghị đã trình bày một cách sơ lược
việc vận dụng thuyết tương tác trong dạy học một vài nội dung của chương trình
Toán ở phổ thông. Trong luận án Tiến sĩ Giáo dục học “Tổ chức dạy học theo quan
điểm SPTT trong các trường (khoa) cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo hiện nay”
[88], tác giả Nguyễn Thành Vinh cũng đã trình bày một số vấn đề cơ bản của
phương pháp SPTT. Trong cuốn sách “Dạy học và PPDH trong nhà trường” [61],
tác giả Phan Trọng Ngọ đề cập đến sự tương tác giữa người dạy, người học và đối
tượng dạy học. Tác giả đã đưa ra một nhóm phương pháp tổ chức tương tác hành
động học bao gồm: Các phương pháp kịch, các PPDH bằng trò chơi, và DHTT theo
lí thuyết lịch sử văn hoá về sự phát triển các chức năng tâm lí cấp cao của L.X.
Vưgotxky. Tác giả khẳng định rằng trong bất kỳ quá trình dạy học nào cũng tồn tại
sự tương tác giữa ba yếu tố: người dạy, người học và đối tượng dạy học. Trong
cuốn sách “PPDH truyền thống và đổi mới” [81], tác giả Thái Duy Tuyên cũng
trình bày những khái niệm của phương pháp sư phạm học tương tác, các dạng bài
học trong sư phạm học tương tác và các dạng tương tác trong dạy học.
Về vấn đề môi trường dạy học theo phương pháp SPTT, tác giả Nguyễn Thị
Bích Hạnh (khoa Tâm lý Giáo dục học trường Đại học Sư Phạm thành phố Hồ Chí
Minh) đã có nhiều bài viết trao đổi sâu về vấn đề này[19]. Tác giả đã khẳng định

các yếu tố cấu thành HĐ dạy học gồm: Kiến thức (khái niệm khoa học hay nội
dung); Học (người học – trò); Dạy (người dạy – thầy); Môi trường (điều kiện dạy
học cụ thể). Mỗi yếu tố thuộc cấu trúc HĐ dạy học đảm nhận chức năng riêng biệt.
Các yếu tố không tồn tại rời rạc bên cạnh nhau mà chúng có mối quan hệ với nhau
và luôn tác động qua lại lẫn nhau. Môi trường trong sư phạm học tương tác không
hiểu như là các đòi hỏi của xã hội (mô hình nhân cách) đặt ra cho nhà trường, trong
đó có quá trình dạy học; cũng không hiểu là các điều kiện vật chất, tinh thần; các


13

yếu tố bên trong và bên ngoài người dạy và người học ảnh hưởng đến HĐ dạy và
học, mặc dù sư phạm học tương tác có tính đến. Môi trường bàn đến ở đây được
hiểu là các tình huống dạy học do người dạy tạo ra cho người học HĐ, cải biến và
thích nghi [19]. Trong cuốn sách xuất bản năm 2011 “ Phương pháp và công nghệ
dạy học trong môi trường SPTT” [27], tác giả Phó Đức Hòa đã mang đến cho người
đọc một cách nhìn tổng quan về mô hình HĐ SPTT và việc ứng dụng phương pháp
và công nghệ dạy học trong môi trường này ở các loại hình nhà trường khác nhau.
Tác giả cuốn sách đã đưa ra cách tiếp cận mới về SPTT cũng như các PPDH tích
cực đã được sử dụng trong môi trường này. Tác giả cuốn sách đã khẳng định các
PPDH tích cực chỉ được thực hiện có hiệu quả trong một môi trường giàu tính công
nghệ, môi trường dạy học đa phương tiện. Người dạy và người học sử dụng công
nghệ dạy học mới nhưng không lạm dụng CNTT đang là một vấn đề thời sự, đã và
đang được đặt ra trong cuốn sách này với các biện luận và phân tích cụ thể. Điểm
sáng của cuốn sách này là việc tác giả đã chỉ ra được các PPDH tích cực áp dụng
trong môi trường SPTT và CNTT cùng các phần mềm hữu ích được sử dụng trong
dạy học. Tuy nhiên, cuốn sách chưa đề cập tới việc áp dụng quan điểm SPTT vào
dạy học một môn học cụ thể, đặc biệt trong môn Toán.
Gần đây nhất, trong luận án tiến sĩ “Dạy học dựa vào tương tác trong đào tạo
GV tiểu học trình độ đại học” [78] được bảo vệ năm 2013, tác giả Phạm Quang

