Tải bản đầy đủ (.docx) (86 trang)

tổ chức và quản lý công ty cổ phần

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (400.52 KB, 86 trang )

Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

MỤC LỤC
Danh mục các chữ viết tắt……………………………………………………….01
Chương 1: Tổng quan nghiên cứu đề tài……………………………………….03
1.1. Tính cấp thiết của đề tài……………………………………………..........03
1.2. Đối tượng nghiên cứu……………………………………………………..03
1.3. Khái quát về tình hình nghiên cứu…………………………………..........04
1.4. Phạm vi nghiên cứu………………………………………………….........05
1.5. Mục tiêu nghiên cứu………………………………………………............05
1.6. Phương pháp nghiên cứu………………………………………………….05
1.7. Ý nghĩa nghiên cứu……………………………………………………….06
1.8. Kết cấu đề tài……………………………………………………………..06
Chương 2: Một số vấn đề lý luận chung về công ty cổ phần…………………07
2.1. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần…………………………......07
2.1.1. Khái niệm công ty cổ phần…………………………………................07
2.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần……………………………………..….08
2.1.2.1. Về tính chất pháp lý………………………………………………08
2.1.2.2. Về vốn điều lệ…………………………………………………….08
2.1.2.3. Về thành viên……………………………………………………..09
2.1.2.4. Về tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp…………………….10
1


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

2.1.2.5. Về chế độ chịu trách nhiệm tài sản……………………………….10
2.1.2.6. Về tư cách pháp lý………………………………………………..10
2.2.Lịch sử hình thành và phát triển của loại hình công ty cổ phần…………..11
2.2.1. . Lịch sử hình thành và phát triển của loại hình công ty cổ phần trên thế
giới…………………………………………………………………………..11


2.2.2. Sự hình thành và phát triển của loại hình công ty cổ phần tại Việt
Nam……………………………………………………………………………….14
2.3. Khái quát chung về tổ chức và quản lý trong công ty cổ phần…………...18
2.3.1. Khái niệm tổ chức và quản lý trong công ty cổ phẩn…………………18
2.3.2. Cơ cấu tổ chức và quản lý trong công ty cổ phần……………………..20
2.4. Tổ chức và quản lý trong công ty cổ phần theo quy định của pháp luật một
số quốc gia trên thế giới……………………………………………………...20
2.4.1. Mô hình tổ chức quản lý công ty cổ phần của Nhật Bản……………...21
2.4.2. Mô hình tổ chức quản lý công ty cổ phần của Đức…………………...22
2.4.3. Mô hình tổ chức quản lý công ty cổ phần ở Anh – Mỹ……………….23
2.4.4. Một số nhận xét về mô hình tổ chức quản lý công ty cổ phần ở một số
nước trên thế giới…………………………………………………..………...26
Chương 3: Thực trạng các quy định của pháp luật việt nam về tổ chức và
quản lý trong công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2005…………………28
3.1. Nội dung pháp luật về tổ chức và quản lý công ty cổ phần……………....29
3.1.1. Đại hội đồng cổ đông……………………………………………….…31

2


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

3.1.2. Hội đồng quản trị……………………………………………………...34
3.1.3. Giám đốc/Tổng giám đốc………………………………………...........37
3.1.4. Ban kiểm soát………………………………………………………....38
3.2. Đánh giá, nhận xét những quy định của pháp luật…………………..........39
Chương 4: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tổ chức và quản
lý trong công ty cổ phần, một số đánh và và kiến nghị hoàn thiện………….. 42
4.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức và quản lý công ty cổ phần……..42
4.1.1. Về quyền cơ bản của cổ đông…………………………………………42

4.1.2. Về Đại hội đồng cổ đông …………………………………………......44
4.1.3. Về Hội đồng quản trị…………………………………………………..50
4.1.4. Về Giám Đốc/Tổng Giám Đốc………………………………………..52
4.1.5. Về Ban kiểm soát……………………………………………………..56
4.2. Một số đánh giá, nhận xét về thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức, quản
lý công ty cổ phần………………………………………………………….….59
4.2.1. Những thành công trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức, quản
lý công ty cổ phần……………………………………………………….….59
4.1.2. Những khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật về tổ chức, quản lý
công ty cổ phần……………………………………………………………..59
4.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về tổ chức và quản lý công ty cổ phần…………………………......61
4.3.1. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật………………………....61

3


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

4.3.1.1. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cổ đông……………………...61
4.3.1.2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về cuộc họp Đại hội đồng cổ
đông……………………………………………………………………………….63
4.3.1.3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Hội đồng quản trị……………64
4.3.1.4. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Giám Đốc/Tổng Giám Đốc....66
4.3.1.5. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật về Ban kiểm soát……………….66
4.3.2. Một số kiến nghị nhằm thực thi pháp luật……………………...….…67
4.3.2.1. Về cách thức triệu tập Đại hội đồng cổ đông……………………67
4.3.2.2. Về quyền dự họp Đại hội cổ đông của cổ đông nhỏ……………..68
4.3.2.3. Về vai trò, chức năng và trách nhiệm của Ban kiểm soát………..69
4.3.2.4. Về sự minh bạch trong công bố thông tin………………………..70

