Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Giá trị nhân đạo trong hai truyện ngắn “Chí Phèo” và “Lão Hạc” của Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (617.85 KB, 31 trang )

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU .........................................................................................................................2
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................2
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................2
3. Mục đích nghiên cứu ...............................................................................................3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................3
5. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................4
6. Cấu Trúc đề tài ....................................................................................................... 4
Chương 1. Giới thuyết về tác gia Nam Cao và chủ nghĩa nhân đạo .........................5
1.1. Vài nét về tác gia Nam Cao..................................................................................5
1.1.1. Tiểu sử và cuộc đời .......................................................................................5
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác ........................................................................................6
1.1.3. Quan điểm nghệ thuật ..................................................................................7
1.2. Giới thuyết về chủ nghĩa nhân đạo và giá trị nhân đạo ........................................9
1.3. Chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nam Cao ............................................ 10
Chương 2. Những nét tương đồng và khác biệt về giá trị nhân đạo trong hai
truyện ngắn “Chí Phèo” và “Lão Hạc” .................................................................... 13
2.1. Những điểm tương đồng ................................................................................... 13
2.1.1. Kết án xã hội tàn bạo ................................................................................. 13
2.1.2. Đồng cảm, phát hiện và khẳng định bản chất của con người .................... 17
2.2. Vài nét khác biệt................................................................................................ 21
2.2.1. Truyện ngắn Chí Phèo ............................................................................... 22
2.2.2. Truyện ngắn Lão Hạc ................................................................................ 25
KẾT LUẬN ................................................................................................................. 30
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................... 31


2



MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một dân tộc có lịng u nước nồng nàn và giàu lịng nhân đạo. Điều
đó đã được phản ánh rõ nét trong nền văn học của dân tộc, đại thi hào Nguyễn Du đã
có những vần thơ thể hiện lịng trắc ẩn của mình trong Sở kiến hành:
“Thức ăn thừa đổ đi,
Quanh xóm no đàn chó,
Biết đâu bên đường quan,
Có mẹ con đói khổ…”
Bước sang thế kỉ XX, với tình hình biến động vơ cùng phức tạp của xã hội, tính
nhân đạo trong văn học lại càng thể hiện sâu sắc hơn. Những lá cờ đầu của dòng văn
học hiện thực mang đậm tính nhân đạo giai đoạn này phải kể đến các cây đại thụ như
Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nguyễn Công Hoan… và đặc biệt là nhà văn Nam Cao.
Các sáng tác của Nam Cao phản ánh chân thực cuộc sống của người dân Việt
Nam trước Cách mạng tháng Tám. Đặc biệt các truyện ngắn của ông đã vạch trần bộ
mặt bất nhân, tàn bạo của xã hội đương thời đẩy người nơng dân vào đường cùng,
khơng có lối thốt. Hai truyện ngắn Chí Phèo và Lão Hạc là hai tác phẩm tiêu biểu,
mang đậm tính chất hiện thực và tính nhân đạo sâu sắc của ngịi bút Nam Cao.
Với mong muốn góp phần nhỏ vào cơng việc nghiên cứu về nhà văn Nam Cao –
cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại, đề tài Giá trị nhân đạo trong hai
truyện ngắn “Chí Phèo” và “Lão Hạc” của Nam Cao của chúng tôi sẽ đi sâu tìm
hiểu một cách cụ thể, chi tiết những giá trị nhân đạo mà Nam Cao đã thể hiện trong hai
tác phẩm Chí Phèo và Lão Hạc. Nhằm giúp chúng tơi hiểu rõ hơn về Nam Cao – một
ngịi bút nhân đạo bậc thầy của nền văn học Việt Nam hiện đại. Đồng thời đề tài cũng
sẽ góp phần giúp ích cho công việc của chúng tôi sau này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
So với các tác giả cùng thời viết về hiện thực đời sống con người, nhà văn Nam
Cao đã có cái nhìn mới mẻ hơn, chân thực hơn, tinh tế hơn. Bên cạnh việc tố cáo xã
hội “chó đểu”, ơng đã nhìn ra bản chất lương thiện của những người nơng dân nghèo

khổ, thậm chí cả những kẻ lưu manh bị tha hóa. Đó chính là nét đặc sắc trong ngòi bút
nhân đạo của Nam Cao.


3

Đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về quan điểm nghệ thuật, phong cách sáng tác,
đặc biệt là các công trình ngiên cứu về giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo trong sáng
tác của Nam Cao, với nhiều góc nhìn khác nhau. Có thể kể đến các cơng trình như:
Nhà văn – hiện thực đời sống và các tính sáng tạo, Trần Đăng Suyền, Nxb Văn học,
2004; Những bài giảng về tác gia văn học Việt Nam hiện đại, Nguyễn Đăng Mạnh,
Nxb Đại học sư phạm, năm 2005; Chủ nghĩa hiện thực Nam Cao, Trần Đăng Suyền,
Nxb Khoa học xã hội, năm 2009… Cụ thể hơn là cuốn Phân tích tác phẩm Nam Cao
trong nhà trường, Nguyễn Văn Tùng, Nxb Giáo dục, năm 2005 đã nói lên đặc sắc ở
ngòi bút nhân đạo của Nam Cao trong các sáng tác, đặc biệt là hai truyện ngắn Chí
Phèo và Lão Hạc.
Nhìn chung ở các cơng trình trên, phần lớn các tác giả chỉ đề cập một cách khái
quát, hoặc chỉ giới thiệu chung về chủ nghĩa nhân đạo trong các tác phẩm của Nam
Cao chứ chưa thực sự đi sâu tìm hiểu chi tiết, cụ thể về giá trị nhân đạo trong hai
truyện ngắn cụ thể là Chí Phèo và Lão Hạc.
Vì vậy đề tài của chúng tơi sẽ cố gắng đi sâu tìm hiểu một cách cụ thể để làm nổi
bật Giá trị nhân đạo trong hai truyện ngắn “Chí Phèo” và “Lão Hạc” của Nam Cao.
3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Qua việc tìm hiểu, nghiên cứu về sáng tác của Nam Cao, đặc biệt về giá trị nhân
đạo trong hai truyện ngắn Chí Phèo và Lão Hạc. Từ đó hiểu rõ hơn về quan niệm, thái
độ của nhà văn Nam Cao về con người và nghệ thuật.
Đồng thời đề tài của chúng tơi cũng mong muốn đóng góp thêm ý kiến nhỏ
trong việc nghiên cứu về nhà văn Nam Cao, nhằm hiểu hơn về cuộc đời cũng như sự
nghiệp của nhà văn có vẻ ngồi “lạnh lùng, vụng về, ít nói” này. Tạo điều kiện thuận
lợi cho cơng tác học tập, giảng dạy sau này trong nhà trường.

4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu: Giá trị nhân đạo trong hai truyện ngắn Chí Phèo và Lão
Hạc của nhà văn Nam Cao.
Phạm vi nghiên cứu: do tính chất đề tài, phạm vi nghiên cứu của bài viết này
được giới hạn ở hai truyện ngắn Chí Phèo và truyện ngắn Lão Hạc.


4

5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp so sánh – đối chiếu: nhằm làm rõ giá trị nhân đạo trong sáng tác
của Nam Cao đặc biệt trong hai truyện Chí Phèo và Lão Hạc.
- Phương pháp phân tích: phân tích những hình ảnh, tình tiết độc đáo thể hiện
khái quát ngòi bút nhân đạo bậc thầy của nhà văn.
- Phương pháp khái quát vấn đề: nhằm có cái nhìn đúng đắn, tồn diện hơn về
quan điểm nghệ thuật của nhà văn.
Bên cạnh đó, đề tài cịn kết hợp vận dụng các phương pháp khác theo quan điểm
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử nhằm làm rõ hơn những tư tưởng, quan điểm và
thái độ của Nam Cao về nghệ thuật cũng như con người.
6. CẤU TRÚC ĐỀ TÀI
Cấu trúc của bài viết gồm ba phần: Phần mở đầu, phần nội dung và phần kết luận.
Phần nội dung chính được chia làm hai chương chính, cụ thể như sau:
Chương 1. Giới thuyết về tác gia Nam Cao và chủ nghĩa nhân đạo
1.1. Vài nét về tác gia Nam Cao
1.2. Giới thuyết về chủ nghĩa nhân đạo và giá trị nhân đạo
1.3. Chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nam Cao
Chương 2. Những nét tương đồng và khác biệt về giá trị nhân đạo trong hai
truyện ngắn “Chí Phèo” và “Lão Hạc”
2.1. Những điểm tương đồng

2.2. Vài nét khác biệt


5

CHƯƠNG 1
GIỚI THUYẾT VỀ TÁC GIA NAM CAO
VÀ CHỦ NGHĨA NHÂN ĐẠO
1.1. Vài nét về tác gia Nam Cao
1.1.1. Tiểu sử và cuộc đời
Nam Cao tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh năm 1917 trong một gia đình nơng
dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, phủ Lý Nhân nay là xã Nhân Hậu, huyện Lý
Nhân, tỉnh Hà Nam.
Sinh ra trong một gia đình nghèo lại đơng con, Nam Cao là người duy nhất trong
gia đình được học hành tử tế. Sau khi học hết bậc thành chung ông vào Sài Gòn kiếm
sống và bắt đầu sáng tác. Sau hơn ba năm, vì ốm đau ơng phải trở về quê, rồi dạy học
ở một trường tư thục ngoại ô Hà Nội. Chính cuộc sống của một giáo khổ trường tư đó
đã cung cấp cho ơng một sự cảm nhận sâu sắc về thân phận con người đặc biệt là
những người trí thức nghèo trong xã hội cũ đầy ngột ngạt ấy.
Năm 1941, qn Nhật vào Đơng Dương, trường đóng cửa, ông phải sống chật vật
bằng nghề viết văn và làm gia sư.
Đầu năm 1943, ơng tham gia nhóm Văn hóa cứu quốc ở Hà Nội, bị địch khủng
bố gắt gao, ông phải lánh về quê rồi tham gia khởi nghĩa (tháng 8 – 1945) ở phủ Lý
Nhân, sau đó được bầu làm chủ tịch xã.
Năm 1946, ơng có mặt trong đoàn quân Nam tiến vào đến Nam Trung Bộ với tư
cách là phóng viên mặt trận.
Mùa thu năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc tham gia công tác kháng chiến. Ông
vừa là biên tập cho báo Cứu quốc Việt Bắc vừa làm cán bộ thông tin tuyên truyền.
Năm 1948 ông được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương
Năm 1950 Nam Cao tham gia chiến dịch Biên giới. Tháng 11 – 1951, trên đường

vào công tác ở vùng địch hậu Liên khu Ba, ơng có ý định nhân chuyến đi này ghé về
làng quê của mình, thu thập thêm tư liệu để viết một tác phẩm về quê hương trong thời
kháng chiến. Nhưng nhà văn đã ngã xuống ngay khi tài năng đang độ chín và biết bao
dự định còn dang dở. Năm 1996, Nam Cao được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ
Chí Minh về văn học nghệ thuật.