Tiệp đã xây dựng khung lý thuyết về dạy học dựa vào tương tác. Tác giả đã phân
tích và đánh giá thực trạng dạy học dựa vào tương tác trong đào tạo GV tiểu học
trình độ đại học, đồng thời thiết kế được năm mô hình dạy học dựa vào tương tác và
một số KTDH, nhằm triển khai hiệu quả những mô hình dạy học này trong thực tiễn
đào tạo GV trình độ đại học.
Ngoài ra, còn rất nhiều luận án và luận văn thạc sỹ bàn về DHTT như luận văn:
“Vận dụng quan điểm SPTT vào dạy học nội dung Phép dời hình và phép đồng
dạng trong mặt phẳng, Hình học 11 nâng cao trường THPT” [10] của Vũ Văn
Công; Luận văn: "Vận dụng SPTT trong dạy học môn Toán ở lớp 3" [71] của
Nguyễn Thế Sang; hay “Tổ chức dạy học theo nhóm nhằm tăng cường tương tác sư


14

phạm trong dạy học lý luận dạy học môn Toán (phần 2) ở trường Đại học Sư
Phạm”[47] của tác giả Bùi Thị Hạnh Lâm,...Trên các tạp chí giáo dục và nghiên cứu
khoa học gần đây cũng đăng nhiều bài trao đổi về bản chất và sự hình thành của
phương pháp SPTT, cũng như cách tiếp cận các PPDH khác theo mô hình tương
tác, như các bài báo của tác giả Nguyễn Phương Hồng về "Tiếp cận kiến tạo trong
dạy học khoa học theo mô hình tương tác",[31 , trang 13,14]; "Phương pháp SPTT:
bản chất và hướng ứng dụng", của Nguyễn Đình Chắt [8 , trang 19, 20, 23]; hay bài
viết về "Dạy - học tương tác theo hướng người học tự hình thành kiến thức mới"
[76] của tác giả Đỗ Thị Phương Thảo cũng đề cập tới yếu tố môi trường trong
DHTT. Trong bài báo về " Phương pháp SPTT và hình thức đào tạo theo học chế
tín chỉ" của tác giả Cao Xuân Liễu (Khoa Sư phạm – Trường đại học Đà Lạt) [50,
trang 21-24],...Điều đó là minh chứng về việc quan tâm của các nhà giáo dục Việt
Nam đến quan điểm dạy học mới này.
Ngày nay, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, xu
hướng ứng dụng CNTT trong giáo dục và tạo môi trường học tập mang tính tương
tác là một trong những mối quan tâm hàng đầu của ngành giáo dục cũng như các

bậc phụ huynh. Hình thức dạy học này mang đến cho người học một môi trường lý
tưởng để kiến tạo và tự chiếm lĩnh kiến thức thông qua các họat động được thiết kế
bởi người dạy. Người học có điều kiện phát triển mạnh mẽ tính chủ động, tư duy
sáng tạo và các kỹ năng sử dụng những công cụ hiện đại của khoa học công nghệ,
đáp ứng nhu cầu của thực tiễn đối với sản phẩm đào tạo. Tuy nhiên, việc vận dụng
quan điểm SPTT vào dạy học các nội dung cụ thể của các môn học trong nhà
trường còn ít được nghiên cứu.
Ở Việt Nam hiện nay, đã và đang áp dụng quan điểm này tuy chưa được rộng
rãi ở một số trường phổ thông. Việc áp dụng quan điểm này được thể hiện rõ nhất
đó là thi giải toán qua mạng cho HS Tiểu học thông qua việc sử dụng học liệu Toán
tương tác của tác giả Hoàng Khánh Hòa đã được giới thiệu trên mạng Internet [99].


15

Học liệu Toán tương tác đã thu hút được sự tham gia đông đảo của các em HS Tiểu
học và phổ thông cơ sở, cũng như sự quan tâm của các bậc phụ huynh.
Toán tương tác là học liệu Việt ngữ đầu tiên và duy nhất cho phép HS học toán
qua hình thức thực hành tương tác, với số lượng bài học đa dạng theo chủ đề và cấp
độ lớp học. Học liệu Toán được thiết kế để phù hợp với chương trình trong chuẩn
SGK Việt Nam, đặt biệt phù hợp cho HS theo học các chương trình theo chuẩn
Anh-Mỹ-Singapore-Úc ở Việt Nam hoặc tiếp tục theo học chương trình phổ thông
tại các quốc gia này. Học liệu thực hành Toán tương tác được đánh giá là hệ thống,
đủ tốt, nhiều người đã học: cơ hội để học tập theo mức tiến bộ của bản thân và trải
nghiệm tiếp thu kiến thức được cá nhân hóa.
Tuy nhiên, học liệu thực hành Toán tương tác chủ yếu dành cho đối tượng HS
từ mẫu giáo đến lớp 8, với các lớp tiếp theo còn đang từng bước hoàn thiện để đáp
ứng nhu cầu học tập.
Hiện nay, hệ thống trường Quốc tế Châu Á - Thái Bình Dương (APC) ở quận
1, thành phố Hồ Chí Minh triển khai việc ứng dụng tiện ích CNTT vào việc giảng

