Tải bản đầy đủ (.docx) (61 trang)

Báo cáo chuyên đề cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (349.78 KB, 61 trang )

Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

PHẦN MỞ ĐẦU
1.

Lý do chọn đề tài

Toàn cầu hóa đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, đó là quy luật tất yếu và
khách quan. Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều thiết lập mối quan
hệ hữu nghị và hợp tác với nhau trên mọi lĩnh vực như: kinh tế, văn hóa, giáo
dục, y tế... để cùng chung tay xây dựng một thế giới tốt đẹp, giải quyết những
vấn đề chung của trái đất mà từng quốc gia riêng lẻ thì không thực hiện được.
Hội nhập quốc tế là một quá trình phát triển tất yếu, do bản chất xã hội của lao
động và quan hệ giữa con người. Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường
cũng là động lực hàng đầu thúc đẩy quá trình hội nhập. Hội nhập diễn ra dưới
nhiều hình thức, cấp độ và trên nhiều lĩnh vực khác nhau, theo tiến trình từ thấp
đến cao. Hội nhập đã trở thành một xu thế lớn của thế giới hiện đại, tác động
mạnh mẽ đến quan hệ quốc tế và đời sống của từng quốc gia.Ngày nay, hội
nhập quốc tế là lựa chọn chính sách của hầu hết các quốc gia để phát triển.
2.

Mục đích nghiên cứu:

Những năm gần đây, hội nhập quốc tế đã trở thành ngôn từ khá thân quen với
hầu hết người Việt Nam.Trong công sở, nhà trường, ở quán nước trên hè phố,
thậm chí cả ở thôn quê, người ta đều sử dụng nó một cách rất thông dụng.Tuy
vậy, nhưng không phải ai cũng thực sự hiểu khái niệm này; đặc biệt, hiểu nó
một cách đầy đủ và ngọn nghành thì chẳng có mấy người.Giới học thuật và
những nhà hoạch định chính sách cũng còn hiểu rất khác nhau và vẫn tiếp tục
tranh luận về nhiều khía cạnh của hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh nước ta
đang “tích cực, chủ động hội nhập quốc tế” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội


Đảng lần thứ XI vừa qua, việc xác định đúng ý nghĩa, bản chất, nội hàm, xu
hướng vận động cũng như hệ lụy của hội nhập quốc tế là rất cần thiết và có ý
nghĩa quan trọng trong việc xây dựng chiến lược, chính sách và các biện pháp
cụ thể của nước ta trong quá trình hội nhập.
Chuyên đề này đề cập một số khía cạnh về lý luận và thực tiễn của khái niệm
hội nhập quốc tế, tập trung vào vấn đề định nghĩa và xác định bản chất, nội
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 1


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

hàm, các hình thức và tính chất của hội nhập quốc tế; phân tích tính tất yếu và
hệ lụy của hội nhập quốc tế như là một xu thế lớn của thế giới hiện đại.
3.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

Chuyên đề tập trung phân tích những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong
tiến trình hội nhập quốc tế, phân tích tính tất yếu và hệ lụy của hội nhập quốc tế
như là một xu thế lớn của thế giới hiện đại.
4.

Phương pháp nghiên cứu:

- Phương pháp thống kê – tập hợp phân tích
- Phương pháp phân tích chi tiết
- Phương pháp chuyên gia tư vấn và hội thảo
- Phương pháp điều tra

5.

Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

Việc xác định đúng ý nghĩa, bản chất, nội hàm, xu hướng vận động cũng như
hệ lụy của hội nhập quốc tế là rất cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong việc
xây dựng chiến lược, chính sách và các biện pháp cụ thể của nước ta trong quá
trình hội nhập.
Các thách thức và cơ hội của tiến trình hội nhập quốc tế về giáo dục đã được
phân tích nhiều trong các diễn đàn, hội thảo và tài liệu nghiên cứu, quốc tế
cũng như trong nước. Vấn đề là từ những phân tích đó, mỗi quốc gia cần tìm ra
cho mình các chính sách và chiến lược cần thiết để giáo dục đại học thực hiện
được tốt nhất sứ mệnh của mình trong việc sản sinh, truyền bá và áp dụng tri
thức, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.

Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 2


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1. Định nghĩa khái niệm hội nhập quốc tế:
Thuật ngữ “hội nhập quốc” tế trong tiếng Việt có nguồn gốc dịch từ tiếng nước
ngoài (tiếng Anh là “international integration”, tiếng Pháp là “intégration
internationale”). Đây là một khái niệm được sử dụng chủ yếu trong các lĩnh
vực chính trị học quốc tế và kinh tế quốc tế, ra đời từ khoảng giữa thế kỷ trước
ở châu Âu, trong bối cảnh những người theo trường phái thể chế chủ trương

thúc đẩy sự hợp tác và liên kết giữa các cựu thù (Đức-Pháp) nhằm tránh nguy
cơ tái diễn chiến tranh thế giới thông qua việc xây dựng Cộng đồng châu Âu.
Trên thực tế cho đến nay, có nhiều cách hiểu và định nghĩa khác nhau về khái
niệm “hội nhập quốc tế”. Tựu chung, có ba cách tiếp cận chủ yếu sau:
Cách tiếp cận thứ nhất, thuộc về trường phái theo chủ nghĩa liên bang, cho
rằng hội nhập (integration) là một sản phẩm cuối cùng hơn là một quá trình.
Sản phẩm đó là sự hình thành một Nhà nước liên bang kiểu như Hoa Kỳ hay
Thụy Sỹ. Để đánh giá sự liên kết, những người theo trường phái này quan tâm
chủ yếu tới các khía cạnh luật định và thể chế.
Cách tiếp cận thứ hai, với Karl W. Deutsch là trụ cột, xem hội nhập trước hết
là sự liên kết các quốc gia thông qua phát triển các luồng giao lưu như thương
mại, đầu tư, thư tín, thông tin, du lịch, di trú, văn hóa… từ đó hình thành dần
các cộng đồng an ninh (security community). Theo Deutsch, có hai loại cộng
đồng an ninh: loại cộng đồng an ninh hợp nhất như kiểu Hoa Kỳ, và loại cộng
đồng an ninh đa nguyên như kiểu Tây Âu. Như vậy, cách tiếp cận thứ hai này
xem xét hội nhập vừa là một quá trình vừa là một sản phẩm cuối cùng.
Cách tiếp cận thứ ba xem xét hội nhập dưới góc độ là hiện tượng/hành vi các
nước mở rộng và làm sâu sắc hóa quan hệ hợp tác với nhau trên cơ sở phân
công lao động quốc tế có chủ đích, dựa vào lợi thế của mỗi nước và mục tiêu
theo đuổi.
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 3