6

Nam Cao là một người hiền lành, trầm lặng, nhút nhát đến vụng về, có vẻ như ít
nói, lạnh lùng khó gần. Nhà văn rất khổ tâm về cái tật “hãi người” và “cái mặt khơng
chơi được” của mình. Con người mảnh khảnh thư sinh ăn nói ơn tồn nhiều khi đến rụt
rè nhưng kì thực lại mang trong lịng một sự phản kháng mãnh liệt với thời cuộc. Bình
sinh, Nam Cao thường day dứt, hối hận, lấy làm xấu hổ về những việc làm, những ý
nghĩ mà ông tự thấy là tầm thường của mình. Người trí thức “trung thực vơ ngần” (lời
Tơ Hồi) ấy ln nghiêm khắc đấu tranh với chính mình để thốt khỏi lối sống tầm
thường, nhỏ nhen, khao khát vươn tới một tâm hồn trong sạch và mơ ước tới cảnh
sống, những con người thật đẹp. Giá trị to lớn trong sáng tác của Nam Cao, nhất là
những tác phẩm viết về người trí thức nghèo, gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân
trung thực, âm thầm mà quyết liệt trong suốt cuộc đời cầm bút của ơng.
Nam Cao là người có tấm lịng nhân đạo sâu sắc, có ý thức gắn bó thủy chung
với nhân dân, với những người nghèo khổ, trước hết là những người thân trong gia
đình. Đó chính là nguồn sức mạnh giúp Nam Cao đứng vững trước những sóng gió
cuộc đời, là động lực thúc đẩy người trí thức này trong cuộc đấu tranh vượt lên chính
mình. Ơng quan niệm khơng có tình thương đồng loại thì khơng đáng gọi là người. Đó
chính là một trong những lý do dẫn Nam Cao đến với con đường nghệ thuật hiện thực
“vị nhân sinh” và tạo nên những tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
1.1.2. Sự nghiệp sáng tác
Trước Cách mạng sáng tác của Nam Cao thường xoay quanh hai đề tài chính:
người trí thức nghèo và người nơng dân nghèo.

Đề tài người trí thức nghèo gồm có các truyện ngắn như: Giăng sáng, Đời thừa,
Những truyện không muốn viết, Mua nhà, Quên điều độ, Cười, Nước mắt… và tiểu
thuyết Sống mòn. Viết về tầng lớp tiểu thư sản, Nam Cao khơng chỉ miêu tả sinh động
tình cảnh bấp bênh, đói cơm rách áo mà chủ yếu đi sâu khám phá những tấn bi kịch
tinh thần xót xa, đau đớn của họ. Hơn ai hết, Nam Cao thấu hiểu những quằn quại
trong nội tâm tư tưởng của người tiểu tư sản, diễn tả chân thực đồng thời cố gắng lý
giải nguyên nhân của những nỗi bi kịch ấy. Ông đã phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt,
phi nhân đạo, bóp nghẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời thể hiện niềm
khao khát một lẽ sống lớn, khao khát một cuộc sống sâu sắc, có ích và thực sự có ý
nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.


7

Về đề tài người nông dân, ông để lại nhiều truyện ngắn viết về cuộc sống tối tăm,
số phận bi thảm của người nông dân nghèo, tiêu biểu là các tác phẩm: Chí Phèo, Lão
Hạc, Dì Hảo, Lang Rận, Một bữa no, Trẻ con khơng được ăn thịt chó, Một đám cưới,
Mua danh, Điếu văn, Tư cách mõ, Nửa đêm… Viết về đề tài này Nam Cao đã dựng lên
một bức tranh chân thực về nông thôn Việt Nam nghèo đói, xơ xác trên con đường phá
sản, bần cùng, hết sức thê thảm vào những năm 1940 – 1945. Miêu tả hạng người nơng
dân bị bần cùng hóa, lưu manh hóa, Nam Cao thể hiện cái nhìn ưu ái, vừa xót thương,
vừa trân trọng. Ơng đã phát hiện và khẳng định phẩm chất tốt đẹp của người nông dân
ngay cả khi họ bị rạch nát bộ mặt người, bị giết chết tâm hồn người.
Sau Cách mạng tháng 8, Nam Cao là cây bút có nhiều chuyển biến sâu sắc về tư
tưởng và nghệ thuật. Ông hăng hái tham gia sáng tác để phục vụ kịp thời cho Cách
mạng và kháng chiến. Truyện ngắn Đôi mắt và nhật ký Ở rừng của ông được xem là
những thành tựu vào loại xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam trong những năm
đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
1.1.3. Quan điểm nghệ thuật
Nam Cao là một trong số những nhà văn hiện thực phê phán có ý thức nhất về

quan điểm nghệ thuật của mình. Những quan điểm đó thường được bộc lộ gián tiếp
qua những sáng tác và hình tượng nghệ thuật của ông.
Trong số những nhà văn hiện thực trước cách mạng, Nam Cao là người có ý thức
trách nhiệm nhất về ngịi bút của mình. Suốt cuộc đời lao động văn học, nhà văn luôn
suy nghĩ về “sống và viết”. Những sáng tác ban đầu của Nam Cao chịu nhiều ảnh
hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Nhưng ông sớm nhận ra tính chất giả dối,
phù phiếm của thứ văn thơ “thơm tho” ấy, nó rất lạc lõng, mỉa mai đối với cuộc sống
lầm than, khốn khó của hàng triệu quần chúng nghèo khổ và của cả bản thân nhà văn.
Nam Cao đã kiên quyết đoạn tuyệt với nó và tìm đến chủ nghĩa hiện thực.
Vũ Trọng Phụng đã phê phán thẳng thừng những cây bút của Tự lực văn đoàn
“chạy xa sự thực bằng những danh từ điêu trá của văn chương” và dõng dạc tuyên bố
“các ông muốn tiểu thuyết cứ là tiểu thuyết. Tôi và các nhà văn cùng chí hướng như
tơi muốn tiểu thuyết là sự thực ở đời” (Để đáp lời báo Ngày nay: dâm hay là không
dâm) [7 ; tr 245]. Nam Cao cũng vậy, ơng phê phán tính chất thốt ly của văn chương
lãng mạn, đòi hỏi văn học phải gắn bó sâu sắc với thực tế đời sống. Chứng kiến tình
cảnh khốn khổ của hàng triệu người lao động, ơng địi hỏi nghệ thuật chân chính phải


8

nói lên sự thật ấy: “Chao ơi! Nghệ thuật khơng cần là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật
không nên là ánh trăng lừa dối! Nghệ thuật có thể chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ
những kiếp người lầm than” (Giăng sáng) [11; tr 86]. Nhà văn đòi hỏi nghệ thuật phải
chân thực, phải “vị nhân sinh”, phải gắn bó mật thiết với đời sống của nhân dân. Quan
điểm này đã trở thành một phương châm cầm bút suốt cuộc đời lao động văn học của
Nam Cao.
Đến Đời thừa nhà văn lại khẳng định một tác phẩm có giá trị “phải chứa đựng
một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi” [11; tr 71]. Sự mở rộng
quan điểm nghệ thuật ấy cho thấy nghệ thuật không phải chỉ phản ánh hiện thực lầm
than; nghệ thuật cịn có nhiệm vụ làm cho người gần người hơn, thể hiện niềm vui và

niềm tin yêu cuộc sống cho con người. Có thể nói Giăng sáng là một tuyên ngôn cảm
động, đánh thép của quan điểm nghệ thuật “vị nhân sinh”, cũng là lời tâm niệm chân
thành của nhà văn tiểu tư sản nguyện trở về, chung thủy với quần chúng nghèo khổ.
Nhà văn ln có ý thức về vấn đề “đơi mắt” – vấn đề cách nhìn, quan điểm đối
với hiện thực cuộc sống, về lập trường, thái độ của người nghệ sĩ. “Chao ôi! Đối với
những người ở quanh ta, nếu ta khơng cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở,
ngu ngốc, bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… Toàn những cớ để ta tàn nhẫn; không bao giờ ta
thấy họ là những người đáng thương; không bao giờ ta thương” (Lão Hạc) [11, tr 17].
Đó là những lời bộc bạch chân thành, sâu sắc mà thấm thía của chính nhà văn Nam
Cao trong truyện ngắn Lão Hạc. Trái tim nhân đạo và nhạy cảm của Nam Cao nhìn
thấy những đốm sáng nhân tính con người cịn sót lại, sự rung động trong sáng của
tình yêu, nỗi khao khát đầy nhân bản, rất bình dị của con người ở Chí Phèo “con quỷ
làng Vũ Đại, ở Thị Nở – con người “xấu ma chê quỷ hờn” lại thêm chứng dở hơi, ở
Lang Rận, mụ Lợi... Trong tác phẩm Đôi mắt (1948), Nam Cao có ý thức hơn khi đặt
lại vấn đề cách nhìn, ở đây là cách nhìn người lao động, người nơng dân trong cuộc
kháng chiến vệ quốc.
Nam Cao quan niệm, một tác phẩm thật sự có giá trị phải chứa đựng tư tưởng
nhân đạo sâu sắc. Đó là tác phẩm có khả năng “vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn,
phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao,
mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lịng thương, tình bác ái, sự cơng
bình… Nó làm cho người gần người hơn…” [11; tr 71].