dạy và quản lý, nhằm phục vụ cho mục tiêu đào tạo HS thành những công dân toàn
cầu sau này. Nhằm tăng cường tính sinh động và khả năng tự chủ của HS, tất cả GV
tại APC đều dùng giáo án điện tử kết hợp sử dụng thiết bị hỗ trợ là Bảng tương tác
điện tử thông minh theo công nghệ Hoa Kỳ - Mimio trong giảng dạy. Với sự trợ
giúp của thiết bị công nghệ cao, GV dễ dàng giúp HS “tương tác” trực tiếp vào bài
giảng của mình một cách trực quan và đa dạng, tạo cảm hứng cho GV lẫn HS. Từ
đó, giúp HS tiếp thu bài giảng tốt hơn, phát huy khả năng suy luận và trí tưởng
tượng của các em.
Có thể nói, việc nghiên cứu về DHTT ở trong và ngoài nước đã đạt được
nhiều thành tựu về lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, theo chúng tôi được biết, chưa
có công trình nào nghiên cứu sâu về DHTT trong môn Toán, nhất là DHTT trong
một chủ đề cụ thể như PT và BPT.


16

Kế thừa những thành tựu nghiên cứu về DHTT, hiện nay trên thế giới và ở
Việt Nam đang từng bước vận dụng những lý thuyết về tương tác vào dạy học các
môn học cụ thể. Có thể tổng hợp theo ba đường hướng như sau:
Thứ nhất, trường phái “SPTT” (Interactive pedagogy) của hai tác giả J.M.
Denommé và M.Roy, cùng với việc khai thác mối quan hệ qua lại của ba tác nhân
người học – người dạy – môi trường dựa trên cơ sở của sinh lý thần kinh. Trường
phái này chủ yếu khai thác và đề cao vai trò ảnh hưởng của môi trường và hệ thống
thần kinh (bộ máy học) trong quá trình dạy học. SPTT có mối quan hệ mật thiết với
lý thuyết tình huống trong Didactic.
Thứ hai, phần đông hiện nay đi theo hướng hiểu học tương tác theo quan niệm
hiện đại (Interactive learning). Theo quan niệm này, học tương tác được hiểu là một
tiếp cận sư phạm mà ở đó khai thác sự kết hợp chủ yếu của công nghệ dạy học và
kỹ thuật số trong dạy học.
Trường phái thứ ba mang tính tổng hòa hơn, đó là tương tác trong lớp học

(Interactive classroom). Theo trường phái này, người học giữ vai trò chủ đạo trong
lớp học, người dạy đóng vai trò như người hướng dẫn và tổ chức. Trong trường phái
này chủ yếu khai thác sự tác động qua lại, tương tác giữa người học – người học,
người học với người dạy và tương tác giữa người học - người dạy - môi trường dạy học
trong đó có SGK, tài liệu học tập, phương tiện dạy học,…chủ yếu là máy tính, các trò
chơi, và tình huống DHTT. Trong luận án này, chúng tôi đi theo trường phái thứ ba.
1.1.3. Thực tiễn về dạy học tương tác trong môn Toán ở trường trung học phổ
thông hiện nay
Trong xu thế hiện nay, cùng với trào lưu đổi mới PPDH, DHTT đang được
nhiều người quan tâm và áp dụng. Một số trường đã tổ chức khóa tập huấn về SPTT
và xây dựng hồ sơ môn học cho các GV. Tuy nhiên, việc áp dụng DHTT, đặc biệt
trong dạy học môn Toán ở trường THPT còn nhiều hạn chế.
Qua việc tham gia giảng dạy tại trường THPT, kết hợp với dự giờ, thăm lớp và
trao đổi với GV giảng dạy, cùng với việc phát phiếu khảo sát về tình hình áp dụng
DHTT ở trường THPT, chúng tôi nhận thấy dạy học môn Toán ở hầu hết các trường