Kết luận……………………………………………………………….….73
Danh mục tài liệu tham khảo……………………………….……….….75

4


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

DANH MỤC TỪ NGỮ VIẾT TẮT
LDN

Luật doanh nghiệp

CTCP

Công ty cổ phần

ĐHĐCĐ

Đại hội đồng cổ đông

HĐQT

Hội đồng quản trị

BKS

Ban kiểm soát

GĐ/TGĐ


Giám đốc/ Tổng giám đốc

LHQ

Liên hợp quốc

WB

World Bank - Ngân hàng thế giới

IMB

International Monetary Fund - Qũy tiền tệ quốc tế

ADB

The Asian Development Bank- Ngân hàng phát triển châu Á

UNDP

United Nations Development Programme - chương trình phát triển
Liên Hợp Quốc

5


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

WTO


World Trade Organization - Tổ chức thương mại thế giới

CNH

Công nghiệp hóa

HĐH

Hiện đại hóa

DNNN

Doanh nghiệp nhà nước

6


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI
1.1.

Tính cấp thiết của đề tài

Công ty cổ phần (CTCP) - một loại hình doanh nghiệp có nhiều ưu việt,
đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế ở các nước
trên thế giới nói chung cũng như ở Việt Nam nói riêng, đặc biệt trong thời kì hội
nhập ngày càng sâu rộng với quốc tế.
Ở Việt Nam, CTCP và tổ chức, quản lý CTCP vẫn còn là vấn đề khá mới

mẻ. So với hàng trăm năm phát triển ở nhiều nước trên thế giới như Anh, Pháp,
Mỹ… Là một nước đi sau, Việt Nam có lợi thế lớn trong việc học tập kinh nghiệm
của các nước đi trước. Mặc dù vậy, công cuộc tổ chức và quản lý CTCP ở nước ta
vẫn còn nhiều khó khăn, chưa thể thoát ra khỏi những ảnh hưởng nặng nề của cơ
chế kế hoạch hóa tập trung trước đây. Chẳng hạn như những bất cập xuất phát từ
việc ban lãnh đạo công ty can thiệp vào quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của
cổ đông; một số cổ đông lớn (chủ yếu là cổ đông nhà nước) nắm giữ quyền công
ty, xâm hại vào quyền lợi của đa số cổ đông thiểu số; Ban Kiểm soát nhiều khi chỉ
mang tính hình thức, không phát huy được chức năng giám sát,... Chính những vấn
đề đó đã ảnh hưởng rất tới sự lành mạnh hóa việc tổ chức và quản lý CTCP ở nước
ta trong thời gian qua. Do vậy, đòi hỏi phải có sự quan tâm, nghiên cứu một cách
cụ thể và cặn kẽ trong việc tổ chức, quản lý CTCP về mặt lý luận cũng như thực
tiễn,cùng với đó đưa ra các kiến nghị để giải quyết những vấn đề còn tồn tại.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết đó, nhóm tác giả đã lựa chọn “Tổ chức và
quản lý của CTCP theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn” làm đề tài nghiên cứu khoa học.
7


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Đối tượng nghiên cứu

1.2.

Đối tượng của nghiên cứu là các vấn đề pháp lý về tổ chức và quản lý CTCP
bao gồm 2 đối tượng chính:
-

Một là, quản lý CTCP: Đây là cách thức tổ chức các cơ quan quyền

lực của công ty và mối quan hệ quyền lực giữa các cơ quan đó (hay

1.3.

còn gọi là cơ cấu quản lý CTCP);
Hai là, cơ cấu tổ chức trong công ty – tức là cách thức sắp xếp các
đơn vị khác nhau của công ty thành các phòng, ban, tổ,…
Khái quát tình hình nghiên cứu

Pháp luật về tổ chức và quản lý CTCP không phải là đề tài xa lạ. Trước đó,
nhiều bài nghiên cứu khoa học, nhiều tiểu luận, khóa luận đã nghiên cứu ở khía
cạnh này và đã đạt nhiều thành công đáng kể. Một số đề tài đã được nghiên cứu
như: Tiểu luận cơ cấu tổ chức công ty; Tổ chức và quản lý CTCP theo LDN Việt
Nam 2005 trong quan hệ so sánh với CTCP theo luật Thương mại Nhật bản; Pháp
luật về CTCP; Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện bộ máy tổ chức CTCP…
Về cơ bản, những công trình trước đó đã nghiên cứu được sự hình thành và phát
triển của CTCP; định nghĩa, vai trò, chức năng, nhiệm vụ… từng bộ phận trong bộ
máy công ty cổ phần; các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề tổ chức và
quản lý bộ máy; nêu ra thực trạng những ưu, nhược điểm hiện có cũng như kiến
nghị giải pháp nhằm khắc phục. Kế thừa những đề tài đã đi trước, kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu khác nhau, bên cạnh những thành tựu mà các đề tài trước
đã làm được, nhóm tác giả còn tìm hiểu thêm quy định pháp luật về tổ chức và
quản lý công ty cổ phần ở pháp luật một số nước trên thế giới, từ đó liên hệ với
pháp luật về CTCP tại Việt Nam; trong quá trình nghiên cứu có liên hệ, so sánh với
LDN 2014 – luật mới được Quốc hội thông qua và sẽ có hiệu lực từ tháng 7/2015.
8