9

Trên phương diện cách tân nghệ thuật, Nam Cao luôn có ý thức đề cao sự sáng
tạo của người nghệ sĩ. Ông chế giễu những nhà văn chạy theo mốt thời thượng, ông
cũng không chấp nhận sự cẩu thả trong văn chương. Nhà văn coi “sự cẩu thả trong
văn chương” là “đê tiện”, thật đáng xấu hổ khi “chẳng đem một chút mới lạ gì đến
văn chương”, Nam Cao đã khẳng định: “văn chương không cần đến những người thợ

khéo tay làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người
biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa
có” (Đời thừa) [11; tr 62].
Đề cao vai trò người viết, Nam Cao cho rằng đề tài chỉ là cái cớ để nhà văn gửi
gắm tư tưởng, tình cảm. Người nghệ sĩ phải biết cách dùng những cái khơng có gì để
nói lên những vấn đề sâu sắc. Một tác phẩm thực sự có giá trị, cái quan trọng khơng
phải viết về cái gì mà là viết như thế nào, tư tưởng của tác phẩm ấy có lớn lao, sâu sắc
không. Với quan điểm ấy, ta thấy các sáng tác của Nam Cao chủ yếu viết về những đề
tài vụn vặt, nhỏ bé trong cuộc sống nhưng luôn mang tầm tư tưởng rộng lớn và sâu sắc.
Quan điểm tiến bộ này của nhà văn đã vượt xa quan niệm về chủ nghĩa đề tài mà mãi
sau này vẫn có nhiều người mắc phải. Qua những ý kiến Nam Cao gửi gắm trong các
tác phẩm của mình, có thể dễ dàng nhận thấy quan điểm nghệ thuật hiện thực chủ
nghĩa của nhà văn đã đạt tới trình độ tự giác, hồn chỉnh, hệ thống, nhất qn và tiến
bộ. Ơng là người phát ngôn đầy đủ và sâu sắc nhất về đặc trưng và nguyên tắc sáng tác
của chủ nghĩa hiện thực. Đó là một đóng góp rất đáng trân trọng của nhà văn đối với
nền văn học hiện thực Việt Nam.
1.2. Giới thuyết về chủ nghĩa nhân đạo và giá trị nhân đạo
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học”: “Chủ nghĩa nhân đạo còn gọi là chủ nghĩa
nhân văn. Ở cấp độ thế giới quan, chủ nghĩa nhân văn là tồn bộ những tư tưởng,
quan điểm, tình cảm, q trọng các giá trị người như trí tuệ, tình cảm, phẩm giá, sức
mạnh, vẻ đẹp. Chủ nghĩa nhân văn không phải là một khái niệm đạo đức đơn thuần,
mà nó cịn bao hàm cả cách nhìn nhận, đánh giá con người về nhiều mặt (vị trí, vai trị,
khả năng, bản chất…) trong các mối quan hệ với tự nhiên, xã hội và đồng loại”. [1;
tr/75,76]
Trong tiếng Hán Việt, “nhân” có nghĩa là người, cịn “đạo” là đạo lí. Như vậy
hiểu một cách đơn giản, “nhân đạo” là đạo lí làm người. Sâu xa hơn, nó là tình u
thương con người của một nhà văn, là cách nhìn đời, nhìn người, là quan điểm, lập


10


trường của người nghệ sĩ. Giá trị nhân đạo là giá trị cơ bản nhất của tác phẩm văn học
chân chính, được tạo nên bởi niềm cảm thơng sâu sắc đối với nỗi khổ đau của con
người, sự nâng niu, trân trọng những nét đẹp trong tâm hồn con người; đồng thời tác
phẩm cũng đã đứng về phía các nạn nhân mà lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên
hạnh phúc, quyền sống và phẩm giá của con người. Ở mỗi tác phẩm khác nhau, giá trị
nhân đạo được biểu hiện ở những khía cạnh, những góc nhìn cụ thể khác nhau tùy theo
quan điểm của người viết.
Đối với người nghệ sĩ nói chung và nhà văn nói riêng, thương yêu, trân trọng con
người luôn là sự quan tâm hàng đầu trong cảm hứng sáng tạo nghệ thuật. Dù viết về
cái gì, viết như thế nào, thì mục tiêu cuối cùng mà văn chương hướng đến vẫn là con
người với ý nghĩa thể hiện khát vọng làm người mãnh liệt và cao đẹp. Với tinh thần
trên, chủ nghĩa nhân đạo luôn là tư tưởng quan trọng của văn học mọi thời đại.
Trong sáng tác văn học nghệ thuật, hình thái và mức độ biểu hiện của chủ nghĩa
nhân đạo văn hết sức phong phú, đa dạng và độc đáo. Vì thế, khi tiếp nhận tác phẩm
văn học khơng nên quy giá trị nhân đạo của nó vào những mệnh đề chung trừu tượng,
mà phải tìm ra những sắc thái biểu hiện tinh tế, độc đáo, cụ thể trong thái độ và cảm
xúc thẩm mĩ của tác giả đối với con người và cuộc sống.
1.3. Chủ nghĩa nhân đạo trong sáng tác của Nam Cao
Trong “Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa năm 1951”, Bác Hồ đã viết:
“Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”.
Cụ thể hơn thì văn học cũng là một nghệ thuật, chính những nhà văn, nhà thơ là người
chiến sĩ trên mặt trận văn thơ kia. Nam Cao không nằm ngồi số đó, khơng những là
nhà văn, ơng cịn là một người lính thực thụ trên chiến trường đầy khói lửa. Vừa cầm
súng, nhà văn vừa cầm bút, suốt cuộc đời cầm bút của mình, Nam Cao đã chiến đấu vì
lý tưởng nhân đạo cao cả, vì mục đích soi sáng tâm hồn con người, đem lại “ánh trăng”
chân thực nhất về cuộc sống con người trong xã hội đang mịt mù, đen tối bởi những
bất cơng và tàn bạo.
Chính chủ nghĩa nhân đạo là cái gốc, là nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện
thực trong sáng tác của Nam Cao. Nhà văn cho rằng một tác phẩm thật sự có giá trị

phải chứa đựng tư tưởng nhân đạo sâu sắc, có khả năng “vượt lên trên tất cả bờ cõi và
giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả lồi người. Nó phải chứa đựng một cái gì
lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lịng thương, tình bác ái,


11

sự cơng bình… Nó làm cho người gần người hơn…” [11; tr 71]. Mỗi trang văn của
ông đều bộc lộ tấm lòng của một con người thương đời, đau đời da diết. Xã hội cũ đã
làm cho ơng đau xót, khi mà đa số những nhân vật của ông đều bị đẩy vào cảnh khốn
cùng, khơng đạt được gì trong cuộc đời, khơng có khả năng để phát huy những tiềm
tàng ưu việt.
Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ, bất hạnh, tủi nhục
nhất trong xã hội thực dân – phong kiến. Ông đã bộc lộ sự cảm thông hết sức đặc biệt
của một trái tim nhân đạo lớn lao khi viết về những con người dưới đáy xã hội như dì
Hảo (Dì Hảo), mợ Nhu (Mợ Nhu), lão Hạc (Lão Hạc), cái Dần (Một đám cưới), người
mẹ và những đứa con tội nghiệp (Trẻ con khơng được ăn thịt chó)… Nhà văn ln tin
rằng trong sâu thẳm tâm hồn của những người khơng cịn được là người, những kẻ mà
bề ngoài giống như những con vật, hay thậm chí là một kẻ cục súc, u mê như Chí Phèo
– con người đã bị hủy hoại cả nhân hình lẫn nhân tính – vẫn cịn những khát khao nhân
bản, họ cũng khao khát yêu thương, cũng mong muốn có được những hạnh phúc đời
thường. Và khi ngọn lửa yêu thương được thắp lên, những tâm hồn dường như đã cằn
cỗi, khô héo ấy lại được sưởi ấm với những hồi hộp, vui mừng, sung sướng, hơn thế
nữa là khao khát trở lại cuộc sống lương thiện, yên bình của một người bình thường.
Trong quan niệm của Nam Cao, con người có thể bị tiêu diệt nhưng nhân tính, bản
chất lương thiện của họ là bất diệt, là vĩnh hằng. Có thể nói, bên cạnh việc lên án gay
gắt những định kiến tồi tệ, sự nhục mạ nhân phẩm con người, chính việc phát hiện ra
những bản chất đẹp đẽ khuất lấp sâu trong tâm hồn con người đã biến chất cả về ngoại
hình lẫn tính cách đã làm cho Nam Cao trở thành một trong những nhà văn lớn của
chủ nghĩa hiện thực Việt Nam, vượt trội hơn hẳn so với những “cây đại thụ” trước đó

như Ngơ Tất Tố, Nguyễn Cơng Hoan, Vũ Trọng Phụng…
Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp “sống mịn”
có hồi bão, có tâm huyết, tài năng muốn vươn lên nhưng lại bị áo cơm ghì sát đất.
Nam Cao đã dựng lên trước mắt chúng ta hình ảnh những con người chân chính bị dồn
đẩy đến chỗ không sao sống yên ổn được, không sao thực hiện được lý tưởng của
mình, bị thui chột tài năng, bị xói mịn nhân phẩm đẫn đến những hành động tàn nhẫn
với người xung quanh. Tuy vậy Nam Cao vẫn không chấp nhận cái ác, vẫn kiên định
giữ vững nguyên tắc tình thương của mình. Nhân vật Hộ trong “Đời thừa” vẫn không
chấp nhận sự tàn nhẫn và không thể vứt bỏ tình thương: “Hắn có thể hy sinh tình yêu,