17

THPT hiện nay có thể hiện được sự tương tác trong dạy học nhưng chưa rõ nét, hầu
hết là tương tác một chiều giữa thầy - trò. Tương tác giữa thày và trò được thể hiện
nhiều nhất qua đàm thoại, phát vấn, hay dạy học GQVĐ,...trong khi tương tác giữa
người học với môi trường thì rất ít. Tương tác giữa các học trò với nhau thường chỉ
thể hiện thông qua các PPDH tích cực khác, như qua dạy học hợp tác, khi GV chia
lớp thành các nhóm nhỏ và yêu cầu làm bài tập theo nhóm. Tương tác giữa trò với
môi trường qua việc trò tự tìm hiểu tài liệu, làm bài tập và đối chiếu với sách, hay
tương tác giữa trò với máy tính và mạng Internet thường rất ít, gần như không có.
Thống kê phiếu khảo sát ý kiến của giáo viên về DHTT [phụ lục 1] qua việc
lấy ý kiến của 42 GV giảng dạy môn Toán ở trường THPT cho thấy sự hiểu biết về
DHTT của GV chưa được đầy đủ. 62% số GV được lấy ý kiến cho rằng DHTT là

sự tác động qua lại giữa người dạy – người học – nội dung; 34% số GV được lấy ý
kiến cho rằng DHTT là sự tác động qua lại giữa người dạy – người học – môi
trường, số còn lại cho rằng có thể coi DHTT là sự tác động qua lại giữa thầy và trò,
giữa người học với nhau,… Khi được hỏi về tầm quan trọng của các mối quan hệ
tương tác trong dạy học, thì 100% GV lựa chọn câu trả lời là quan trọng hoặc rất
quan trọng. Khi được hỏi về việc sử dụng những PPDH nào, hầu hết các GV đều đã
sử dụng đa dạng các phương pháp như: phát hiện và giải quyết vấn đề, thuyết trình,
hợp tác, … nhưng chưa có GV nào sử dụng DHTT trong dạy học Toán. Khi được
hỏi về một lớp học tương tác cần đảm bảo những yếu tố nào, 95% số GV cho rằng
cần tạo được bầu không khí sôi nổi, thân thiện trong lớp học, đảm bảo sự hứng thú,
tham gia của người học; 60% số GV cho rằng cần có kế hoạch bài học chặt chẽ,
ngắn gọn, nêu rõ những HĐ chủ yếu của GV và HS; 72% số GV được lấy ý kiến
cho rằng tổ chức HĐ nhất thiết gây lên mối quan hệ qua lại giữa người dạy và người
học; 20% số GV đó cho rằng cần phối hợp sử dụng các phương tiện, kĩ thuật dạy
học hiện đại. Để tìm hiểu về yêu cầu đối với người dạy, người học và môi trường để
tiến hành DHTT đạt hiệu quả, kết quả thống kê phiếu trả lời như sau:
Đối với người dạy:
Bảng 1.1. Bảng kết quả khảo sát ý kiến của GV về điều kiện của người dạy


18

để DHTT đạt hiệu quả
Tiêu chí
Tổ chức trao đổi với học sinh về những mẫu kĩ năng, hành vi
cần luyện tập;
Kết hợp giữa trình diễn mẫu hành động, kĩ năng với đàm thoại ngắn;
Phối hợp sử dụng các phương tiện, kĩ thuật dạy học hiện đại
trong trình diễn mẫu;
Tăng cường kiểm tra và hiệu chỉnh từng phần;

Kĩ thuật/ biện pháp khác.
Đối với người học:

Tỷ lệ lựa chọn
90%
75%
100%
30%
0%

Bảng 1.2. Bảng kết quả khảo sát ý kiến của GV về điều kiện của người học để
DHTT đạt hiệu quả
Tiêu chí
Người học cần có động cơ học tập đúng đắn;
Người học phải có kỹ năng để tham gia các tương tác sư phạm;
Người học cần có ý chí để học tập kiên trì bền bỉ;
Người học cần có trách nhiệm với việc học tập của mình;
Các điều kiện khác.
Đối với môi trường:

Tỷ lệ lựa chọn
100%
35%
30%
60%
0%

Bảng 1.3. Bảng kết quả khảo sát ý kiến của GV về điều kiện của môi trường để
DHTT đạt hiệu quả
Tiêu chí