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

Cách tiếp cận thứ nhất có nhiều hạn chế vì nó không đặt hiện tượng hội nhập
trong quá trình phát triển mà chỉ nhìn nhận hiện tượng này (chủ yếu về khía
cạnh luật định và thể chế) trong trạng thái tĩnh cuối cùng gắn với mô hình Nhà

nước liên bang.Cách tiếp cận này khó áp dụng để phân tích và giải thích thực
tiễn của quá trình hội nhập diễn ra với nhiều hình thức và mức độ khác nhau
như hiện nay trên thế giới.Không phải bất cứ sự hội nhập nào cũng dẫn đến một
Nhà nước liên bang. Cách tiếp cận thứ hai có điểm mạnh là nhìn nhận hiện
tượng hội nhập vừa trong quá trình tiến triển vừa trong trạng thái tĩnh cuối
cùng, đồng thời đưa ra được những nội dung khá cụ thể và sát thực tiễn của quá
trình hội nhập, góp phần phân tích và giải thích nhiều vấn đề của hiện tượng
này. Cách tiếp cận thứ ba tập trung vào hành vi của hiện tượng, không quan
tâm xem xét góc độ thể chế cũng như kết quả cuối cùng của hội nhập, do vậy,
thiếu tính toàn diện và hạn chế trong khả năng giải thích bản chất của quá trình
hội nhập.
Ở Việt Nam, thuật ngữ ‘hội nhập kinh tế quốc tế” bắt đầu được sử dụng từ
khoảng giữa thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN,
tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thể chế kinh tế quốc
tế khác. Những năm gần đây, cụm từ “hội nhập quốc tế” (thậm chí nói ngắn
gọn là “hội nhập”) được sử dụng ngày càng phổ biến hơn và với hàm nghĩa
rộng hơn hội nhập kinh tế quốc tế.Có một thực tiễn đáng lưu ý là trước khi
thuật ngữ “hội nhập kinh tế quốc tế” được đưa vào sử dụng, trong tiếng Việt đã
xuất hiện các cụm từ “liên kết kinh tế quốc tế” và “nhất thể hóa kinh tế quốc
tế”. Cả ba thuật ngữ nàythực rađược sử dụngđể chỉ cùng một khái niệm mà
tiếng Anh gọi là “international economic integration”.Sự khác biệt giữa chúng
chủ yếu là cách dùng với hàm ý chính trị và lịch sử khác nhau.Thuật ngữ “nhất
thể hóa kinh tế quốc tế” được sử dụng chủ yếu trong bối cảnh hợp tác giữa các
nước xã hội chủ nghĩa trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế (SEV)
những năm 1970-1980.

Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 4



Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

Thuật ngữ “liên kết kinh tế quốc tế” được sử dụng khá nhiều khi nói về hiện
tượng phát triển các quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các
nước không phải là xã hội chủ nghĩa trong những thập niên sau Chiến tranh thế
giới II, đặc biệt là trong khuôn khổ các tổ chức kinh tế khu vực như Cộng đồng
Kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp hội Mậu dịch tự do châu
Âu (EFTA), Thị trường chung Trung Mỹ (CACM), Cộng đồng Caribê và Thị
trường chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA), v.v...
Trong thực tiễn sử dụng ở Việt Nam hiện nay, các thuật ngữ “liên kết quốc tế”
và “hội nhập quốc tế” có thể thay thế nhau và hầu như không có sự khác biệt
về ý nghĩa.
Mặc dù vậy, cho đến nay vẫn không có một định nghĩa nào về khái niệm “hội
nhập quốc tế” giành được sự nhất trí hoàn toàn trong giới học thuật và cả giới
làm chính sách ở Việt Nam. Từ các định nghĩa khác nhau nổi lên hai cách hiểu
chính.Thứ nhất, cách hiểu hẹp coi “hội nhập quốc tế” là sự tham gia vào các tổ
chức quốc tế và khu vực.Thứ hai, cách hiểu rộng, coi “hội nhập quốc tế” là sự
mở cửa và tham gia vào mọi mặt của đời sống quốc tế, đối lập với tình trạng
đóng cửa, cô lập hoặc ít giao lưu quốc tế. Với tư duy theo cách này, không ít
người thậm chí đã đánh đồng hội nhập với hợp tác quốc tế. Cả hai cách hiểu
trên về khái niệm “hội nhập quốc tế” đều không đầy đủ và thiếu chính xác.
Từ lý luận và thực tiễn nêu trên, chúng ta cần xác định một cách tiếp cận phù
hợp đối với khái niệm “hội nhập quốc tế” để làm nền tảng xây dựng chiến lược
hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn mới. Cách tiếp cận phù hợp nhất
là xem xét hội nhập như là một quá trình xã hội có nội hàm toàn diện và thường
xuyên vận động hướng tới mục tiêu nhất định. Theo đó, hội nhập quốc tế
được hiểu như là quá trình các nước tiến hành các hoạt động tăng cường
sự gắn kết họ với nhau dựa trên sự chia sẻ về lợi ích, mục tiêu, giá trị,
nguồn lực, quyền lực (thẩm quyền định đoạt chính sách) và tuân thủ các

luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc tế. Như
vậy, khác với hợp tác quốc tế (hành vi các chủ thể quốc tế đáp ứng lợi ích hay
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 5


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

nguyện vọng của nhau, không chống đối nhau), hội nhập quốc tế vượt lên
trên sự hợp tác quốc tế thông thường: nó đòi hỏi sự chia sẻ và tính kỷ luật
cao của các chủ thể tham gia. Nhìn ở góc độ thể chế, quá trình hội nhập hình
thành nên và củng cố các định chế/tổ chức quốc tế, thậm chí là các chủ thế mới
của quan hệ quốc tế. Những chủ thể quốc tế mới này có thể dưới dạng: Thỏa
thuận thương mại ưu đãi (PTA) hoặc là một tổ chức liên chính phủ (các thành
viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt chính sách, chẳng hạn
như tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN…), Khu vực mậu dịch tự do (FTA) hoặc
là một tổ chức siêu quốc gia (các thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia
cho một cơ cấu siêu quốc gia, hình thái này có thể giống như mô hình nhà nước
liên bang, chẳng hạn như Hoa Kỳ, Canada…), Liên minh thuế quan (CU) hoặc
là một tổ chức lai ghép giữa hai hình thái trên (các thành viên trao một phần
chủ quyền quốc gia cho một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một phần chủ
quyền cho riêng mình, chẳng hạn như trường hợp EU hiện nay).
Chủ thể của hội nhập quốc tế trước hết là các quốc gia, chủ thể chính của quan
hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện các
cam kết quốc tế.Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp thành
lực lượng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.
1.2

. Nội hàm của hội nhập quốc tế


Hội nhập quốc tế có thể diễn ra trên từng lĩnh vực của đời sống xã hội (kinh tế,
chính trị, an ninh-quốc phòng, văn hóa, giáo dục, xã hội, v.v.), nhưng cũng có
thể đồng thời diễn ra trên nhiều lĩnh vực với tính chất (tức là mức độ gắn kết),
phạm vi (gồm địa lý, lĩnh vực/ngành) và hình thức (song phương, đa phương,
khu vực, liên khu vực, toàn cầu) rất khác nhau.
1.2.1

Hội nhập kinh tế quốc tế

Đây là quá trình gắn kết các nền kinh tế của từng nước với kinh tế khu vực và
thế giới thông qua các nỗ lực tự do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình
thức khác nhau, từ đơn phương đến song phương, tiểu khu vực/vùng, khu vực,
liên khu vực và toàn cầu. Nói cách khác, Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 6


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

nền kinh tế quốc gia tham gia một cách chủ động tích cực vào nền kinh tế thế
giới, tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế, tổ chức tài chính quốc tế và các
liên kết kinh tế quốc tế khu vực và liên khu vực.
Hội nhập kinh tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế,
tiến trình hội nhập kinh tế được chia thành sáu mô hình cơ bản từ thấp đến cao
như sau:
a.

Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA):

Đây là cấp độ thấp nhất của liên kết kinh tế, theo đó các nước tham gia hiệp
định dành cho nhau những ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan đối với hàng
hóa của nhau, tạo thành các khu vực thương mại ưu đãi vùng (Preferential
Trade Area). Trong các thỏa thuận này, thuế quan và hàng rào phi thuế quan có
thể vẫn còn, nhưng thấp hơn so với hàng hóa có xuất xứ từ các quốc gia không
tham gia hiệp định.
Các nước thành viên dành cho nhau các ưu đãi thương mại trên cơ sở cắt giảm
thuế quan, nhưng còn hạn chế về phạm vi (số lượng các mặt hàng đưa vào diện
cắt giảm thuế quan) và mức độ cắt giảm. Hiệp định PTA của ASEAN (1977),
Hiệp định Thương mại Việt-Mỹ (2001), Hiệp định GATT (1947 và 1994) là các
ví dụ cụ thể của mô hình liên kết kinh tế ở giai đoạn thấp nhất.

b.