12

thứ tình u vị kỷ đi; nhưng hắn khơng thể bỏ lịng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn
nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là
một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái” [11; tr 62]. Nhân vật của Nam Cao khơng
phải khơng có lúc ngả nghiêng, chao đảo, nhưng cuối cùng đều đứng vững trên lập
trường nhân đạo, đều giữ vững được cái lẽ sống, tình thương cao cả của mình.
Cuộc sống xứng đáng với danh hiệu cao quý của con người, theo quan niệm của
Nam Cao, là phải có đời sống tinh thần cao đẹp, sống với đầy đủ giá trị của sự sống.
Xuất phát từ tư tưởng cao sâu đó, Nam Cao đã đồng cảm sâu sắc và đau đớn vô hạn
trước bi kịch của những con người muốn sống có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình
mà rốt cuộc phải sống như “một kẻ vơ ích, một người thừa”. “Cịn gì đau đớn hơn cho
một kẻ vẫn khao khát làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết
cục chẳng làm được gì, chỉ những lo cơm áo đã đủ mệt?” (Đời thừa) [11; tr 62].
Nam Cao đã thể hiện khao khát một lẽ sống lớn, một cuộc sống sâu sắc, mãnh
liệt, có ích và có ý nghĩa. Hộ trong Đời thừa hằng tâm niệm “Kẻ mạnh không phải là
kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lịng ích lỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác
lên trên đơi vai mình” [11; tr 62] và ước mơ viết được “một tác phẩm thật sự có giá
trị… làm cho người gần người hơn”. Nhân vật Thứ trong Sống mịn đã từng “thích

làm một việc gì có ảnh hưởng đến xã hội ngay” và mong muốn đem “những sự đổi
thay lớn lao đến cho xứ sở mình”. Nam Cao cho rằng đời sống cá nhân chỉ thực sự có
ý nghĩa khi hướng tới cái gì thiêng liêng, cao cả hơn cá nhân. Ơng địi hỏi để cho mỗi
cá nhân được phát triển đến tận độ với một ý thức đầy trách nhiệm và trong mối quan
hệ mật thiết với sự phát triển chung của cả xã hội lồi người. Có thể nói tư tưởng nhân
văn mới mẻ và sâu sắc đó chưa từng có trong nền văn học hiện đại Việt Nam trước
Cách mạng. Đó là một tư tưởng lớn vượt ra ngoài cả thời đại Nam Cao.
Tiểu kết: Sáng tác của Nam Cao chan chứa, thấm nhuần tư tưởng nhân đạo. Ông
là nhà văn ủng hộ khát vọng lương thiện và khát vọng được phát huy đến tận cùng tài
năng của con người. Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, phong phú và sâu sắc đó cho thấy
nhà văn không chỉ dừng lại ở chỗ tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp quyền sống của
con người mà còn đòi hỏi xã hội tạo những điều kiện để con người được sống một
cuộc sống thực sự có ý nghĩa. Với những thành tựu rực rỡ trong sự nghiệp sáng tác của
mình, Nam Cao xứng đáng là lá cờ đầu của chủ nghĩa nhân đạo trong trào lưu văn học
hiện thực phê phán 1930 – 1945.


13

CHƯƠNG 2
NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT
VỀ GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO
TRONG HAI TRUYỆN NGẮN “CHÍ PHÈO” VÀ “LÃO HẠC”
Nam Cao là một trong những tên tuổi lớn của nền văn học hiện thực phê phán
giai đoạn 1930 – 1945. Sáng tác của ông đã vượt qua được những thử thách khắc
nghiệt của thời gian. Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông lại càng bộc lộ ý
nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và nghệ thuật điêu luyện, độc đáo.
Nhà văn có nhiều tác phẩm đặc sắc viết về đề tài nông thôn và người nông dân Việt
Nam trước Cách mạng tháng 8. Tuy nhiên do hạn chế về phạm vi đề tài nên trong
chương 2 này, bài viết sẽ chỉ bàn đến giá trị nhân đạo được thể hiện trong hai truyện

ngắn Chí Phèo và Lão Hạc của nhà văn Nam Cao.
2.1. Những điểm tương đồng
2.1.1. Kết án xã hội tàn bạo
Hai truyện ngắn Chí Phèo (1941) và Lão Hạc (1943) là hai trong nhiều tác phẩm
của Nam Cao viết về đề tài người nông dân nghèo trong bối cảnh xã hội Việt Nam thời
kỳ trước Cách mạng tháng 8 – 1945. Nhìn chung các tác phẩm viết về đề tài nơng thôn
và người nông dân của Nam Cao đều hiện lên một cách rõ nét hình ảnh những làng
quê xơ xác, nghèo đói, người dân phải sống trong cảnh khốn cùng, thảm hại. Cịn giai
cấp thống trị thì lại sống trong sung sướng, chúng ra sức vơ vét của cải của nhân dân,
bóc lột sức lao động của họ đến tận cùng những giọt mồ hơi thậm chí là máu và nước
mắt. Nhà văn đã thẳng thắn lên án xã hội thực dân nửa phong kiến ngột ngạt, nặng nề,
phi nhân đạo, bóp nghẹt sự sống con người đặc biệt là những người dân lao động hiền
lành, những kiếp người thấp cổ bé họng.
Nam Cao không đi vào nạn sưu thuế, tơ tức, tham nhũng mà ở Chí Phèo Nam
Cao đi vào phương diện người nông dân bị xã hội tàn phá về tâm hồn, hủy diệt về
nhân tính, bị phủ nhận tư cách làm người. Nỗi thống khổ của Chí Phèo khơng phải ở
chỗ cuộc đời Chí Phèo chỉ là số không: không nhà cửa, không cha mẹ, không họ hàng
thân thích, khơng tấc đất cắm dùi... mà chính là ở chỗ Chí Phèo bị xã hội rạch nát bộ
mặt, cướp đi linh hồn, bị loại khỏi xã hội loài người, sống kiếp quỷ dữ.


14

Làng Vũ Đại trong tác phẩm chính là hình ảnh thu nhỏ của xã hội nông thôn Việt
Nam đương thời. Dựng nên bức tranh xã hội nông thôn, trước hết Nam Cao tập trung
làm nổi bật xung đột giai cấp giữa địa chủ cường hào với người nông dân bị áp bức –
phản ánh hiện thực nơng thơn trên bình diện mâu thuẫn giai cấp. Nó làm nên giá trị
nhận thức và sức mạnh phê phán to lớn.
Trong truyện Chí Phèo, ta thấy ngòi bút tố cáo của Nam Cao được thể hiện rất rõ
khi Chí Phèo bị tống vào tù. Anh Chí canh điền hiền lành ngày nào chỉ vì chút ghen

tng vơ cớ của Bá Kiến mà phải vào tù đến bảy, tám năm. Bọn thống trị hống hách,
lộng quyền, chúng có khó gì khi biến một người lương thiện thành kẻ có tội mà đẩy
vào tù. Những tưởng nhà tù sẽ là nơi giáo dục, cải tạo con người sau những lầm lỡ mà
họ gây ra, nhưng không, nhà tù thực dân ở đây lại là một nơi trái ngược hoàn toàn với
bản chất xã hội của một nhà tù mà loài người đang mong đợi. Nhà tù này chỉ mở cửa
thu nạp tù nhân khi anh ta hiền như cục đất để nhào nặn, đào tạo trở thành kẻ bất lương
rồi thả họ ra. Nó là địa ngục trần gian, nó biến anh Chí hiền lành, thật thà thành một kẻ
du côn, “trông đặc như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn,
cái mặt thì đen mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm […] cái ngực phanh đầy những
nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng cầm chùy, cả hai tay cũng thế. Trơng
gớm chết!” [11; tr 21]. Chí Phèo sẵn sàng làm mọi việc, thậm chí là rạch mặt ăn vạ,
đâm thuê, chém mướn chỉ để được cụ Bá cho vài hào mua rượu. Và như thế nghiễm
nhiên Chí trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, chuyên làm những việc “ức hiếp, phá
phách, đâm chém, mưu hại”. Chính nhà tù thực dân đã tiếp tay cho bọn cường hào,
cướp mất hình hài con người của Chí, biến một nông dân khỏe mạnh, lương thiện và tự
trọng thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại” tha hóa cả nhân hình lẫn nhân tính. Đây là
một sản phẩm của lối thống trị tàn bạo, vơ nhân tính, của cái xã hội đến thời kì mục
ruỗng.
Hình tượng nhân vật Bá Kiến, Lý Cường là những điển hình cho giai cấp thống
trị ở xã hội nông thôn lúc bấy giờ. Chúng “coi người như rơm như rác”. Chính tên cáo
già Bá Kiến đã nhận ra một điều: “Hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sơng, nhưng
rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn. Hãy đập bàn đập ghế, địi cho được năm đồng, nhưng
rồi thì vứt trả lại năm hào “vì thương anh túng quá”!” và hắn cũng biết rằng: “ở cái
đất nhà quê, bọn dân hiền lành chỉ è cổ làm ni bọn hào lý” (Chí Phèo) [11; tr 32,
33]. Chỉ qua vài câu nói của Bá Kiến cũng đủ thấy được bản chất gian xảo, bất nhân,