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn


Hi vọng “Tổ chức và quản lý công ty cổ phần theo quy định của luật doanh nghiệp
2005 – Một số vấn đề lí luận và thực tiễn” sẽ là cái nhìn thấu đáo, mới mẻ mà
nhóm tác giả mang lại, có thể tìm ra được những thực trạng và nêu được đề xuất
phù hợp về pháp luật về tổ chức và quản lý công ty cổ phần.
1.4.

Phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu việc tổ chức và quản lý CTCP với những vấn đề
như: mô hình quản lý CTCP, cách thức tổ chức các cơ quan quyền lực trong công
ty và mối quan hệ giữa các cơ quan đó.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài giới hạn trong Luật Doanh nghiệp 2005 và
Nghị định 102/2010/NĐ-CP ngày 01 tháng 10 năm 2010 Hướng dẫn thi hành một
số điều của Luật Doanh nghiệp.
1.5.

Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chung của đề tài nghiên cứu là từ những phân tích về mặt lý luận
cũng như thực tiễn của vấn đề tổ chức và quản lý CTCP để đưa ra được những giải
pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật về vấn đề này.
Để đạt được mục tiêu đó, nhóm tác giả đề ra nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể
như sai:
Một là: Tìm hiểu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về tổ chức và quản lý
công ty cổ phần. Vấn đề lý luận đó bao gồm: khái niệm, đặc điểm, quá trình hình
thành cũng như cơ cấu tổ chức của công ty cổ phần.

9



Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Hai là: Vận dụng lý luận đó để điều tra, phân tích thực trạng pháp luật về tổ
chức và quản lý công ty cổ phần cụ thể là theo Luật Doanh nghiệp 2005.
Ba là: Dựa trên những phân tích, tìm hiểu từ thực tiễn để đưa ra những kiến
nghị, giáp pháp nhằm hoàn thiện hơn quy định của pháp luật về tổ chức và quản lý
công ty cổ phần.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu sử dụng phương pháp nghiên cứu tổng hợp, thống kê, phân
tích, so sánh để đánh giá các số liệu và thông tin thu thập được liên quan đến các
vấn đề pháp lý về tổ chức và quản lý CTCP ở Việt Nam cũng như một số nước trên
thế giới.
Ba phương pháp nghiên cứu trên sẽ giúp bài nghiên cứu làm sáng tỏ những
luận cứ khoa học trong phạm vi nghiên cứu của đề tài và tăng tính thuyết phục cho
các đề xuất giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về quản lý CTCP.
1.7.

Ý nghĩa nghiên cứu

Việc nghiên cứu, tìm hiểu về tổ chức và quản lý của công ty cổ phần sẽ
mang đến những kiến thức cơ bản, đặc biệt là bộ máy hoạt động, vận hành bên
trong cái tên công ty cổ phần. Đồng thời, phát hiện và hoàn thiện được những thiếu
sót giữa lý luận và thực tiễn nhằm xây dựng mô hình công ty cổ phần ngày càng
lớn mạnh, phát triển hơn.
1.8. Kết cấu đề tài
Chương I: Tổng quan nghiên cứu đề tài
10


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn


Chương II: Một số vấn đề lý luận chung về công ty cổ phần và tổ chức quản
lý trong công ty cổ phần
Chương III: Thực trạng các quy định của pháp luật Việt Nam về tổ chức và
quản lý trong công ty cổ phần theo Luật doanh nghiệp 2005
Chương IV: Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về tổ chức và
quản lý trong công ty cổ phần, một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện.
Từ việc xác định được những nội dung như vậy, sau đây nhóm sẽ đi vào
nghiên cứu từng vấn đề cụ thể của đề tài.