Hiệp định thương mại tự do:
Hiệp định thương mại tự do (Khu vực mậu dịch tự do – Free Trade Area (FTA)
là một Hiệp ước thương mại giữa hai hoặc nhiều quốc gia. Theo đó, các nước
sẽ tiến hành cắt giảm và xóa bỏ hàng rào thuế quan cũng như phi thuế quan
theo lộ trình, nhằm tiến tới việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do.
Các thành viên phải thực hiện việc cắt giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan
và các hạn chế về định lượng (có thể bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng
rào phi thuế quan) trong thương mại hàng hóa nội khối, nhưng vẫn duy trì
chính sách thuế quan độc lập đối với các nước ngoài khối. Ví dụ: Khu vực mậu
dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực mậu dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA), Khu
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 7


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế


vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA). Những năm gần đây, phần lớn các hiệp
định FTA mới có phạm vi lĩnh vực điều tiết rộng hơn nhiều. Ngoài lĩnh vực
hàng hóa, các hiệp định này còn có những quy định tự do hóa đối với nhiều
lĩnh vực khác như dịch vụ, đầu tư, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ… Ví dụ:
Hiệp định FTA giữa ASEAN với Úc-Niudilân (2009), Hiệp định Đối tác xuyên
Thái Bình dương (TPP- đang đàm phán).
Khu vực mậu dịch tự do là một dạng thứ hai của hiệp định thương mại tự do,
đó là một hình thức liên kết kinh tế quốc tế trong đó các nước thành viên thỏa
thuận với nhau về việc giảm hoặc xóa bỏ hàng rào thuế quan và các biện pháp
hạn chế về số lượng (hạn ngạch) cho toàn bộ hoặc gần như toàn bộ hàng hóa và
dịch vụ trao đổi mua bán với nhau, tiến tới hình thành một thị trường thống
nhất về hàng hóa và dịch vụ. Tuy nhiên các nước thành viên vẫn giữ được
quyền độc lập tự chủ trong quan hệ buôn bán với các ngoài khu vực. Nói cách
khác, những thành viên của FTA có thể duy trì những biện pháp thuế quan
riêng và những hàng rào thương mại khác đối với các nước không tham gia vào
khu vực mậu dịch tự do. Tuy nhiên, một số dòng thuế có thể được bãi bỏ chậm
hơn, và người ta đưa các dòng thuế này vào “danh sách nhạy cảm”, một số ít
dòng thuế không được bãi bỏ được liệt kê vào “danh sách loại trừ”.
Hiệp định đối tác kinh tế là cấp độ hội nhập kinh tế sâu hơn hiệp định thương
mại tự do, theo nghĩa là ngoài việc tự do hóa thương mại hàng hóa thông qua
bãi bỏ thuế quan và hàng rào phi thuế quan, còn bao gồm cả tự do hóa dịch vụ,
bảo hộ đầu tư, thúc đẩy thương mại điện tử giữa các nước ký kết hiệp định. Các
nước phát triển thường mong muốn ký loại hiệp định này vì nó cho phép quốc
gia này thâm nhập toàn diện vào các thị trường của nước đối tác.
c.

Liên minh thuế quan (CU):
Các thành viên ngoài việc cắt giảm và loại bỏ thuế quan trong thương mại nội
khối còn thống nhất thực hiện chính sách thuế quan chung đối với các nước bên

ngoài khối. Ví dụ: Nhóm ANDEAN và Liên minh thuế quan Nga-BêlarútCadăcxtan.Việc thành lập liên minh thuế quan cho phép tránh được những phức
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 8


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

tạp liên quan đến quy tắc xuất xứ, nhưng lại làm nảy sinh những khó khăn
trong phối hợp chính sách giữa các nước thành viên.
d.

Thị trường chung (hay thị trường duy nhất):
Ngoài việc loại bỏ thuế quan và hàng rào phi quan thuế trong thương mại nội
khối và có chính sách thuế quan chung đối với ngoài khối, các thành viên còn
phải xóa bỏ các hạn chế đối với việc lưu chuyển của các yếu tố sản xuất khác
(vốn, lao động…) để tạo thành một nền sản xuất chung của cả khối. Ví dụ: Liên
minh châu Âu đã trải qua giai đoạn xây dựng thị trường duy nhất (Thị trường
chung châu Âu) trước khi trở thành một liên minh kinh tế.

e.

Liên minh kinh tế-tiền tệ:
Là mô hình hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao nhất dựa trên cơ sở một thị trường
chung/duy nhất cộng thêm với việc thực hiện chính sách kinh tế và tiền tệ
chung (một đồng tiền chung, ngân hàng trung ương thống nhất của khối). Ví
dụ: EU hiện nay.

f.


Hội nhập toàn diện:
Là cấp độ hội nhập sâu nhất trên mọi lĩnh vực. Ngoài việc tự do hóa thương
mại thông qua việc cắt giảm và loại bỏ hoàn toàn công cụ thuế và phi thuế cũng
như là việc thực thi một chính sách tiền tệ, tài chính chung, các lĩnh vực khác
như văn hóa, thậm chí cả về mặt chính trị cũng được điều chỉnh theo một cơ
chế riêng.
Một nước có thể đồng thời tham gia vào nhiều tiến trình hội nhập với tính chất,
phạm vi và hình thức khác nhau. Tuy nhiên, về cơ bản phải trải qua các bước
hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn chỉ có thể diễn ra trong những
điều kiện đặc thù nhất định mà thôi (chẳng hạn Cộng đồng Kinh tế châu Âu đã
đồng thời thực hiện xây dựng khu vực mậu dịch tự do và liên minh thuế quan
trong những thập niên 60-70). Hội nhập kinh tế là nền tảng hết sức quan trọng
cho sự tồn tại bền vững của hội nhập trong các lĩnh vực khác, đặc biệt là hội

Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 9


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

nhập về chính trị và nhìn chung, được các nước ưu tiên thúc đẩy giống như một
đòn bẩy cho hợp tác và phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa.
1.2.2

Hội nhập chính trị

Hội nhập về chính trị là quá trình các nước tham gia vào các cơ chế quyền lực
tập thể (giữa hai hay nhiều nước) nhằm theo đuổi những mục tiêu nhất định và
hành xử phù hợp với các luật chơi chung. Hội nhập chính trị thể hiện mức độ