Tỷ lệ lựa chọn
Đảm bảo các yêu cầu cơ bản về cơ sở vật chất: phòng học, ánh
100%
sáng, âm thanh, phương tiện công nghệ dạy học phổ biến;
Đảm bảo các nguồn liệu dạy học khác như chương trình, học
5%
liệu,...
Cần có cơ chế tổ chức quản lý theo hướng tăng cường tương tác
33%
trong dạy học;
Tạo bầu không khí thân thiện, cởi mở trong lớp học;
98%
Các điều kiện khác.
0%
Khi được hỏi về việc thiết lập kế hoạch dạy học, các GV thường tiến hành các
HĐ nào, kết quả khảo sát như sau:
Bảng 1.4. Bảng kết quả khảo sát ý kiến của GV về việc tiến hành những HĐ
nào khi thiết lập kế hoạch dạy học
Tiêu chí
Phân tích chương trình, nội dung dạy học;
Tìm hiểu về đặc điểm của học sinh ;

Tỷ lệ lựa chọn
100%
45%


19

Thiết kế mục tiêu dạy học;

Thiết kế nội dung dạy học;
Thiết kế PPDH;
Thiết kế hoạt động học tập của học sinh;
Hoạt động khác.
Khi được hỏi về việc GV thường quan tâm tới những yếu tố nào

64%
62%
68%
66%
0%
khi thiết kế

PPDH, phần đông (chiếm 98%) cho rằng cần quan tâm tới điều kiện, phương tiện
dạy học, còn lại số GV lựa chọn việc quan tâm tới khả năng thực hiện của bản thân
là 64%, quan tâm tới nội dung dạy học cụ thể là 63%, số ít lựa chọn do khả năng, sở
trường học tập của HS (chiếm 20%). Khi hỏi về những khó khăn của gặp phải khi
áp dụng DHTT, thì khó khăn lớn nhất được các GV lựa chọn là do điều kiện,
phương tiện dạy học còn thiếu (chiếm 76%), ngoài ra khó khăn do việc soạn giáo án
và tổ chức lên lớp cũng được GV đề cập đến tương đối nhiều (chiếm khoảng 74%),
còn khó khăn do nhà trường không khuyến khích và HS không tích cực tham gia
chiếm tỷ lệ bằng nhau là 33%.
Qua con số thống kê ở trên, phần nào cho thấy DHTT chưa được áp dụng
trong dạy học môn Toán ở trường THPT, biểu hiện về sự hiểu biết của GV về
DHTT chưa nhiều. Mặc dù trong dạy học, sự tương tác đã có thể hiện, chủ yếu
thông qua các PPDH tích cực khác nhưng chưa rõ nét. Việc áp dụng DHTT còn
nhiều khó khăn, trong đó khó khăn lớn nhất do điều kiện, phương tiện dạy học còn
thiếu, ngoài ra một khó khăn không nhỏ còn do việc soạn giáo án và tổ chức lên lớp
có thể vì GV chưa được trang bị kiến thức về DHTT.
Hiện nay, trên mạng Internet xuất hiện nhiều lớp học trực tuyến, có lớp học

trực tuyến môn Toán theo các chuyên đề hay lớp ôn thi đại học. Nhiều HS đã đăng
ký tham gia, học tập ở đây chủ yếu là sự tương tác của người học và môi trường
CNTT. Tuy nhiên, trong học tập thiếu vắng sự có mặt của người thày trực tiếp chỉ
bảo và hướng dẫn nên việc tiếp thu của người học sẽ rất khó khăn, việc duy trì học
tập một cách thường xuyên qua mạng có bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, học liệu thực hành Toán tương tác [99] do tác giả Hoàng Khánh Hòa
đưa ra đã thu hút được đông đảo HS các trường Tiểu học và Trung học cở sở tham gia.
Học liệu thực hành Toán tương tác đã và đang từng bước xây dựng và hoàn thiện dành


20

cho không chỉ với đối tượng HS từ mẫu giáo đến lớp 8, mà còn cho đối tượng HS lớp 9
và THPT. Học liệu thực hành Toán tương tác đã đáp ứng được phần nào nhu cầu học
tập của HS, là một sân chơi bổ ích cho các em trong việc củng cố và rèn luyện các thao
tác làm toán cơ bản. Tuy nhiên, trong một chừng mực nào đó, học liệu này còn hạn chế
trong việc đào sâu và bồi dưỡng kiến thức Toán nâng cao.
DHTT là một cách tiếp cận dạy học hiện đại, đã áp dụng thành công ở một số
nước trên thế giới, và đạt được nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, việc áp dụng DHTT
vào Việt Nam hiện nay đặc biệt đối với việc dạy học môn Toán ở trường THPT vẫn
còn nhiều khó khăn. Bởi lẽ người học trong môi trường học của chúng ta vẫn còn khá
thụ động, sự hứng thú không phải lúc nào cũng khơi dậy và duy trì được ở người học.
Mặt khác, các phương tiện dạy học phục vụ cho DHTT ở nước ta còn hạn chế. Trong
trào lưu đổi mới PPDH như hiện nay, việc nghiên cứu và đề xuất những biện pháp áp
dụng hiệu quả DHTT vào dạy học trong trường phổ thông là rất cần thiết. Điều đó sẽ
làm tăng tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học, giúp bài học trở nên sinh
động hơn, có hiệu quả hơn, đồng thời ngoài những tri thức và kĩ năng có được, HS còn
học được cách thức tương tác, giao tiếp, hợp tác với nhau.
1.2. Dạy học tương tác
1.2.1. Dạy học và quá trình dạy học