11


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÔNG TY CỔ
PHẦN
2.1. Khái niệm và đặc điểm của công ty cổ phần
2.1.1. Khái niệm công ty cổ phần
CTCP là một trong bốn loại hình doanh nghiệp ở Viêt Nam hiện nay vậy nên
trước khi tìm hiểu khái niệm CTCP thì cần tìm hiều khái niệm và đặc điểm của
doanh nghiệp nói chung.
Theo khoản 1 Điều 4 LDN năm 2005 thì doanh nghiệp được định nghĩa như
sau: “Doanh nghiêp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sỏ giao dịch
ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh.” Từ định nghĩa trên có thể rút ra những đặc
điểm pháp lý cơ bản của doanh nghiệp nói chung như sau:




Thứ nhất, là tổ chức kinh tế có tư cách chủ thể pháp lý độc lập;
Thứ hai, được xác lập tư cách pháp nhân (thành lập và đăng ký kinh



doanh) theo thủ tục do pháp luật quy định;
Thứ ba, có nghề nghiệp kinh doanh.

Ngoài mang các đặc điểm nói chung của một doanh nghiệp thì CTCP có những
dấu hiệu đặc trưng riêng về số lượng thành viên, cơ cấu góp vốn, trách nhiệm pháp
lý của cổ đông, tư cách pháp nhân của công ty, việc chuyển nhượng vốn và phát
hành chứng khoán. CTCP được định nghĩa như sau:
“ CTCP là một thể chế kinh doanh, một loại hình doanh nghiệp hình thành, tồn
tại và phát triển bởi sự góp vốn của nhiều cổ đông. Trong CTCP, số vốn điều lệ
12


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

của công ty được chia nhỏ thành các phần bằng nhau gọi là cổ phần. Các cá
nhân hay tổ chức sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông. Cổ đông được cấp một
giấy chứng nhận sở hữu cổ phần gọi là cổ phiếu. Chỉ có CTCP mới được phát
hành cổ phiếu. Như vậy, cổ phiếu chính là một bằng chứng xác nhận quyền sở
hữu của một cổ đông đối với một CTCP và cổ đông là người có cổ phần thể hiện
bằng cổ phiếu. CTCP là một trong loại hình công ty căn bản tồn tại trên thị
trường và nhất là để niêm yết trên thị trường chứng khoán.”
Còn theo điều 77 LDN năm 2005 thì CTCP được định nghĩa như sau:
“1. CTCP là doanh nghiệp, trong đó:
a)
b)


Vốn điều lệ được chia làm nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần;
Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ đông tối thiều là ba và

c)

không hạn chế số lượng tối đa;
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác

2.

của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh nghiệp;
Cổ đông chỉ có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người
khác, trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84

3.

của Luât này.
CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày đực cấp Giấy chứng nhận đăng

4.

ký kinh doanh.
CTCP có quyền phát hành chứng khoán các loại để huy động vốn.”

2.1.2. Đặc điểm của công ty cổ phần
2.1.2.1. Về tính chất pháp lý
CTCP là loại hình công ty đặc trưng cho công ty đối vốn. Nghĩa là công ty
được thành lập trên cơ sở góp vốn của các thành viên. Khác với công ty đối nhân,
13



Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

công ty đối vốn khi thành lập không quan tâm đến nhân thân của người góp vốn
mà chỉ quan tâm đến phần vốn góp của họ. Quyền lợi của mỗi thành viên phụ
thuộc vào phần vốn góp của họ, điều này cũng tương đương với việc gánh vác
nghĩa vụ.
2.1.2.2. Về vốn điều lệ
Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ
phần. Hình thức biểu hiện của cổ phần là cổ phiếu, một cổ phiếu có thể biểu hiện
ít nhất một cổ phần và không hạn chế số lượng cổ phần tối đa mà một cổ phiếu có
thể biểu hiện. Việc góp vốn vào công ty được thực hiện bằng cách mua cổ phần,
mỗi cổ đông có thể mua nhiều cổ phần.
Cổ phần bao gồm các loại:


Cổ phần phổ thông: CTCP bắt buộc phải có cổ phần phổ thông và người



sở hữu cổ phần này được gọi là cổ đông phổ thông.
Cổ phần ưu đãi: CTCP có thể có hoặc không có cổ phần ưu đãi và người

sở hữu cổ phần này được gọi là cổ đông ưu đãi.
Cổ phần ưu đãi gồm các loại sau:
 Cổ phần ưu đãi biểu quyết;
 Cổ phần ưu đãi cổ tức;
 Cổ phần ưu đãi hoàn lại;
 Cổ phần ưu đãi khác do Điều lệ của công ty quy định.