liên kết đặc biệt giữa các nước, trong đó họ chia sẻ với nhau về các giá trị cơ
bản (tư tưởng chính trị, ý thức hệ), mục tiêu, lợi ích, nguồn lực và đặc biệt là
quyền lực. Một quốc gia có thể tiến hành hội nhập chính trị quốc tế thông qua
ký hiệp ước với một hay một số quốc gia khác trên cơ sở thiết lập các mối liên
kết quyền lực giữa họ (hiệp ước liên minh hay đồng minh) hoặc tham gia vào
các tổ chức chính trị khu vực (chẳng hạn như ASEAN, EU) hay một tổ chức có
quy mô toàn cầu (chẳng hạn như Liên Hiệp quốc).
Ở giai đoạn thấp của hội nhập chính trị, liên kết giữa các thành viên còn hạn
chế và các thành viên vẫn cơ bản giữ thẩm quyền định đoạt chính sách
riêng.ASEAN hiện nay vẫn đang trong giai đoạn đầu quá trình hội nhập chính
trị, nên vẫn còn tồn tại nhiều sự khác biệt và độ tin cậy giữa các thành viên còn
hạn chế.Về mặt tổ chức quyền lực, ASEAN là một khuôn khổ liên chính phủ.
Hoàn tất xây dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên 3 trụ cột (Cộng đồng Chính trịAn ninh, Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội) sẽ giúp tăng
cường quá trình hội nhập chính trị trong ASEAN, tạo điều kiện để ASEAN
bước tới một giai đoạn hội nhập cao hơn nữa.
Giai đoạn hội nhập chính trị cao đòi hỏi sự tương đồng về thể chế chính trị và
độ tin cậy hoàn toàn của các thành viên.Về mặt tổ chức quyền lực, các thành
viên chỉ giữ lại một số thẩm quyền nhất định ở cấp quốc gia và trao các quyền
lực còn lại cho một cơ cấu siêu quốc gia.EU hiện nay là một mô hình hội nhập
chính trị cao.
Thông thường hội nhập chính trị là bước đi sau cùng trên cơ sở các nước liên
quan đã đạt đến trình độ hội nhập kinh tế và văn hóa-xã hội rất cao. Sự hình
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 10


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

thành Liên bang Hoa Kỳ, Liên bang Canađa trước đây và EU hiện nay cơ bản

theo phương thức này. Tuy nhiên, trong những bối cảnh nhất định, hội nhập
trong lĩnh vực chính trị có thể đi trước một bước để mở đường thúc đẩy hội
nhập trong các lĩnh vực khác.Trường hợp ASEAN thể hiện khá đặc biệt sự kết
hợp nhiều tiến trình hội nhập. Trong suốt hơn 2 thập kỷ đầu tồn tại, ASEAN
chủ yếu là một cơ chế hợp tác khu vực về chính trị-ngoại giao nhằm đối phó
với những thách thức đối với an ninh quốc gia của các thành viên. Một số học
giả nhìn nhận ASEAN như là một định chế/chế độ quốc tế (international
regime) về chính trị-an ninh ở khu vực Đông Nam Á. Nói một cách khác, đây
là dạng thức ban đầu của hội nhập chính trị-an ninh. Sau giai đoạn khởi đầu
chủ yếu bằng hội nhập sơ khai về chính trị-an ninh, từ cuối thập niên 1970 trở
đi, ASEAN mới bắt đầu triển khai hợp tác về kinh tế và chỉ từ gần giữa thập
niên 1990, ASEAN mới thực sự bắt đầu tiến trình hội nhập kinh tế. Hội nhập
văn hóa-xã hội phải đợi đến khi ASEAN thông qua Hiến chương năm 2008 mới
được triển khai.
1.2.3. Hội nhập an ninh-quốc phòng

Hội nhập về an ninh-quốc phòng là sự tham gia của quốc gia vào quá trình gắn
kết họ với các nước khác trong mục tiêu duy trì hòa bình và an ninh. Điều này
đòi hỏi các nước hội nhập phải tham gia vào các thỏa thuận song phương hay
đa phương về an ninh-quốc phòng trên cơ sở các nguyên tắc chia sẻ và liên kết:
mục tiêu chung, đối tượng/kẻ thù chung, tiến hành các hoạt động chung về đảm
bảo an ninh-quốc phòng...
Có nhiều kiểu liên kết an ninh-quốc phòng khác nhau, trong đó nổi lên những
hình thức chủ yếu được nhiều nước sử dụng như sau:
- Hiệp ước phòng thủ chung: Đây là hình thức khá phổ biến trong thời kỳ
Chiến tranh lạnh khi mà thế giới được cơ bản chia thành hai hệ thống (gọi là hệ
thống hai cực) giữa một bên là các nước xã hội chủ nghĩa do Liên Xô lãnh đạo
và bên kia là các nước tư bản chủ nghĩa do Mỹ đứng đầu. Hàng loạt tổ chức
phòng thủ chung đã được hai phe lập ra để thực hiện các mục tiêu chính trị và
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1


Trang: 11


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

an ninh-quốc phòng, chẳng hạn như Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương
(NATO), Tổ chức Hiệp ước Trung tâm (CENTO), Tổ chức Hiệp ước Đông
Nam Á (SEATO), Hiệp ước Liên minh Úc-Niudilân-Mỹ (ANZUS), Tổ chức
Hiệp ước Vác-xô-vi. Nguyên tắc của các tổ chức phòng thủ chung là: (i) các
nước tham gia phải có chung kẻ thù bên ngoài, khi một nước nào đó tấn công
một thành viên của khối thì nước đó được coi là kẻ thù của cả khối và tất cả các
thành viên cùng hành động chống lại kẻ thù đó; (ii) các thành viên có chính
sách phòng thủ chung; (iii) các thành viên cùng đóng góp lực lượng vũ trang
tham gia vào lực lượng chung của khối đặt dưới một bộ chỉ huy chung.
Đây là phương thức liên kết quân sự rất cao, đòi hỏi các thành viên phải đồng
về ý thức hệ và cùng chia sẻ cao về quan điểm, chính sách an ninh-quốc phòng,
chiến lược quân sự và có trình độ phát triển kỹ thuật quân sự cũng như năng
lực tác chiến không quá chênh lệch. Phương thức liên kết này cũng đòi hỏi các
thành viên phải chấp nhận chịu sự hạn chế về chủ quyền quốc gia và trao một
phần thẩm quyền quốc gia cho một cơ chế chung siêu quốc gia.
- Hiệp ước liên minh quân sự song phương: Đây là hình thức cổ điển rất phổ
biến trong lịch sử quan hệ quốc tế xưa và nay. Phần lớn, nếu như không nói là
hầu hết, các nước đều có hiệp ước liên minh với một hoặc một số nước khác,
trong đó có quy định về trợ giúp quân sự trong những tình huống cần thiết. Mỹ
có hiệp ước liên minh quân sự song phương với Nhật, Hàn Quốc, Đài Loan,
Thái Lan và Philipin. Việt Nam cũng đã có Hiệp ước liên minh với Liên Xô cũ,
Lào và Cămpuchia.
- Các dàn xếp an ninh tập thể: Đây là hình thức liên kết an ninh dựa trên
nguyên tắc các thành viên cam kết không tấn công nhau, nếu có một thành viên

vi phạm, sẽ dùng sức mạnh hợp tác của cả khối để ngăn chặn và giúp giải quyết
xung đột. Hội quốc liên và sau này là Liên Hiệp quốc, Liên đoàn Ả-rập, Tổ
chức thống nhất châu Mỹ (OAS), Tổ chức Thống nhất châu phi (AU), Cộng
đồng chính trị-an ninh mà ASEAN đang xây dựng là những mô hình cụ thể của
phương thức liên kết an ninh tập thể.
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 12


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

- Các dàn xếp về an ninh hợp tác: là phương thức liên kết an ninh-quốc phòng
lỏng lẻo hơn cả, dựa trên nguyên tắc lấy hợp tác trên các lĩnh vực, từ dễ đến
khó, với các hình thức đa dạng như đối thoại, xây dựng lòng tin, ngoại giao
phòng ngừa… để xây dựng thói quen hợp tác và sự phụ thuộc, ràng buộc lẫn
nhau, từ đó có thể hạn chế khả năng xảy ra xung đột giữa các thành viên.
ASEAN và một loạt cơ chế khu vực liên quan như Hội nghị sau Hội nghị Bộ
trưởng Ngoại giao (PMC), Diễn đàn Khu vực ASEAN (ARF), Hội nghị Bộ
trưởng quốc phòng ASEAN (ADMM), Hội nghị Bộ trưởng quốc phòng
ASEAN mở rộng (ADMM+), Hội nghị cấo cao Đông Á (EAS)… là những mô
hình cụ thể về dạng thức liên kết này.
Nhìn chung, hội nhập trong lĩnh vực an ninh-quốc phòng là tiến trình khó khăn
hơn cả, vì nó liên quan trực tiếp tới những vấn đề nhạy cảm nhất- cốt lõi tồn tại
của quốc gia, đó là hòa bình, độc lập và chủ quyền.
1.2.4. Hội nhập về văn hóa-xã hội