Theo từ điển Tiếng Việt “dạy học là dạy văn hóa theo những chương trình
nhất định”[64, tr. 313].
Theo nghĩa thông thường, người ta hiểu dạy học là truyền thụ một điều gì đó
cho người khác, là sự truyền kiến thức hoặc lý thuyết, hoặc thực hành. Có người
còn cho rằng: Dạy học là truyền một thông điệp. Định nghĩa này khó chấp nhận vì
nó đơn giản hóa hành vi dạy học thành HĐ truyền thông tin. Định nghĩa của Ga-nhê
có lý hơn: “Dạy học là tổ chức các tình huống học tập”. [4]
Chúng tôi tán thành với tác giả Đỗ Ngọc Đạt khi ông viết: “Dạy học là khái
niệm chỉ HĐ chung của người dạy và người học, hai HĐ này song song tồn tại và
phát triển trong cùng một quá trình thống nhất là quá trình dạy học” [13, tr. 50].


21

Theo tác giả Phan Trọng Ngọ, quá trình dạy học là chuỗi liên tiếp các hành
động dạy học của người dạy và người học đan xen và tương tác với nhau trong
khoảng không gian và thời gian nhất định, nhằm thực hiện các nhiệm vụ dạy học.
[61, tr. 89]
Quá trình dạy học được xác định bởi 4 dấu hiệu sau:
- Dạy học là một dạng HĐ đặc thù của xã hội, nhằm truyền thụ và lĩnh hội
kinh nghiệm xã hội, trên cơ sở đó hình thành nhân cách của người học.
- HĐ dạy và HĐ học đều phải được tiến hành trên bản thể của quá trình dạy
học là nội dung dạy học.
- Kết quả của quá trình dạy học là làm biến đổi ở người học những đặc tính
nào đó đã được xác định từ trước và tương ứng với nội dung dạy học.
- Quá trình dạy học phải là một quá trình học tập có kiểm soát và điều khiển.
Cấu trúc của quá trình dạy học bao gồm các yếu tố sau: Mục đích, nội dung
dạy học, các HĐ dạy và học, kết quả học tập.
1.2.2. Tương tác
Theo từ điển Tiếng Việt [64], tương tác là sự tác động qua lại. Mặt khác, từ

“tương tác” trong Tiếng Anh là “interaction”, đây là từ ghép, được ghép bởi từ
“inter” và “action”. Trong đó, “inter” là sự liên kết, nối liền với nhau, còn “action”
là sự tiến hành làm điều gì, HĐ hay hành động [34, tr. 17]. “Interaction” là sự tiếp
xúc với nhau, tác động qua lại [34,tr. 548] hay còn là hành động tương hỗ, ảnh hưởng
lẫn nhau giữa các đối tượng, hoặc là sự trao đổi giữa người này với người khác.
Trong tác phẩm “Dạy học và PPDH trong nhà trường”, tác giả Phan Trọng
Ngọ đã quan niệm “HĐ dạy và HĐ học là sự tương tác lẫn nhau giữa hai mặt của
một HĐ: HĐ dạy học.”[61, tr. 131] Trong đó tác giả còn nhấn mạnh đến sự tồn tại
và phát triển của mặt này quy định sự tồn tại và phát triển của mặt kia.
Trong quá trình dạy học, có thể hiểu tương tác là sự tác động qua lại trực tiếp
giữa người học với người dạy và giữa người học với nhau trong môi trường giáo
dục nhằm thực hiện các nhiệm vụ học tập, các mục tiêu dạy học đã xác định.