2.1.2.3.
Về thành viên
Thành viên CTCP gọi là cổ đông. Cổ đông là người sở hữu ít nhất một cổ phần đã
phát hành của công ty cổ phần. Cổ đông có thể là tổ chức, cá nhân; số lượng cổ
đông tối thiểu là ba và không hạn chế số lượng tối đa.
Cổ đông có hai loại là cổ đông phổ thông và cổ đông ưu đãi.
14


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn



Cổ đông phổ thông
Cổ đông phổ thông có các quyền như: tham dự và biểu quyết trong các Đại hội

cổ đông, được nhận cổ tức tho mức quy định của Đại hội đồng cổ đông, được ưu
tiên mua cổ phần mới chào bán tương ứng với tỷ lệ cổ phần phổ thông của từng cổ
đông trong công ty…


Cổ đông ưu đãi
Có các loại cổ đông ưu đãi là: cổ đông ưu đãi biểu quyết, cổ đông ưu đãi

hoàn lại, cổ đông ưu đãi cổ tức.
Cổ đông ưu đãi biểu quyết là cổ đông sở hữa cổ phần ưu đãi biểu quyết. Cổ
đông ưu đãi biểu quyết có các quyền như biểu quyết các vấn đề thuộc thẩm quyền
của Đại hội đồng cổ đông…, tuy nhiên, cổ đông ưu đãi biểu quyết không có quyền
chuyển nhương cổ phần đó cho người khác.
Cỏ đông ưu đãi hoàn lại là cổng đông sở hữu cổ phần ưu đãi hoàn lại. Cổ

đông ưu đãi hoàn lại có quyền yêu cầu rút lại vốn góp bất cứ khi nào và các quyền
như cổ đông phổ thông, tuy nhiên cổ đông ưu đãi hoàn lại không có quyền biểu
quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào Họi đồng quản trị và BKS.
Cổ đông ưu đãi cổ tức là cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi cổ tức. Cổ đông ưu
đãi cổ tức có các quyền như: nhận cổ tức theo mức quy định tại khoản 1 Điều 82
LDN 2005, được nhận lại một phần tài sản còn lại tương ứng với số cổ phần góp
vào công ty sau khi công ty đã thanh toán hết các khoản nợ, cổ phần ưu đãi hoàn
lại khi công ty giải thể hoặc phá sản…, tuy nhiên cổ đông ưu đãi cổ tức không có
quyền biểu quyết, dự họp Đại hội đồng cổ đông, đề cử người vào HĐQT và BKS.

15


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

2.1.2.4. Về tính tự do chuyển nhượng phần vốn góp
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng phần vốn góp (cổ phần) của mình
cho người khác trừ trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 và khoản 5 Điều 84
LDN 2005.
2.1.2.5. Về chế độ chịu trách nhiệm tài sản
CTCP chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty bằng tài sản của công
ty. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản
khác của công ty trong phạm vi số vốn đã góp vào công ty.
2.1.2.6. Về tư cách pháp lý
CTCP có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh và được phép phát hành các loại chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu
để huy động vốn.
2.2. Lịch sử hình thành và phát triển của loại hình công ty cổ phần
2.2.1. Lịch sử hình thành và phát triển của loại hình công ty cổ phần trên thế
giới

Sự hình thành và phát triển của CTCP cơ bản gắn liền với sự hình thành của thị
trường vốn và thị trường tiền tệ.
Ở các nước khác nhau, CTCP có thể có những tên gọi khác nhau. Cụ thể, ở
Pháp là công ty vô danh (anonymous Company), ở Anh là công ty với trách nhiệm
hữu hạn (Company LTD), ở Mỹ nó được gọi là công ty kinh doanh (Commercial
Coporation), và ở Nhật Bản là công ty chung cổ phần (Kabushiki Kaisha)….
16


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Quá trình công nghiệp hoá ở các nước châu Âu và Bắc Mỹ từ thế kỷ XVIII,
XIX cùng với nhu cầu tích tụ vốn để đầu tư của các nhà tư bản đã làm xuất hiện
loại hình CTCP. Sự phát triển mạnh mẽ của chủ nghĩa Tư bản đòi hỏi sản xuất
kinh doanh phải có quy mô lớn, sự cạnh tranh và tính độc quyền ngày càng gay
gắt. Từ đó, các chủ tư bản đi đến thoả hiệp với nhau nhằm thu về lợi nhuận tối đa
và bành trướng hơn nữa thế lực kinh tế của mình. CTCP là hình thức kinh doanh
thoả mãn được những nhu cầu này, nó tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu hút và
tập trung tư bản, như nhận định của Các-Mác: “Qua các CTCP, sự tập trung đã
thực hiện được việc đó trong nháy mắt”.
Việc doanh nghiệp bán cổ phiếu để gom vốn đã có từ thế kỉ XIII. Khắp châu
Âu, người ta đã từng bán cổ phiếu của các doanh nghiệp khai mỏ và đóng tàu.
CTCP xuất hiện đầu tiên trên thế giới là công ty Đông Ấn (East India Company)
của Anh (1600-1874). Công ty này được thành lập ngày 31/10/1860 bởi một nhóm
gồm 218 người, được cấp phép độc quyền kinh doanh trong vòng 15 năm ở vùng
Đông Ấn, các quốc gia, hải cảng ở châu Á, châu Phi. Ngày 01/6/1874, Công ty bị
giải thể khi giấy phép lần sau cùng không được gia hạn. Công ty đầu tiên này hoạt
động hết sức lỏng lẻo: “Người đầu tư góp vốn theo chuyến đi biển và sau mỗi
chuyến đi biển nhận lại vốn cổ phần và tiền lãi”. Đến năm 1602, ở Hà Lan xuất
hiện các CTCP theo hình thức tương tự công ty Đông Ấn của Anh, rồi lần lượt