Hội nhập về văn hóa-xã hội là quá trình mở cửa, trao đổi văn hóa với các nước
khác; chia sẻ các giá trị văn hóa, tinh thần với thế giới; tiếp thu các giá trị văn
hóa tiến bộ của thế giới để bổ sung và làm giàu nền văn hóa dân tộc; tham gia

vào các tổ chức hợp tác và phát triển văn hóa-giáo dục và xã hội khu vực và
hợp tác chặt chẽ với các nước thành viên hướng tới xây dựng một cộng đồng
văn hóa-xã hội rộng lớn hơn trên phạm vi khu vực và toàn cầu (ví dụ, tham gia
Cộng đồng văn hóa-xã hội ASEAN, UNESCO…); ký kết và thực hiện các hiệp
định song phương về hợp tác-phát triển văn hóa-giáo dục-xã hội với các nước.
Hội nhập văn hóa-xã hội có ý nghĩa rất quan trọng trong việc làm sâu sắc quá
trình hội nhập, thực sự gắn kết các nước với nhau bằng chất keo bền vững hơn
cả. Quá trình này giúp các dân tộc ở các quốc gia khác nhau ngày càng gần gũi
và chia sẻ với nhau nhiều hơn về các giá trị, phương thức tư duy và hành động;
tạo ra sự hài hòa và thống nhất ngày càng cao hơn giữa các chính sách xã hội của
các nước thành viên; đồng thời tạo điều kiện để người dân mỗi nước được thụ
hưởng tốt hơn các giá trị văn hóa của nhân loại, các phúc lợi xã hội đa dạng; đặc
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 13


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

biệt, hình thành và củng cố tình cảm gắn bó thuộc về một cộng đồng chung rộng
lớn hơn quốc gia của riêng mình (ý thức công dân khu vực/toàn cầu).
1.3.Hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thời đại ngày nay
Hội nhập quốc tế là một quá trình tất yếu, do bản chất xã hội của lao động và
quan hệ giữa con người. Các cá nhân muốn tồn tại và phát triển phải có quan hệ
và liên kết với nhau tạo thành cộng đồng.Nhiều cộng đồng liên kết với nhau tạo
thành xã hội và các quốc gia-dân tộc.Các quốc gia lại liên kết với nhau tạo
thành những thực thể quốc tế lớn hơn và hình thành hệ thống thế giới.
Sự ra đời và phát triển của kinh tế thị trường đòi hỏi phải mở rộng các thị
trường quốc gia, hình thành thị trường khu vực và quốc tế thống nhất. Đây là
động lực chủ yếu thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội

nhập quốc tế nói chung.
Từ sau Chiến tranh thế giới II, đặc biệt là từ khi chấm dứt Chiến tranh lạnh,
cùng với sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất thế giới nhờ hàng loạt
tiến bộ nhanh chóng về khoa học-công nghệ, xu thế hòa bình-hợp tác, nỗ lực tự
do hóa-mở cửa của các nước đã thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế trên nhiều
lĩnh vực, đặc biệt là trong kinh tế, phát triển rất nhanh và trở thành một xu thế
lớn của quan hệ quốc tế hiện đại. Quá trình này diễn ra trên nhiều cấp độ: song
phương, đa phương, tiểu vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu.Mức độ hội
nhập cũng ngày một sâu sắc hơn, bao quát toàn diện hơn.Hầu hết mọi nước trên
thế giới đã và đang tích cực tham gia vào quá trình này.
Trên cấp độ toàn cầu, ngay sau Chiến tranh thế giới II, Liên hiệp quốc và hàng
loạt các tổ chức chuyên môn của Liên hiệp quốc, trong đó gồm nhiều thiết chế
thuộc hệ thống Bretton Woods (đặc biệt là Quỹ Tiền tệ quốc tế và Ngân hàng
Thế giới), ra đời với số lượng thành viên gia nhập ngày một nhiều hơn, bao
quát hầu hết các nước trên thế giới. Đây là một tổ chức hợp tác toàn diện, bao
quát hầu hết mọi lĩnh vực và có quy mô toàn cầu. Trong một số lĩnh vực, Liên
hiệp quốc đã có sự phát triển vượt lên trên sự hợp tác thông thường và có thể
nói đã đạt đến trình độ ban đầu của hội nhập (lĩnh vực chính trị-an ninh, lĩnh
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 14


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

vực nhân quyền, lĩnh vực tài chính). Trong lĩnh vực thương mại, tiến trình hội
nhập toàn cầu được thúc đẩy với việc ra đời của một định chế đa phương đặc
biệt quan trọng, đó Hiệp định chung về Thương mại và Thuế quan (GATT), sau
đó được nối tiếp bằng Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) kể từ năm 1995.
Hiện nay, 153 quốc gia và vùng lãnh thổ đã tham gia với tư cách thành viên

chính thức của Tổ chức này, khoảng 30 quốc gia khác đang trong quá trình đàm
phán gia nhập. Trong hơn một thập kỷ qua, WTO đã phát triển mạnh mẽ hệ
thống “luật chơi” về thương mại quốc tế, bao quát hầu hết các lĩnh vực của
quan hệ kinh tế giữa các thành viên như hàng hóa, dich vụ, nông nghiệp, kiểm
dịch động thực vật, dệt may, hàng rào kỹ thuật, đầu tư, sở hữu trí tuệ, chống
bán phá giá, trợ cấp và các biện pháp đối kháng, các biện pháp tự vệ, xác định
giá trị tính thuế hải quan, giám định hàng hóa, quy tắc xuất xứ, quy tắc và thủ
tục giải quyết tranh chấp… Các quy định cơ bản của WTO trở thành nền tảng
của tất cả các thỏa thuận kinh tế khu vực hay song phương trên thế giới hiện
nay. Vòng đàm phán Đô-ha, bắt đầu từ hơn mười năm trước, đang tiếp tục mở
rộng và củng cố các quy định của WTO theo hướng tự do hóa hơn nữa.
Ở cấp độ khu vực, quá trình hội nhập phát triển rất nhanh trong những thập
niên 1960 và 1970, đặc biệt “nở rộ” từ thập niên 1990 trở lại đây. Hàng loạt tổ
chức/thể chế khu vực đã ra đời ở khắp các châu lục.Hầu như không một khu
vực nào trên thế giới hiện nay không có các tổ chức/thể chế khu vực của riêng
mình. Các tổ chức/thể chế khu vực về chính trị-an ninh và đặc biệt là kinh tế,
chiếm nhiều nhất. Chỉ riêng trong lĩnh vực kinh tế, tính đến giữa tháng 5/2011
có 489 hiệp định về mậu dịch khu vực (RTAs) giữa các thành viên của WTO đã
được thông báo cho Ban Thư ký WTO, trong đó 90% là các thỏa thuận mậu
dịch tự do (FTAs) và 10% là các liên minh thuế quan (CU). Bên cạnh đó, có tới
hàng trăm RTAs đang trong quá trình đàm phán hoặc chuẩn bị đàm phán.
Nhiều tổ chức/thể chế liên kết kinh tế liên khu vực được hình thành, ví dụ như
APEC, ASEM, ASEAN với các đối tác ngoài khu vực chẳng hạn như Mỹ và

Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 15


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế


EU (dưới dạng các PCA và FTA), EU với một số tổ chức/thể chế hoặc quốc gia
ở các khu vực khác, v.v…
Bên cạnh các cấp độ toàn cầu và khu vực, quá trình hội nhập giữa các nước còn
được điều tiết bởi các hiệp định liên kết song phương, dưới dạng hiệp ước liên
minh (chính trị, an ninh, quốc phòng), hiệp định đối tác toàn diện, hiệp định đối
tác chiến lược, hiệp định kinh tế-thương mại (BFTA, BCU…). Từ cuối thập
niên 1990 trở lại đây, xu hướng ký kết các hiệp định đối tác chiến lược và hiệp
định mậu dịch tự do (BFTA) phát triển đặc biệt mạnh mẽ. Hầu hết các nước
đều đã ký hoặc đang trong quá trình đàm phán các BFTA. Thậm chí, có nước
hiện đã ký hoặc đàm phán tới hàng chục hiệp định BFTA (Singapore, Thái Lan,
Nhật, Úc…). Điều này được lý giải chủ yếu bởi bế tắc của vòng đàm phán
Đôha và những ưu thế của BFTA so với các hiệp định đa phương (dễ đàm phán
và nhanh đạt được hơn; việc thực hiện cũng thuận lợi hơn).
Về phạm vi lĩnh vực và mức độ hội nhập, xem xét các thỏa thuận liên kết khu
vực và song phương trong thời gian gần đây, có thể thấy rất rõ rằng các lĩnh
vực hội nhập ngày càng được mở rộng hơn. Bên cạnh xu hướng đẩy mạnh hội
nhập kinh tế, các nước cũng quan tâm thúc đẩy hội nhập trong các lĩnh vực
khác, đặc biệt là chính trị-an ninh và văn hóa-xã hội. Tiến trình hội nhập toàn
diện trong EU đã đạt đến mức cao, biến tổ chức này trở thành một thực thể gần
giống như một nhà nước liên bang. ASEAN cũng đang tiến hành mở rộng và
làm sâu sắc tiến trình hội nhập khu vực một cách toàn diện hơn thông qua xây
dựng Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột Cộng đồng Chính trị-An ninh,
Cộng đồng Kinh tế và Cộng đồng Văn hóa-Xã hội. Hàng loạt các hiệp định đối
tác toàn diện hay đối tác chiến lược song phương được ký kết gần đây bao quát
khá toàn diện các lĩnh vực hợp tác và liên kết giữa các bên. Nếu chỉ xét riêng
về mặt kinh tế, thì các thỏa thuận gần đây, chẳng hạn như Hiệp định Mậu dịch
tự do ASEAN-Úc-Niudilân, Hiệp định Mậu dịch tự do Mỹ-Singapore, Hiệp
định Mậu dịch tự do Hàn Quốc-Singapore, Hiệp định Mậu dịch tự do NhậtSingapore, chứa đựng hầu hết các lĩnh vực và do vậy vượt xa so với các hiệp
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1


Trang: 16


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

định FTA truyền thống. Nhìn chung, các hiệp định FTA mới toàn diện hơn và
bao hàm cả những lĩnh vực “nhạy cảm” (ví dụ như mua sắm chính phủ, cạnh
tranh, lao động, môi trường, hàng rào kỹ thuật) thường không được đề cập
trong hầu hết các hiệp định FTA ký trước đây. Bên cạnh đó, các hiệp định FTA
mới đưa ra các quy định về tự do hóa triệt để hơn, thể hiện mức độ hội nhập
cao hơn. Ví dụ, trong lĩnh vực hàng hóa, cắt giảm thuế quan mạnh hơn và sớm
đưa về 0%, hạn chế tối đa số lượng các sản phẩm loại trừ.
Rõ ràng, hội nhập quốc tế đã trở thành một xu thế lớn và một đặc trưng quan
trọng của thế giới hiện nay. Không ít người khẳng định rằng chúng ta đang
sống trong thời đại toàn cầu hóa.Nói một cách khác, thời đại hội nhập toàn
cầu.Xu thế này chi phối toàn bộ quan hệ quốc tế và làm thay đổi to lớn cấu trúc
của hệ thống thế giới cũng như bản thân các chủ thể và mối quan hệ giữa
chúng.
1.4.
Lợi và bất lợi của hội nhập quốc tế
1.4.1. Lợi ích của hội nhập quốc tế:

Khẳng định hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới cũng đồng
thời chỉ ra con đường phát triển không thể nào khác đối với các nước trong
thời đại toàn cầu hóa là tham gia hội nhập quốc tế. Sự lựa chọn tất yếu này
còn được quyết định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập quốc tế tạo ra cho các
nước.Những lợi ích chủ yếu của hội nhập quốc tế mà các nước có thể tận dụng
được:
Thứ nhất, quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trường để thúc đẩy thương mại

và các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trưởng và phát triển
kinh tế-xã hội.
Thứ hai, hội nhập cũng tạo động lực thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cải
thiện môi trường đầu tư kinh doanh, từ đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh
tranh của nền kinh tế, của các sản phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng
khả năng thu hút đầu tư vào nền kinh tế.
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 17


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

Thứ ba, hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học
công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục-đào tạo và nghiên cứu khoa học với
các nước và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tư trực tiếp nước ngoài và
chuyển giao công nghệ từ các nước tiên tiến.
Thứ tư, hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước tiếp cận thị
trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.
Thứ năm, hội nhập tạo cơ hội để các cá nhân được thụ hưởng các sản phẩm
hàng hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lượng với giá cạnh
tranh; được tiếp cận và giao lưu nhiều hơn với thế giới bên ngoài, từ đó có cơ
hội phát triển và tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nước.
Thứ sáu, hội nhập tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt
hơn tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách
phát triển phù hợp cho đất nước và không bị lề hóa.
Thứ bảy, hội nhập giúp bổ sung những giá trị và tiến bộ của văn hóa, văn minh
của thế giới, làm giàu văn hóa dân tộc và thúc đẩy tiến bộ xã hội.
Thứ tám, hội nhập tạo động lực và điều kiện để cải cách toàn diện hướng tới
xây dựng một xã hội mở, dân chủ hơn, và một nhà nước pháp quyền.

Thứ chín, hội nhập tạo điều kiện để mỗi nước tìm cho mình một vị trí thích hợp
trong trật tự quốc tế, giúp tăng cường uy tín và vị thế quốc tế, cũng như khả
năng duy trì an ninh, hòa bình và ổn định để phát triển.
Thứ mười, hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các
nước tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực và
nguồn lực của các nước để giải quyết những vấn đề quan tâm chung của khu
vực và thế giới.
1.4.2. Bất lợi của hội nhập quốc tế:

Hội nhập không chỉ đưa lại những lợi ích, trái lại, nó cũng đặt các nước trước
nhiều bất lợi và thách thức, trong đó đặc biệt là:
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 18