22

1.2.3. Quan niệm về dạy học tương tác
Có nhiều quan niệm về DHTT. Trong tác phẩm “Dạy học và PPDH trong nhà
trường”, tác giả Phan Trọng Ngọ đã trình bày khái niệm về DHTT phát triển: “Phương
pháp DHTT phát triển là dạy học được thực hiện qua sự tác động hai chiều giữa GV và
học viên, trong đó mọi chỉ dẫn của GV hướng đến sự phát triển của học viên, nhờ tác
động phù hợp với trình độ phát triển gần của các em” [61, tr. 297].
Trong tác phẩm “Tiến tới một phương pháp SPTT”[38], hai tác giả Jean Marc
Denomme’ và Madeleine Roy đã nói tới một trường phái sư phạm học tương tác cùng nền
tảng lí luận của nó. Trong công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã nhấn mạnh: “HĐ
dạy học – giáo dục là sự tương tác lẫn nhau giữa ba yếu tố: Người dạy – Người học và
môi trường”. Sự tương tác đó được thể hiện qua sơ đồ:

Người học


Người dạy

Môi trường

Hình 1.1. Sơ đồ cấu trúc HĐ dạy – học:
bộ ba Người học – Người dạy – Môi trường trong quan điểm SPTT
Trong quan điểm SPTT, Jean Marc Denomme’ và Madeleine Roy đã làm rõ vai
trò của người dạy, người học và yếu tố môi trường cùng các mối quan hệ tác động
qua lại giữa chúng trong HĐ dạy học. Trong kiểu dạy học này, người dạy có chức
năng thiết kế, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra quá trình học. Còn người học tự tổ chức, tự
thiết kế, tự thi công và tự điều khiển quá trình chiếm lĩnh tri thức của bản thân.
Trong luận án này, chúng tôi hiểu: “DHTT là dạy học được thực hiện qua sự
tác động hai chiều giữa các nhân tố của quá trình dạy học bao gồm: người học,
người dạy, môi trường.”


23

Trong DHTT, người dạy và người học cùng tham gia làm gia tăng giá trị lợi
ích của nhau. GV quan tâm nhiều hơn tới sự tham gia, tương tác và hành động của
HS. GV thường đưa ra các thông tin, chỉ dẫn, lời gợi nhắc, sự khuyến khích phù
hợp với trình độ phát triển của HS. Mọi sự trợ giúp của GV phải tác động vào vùng
phát triển gần trong lộ trình phát triển của HS. Đây cũng là đặc trưng cơ bản giúp
đạt được kết quả cao trong quá trình dạy học.
DHTT trong môn Toán là HĐ dạy học, ở đó người dạy sử dụng các KTDH,
phương tiện dạy học, đặc biệt là CNTT và truyền thông,... tạo ra môi trường tương
tác, với các tình huống dạy học có dụng ý giúp người học chiếm lĩnh tri thức toán
học, rèn luyện kỹ năng vận dụng toán học, phát triển tư duy qua các tác động qua
lại, trao đổi, hợp tác giữa người học, người dạy và môi trường.
1.2.4. Cơ sở khoa học của dạy học tương tác

1.2.4.1. Cơ sở triết học
Theo nguyên lí về mối liên hệ phổ biến, các sự vật hiện tượng trong thế giới
khách quan không tồn tại độc lập, riêng rẽ, mà giữa chúng có mối liên hệ qua lại, tác
động và ảnh hưởng lẫn nhau, thúc đẩy hoặc kìm hãm nhau phát triển. Quá trình dạy
học cũng được xem như một hiện tượng xã hội đặc thù, trong nó chứa đựng rất nhiều
thành tố: người học, người dạy, nội dung dạy học, các thiết bị, phương tiện dạy học,
không gian,...và những thành tố này không tồn tại độc lập, mà giữa chúng có mối
liên hệ, tác động qua lại, chế ước lẫn nhau, tạo động lực cho từng thành tố cùng vận
động và phát triển. Trong đó, quan trọng nhất là sự phát triển của người học.
Trong DHTT, các nhân tố người học, người dạy và môi trường không tồn tại
một cách độc lập, mà luôn có có sự tương tác, ảnh hưởng lẫn nhau nhằm thúc đẩy
sự tiến bộ của người học trong HĐ học và người dạy trong HĐ dạy.
1.2.4.2. Cơ sở giáo dục học
Trong DHTT, HĐ dạy và HĐ học mang tính chất hai chiều, tất yếu phải có sự
tác động qua lại giữa người dạy và người học, sự tác động này diễn ra trong những
điều kiện xác định, đảm bảo sự thống nhất giữa HĐ điều khiển của thầy và HĐ học


24

của trò. DHTT phù hợp với nguyên tắc dạy học là: “Đảm bảo sự thống nhất giữa vai
trò chủ đạo của thày và vai trò tự giác, tích cực, độc lập của trò”.