15

“chó đểu” của giai cấp thống trị đương thời, “già đời đục khoét”, chúng bóp nghẹt sự

sống của người lao động, đẩy họ xuống vũng bùn tai vạ. Điều này được thể hiện rõ nét
nhất ở việc sau khi ra tù Chí Phèo đến nhà Bá Kiến để xin đi ở tù lần nữa. Rõ ràng
mục đích chính là đến để đòi việc làm, đòi nhà ở nhưng sau khi được giao cho năm sào
đất ở bờ sơng, Chí Phèo đã bị Bá Kiến một lần nữa tha hóa, trở thành cơng cụ đi địi
nợ th cho giai cấp thống trị, góp phần chiến thắng cho giai cấp thống trị. Có lẽ đây là
khoảng thời gian đau đớn nhất của Chí Phèo. Trong khoảng thời gian ấy, Chí Phèo lấn
quá sâu vào trong tội lỗi.
Ngòi bút Nam Cao thật sự sắc sảo khi vạch ra mối quan hệ thực trạng nội bộ bọn
cường hào. Ở làng Vũ Đại bọn cường hào chia năm bè bảy cánh đối nghịch nhau,
chúng như một đàn cá tranh mồi, mồi thì ngon đấy, nhưng năm bè bảy mối. Ngoài mặt
tử tế với nhau nhưng trong bụng muốn cho nhau lụi bại. Đây là hiện tượng mang tính
quy luật ở nơng thơn, ảnh hưởng sâu sắc tới đời sống xã hội – ruồi muỗi phải chết oan
uổng khi trâu bò húc nhau. Trong cái “ao làng” tù đọng ấy, đám Bá Kiến, Đội Tảo đấu
đá nhau tranh quyền lợi, tranh ảnh hưởng. Còn những con người lao động chân lấm tay
bùn, cuộc sống khốn cùng thì kẻ phải bỏ xứ tha hương như Năm Thọ, kẻ lại tha hóa,
biến thành lưu manh như Chí Phèo và Binh Chức.
Có thể nói, sinh ra một người nơng dân Chí thuần hậu là một bà mẹ khổ đau nào
đó, có phần nhẫn tâm bỏ con mình ở cái lò gạch cũ bỏ hoang vào một sáng tinh sương.
Nhưng đẻ ra một Chí Phèo cơn đồ mà sau này trở thành quỉ dữ của làng Vũ Đại chính
là xã hội khốn nạn “chó đểu”. Như vậy Nam Cao khơng chỉ nói một mình Chí Phèo
phải chịu bi kịch này mà Chí Phèo là một hiện tượng có tính qui luật ở nông thôn Việt
Nam trước cách mạng Tháng tám. Ta thấy trong tác phẩm có tiền thân của Chí Phèo là
Binh Chức, Năm Thọ; hậu thân của Chí Phèo là một Chí Phèo con. Vì vậy, Chí Phèo
là bi kịch của một tầng lớp con người. Viết lên những dòng văn này, ngòi bút của Nam
Cao chất chứa đầy nỗi căm hờn, bộc lộ rõ thái độ tố cáo những thế lực dẫn đến đau
khổ. Rõ ràng nhà văn đã đứng trên quyền con người để tố cáo, điều này chứng tỏ ông
là một nhà văn nhân đạo sâu sắc.
Còn trong tác phẩm Lão Hạc ta thấy được bức tranh thu nhỏ của xã hội Việt Nam
trước Cách mạng tháng 8, với sự bần cùng hoá của bao kiếp người. Trong xã hội thực
dân nửa phong kiến ấy, những kiếp người nhỏ bé phải sống trong nghèo đói, túng quẫn.

Nổi bật là hình ảnh lão Hạc buồn tủi, mỏi mịn trong cơ đơn và nghèo đói, lão sống


16

đơn độc một mình với con chó tên là Cậu Vàng. Cuộc sống q khó khăn, đến ni
thân cịn khơng nổi, huống gì đến ni chó, vì thế mà lão Hạc đã phải nén lịng bán đi
con chó – người bạn thân thiết trong cuộc sống và cũng chính là kỉ vật mà con trai lão
để lại cho lão. Thật chua chát và mỉa mai khi lão Hạc tự thốt lên rằng: “Kiếp con chó
là kiếp khổ thì ta hóa kiếp cho nó để nó làm kiếp người, may ra có sung sướng hơn
một chút… kiếp người như kiếp tơi chẳng hạn!” [11; tr 14]. Không muốn ăn tiêu vào
tài sản của con, lại khơng tìm được việc làm để có thể sống lương thiện, lão Hạc buộc
phải tự kết liễu cuộc đời mình bằng một cái chết thật thảm khốc: “Lão tru tréo, bọt
mép sùi ra, khắp người chốc chốc lại giật mạnh một cái, nẩy lên. Hai người đàn ông
lực lưỡng phải ngồi đè lên người lão. Lão vật vã đến hai giờ đồng hồ mới chết. Cái
chết thật là dữ dội” [11; tr 18, 19]. Thật quá cay đắng!
Nhân vật ông giáo trong truyện Lão Hạc rất muốn giúp đỡ cho lão Hạc nhưng
ngay đến bản thân gia đình mình cịn chưa lo được thì sao ơng giáo có thể giúp đỡ
được người khác. Đây là nhân vật tiêu biểu cho tầng lớp trí thức tiểu tư sản nước ta
trước Cách mạng, cụ thể là những người dạy học mà tác giả gọi là những “giáo khổ
trường tư”. Cuộc sống họ cũng chẳng hơn gì cuộc sống của người nông dân, cũng bấp
bênh, túng quẫn và bế tắc. Trong truyện, gia đình ơng giáo thường xun rơi vào cảnh
“cùng đường đất sinh nhai”, con cái nheo nhóc, bệnh tật liên miên, vợ “khổ quá rồi”
đến nỗi “cái bản tính tốt” của thị “bị những nỗi lo lắng, buồn đau, ích kỉ che lấp mất”
[11; tr 17]. Cũng như văn sĩ Hộ trong Đời thừa, văn sĩ Điền trong Giăng sáng, ông
giáo “tôi” trong Lão Hạc cũng phải “chạy ăn từng bữa tốt mồ hơi”. Đây chính là cuộc
sống của trí thức tiểu tư sản nói chung, người làm nghề dạy học nói riêng ở nước ta
trước năm 1945 mà nhân vật ông giáo “tôi” là một người tiêu biểu. Chính cuộc sống
tăm tối, nghèo đói cùng với sự cai trị hà khắc của bọn cai trị thực dân – phong kiến đã
đẩy người dân lao động vào tình cảnh ngặt nghèo ấy.

Xã hội “chó đểu” với bọn thống trị đã tàn bạo, lại thêm cộng đồng nơi Chí Phèo
sinh sống cũng thật tàn nhẫn, họ khơng xem Chí là thành viên của cái xã hội ấy. Điều
đó được hiện lên một cách rõ nét ngay qua tiếng chửi của Chí Phèo ở đầu tác phẩm. Ở
bề mặt đó là một Chí Phèo cơn đồ với một bài chửi rất riêng, rất trứ danh. Nhưng đằng
sau bài chửi của Chí Phèo cơn đồ, Nam Cao cịn chỉ ra Chí Phèo đang vật vã trong nỗi
cơ độc, một Chí Phèo đang khao khát lương thiện và bài chửi ấy là một bài giao tiếp
rất riêng của Chí. Chí đang muốn giao tiếp, muốn làm hòa với mọi người dù cách giao


17

tiếp, cách làm hòa ấy chỉ là một bài chửi. Chí Phèo chỉ mong được ai đó ra điều. Giả
sử Chí Phèo chửi trời, chửi đời hay chửi đến làng Vũ Đại mà có ai đó ra điều thì coi
như mục đích giao tiếp của Chí đã thành cơng bởi có người ra điều là có người chấp
hắn, mà có người chấp hắn nghĩa là hắn ngang hàng với họ, hắn cũng là người. Thế
nhưng chửi đến những đứa chết mẹ nào không ra chửi nhau với hắn vẫn không ai ra
điều nghĩa là Chí Phèo khơng cịn đất để tồn tại làm người lương thiện, cả làng Vũ Đại
không ai coi Chí là người nữa rồi.
Khơng chỉ dừng lại ở đó, trong cái xã hội nhiều bất cơng ấy, những thành kiến,
định kiến đối với con người thật tàn nhẫn, vơ nhân đạo. Nó dập tắt đi cái hy vọng
muốn trở về với cuộc sống bình thường của những kẻ lầm đường, lỡ bước. Đến tận khi
Chí bốn mươi tuổi mới gặp được Thị Nở, ngỡ rằng từ nay trở đi người đàn bà xấu đến
ma chê quỉ hờn ấy với tình yêu của mình sẽ dẫn đường cho Chí Phèo về với xã hội lồi
người. Ấy vậy nhưng cuộc đời lại cướp đi của Chí đến tận cả hơi cháo hành. Cuộc đời
đau khổ của Chí cịn được thể hiện qua hình tượng nhân vật bà cơ của Thị Nở. Dù Chí
khơng gây thù ốn gì với bà cô Thị Nở nhưng bà cô ấy vẫn không chấp nhận Chí Phèo.
Bà xỉa xói đứa cháu gái ngồi ba mươi mà chưa trót đời của bà: “Đàn ơng đã chết hết
cả rồi sao, mà lại đâm đầu đi lấy một thằng không cha. Ai lại đi lấy một thằng chỉ có
một nghề là rạch mặt ra ăn vạ” [11; tr 53]. Điều đó đồng nghĩa với cả làng Vũ Đại
khơng ai chấp nhận Chí Phèo làm người lương thiện nữa. Giờ đây trong giờ phút đau

khổ này, hơi cháo hành lại xuất hiện như trêu ngươi, như khoét sâu vào nỗi đau đớn
của Chí Phèo.
2.1.2. Đồng cảm, phát hiện và khẳng định bản chất của con người
Giá trị nhân đạo sâu sắc ở ngịi bút Nam Cao khơng chỉ dừng lại ở việc vạch trần,
tố cáo xã hội tàn bạo, bất công chà đạp, hủy hoại con người, biến họ thành những kẻ
lưu manh, thành những con quỷ dữ hay đẩy họ đến chỗ chết, mà nhà văn đã tỏ thái độ
đồng cảm với số phận bất hạnh của những kiếp người nghèo khổ, bên cạnh đó, ơng đã
phát hiện và khẳng định bản chất lương thiện của con người ngay cả khi họ bị tha hóa.
Nam Cao đã lên tiếng bênh vực, minh oan cho những con người thấp cổ bé họng,
bị cuộc đời hắt hủi, khinh bỉ một cách bất công. Nhân vật Thị Nở trong truyện Chí
Phèo là một người đàn bà xấu đến mức “ma chê quỷ hờn”, “cái mặt của thị thực là
một sự mỉa mai của hóa cơng: nó ngắn đến nỗi người ta có thể tưởng bề ngang hơn bề
dài, thế mà hai má nó lại hóp vào mới thật là tai hại; nếu má nó phính phính thì mặt