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

Một, hội nhập làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và
ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về
mặt kinh tế-xã hội.
Hai, hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế quốc gia vào thị trường
bên ngoài và, do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thương trước những biến động
của thị trường quốc tế.
Ba, hội nhập không phân phối công bằng lơi ích và rủi ro cho các nước và các
nhóm khác nhau trong xã hội, do vậy có nguy cơ làm tăng khoảng cách giàunghèo.
Bốn, trong quá trình hội nhập, các nước đang phát triển phải đối mặt với nguy
cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế tự nhiên bất lợi, do thiên hướng tập trung vào các
ngàng sử dụng nhiều tài nguyên, nhiều sức lao động, nhưng có giá trị gia tăng
thấp. Do vậy, họ dễ có thể trở thành bãi rác thải công nghiệp và công nghệ thấp,

bị cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên và hủy hoại môi trường.
Năm, hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước
(theo quan niện truyền thống về độc lập, chủ quyền) và phức tạp đối với việc
duy trì an ninh và ổn định ở các nước đang phát triển.
Sáu, hội nhập có thể làm gia tăng nguy cơ bản sắc dân tộc và văn hóa truyền
thống bị xói mòn trước sự “xâm lăng” của văn hóa nước ngoài.
Bảy, hội nhập có thể đặt các nước trước nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng
bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp
pháp…
Như vậy, hội nhập đồng thời đưa lại cả lợi ích lẫn bất lợi đối với các nước.Tuy
nhiên, không phải cứ hội nhập là đương nhiên hưởng đầy đủ tất cả các lợi ích
và gánh mọi bất lợi như đã nêu trên. Các lợi ích và bất lợi nhìn chung ở dạng
tiềm năng và đối với mỗi nước một khác, do các nước không giống nhau về
điều kiện, hoàn cảnh, trình độ phát triển… Việc khai thác được lợi ích đến đâu
và hạn chế các bất lợi, thách thức thế nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 19


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

đặc biệt quan trọng là năng lực của mỗi nước, trước hết là chiến lược/chính
sách, biện pháp hội nhập và việc tổ chức thực hiện. Thực tế, nhiều nước đã khai
thác rất tốt các cơ hội và lợi ích của hội nhập để đạt được tăng trưởng và phát
triển kinh tế-xã hội cao, ổn định trong nhiều năm liên tục, nhanh chóng vươn
lên hàng các nước công nghiệp mới và tạo dựng được vị thế quốc tế đáng nể,
đồng thời xử lý khá thành công các bất lợi và thách thức của quá trình hội nhập,
đó là trường hợp Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc,
Malaixia, Mêhicô, Braxin… Một số nước tuy vẫn gặt hái được nhiều lợi ích từ

hội nhập, song xử lý chưa tốt mặt trái của quá trình này, nên phải đối mặt với
nhiều khó khăn, thách thức lớn, có thể kể tới trường hợp Thái Lan, Phi-líp-pin,
Inđônêxia, Việt Nam, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha… Mặc dù vậy, suy
cho cùng lợi ích mà hầu hết các nước đã thu được trên thực tế từ quá trình hội
nhập vẫn lớn hơn cái giá mà họ phải trả cho những tác động tiêu cực xét trên
phương diện tăng trưởng và phát triển kinh tế. Điều này giải thích tại sao hội
nhập quốc tế trở thành lựa chọn chính sách của hầu hết các nước trên thế giới
hiện nay.

CHƯƠNG 2
HỘI NHẬP QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM
2.1.

Quá trình hình thành chủ trương và những quan điểm cơ bản của

Đảng ta về hội nhập quốc tế
2.1.1. Quá trình hình thành, phát triển chủ trương hội nhập quốc tế của Đảng
Ngay từ rất sớm, Đảng ta đã nhận thức rõ tầm quan trọng cũng như tính cấp thiết
của việc mở rộng quan hệ đối ngoại nhằm đưa sự nghiệp phát triển đất nước hoà
vào trào lưu phát triển chung của thế giới. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng,
Đảng ta luôn chú trọng việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại,
coi đây là một trong những nguyên tắc cơ bản trong đường lối quốc tế của mình.
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 20


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

Cũng chính vì vậy, sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của

nhân dân ta trải qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã luôn giành được sự đồng
tình, ủng hộ, sự giúp đỡ rộng rãi của nhân dân tiến bộ trên thế giới.
Tư tưởng mở cửa đối ngoại, hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới của Đảng
đã được thể hiện rõ nét trong các văn kiện ngoại giao đầu tiên của nước Việt
Nam Dân chủ cộng hoà. Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Thư gửi Tổng Thư ký
Liên hợp quốc (12/1946), đã long trọng tuyên bố: “Việt Nam sẵn sàng thực thi
chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”. Đồng thời, Người khẳng
định: “Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà
kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình; sẵn sàng mở rộng
các cảng, sân bay và đường xá giao thông cho việc buôn bán và quá cảnh quốc
tế; chấp nhận tham gia mọi tổ chức hợp tác kinh tế quốc tế dưới sự lãnh đạo của
Liên hợp quốc”1. Đây là những tư tưởng quan trọng đặt cơ sở cho sự hình thành
chủ trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng và hội nhập quốc tế nói
chung của nước ta sau này. Song, trong hoàn cảnh của cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc, Việt Nam đã không thể thực hiện một cách đầy đủ công cuộc hội
nhập quốc tế theo những tư tưởng nêu trên.
Sau khi thống nhất đất nước, Đại hội IV của Đảng ta (1976) đã nhấn mạnh vai
trò quan trọng của kinh tế đối ngoại trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Đại hội khẳng định phải kết hợp phát triển kinh tế trong nước với mở rộng
quan hệ kinh tế với nước ngoài. Theo đó, Việt Nam đã tích cực phát triển quan
hệ và tham gia vào các cơ chế hợp tác của các nước xã hội chủ nghĩa (XHCN)
trong khuôn khổ Hội đồng Tương trợ kinh tế. Sự phát triển quan hệ hợp tác
kinh tế với các nước XHCN mặc dù còn mang nặng tính bao cấp nhưng đã
góp phần rất quan trọng đối với công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội và bảo vệ
Tổ quốc. Mặt khác, Việt Nam cũng từng bước cải thiện quan hệ hợp tác kinh
tế với nhiều nước tư bản chủ nghĩa (TBCN) dựa trên nguyên tắc bình đẳng
cùng có lợi. Tuy nhiên, quá trình hợp tác quốc tế của Việt Nam trong thời kỳ
11Hồ Chí Minh:Toàn tập, tập 4, Nxb. CTQG, Hà Nội. 2002, tr. 470
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1


Trang: 21


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

chiến tranh lạnh do chịu sự chi phối của cuộc đối đầu Đông - Tây, đặc biệt là
nhân tố ý thức hệ tư tưởng, nên còn những hạn chế nhất định, chưa đạt tới
hiệu quả như mong muốn.
Bước vào thời kỳ đổi mới, đứng trước yêu cầu cấp bách phải nhanh chóng
vượt ra khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế, phá thế bao vây cấm vận của chủ
nghĩa đế quốc (CNĐQ) và các thế lực thù địch, đường lối mở rộng quan hệ đối
ngoại và hội nhập quốc tế, trước hết trong lĩnh vực kinh tế ngày càng được bổ
sung, hoàn thiện, đồng thời được thực hiện tích cực hơn.
Đại hội VI của Đảng (1986) mở ra bước ngoặt trong tư duy và thực tiễn hội
nhập quốc tế của Đảng, Nhà nước ta. Đại hội chỉ rõ: “Muốn kết hợp sức mạnh
của dân tộc với sức mạnh của thời đại, nước ta phải tham gia sự phân công lao
động quốc tế; trước hết và chủ yếu là với Liên Xô, Lào và Campuchia, với các
nước khác trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa; đồng thời tranh thủ mở mang
quan hệ kinh tế và khoa học - kỹ thuật với các nước thế giới thứ ba, các nước
công nghiệp phát triển, các tổ chức quốc tế và tư nhân nước ngoài trên nguyên
tắc bình đẳng cùng có lợi”. Nghị quyết Đại hội cũng xác định nội dung chính
của chính sách kinh tế đối ngoại trước hết bao gồm: đẩy mạnh xuất nhập khẩu,
tranh thủ vốn viện trợ và vay dài hạn, khuyến khích đầu tư trực tiếp của nước
ngoài... Theo hướng này, Luật Đầu tư nước ngoài được thông qua (1987), tạo
khuôn khổ pháp lý thuận lợi để mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế, phục vụ phát
triển kinh tế, khai thác những tiềm năng nội lực của đất nước.
Đại hội VII của Đảng (1991) tuyên bố đường lối đối ngoại rộng mở: “Việt Nam
muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển”, mở ra bước đột phá trong quá trình hội nhập quốc
tế. Đại hội xác định nguyên tắc cơ bản trong hội nhập kinh tế quốc tế là: “mở

rộng, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại trên nguyên tắc
giữ vững độc lập chủ quyền, bình đẳng, cùng có lợi”2.