CTCP xuất hiện ở Thụy Điển, Đan Mạch, Đức… Tuy nhiên, thời kỳ này, các
CTCP chỉ dành riêng cho lĩnh vực kinh doanh quốc tế, còn ở Anh, những nghành
hoạt động khác như buôn bán nô lệ, sản xuất các mặt hàng công nghiệp… người ta
vẫn sử dụng hình thức góp vốn, chịu trách nhiệm liên đới. Hình thức này tuy có
những bất tiện về trách nhiệm, về giải thể khi có một thành viên chết đi, nhưng nó

17


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

vẫn bảo đảm cho người sáng lập có thể kiểm soát được hoạt động kinh doanh. Vì
những lý do đó nên loại hình này vẫn rất được tin dùng.
Ở Mỹ, CTCP phát triển rất mạnh. Ban đầu là vì phải xây dựng đường ray xe
lửa, sau này là để thiết lập mạng lưới phân phối và bán lẻ trên toàn lãnh thổ rộng
lớn của Mỹ. Chính do yêu cầu tài trợ cho các công ty làm đường xe lửa mà thị
trường chứng khoán ở NewYork phát triển. Năm 1811, bang NewYork ban bố
luật về tính trách nhiệm hữu hạn dành cho các công ty sản xuất. Nhờ có luật này,
tiền đầu tư ùn ùn đổ về NewYork và tính hữu hạn kia trở thành phổ biến vì bang
nào không dùng đến nó là không thu hút được vốn.
Từ cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, ở các nước tư bản phát triển, CTCP
bắt đầu phát triển ở nhiều lĩnh vực khác nhau như: Giao thông, vận tải, xây dựng,
các ngành chế tạo cơ khí, ngân hàng, bảo hiểm… và về sau phát triển rộng rãi ở
các nơi khác trên thế giới. Đến những năm 20, 30 của thế kỷ XIX, với sự phát
triển nhanh chóng của khoa học, kỹ thuật, nền kinh tế thế giới có bước phát triển
mạnh mẽ, điều đó dẫn đến nhu cầu phải tập trung những nguồn vốn lớn để xây
dựng cơ sơ hạ tầng kinh tế – xã hội. Mà CTCP là một trong những công cụ giúp
thực hiện nhanh chóng vấn đề tập trung vốn. Vì vậy, có ý kiến bình luận rằng:
“Nếu như cứ phải chờ cho đến khi tích luỹ làm cho số tư bản riêng lẻ lớn lên đến
mức có thể đảm đương được việc xây dựng đường sắt thì có lẽ đến ngày nay thế

giới vẫn chưa có đường sắt”. Sự ra đời của CTCP đã giúp cho các nhà doanh
nghiệp giải quyết được mâu thuẫn về tiền vốn một cách sáng tạo.
Tóm lại, trải qua quá trình phát triển lâu dài, CTCP đã từ phạm vi ở một nước,
một khu vực nhất định đã phát triển thành những công ty đa quốc gia, hoạt động
trong nhiều lĩnh vực khác nhau, đúng như nhận định: “CTCP đã phát triển ở hầu
18


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

hết các nước từ đơn giản đến phức tạp, từ quy mô nhỏ đến quy mô lớn, từ một
ngành đến đa ngành, từ một quôc gia đến nhiều quốc gia thông qua các công ty
siêu quốc gia”.
Ở Mỹ, năm 1989, số lượng các CTCP chiếm 31,7% trong tổng số các xí nghiệp
công nghiệp và chiếm 92,6% giá trị tổng sản phẩm công nghiệp. Ngày nay, CTCP
đã chiếm vị trí thống lĩnh trong các ngành công nghiệp, dịch vụ công cộng và
trong các ngành khác nhau của nền kinh tế Hoa Kỳ.
Ở các nước phương Tây, CTCP là mô hình phổ biến nhất cho các doanh nghiệp
có quy mô lớn. Ở Đức, vốn cơ bản trung bình của các CTCP năm 1980 là 43 triệu
Deutsche Mark (DM), trong khi đó vốn trung bình của một công ty trách nhiệm
hữu hạn chỉ là 0,38 triệu DM. Trong 100 công ty lớn nhất của Đức năm 1980 có
tới 66 CTCP. Ở Pháp, vào năm 1986, có tới 123.303 CTCP, chiếm tới 15,22%
tổng số các doanh nghiệp.
Như đã phân tích ở trên, CTCP ra đời từ nhu cầu khách quan phát triển kinh tế xã hội là cần có sự liên kết góp vốn, đồng thời về mặt chủ quan, các nhà đầu tư
muốn chia sẻ những gánh nặng rủi ro trong kinh doanh và tìm kiếm lợi nhuận cao
hơn. Cùng với sự ra đời và phát triển của CTCP là nhu cầu cần thiết phải có sự
điều chỉnh của pháp luật.
Ở Anh, Luật về CTCP được ban hành năm 1844. Theo đó, các công ty muốn
được thành lập không phải xin phép mà chỉ cần đăng ký. Tuy nhiên, Luật này
không cho công ty được hưởng chế độ trách nhiệm hữu hạn. Sự hạn chế này phản