18

thị lại còn được hao hao như mặt lợn […]. Cái mũi thì vừa ngắn, vừa to, vừa đỏ, vừa
sần sùi như vỏ cam sành, bành bạnh muốn chen lẫn nhau với những cái môi cũng cố
to không thua cái mũi […] hai môi dày […] màu thịt trâu xám ngốch. Đã thế những
cái răng rất to lại chìa ra…” [11; tr 42]. Khơng chỉ xấu xí về ngoại hình, Thị Nở cịn
có thêm chứng dở hơi, nhà nghèo, lại thêm dịng họ có mả hủi, đã hơn ba mươi tuổi
mà vẫn chưa lấy chồng… Tác giả hình như đã thu hết tất cả những điểm xấu của người
phụ nữ, cộng với nỗi bất hạnh của cuộc đời để thể hiện nhân vật Thị Nở. Lôi hết
những điểm xấu ra để nói khơng phải tác giả cố ý muốn chê bai sự xấu xí, tật nguyền
của Thị Nở mà sâu xa hơn có lẽ đó là tấm lịng đồng cảm, xót thương của ơng đối với
một người đàn bà chịu nhiều nỗi bất hạnh ấy. Nam Cao đã thêm cho Thị Nở cái chứng
dở hơi, có thể nói đó là một chi tiết hết sức đặc sắc, thể hiện tấm lòng nhân đạo cao cả
của nhà văn. Tác giả đã viết “đó là một ân huệ đặc biệt của Thượng đế chí cơng: nếu
sáng suốt thì người đàn bà ấy sẽ khổ sở ngay từ khi mua cái gương thứ nhất” [11; tr

42]. Để Thị dở hơi, để Thị không ý thức được vẻ ngồi của mình, Thị sẽ khơng tự ti,
không buồn rầu mà sẽ sống vui vẻ, không mặc cảm về thân phận mình. Đằng sau con
người có ngoại hình xấu đến “ma chê quỷ hờn”, lại thêm cả chứng dở hơi ấy là cả một
tấm lòng nhân hậu, yêu thương con người, luôn khát khao được yêu thương và hạnh
phúc. Chính Thị Nở là người đã mang đến cho Chí Phèo tình cảm ấm áp của sự yêu
thương. Khiến Chí Phèo bừng tỉnh, sống lại những khát khao hạnh phúc mà tưởng
chừng Chí đã quên từ lâu. Nơi con người xấu xí nhất lại ánh lên phẩm chất đẹp đẽ,
trong sáng nhất của lương tri, của lòng trắc ẩn.
Nhân vật tiêu biểu trong truyện ngắn Chí Phèo là nhân vật Chí Phèo, từ nhỏ đã
phải chịu bất hạnh mồ côi cha mẹ, bị bỏ rơi trong một cái lò gạch cũ, được một anh thả
ống lươn nhặt về khi Chí đã xám ngắt trong chiếc váy đụp. Chí được dân làng Vũ Đại
truyền tay nhau ni nấng, lớn lên Chí làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Lúc ấy Chí là
một anh canh điền thật thà, lương thiện. Nhưng cuộc đời nào có bng tha cho anh,
chính bọn cường hào ác bá đã đẩy người nông dân lương thiện ấy vào chốn lao tù,
khiến anh bị hủy hoại cả nhân hình lẫn nhân tính. Ra tù sau bảy tám năm, Chí biến
thành Chí Phèo với một ngoại hình khác hẳn, lạ lẫm, gớm ghiếc làm sao: “trơng đặc
như thằng săng đá! Cái đầu thì trọc lốc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen đen
mà rất cơng cơng, hai mắt gườm gườm trông gớm chết! Hắn mặc quần nái đen với cái


19

áo tây vàng. Cái ngực phanh đầy những nét chạm trổ rồng, phượng với một ông tướng
cầm chùy, cả hai cánh tay cũng thế, trông gớm chết!” [11; tr 21].
Cuộc đời Chí Phèo từ khi ra tù chìm ngập trong những cơn say, những cơn say
cứ nối tiếp nhau, tràn từ cơn này sang cơn khác và trong trạng thái nửa tỉnh nửa mê ấy,
Chí Phèo đã để cho Bá Kiến sai khiến, làm những việc mà có lẽ trong thâm tâm Chí
khơng muốn làm. Nếu như Nam Cao để cuộc đời Chí Phèo cứ trơi đi với những cơn
say, những lần rạch mặt ăn vạ như thế thì chẳng cịn gì chúng ta phải bàn đến, điểm
xuất sắc ở ngịi bút nhân đạo của Nam Cao đó chính là để Chí Phèo gặp được Thị Nở ở

vườn chuối cạnh bờ sơng vào một đêm trăng tỏ. Chính sự quan tâm của Thị Nở đã
khiến Chí Phèo thức tỉnh. Bát cháo hành thơm hơi ấm của tình thương đã khơi dậy
trong lịng Chí những kí ức một thời, làm sống lại những ước muốn giản đơn của anh
Chí canh điền. Tỉnh dậy, nghe được âm thanh của cuộc sống hằng ngày như tiếng chim
hót, tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá, lại thêm tiếng cười nói vui vẻ của
những người đi chợ về, làm cho hắn nhớ đến một cái gì đó xa xơi: “hình như có một
thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng quốc mướn cày thuê, vợ dệt vải,
chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng
làm” [11; tr 48]. Điều đó chứng tỏ rằng bản chất của Chí Phèo – con quỷ dữ của làng
Vũ Đại, là một người lương thiện, vẫn khao khát sống hạnh phúc, khao khát được
hưởng những gì bình dị nhất của cuộc sống con người. Nam Cao đã phát hiện ra bản
chất tốt đẹp của con người ngay cả khi họ đã bị diến dạng, bị tha hóa cả nhân hình lẫn
nhân tính.
Nhưng có lẽ sự đồng cảm của nhà văn được bộc lộ rõ nhất khi thể hiện nỗi đau
đớn của nhân vật muốn đòi quyền làm người: “Trời ơi! Hắn thèm lương thiện, hắn
muốn làm hòa với mọi người biết bao!” [11; tr 51]. Trong khi tất cả làng Vũ Đại đều
tránh Chí Phèo thì Nam Cao lại đem tấm lịng, đem ngịi bút giàu lịng nhân ái của
mình đến cạnh nhân vật, đi sâu vào trong sâu thẳm nhân vật để đồng cảm cùng nỗi đau
của nhân vật. Điều này được thể hiện rất rõ qua những câu văn của Nam Cao ngay ở
đoạn đầu: “Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Ban đầu
hắn chửi trời. Có hề gì? Trời có của riêng nhà nào? Rồi hắn chửi đời. Thế cũng chẳng
sao: Đời là tất cả nhưng cũng chẳng là ai. Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại.
Nhưng cả làng Vũ Đại ai cũng nghĩ: “Chắc nó chừa mình ra!”. Khơng ai lên tiếng cả.
Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã thế, hắn phải chửi cha đứa