22 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb CTQG, HN 1991, tr. 119
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1
Trang: 22


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

Chủ trương hội nhập quốc tế trước hết về kinh tế của Đảng tiếp tục được Ban
Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị bổ sung, làm rõ và cụ thể hơn. Nghị
quyết của Hội nghị Trung ương Ba (khoá VII) ngày 29/6/1992 nhấn mạnh chủ
trương mở rộng quan hệ với các tổ chức quốc tế, trong đó “cố gắng khai thông
quan hệ với các tổ chức tài chính, tiền tệ quốc tế như Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), mở
rộng quan hệ với các tổ chức hợp tác khu vực, trước hết ở châu Á - Thái Bình
Dương”. Bộ Chính trị ban hành Quyết định số 1005 CV/VPTW (22/11/1994)
giao cho Chính phủ soạn thảo và gửi đơn xin gia nhập WTO. Theo Quyết định
của Bộ Chính trị (số 493 CV/VPTW ngày 14/6/1996), Việt Nam đã gửi đơn xin
gia nhập Diễn đàn APEC.
Đại hội VIII của Đảng (1996) trong khi nêu rõ đường lối đối ngoại: “Việt Nam
muốn là bạn của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà
bình, độc lập và phát triển” đã đưa ra chủ trương “xây dựng nền kinh tế mở”,
“đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”. Đại hội nhấn mạnh
phải mở rộng quan hệ quốc tế, hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương
với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực trên nguyên tắc tôn trọng độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, bình đẳng cùng có lợi. Tiếp đó, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số
01/NQ-TƯ (18/11/1996,) “Về mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại

5 năm 1996 - 2000”, xác định nhiệm vụ, phương hướng, giải pháp, cơ chế,
chính sách chủ yếu để phát triển kinh tế đối ngoại.
Bước vào thế kỷ mới, Đại hội IX của Đảng khẳng định: "Thực hiện nhất quán
đường lối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan
hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" 3. Đại hội xác định
độc lập tự chủ là cơ sở để thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương
hoá, đa dạng hoá, đồng thời nhấn mạnh Việt Nam, không chỉ "sẵn sàng là bạn"
mà còn sẵn sàng “là đối tác tin cậy của các nước" và "chủ động hội nhập kinh
33Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, Hà Nội 2001, tr.119
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1
Trang: 23


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

tế quốc tế”. Đây là sự phản ánh một nấc thang cao hơn trong nhận thức và tư
duy về đối ngoại nói chung và về hội nhập quốc tế nói riêng của Đảng trong
thời kỳ đổi mới. Nhằm cụ thể hoá đường lối “Chủ động hội nhập kinh tế quốc
tế”, Bộ Chính trị đã ra Nghị quyết 07-NQ/TW (27/11/2001) về hội nhập kinh
tế quốc tế, trong đó làm rõ mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, nội dung và nhiệm vụ
cụ thể của hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh tế.
Chủ trương hội nhập quốc tế tiếp tục được hoàn thiện thêm tại Đại hội X của
Đảng (4/2006). Cùng với việc nhấn mạnh sự cần thiết phải đưa các quan hệ
quốc tế đã được thiết lập đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, Đại hội khẳng
định quan điểm: “Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở
rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực khác”. Tổng kết 20 năm đổi mới, Đại
hội nêu 5 bài học lớn, trong đó bài học thứ 3 là bài học về hội nhập kinh tế
quốc tế và xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Theo đó, hội nhập kinh tế quốc
tế là yêu cầu khách quan; phải chủ động, có lộ trình với bước đi tích cực, vững

chắc, không do dự chần chừ, nhưng cũng không được nóng vội, giản đơn.
Đại hội XI của Đảng (2011) đánh dấu bước phát triển mới trong chủ trương hội
nhập quốc tế với sự khẳng định: “Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc
lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan
hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi
ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là
bạn, là đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế,
góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội
trên thế giới”4. Chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế” được Đại
hội nêu ra thể hiện tầm nhìn chiến lược toàn diện của Đảng. Đây không chỉ là
sự chủ động, tích cực hội nhập riêng ở lĩnh vực kinh tế và một số lĩnh vực khác,
mà là sự tích cực mở rộng hội nhập với qui mô toàn diện, trên các lĩnh vực:
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội, quốc phòng - an ninh... Bước phát triển này
trong nhận thức và tư duy đối ngoại của Đảng, phản ánh những nhu cầu cấp
thiết đối với sự nghiệp cách mạng nước ta trong bối cảnh quốc tế mới. Trong
44Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội 2011, tr.235-236
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1
Trang: 24


Báo cáo chuyên đề:Cơ hội và thách thức của hội nhập quốc tế

quá trình hội nhập cần phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của mọi thành
phần kinh tế, của toàn xã hội. Đó là quá trình vừa hợp tác, vừa đấu tranh và
cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo,
khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt của hội nhập tuỳ theo đối
tượng, vấn đề, trường hợp, thời điểm cụ thể. Cần kết hợp chặt chẽ quá trình hội
nhập quốc tế với yêu cầu giữ vững an ninh, quốc phòng, nhằm củng cố chủ
quyền và an ninh đất nước5.
2.1.2. Những quan điểm cơ bản của Đảng về hội nhập quốc tế

Về mục tiêu của hội nhập quốc tế: Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để
tranh thủ tối đa các nguồn lực từ bên ngoài (ngoại lực) phục vụ sự nghiệp bảo
vệ, xây dựng và phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong
lĩnh vực kinh tế, Nghị quyết 07 của Bộ Chính trị nêu rõ mục tiêu: “mở rộng thị
trường, tranh thủ thêm vốn, công nghệ, kiến thức quản lý để đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng XHCN, thực hiện dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Quá trình hội nhập quốc tế trước
hết là đáp ứng lợi ích phát triển của đất nước; mặt khác thông qua đó phát huy
vai trò của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển khu vực và thế giới, đóng
góp vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân
chủ và tiến bộ xã hội.
Để hội nhập quốc tế một cách hiệu quả, Đảng ta xác định rõ nguyên tắc cơ bản
và bao trùm là bảo đảm giữ vững độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo
đảm vững chắc an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Giữ vững
độc lập tự chủ thể hiện trước hết trong quyết sách hội nhập nhằm khai thác tối
đa các lợi thế, đối phó thắng lợi với các thách thức đặt ra của quá trình hội
nhập; chủ động lựa chọn các tổ chức tham gia, các đối tác và hình thức quan
hệ, thời điểm tham gia hội nhập, xây dựng lộ trình hội nhập hợp lý trong
khuôn khổ quy định chung; chủ động điều chỉnh chính sách cho phù hợp với mục
tiêu và yêu cầu hội nhập. đường lối và chính sách đối ngoại rộng mở luôn dựa
55 Xem: Những điểm mới và nội dung quan trọng trong Văn kiện Đại hội XI, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt
Nam, ngày 9//4/2011
Lê Thu Hà – TCQLVT 2013- Lớp 1

Trang: 25


×