ánh sự nghi ngờ của dư luận về CTCP lúc đó. Tuy nhiên, vào những năm 1850 có
hơn 40 công ty Anh sang Pháp để thành lập dù chi phí thành lập công ty ở Pháp
rất cao. Chính phủ Anh sợ mất doanh nghiệp nên vào năm 1855 đã ban hành luật
19


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

về tính trách nhiệm hữu hạn (Limited Liability Act) dành cho các công ty đã được
thành lập theo luật về CTCP. Cuối cùng cả hai luật được sáp nhập thành một vào
năm 1862 và được lấy tên là Luật về công ty (Companies Act).
Vào thời đó, nước Anh là đế quốc thống trị trong lĩnh vực hàng hải và là một
cường quốc công nghiệp hàng đầu thế giới. Luật công ty của Mỹ được ban hành
năm 1881đã chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Luật Công ty của Anh. Một số nước
trong khối Thịnh Vượng Chung (Australia, New Zealand, Ấn Độ, Singapore)
ngày nay cũng có Luật công ty giống của Anh.
Riêng Pháp và Đức đi theo con đường khác do những khác biệt về văn hoá và
lịch sử. Ở Đức, luật về CTCP được ban hành năm 1870. CTCP của Đức bị luật
quy định chặt chẽ và không uyển chuyển như công ty của Anh và Mỹ. Ở Pháp, bộ
luật Napoleon năm 1807 đã thiết lập một nền tảng cho công ty bằng cách cho lập
công ty giao vốn đơn giản (Societe en commandite simple).
2.2.2. Sự hình thành và phát triển của công ty cổ phần tại Việt Nam
Ở Việt Nam, các quy định về công ty lần đầu tiên được quy định trong “Bộ Dân
luật Bắc Kỳ” ra đời năm 1931, trong đó tiết thứ 5 (Chương IX) nói về hội buôn
được chia thành hai loại là hội đối nhanh và hội đối vốn. Trong đó, hội đối vốn
được chia thành hai loại là hội vô danh (CTCP) và hội hợp cổ (Công ty hợp vốn
đơn giản). Nhìn chung, quy định của Pháp luật thời kỳ này về CTCP còn rất sơ
khai.
Thực chất thì những quy định trên được lấy ra từ các quy định của Bộ luật
Thương mại Pháp năm 1807, trong đó có quy định về hình thức CTCP được áp

dụng ở cả ba kỳ tại Việt Nam. Đến năm 1944, chính quyền Bảo Đại ban hành Bộ
20


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

luật thương mại Trung phần có hiệu lực áp dụng tại Trung Kỳ, trong đó có quy
định về CTCP (gọi là công ty vô danh) từ Điều 102 đến Điều 142 và từ Điều 159
đến Điều 171.
Năm 1972, chính quyền Việt Nam Cộng hoà ban hành Bộ luật Thương mại,
trong đó CTCP được gọi là hội nặc danh với đặc điểm “gồm có các hội viên mệnh
danh cổ đông, chỉ chịu trách nhiệm trong giới hạn phần hùn của mình dưới hình
thức cổ phần” (Điều 236) và “chỉ được thành lập nếu có số hội viên từ 7 người
trở lên” (Điều 295). Các vấn đề pháp lý liên quan đến hình thức hội nặc danh như
thành lập, góp vốn, cơ cấu quản lý … đã được quy định rất chi tiết trong Bộ luật
này từ Điều 236 đến Điều 278 cũng như từ Điều 295 đến Điều 314.
Ở miền Bắc, sau năm 1954 cho đến khi thống nhất đất nước vào năm 1975 và
trên phạm vi cả nước từ sau năm 1975 đến những năm 80 của thế kỷ 20, với chính
sách kinh tế kế hoạch hoá tập trung, các hình thức công ty nói chung và CTCP nói
riêng hầu như không được pháp luật thừa nhận. Khái niệm “công ty” trong giai
đoạn này không được hiểu đúng bản chất pháp lý mà chỉ được hiểu theo hình thức
kinh doanh. Các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh trong giai đoạn này chủ
yếu bao gồm các nhà máy, xí nghiệp quốc doanh, hợp tác xã (đối với thành phần
kinh tế tập thể) và công tư hợp danh (hình thành từ quá trình cải tạo công thương
nghiệp XHCN). Trong giai đoạn này, mặc dù Điều lệ về đầu tư của nước ngoài ở
nước CHXHCN Việt Nam (ban hành kèm theo Nghị định 115/CP của Chính phủ
ngày 18/4/1977) có đề cập đến hình thức CTCP khi quy định “xí nghiệp hoặc
công ty hỗn hợp” có thể thành lập theo hình thức “công ty vô danh” (một tên gọi
khác của CTCP) nhưng lại không có văn bản pháp luật nào quy định về tổ chức và
hoạt động của hình thức CTCP này. Và trên thực tế, cũng không có xí nghiệp hoặc