20

nào không chửi nhau với hắn. Nhưng cũng không ai ra điều” [11; tr 20]. Những câu
văn trên, có thể đó là câu Nam Cao dẫn truyện. Nhưng cũng có những câu ta khơng

phát hiện được đây là lời nói của Nam Cao hay của Chí Phèo. Rõ ràng ở đây Nam Cao
đã sử dụng ngôn ngữ kể đa thanh, nghĩa là một câu nói được hiểu từ nhiều giọng nói,
nhiều người nói. Nam Cao đã nhập vào trong nỗi đau của nhân vật, đau cùng nỗi đau
của nhân vật, nỗi đau bị hắt hủi, bị chính cộng đồng xa lánh. Đó là sự đồng cảm sâu
sắc của nhà văn nhân đạo chủ nghĩa Nam Cao.
Bên cạnh đó tấm lịng đồng cảm của nhà văn đối với những số phận bất hạnh
trong tác phẩm Lão Hạc cũng được thể hiện một cách rõ nét. Những nhân vật trong tác
phẩm này đều là nạn nhân của xã hội phong kiến nửa thực dân. Họ phải gồng mình
chống lại nạn đói, những hủ tục phong kiến… Nhân vật chính lão Hạc, là một người
có hồn cảnh vơ cùng bi đát. Vợ mất sớm, đứa con trai duy nhất bỏ đi đồn điền cao su.
Một mình lão phải đối mặt với tuổi già, bệnh tật, cái đói và sự cơ đơn. Nhà văn đã
không nén được những lời thương cảm: “luôn mấy hôm lão chỉ ăn khoai”.
Con trai lão Hạc cũng là một người đáng thương. Vì nhà nghèo, anh khơng lấy
được người con gái mình u, phẫn chí, anh bỏ làng đi cao su, cái đất cao su “đi dễ
khó về”, “khi đi trai tráng khi về bủng beo”. Anh rời cha già ln mấy năm, câu
chuyện khép lại nhưng hình bóng anh người đọc cũng chưa từng nhận thấy, câu hỏi về
số phận của anh đành rơi vào câm lặng. Ông giáo, một nhân vật có uy tín ở làng, trong
thời buổi ấy cũng ở cảnh túng thiếu, lay lắt, đang sống cái đời “sống mịn”, “rỉ ra, mốc
lên”. Có thể nói, qua Lão Hạc nhà văn đã thể hiện lịng thương, sự đồng cảm với tất
thảy những lớp người bần cùng trong xã hội Việt Nam khi ấy.
Nhà văn đã biết khám phá để nâng niu trân trọng và ngợi ca phẩm chất ngời sáng
trong tâm hồn những người đồng bào lao khổ của mình. Tình phụ tử ở nhân vật lão
Hạc khiến người đọc thật cảm động. Dù rất đau lịng nhưng lão chấp nhận nỗi cơ đơn
buồn tủi, đồng ý để con trai ra đi theo chí hướng của mình. Con đi rồi, lão chỉ cịn con
chó Vàng làm bạn. Lão Hạc yêu con chó Vàng đến độ gọi nó là “cậu Vàng”, ăn gì
cũng cho nó ăn cùng, cho nó ăn ra bát như người... Lão Hạc yêu con Vàng phần lớn
bởi đó là kỉ vật duy nhất do con lão để lại, lão đã dồn toàn bộ tình cha cho con chó ấy.
Khơng chỉ vậy, lão thậm chí cịn chấp nhận cái chết để giữ đất cho con. Cái đói đeo
đuổi lão gần đến đường cùng. Vẫn còn một lối nhỏ khác là bán mảnh vườn để lấy tiền



21

ăn nhưng lão nghĩ rằng đó là mảnh vườn của mẹ cháu để lại cho cháu. Và lão chọn cái
chết chứ nhất quyết không bán đất của con.
Điều đáng quý nhất ở người nông dân Việt Nam trước Cách mạng là lịng tự
trọng sáng ngời, sống trong cái đói, cái nghèo nhưng không bị sự bần hàn làm cho ti
tiện, hèn mọn. Lão Hạc thà nhịn đói chứ khơng chịu ăn không dù chỉ là củ khoai củ
sắn của hàng xóm. Lão đã có thể bán vườn lấy tiền chống chọi với cái đói nhưng lão
khơng làm vậy vì nhất quyết không ăn vào tài sản của con. Lão cũng có thể chọn con
đường như Binh Tư đi đánh bả chó lấy cái ăn. Nhưng lão khơng hề làm vậy. Con
người ấy, đến lúc chết vẫn cịn lo mình làm phiền hàng xóm nên dành dụm gửi gắm
ơng giáo tiền làm ma thì sao có thể làm những chuyện bất lương được. Cảm động hơn
cả là nỗi lòng quặn thắt của lão sau cái chết của con Vàng. Lão dằn vặt bởi nghĩ mình
“đã đi lừa một con chó”. Ẩn bên trong cái hình hài gầy gị, già nua của Lão Hạc là một
tâm hồn cao thượng và đáng trân trọng biết bao. Chúng ta phải nhìn đời bằng nước mắt
tình thương như Nam Cao đã nói trong truyện Lão Hạc: “Chao ôi! Đối với những
người ở quanh ta, nếu ta khơng cố tìm mà hiểu họ, thì ta chỉ thấy họ gàn dở, ngu ngốc,
bần tiện, xấu xa, bỉ ổi… tồn những cớ để cho ta tàn nhẫn; khơng bao giờ ta thấy họ
là những người đáng thương, không bao giờ ta thương [11; tr 17].
Với trái tim đầy yêu thương của mình, Nam Cao vẫn tin rằng trong tâm hồn của
những người khơng cịn được là người, những con người bề ngoài được miêu tả như
những con vật vẫn cịn nhân tính, vẫn cịn những khát khao nhân bản. Việc phát hiện
ra phần người cịn sót lại trong một kẻ lưu manh, trân trọng những khao khát nhân bản
và miêu tả những rung động trong sáng của những tâm hồn tưởng chừng đã bị cuộc
đời làm cho cằn cỗi, u mê đã làm cho Nam Cao trở thành một trong số những nhà văn
nhân đạo lớn nhất trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
2.2. Vài nét khác biệt
Cả hai truyện ngắn Chí Phèo và Lão Hạc đều chứa đựng tinh thần nhân đạo cao
cả, cái nhìn đầy cảm thông của Nam Cao đối với những con người thấp cổ bé họng

trong xã hội tăm tối trước Cách mạng tháng 8. Nó cùng lên án chế độ xã hội thực dân
nửa phong kiến bóp ngẹt sự sống của con người, đẩy người lao động vào những tấn bi
kịch đầy đau xót.


22

2.2.1. Truyện ngắn Chí Phèo
Giá trị nhân đạo của tác phẩm Chí Phèo được tác giả thể hiện rõ nét qua bi kịch
của nhân vật Chí Phèo. Cuộc đời Chí từ khi sinh ra đã là một tấn bi kịch đẫm nước mắt,
đó là bi kịch của một người sinh ra nhưng không được quyền làm người. Ngay từ khi
mới ra đời Chí đã bị người ta bỏ lại trong cái lị gạch cũ giữa cánh đồng, Chí được dân
làng nhặt về nuôi. Tuổi thơ của anh sống trong bất hạnh, tủi cực hết đi ở cho nhà này
lại đi ở cho người khác, năm hai mươi tuổi thì làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Đây là
quãng thời gian đẹp nhất trong cuộc đời của Chí, bởi đó là quãng đời lương thiện,
quãng đời tuổi trẻ nhiều mộng đẹp. Chí giàu lịng tự trọng, biết ghét những gì người ta
cho là đáng khinh. Bị bà ba nhà Bá Kiến bắt bóp đùi, Chí vừa làm vừa run, Chí “thấy
nhục hơn là thích, huống hồ lại sợ”. Như bao người khác, anh cũng có ước mơ giản dị:
“có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc muốn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một
con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm” [11; tr 48]. Đó
là một ước mơ nhỏ nhoi nhưng lương thiện. Đau đớn thay, cái xã hội bất lương ấy đã
bóp chết ước mơ đó của Chí khi nó cịn trứng nước. Chỉ vì cơn ghen vu vơ, lão cáo già
Bá Kiến đã đẩy anh vào cảnh tù tội. Nhà tù thực dân đã tiếp tay cho lão cáo già biến
Chí từ một anh canh điền khỏe mạnh thành một kẻ lưu manh, một kẻ tội đồ.
Ra tù Chí Phèo trở thành tay sai đắc lực cho Bá Kiến, hắn chìm ngập trong
những cơn say dài, những trận rạch mặt ăn vạ, đâm thuê chém mướn… Ngay mở đầu
câu chuyện Nam Cao đã cho Chí Phèo khật khưỡng bước đi trong trạng thái say rượu:
“Hắn vừa đi vừa chửi. Bao giờ cũng thế, cứ rượu xong là hắn chửi. Ban đầu hắn chửi
trời.[…] Rồi hắn chửi đời. […] Tức mình hắn chửi ngay tất cả làng Vũ Đại. Nhưng
[…] Không ai lên tiếng cả. Tức thật! Ồ thế này thì tức thật! Tức chết đi được mất! Đã

thế, hắn phải chửi cha đứa nào không chửi nhau với hắn” [11; tr 20]. Qua tiếng chửi
của Chí Phèo, người đọc thấy như đang đối diện với một con “người – vật” quái gở,
đơn độc ở tận cùng của sự khổ đau, đang trút lên cuộc đời – tất cả cuộc đời – tiếng nói
hằn học, phẫn uất, đầy thống khổ của mình. Đúng như nhà phê bình Nguyễn Đăng
Mạnh đã viết trong bài “Nhớ Nam Cao và những bài học của ơng”: “Khi Chí Phèo
ngất ngưởng bước ra từ những trang sách của Nam Cao thì người ta liền nhận ra rằng,
đây mới là hiện thân đầy đủ những gì gọi là khốn khổ, tủi nhục nhất của người nông
dân cùng ở một nước thuộc địa: bị giày đạp, bị cào xé, bị huỷ hoại, từ nhân tính đến
nhân hình. Chị Dậu bán chó, bán con, bán sữa… nhưng chị còn được gọi là người.