1.2.4.3. Cơ sở tâm lý học
Cơ sở tâm lý của DHTT bắt nguồn từ những luận điểm cơ bản của thuyết lịch
sử - văn hóa về sự phát triển các chức năng tâm lý cấp cao của L.X.Vưgotxky [61,
tr. 65]. Ông cho rằng, học tập tức là tương tác với môi trường, dạy học tức là can
thiệp vào kinh nghiệm thường trực ở người học thuộc vùng phát triển gần nhất.
Vùng phát triển gần nhất là khái niệm chỉ khu vực kinh nghiệm cá nhân nằm giữa
trình độ phát triển tiềm tàng (ở dạng tiềm năng) được đặc trưng bằng năng lực

GQVĐ có sự hỗ trợ từ bên ngoài (ở quá khứ), và trình độ phát triển hiện tại (thành
tựu mới đạt được) có đặc trưng là năng lực GQVĐ độc lập. Theo ông, vùng phát
triển gần nhất hôm nay thì ngày mai sẽ trở thành trình độ hiện tại và xuất hiện vùng
phát triển gần nhất. Vậy trong DHTT, người dạy cần tác động vào vùng phát triển
gần nhất của HS thì việc dạy học mới đạt hiệu quả.
Tóm lại, DHTT có cơ sở khoa học vững chắc dựa trên sự phát triển của nhiều
ngành khoa học và được ứng dụng trong giáo dục. Sự phân tích về cơ sở khoa học
của DHTT giúp người dạy có thêm cơ sở và định hướng trong việc lựa chọn PPDH
phù hợp để việc dạy học đạt hiệu quả.
1.2.5. Các nhân tố trong dạy học tương tác
1.2.5.1. Người học- người làm việc chủ động
Trong DHTT, người học trước hết là người đi học mà không phải là người được
dạy. Trong quá trình nhận thức, người học phải dựa trên chính tiềm năng của mình,
khai thác những kinh nghiệm, những tri thức đã được tích lũy để tiếp cận, khám phá
những chân trời mới. Nhờ vào sự hứng thú, người học tham gia tích cực và biết tiếp tục
quá trình học bằng cách đặt ra nhiệm vụ học tập cho chính bản thân mình và phải hoàn
thành nó. Đồng thời, người học phải tham gia vào dự án học tập của tập thể, hoàn
thành nhiệm vụ đã đề ra.


25

*) Các yêu cầu đối với người học
Người học là chủ thể của HĐ học. Người học đảm nhiệm vai trò mấu chốt này
bằng cách thể hiện ngay từ khi bắt đầu học một sự hứng thú hiển nhiên và trong
suốt quá trình học một sự tham gia liên tục, và có trách nhiệm.[38, tr.31- 32]
* Sự hứng thú
Khi tham gia vào quá trình học, người học phải tỏ ra có sự hứng thú rõ rệt đối
với lợi ích của tri thức cần chiếm lĩnh cho bản thân mình. Sự hứng thú, trước hết
dựa vào lòng tự tin của người học. Ví dụ như người học sẽ không thể quan tâm đến

việc thực hiện một phương pháp học toán nào đấy nếu như họ không cảm thấy thích
thú với việc làm đó. Ngược lại, nếu người học có sự tự tin vào khả năng và kiến
thức của mình, có sự hứng thú thì sẽ tích cực suy nghĩ để giải bài toán. Người học
cần có cảm giác sâu sắc là có khả năng thực hiện thành công phương pháp học, phải
tin vào khả năng và phương pháp làm việc của mình.
Tham vọng vượt qua chính mình cũng có thể trở thành một nguồn hứng thú
có giá trị đối với người học. Và như vậy, người học làm việc hết mình để đóng vai
trò chủ động trong tất cả các HĐ học tập của mình. Sự hứng thú của người học
không chỉ phụ thuộc vào nhu cầu của người học mà còn phụ thuộc ở sự tác động sư
phạm của người dạy, từ điều kiện thuận lợi của môi trường. Do đó, nếu người học
không có hứng thú học thì sẽ khó đạt hiệu quả trong việc học tập của chính mình.
* Sự tham gia
Người học tham gia thực hiện phương pháp học bằng tất cả các vốn tri thức
đã tích lũy được, cũng như tất cả những kinh nghiệm sống của mình. Người học
phải có ý thức rằng bản thân người học có khả năng thực hiện được việc học tập
dựa trên sự ham muốn học hỏi, sở thích thu lượm tri thức và nhu cầu thỏa mãn một
lợi ích nào đó.
Quá trình học đòi hỏi người học phải có một sự HĐ liên tục và có nhiều cố
gắng. Khi người học cảm thấy không vượt qua được thì người học cần sự giúp đỡ
của người dạy. Trong quá trình học, người học tham gia hợp tác với bạn và cùng


×