23

Chí Phèo phải bán cả diện mạo linh hồn của mình đi để trở thành con quỉ dữ của làng
Vũ Đại” [5; tr 102].
Cuộc đời Chí Phèo có lẽ sẽ cứ mãi như thế nếu như không gặp được Thị Nở –
con người “xấu ma chê quỷ hờn” – vào cái đêm trăng vườn chuối ấy. “Khi Chí Phèo
mở mắt thì giời đã sáng lâu. Mặt giời chắc đã cao, và nắng bên ngoài chắc là rực rỡ.
Cứ nghe chim ríu rít bên ngồi là đủ biết […] Chưa bao giờ Chí Phèo nhận thấy thế
bởi chưa bao giờ hết say. Nhưng bây giờ thì hắn tỉnh. Hắn bâng khuâng như tỉnh dậy
sau một cơn say dài. Cũng như những người say tỉnh dậy, hắn thấy miệng đắng, lòng
mơ hồ buồn. Người thì bủn rủn, chân tay khơng buồn nhắc, hay là đới rượu, hắn hơi
rùng mình. Ruột gan lại nơn nao lên một tí. Hắn sợ rượu cũng như những người ốm
thường sợ cơm. Tiếng chim hót ngồi kia vui vẻ quá! Có tiếng cười nói của người đi
chợ. Anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá. Những tiếng quen thuộc hơm nào chả có.
Nhưng hơm nay hắn mới nghe thấy… Chao ôi là buồn!” [11; tr 47, 48]. Những hình
ảnh, âm thanh của buổi sáng hơm ấy gợi nhắc lại cho Chí những ước mơ xa xơi của
một thời, rồi lại thấy tình cảnh cơ độc hiện tại, “Chí Phèo hình như đã trơng thấy trước
tuổi già của hắn, đói rét và ốm đau, và cơ độc, cái này cịn đáng sợ hơn đói rét và ốm
đau” 11; tr 48]. Có thể nói cuộc gặp gỡ ấy là định mệnh và chính tình u thương của

Thị Nở đã đem một nguồn sáng mới, soi rọi vào từng góc khuất của tâm hồn “con quỷ
dữ làng Vũ Đại”, khơi dậy bản tính người nơi Chí Phèo, thắp sáng một trái tim đã bị
ngủ mê bao ngày vì sự vùi dập và hắt hủi của chính cộng đồng mình.
Khi Thị Nở bước vào căn lều với bát cháo hành trên tay, Chí Phèo hết sức ngạc
nhiên “hết ngạc nhiên thì hắn thấy mắt mình ươn ướt. Bởi vì lần này là lần thứ nhất
hắn được một người đàn bà cho […] Hắn nhìn bát cháo bơc khói mà bâng khng. […]
Hắn thấy vừa vui lại vừa buồn. Và một cái gì nữa, giống như là ăn năn”. Và “Hắn
thấy lịng thành trẻ con. Hắn muốn làm nũng Thị như với mẹ. Ôi sao mà hắn hiền […]
Hắn thèm lương thiện, hắn muốn làm hòa với mọi người biết bao!” [11; tr 50, 51]. Từ
một con quỷ dữ, nhờ sự yêu thương của Thị Nở, Chí Phèo thực sự trở lại làm người
với những yêu thương, cảm xúc và ước mơ giản dị vốn có. Hóa ra chỉ cần một chút
tình thương, cho dù đó là của một con người thơ kệch, dở hơi, xấu xí cũng đủ làm sống
dậy bản tính người nơi Chí. Qua đó ta thấy sức cảm hóa của tình thương thật mạnh mẽ
và kì diệu. Bằng chi tiết này Nam Cao đã soi vào tác phẩm một ánh sáng nhân đạo thật


24

đẹp đẽ, nhà văn như hòa vào nhân vật để cảm thông, chia sẻ những giây phút hạnh
phúc hiếm hoi của cuộc đời Chí Phèo.
Hạnh phúc tưởng chừng đã mỉm cười với Chí, cánh cửa của xã hội lồi người
tưởng như đã mở ra đón lấy Chí, nhưng thật đau đớn khi Chí mới đặt một chân vào
ngưỡng cửa trở về thì nó đã đóng sập ngay trước mắt anh. Chút hạnh phúc nhỏ nhoi
Chí đã có ở trong tay một lần nữa lại bị ý thức xã hội tước đoạt. Thị Nở như là chiếc
cầu vồng sau cơn mưa, nhưng Chí đau đớn nhận ra rằng chẳng có chiếc cầu nào đưa
Chí trở về với cuộc sống con người nữa. Xã hội với quan niệm tàn nhẫn đã cự tuyệt
đến cao độ quyền được sống, được làm người của Chí. Thị Nở chỉ vì lời nói của bà cơ
đã đến xỉa xói vào mặt nhân tình những lời nói cay độc nhất khi hắn đang tưởng mình
đã có được một gia đình, một mái ấm thật sự. Có thể thấy Thị Nở vừa là phương tiện,
là công cụ lại vừa là nạn nhân của định kiến xã hội.

Thật khắc nghiệt thay, khi bản tính người nơi Chí trỗi dậy cũng là lúc hắn nhận ra
hắn không thể trở về làm người lương thiện được nữa. Chí uống rượu cho quên đi cái
sự thật nghiệt ngã ấy, “nhưng tức quá, càng uống lại càng tỉnh ra. Tỉnh ra, chao ôi,
buồn! hơi rượu không sặc sụa. Hắn cứ thoang thoảng thấy hơi cháo hành. Hắn ơm
mặt khóc rưng rức. Rồi lại uống. Rồi lại uống” [11; tr 55]. Càng uống Chí càng tỉnh ra,
càng thấm thía nỗi đau của bi kịch bị cướp mất quyền làm người của hắn, mất cả bộ
mặt lẫn tâm hồn. Bi kịch của Chí Phèo là bi kịch của một con người bị khước từ quyền
làm người đó là chủ đề xun suốt tồn bộ hình tượng của tác phẩm, được nhà văn đặt
ra như một tiếng kêu cứu thảm thiết, bức xúc, tạo nên giá trị nhân đạo đặc sắc nhất của
tác phẩm Chí Phèo.
Đau đớn nhận ra bi kịch cuộc đời, Chí Phèo vác dao ra đi với ý định trả thù con
khọm già nhà Thị Nở: “Tao phải đâm chết nó! Tao phải đâm chết nó!” [11; tr 55],
nhưng Chí lại cứ thẳng đường mà đi đến nhà Bá Kiến. Cái gì đã khiến hắn quên rẽ vào
nhà Thị Nở mà lại đến thẳng nhà Bá Kiến? Có phải trong ý thức Chí đã nhận ra ai mới
là kẻ thù thực sự của mình và chính lịng căm thù bấy lâu nay đã khiến Chí Phèo tỉnh
táo. Đây là lúc Chí Phèo rơi vào bi kịch của sự lựa chọn giữa sự sống và nhân cách con
người. Khơng ai cho Chí làm người lương thiện, kể cả khi Chí muốn làm người lương
thiện: “Tao muốn làm người lương thiện! […] Ai cho tao lương thiện? Làm thế nào
cho mất được những mảnh chai trên mặt này? Tao không thể là người lương thiện
được nữa” [11; tr 56, 57].


25

Chí khơng thể xóa được những vết sẹo đã vạch trên mặt mình, Chí đau xót cảm
thấy: “Khơng được! […] Chỉ còn một cách là… cái này!” [11; tr 57]. Chí Phèo cầm
dao đâm chết Bá Kiến - kẻ thù lớn nhất của đời mình rồi tự sát. Chí Phèo đã lựa chọn một sự lựa chọn nghiệt ngã, nhưng đó là cách duy nhất để con người lương thiện trong
Chí được sống, để nhân cách con người của hắn được tồn lại. Hành động giết Bá Kiến
và tự sát của Chí cho ta thấy cuối cùng rồi Chí cũng làm đúng, Chí đã trả được mối thù.
Nhưng cái giá phải trả của Chí là quá đắt. Cái chết của Chí là lời tố cáo mạnh mẽ, là

bản án đanh thép đối với xã hội bất nhân, là lời kêu cứu khẩn thiết về quyền con người.
Chí Phèo đã chết quằn quại trên vũng máu trong nỗi đau vô hạn vì khát khao lớn
lao, thiêng liêng là được làm người lương thiện khơng thực hiện được. Lời nói cuối
cùng của Chí Phèo, vừa đanh thép, chất chứa phẫn nộ, vừa mang sắc thái triết lí và âm
điệu bi thảm đầy ám ảnh: “Ai cho tao lương thiện?”, khiến cho người đọc không khỏi
suy nghĩ. Làm thế nào để con người được sống cuộc sống con người? Đó là một câu
hỏi lớn không lời đáp. Không những Bá Kiến không thể trả lời mà cả xã hội thời bấy
giờ cũng chưa thể giải đáp một cách thỏa đáng.
Bi kịch cuộc đời Chí Phèo là từ một người nơng dân lương thiện bị bọn cường
hào ác bá đẩy vào tù. Và cái nhà tù thực dân ấy đã góp phần biến người dân lương
thiện trở thành một kẻ lưu manh mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Tuy là một kẻ lưu
manh nhưng trong sâu thẳm tâm hồn Chí vẫn là một con người lương thiện, hắn vẫn có
khao khát cháy bỏng là được làm người lương thiện, được sống với cộng đồng lương
thiện. Nhưng xã hội bất nhân đã bóp nghẹt sự sống, chặn kín lối về cuối cùng của
người nơng dân khốn cùng. Để được là người lương thiện, để giữ nhân cách cho bản
thân, khơng cịn cách nào khác Chí Phèo đã chọn cách đâm chết Bá Kiến – ngun
nhân chính gây ra bi kịch cuộc đời mình – và tự sát. Hành động tự sát của Chí Phèo là
cuộc chiến đấu mạnh mẽ nhất, dữ đội nhất và là cuộc chiến đấu cuối cùng giữa con
người hiền như cục đất và con quỷ dữ. Trong cuộc quyết đấu này, Chí Phèo đã chết,
nhưng nhân cách lương thiện đã trỗi dậy và tỏa sáng, đó cũng chính là chiến thắng tất
yếu của cái thiện đối với cái ác, đồng thời cũng là sự thể hiện rõ ràng nhất của tư
tưởng nhân đạo và tinh thần nhân văn của ngòi bút Nam Cao.
2.2.2. Truyện ngắn Lão Hạc
Đọc tác phẩm Lão Hạc chúng ta khơng thể nào qn được hình ảnh lão Hạc gầy
guộc, râu tóc bơ phờ, cặp mắt đầy u uẩn, khuôn mặt hằn sâu bao nếp nhăn của suy tư,


×