21


Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

công ty hỗn hợp nào được thành lập theo hình thức “công ty vô danh” theo quy
định của Điều lệ về đầu tư của nước ngoài năm 1977 kể trên.
Tháng 12 năm 1986 được coi là cột mốc khởi đầu cho quá trình đổi mới ở nước
ta với nghị quyết của Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam, mà bản
chất của nó là chuyển đổi nền kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị
trường. Một trong những điểm quan trọng của quá trình chuyển đổi này là việc
phát triển các thành phần kinh tế, gồm kinh tế nhà nước, kinh tế hợp tác, kinh tế tư
nhân trong nước và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài. Trước thời kỳ này, do chiến
tranh trong nhiều năm nên nền kinh tế của Việt Nam chưa được tập trung phát
triển, chính vì vậy, việc hình thành nên các công ty vẫn còn rất hiếm và chủ yếu ở
những dạng rất đơn giản và sơ khai. Tuy nhiên, sau khi đất nước hoàn toàn được
giải phóng, đã bắt đầu có sự hình thành một số xí nghiệp quốc doanh, doanh
nghiệp nhà nước đồng thời pháp luật về doanh nghiệp cũng bắt đầu được phát
triển và từng bước hoàn thiện.
Ngày 21/12/1990, Luật công ty được ban hành và hình thức CTCP mới chính
thức được quy định cụ thể. Theo Luật Công ty 1990, CTCP được xác định với các
đặc điểm sau:
- Số thành viên gọi là cổ đông mà công ty phải có trong suốt thời gian hoạt
động ít nhất là 7.
- Vốn điều lệ của công ty được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Giá trị mỗi cổ phần gọi là mệnh giá cổ phiếu. Mỗi cổ đông có thể mua 1 hoặc
nhiều cổ phiếu.

22



Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

- Cổ phiếu được phát hành có thể ghi tên hoặc không ghi tên. Cổ phiếu của sáng
lập viên, của thành viên HĐQT phải là những cổ phiếu có ghi tên.
- Cổ phiếu không ghi tên được tự do chuyển nhượng. Cổ phiếu ghi tên chỉ được
chuyển nhượng nếu được sự đồng ý của HĐQT, trừ trường hợp quy định tại Điều
39 của Luật này.
Sau khi Luật Công ty ra đời, nhiều văn bản pháp luật khác nhau đã được ban
hành nhằm điều chỉnh hoạt động của các doanh nghiệp hoạt động trong các lĩnh
vực khác nhau nhưng được tổ chức dưới hình thức CTCP. Hoạt động của các
doanh nghiệp này một mặt phải tuân thủ các quy định của Luật Công ty, mặt khác,
do đặc thù riêng của các ngành nghề kinh doanh, hoạt động của các doanh nghiệp
này còn phải tuân thủ theo quy định của các luật chuyên ngành. Chẳng hạn như
trong Luật các tổ chức tín dụng có hiệu lực từ ngày 01/10/1998 tại Điều 12 quy
định về các loại hình tổ chức tín dụng có hình thức tổ chức tín dụng cổ phần của
Nhà nước và nhân dân, hay nói cách khác các Ngân hàng thương mại cổ phần
chính là các CTCP hoạt động trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ. Trong lĩnh vực
kinh doanh chứng khoán, tại Điều 2.1 Quy chế về tổ chức và hoạt động của công
ty chứng khoán ban hành kem theo Quyết định số 04/1998/QĐ-UBCK ngày
13/10/1998 quy định “Công ty chứng khoán là CTCP, công ty trách nhiệm hữu
hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, được uỷ ban chứng khoán nhà nước cấp
giấy phép thực hiện một hoặc một số loại hình kinh doanh chứng khoán”.
Sau gần 10 năm thực hiện, Luật Công ty đã phát huy được tích cực vai trò của
mình, góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên,
thực tiễn đã cho thấy các quan hệ kinh doanh ở nước ta trong thời kỳ này liên tục
biến đổi. Luật công ty đã bộc lộ rất nhiều bất cập, nhất là trong vấn đề thủ tục
23



Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

thành lập và đăng ký kinh doanh. Cụ thể, các doanh nghiệp thuộc thành phần kinh
tế tư nhân chỉ được thành lập khi được Ủy ban nhân dân tỉnh/thành phố cho phép.
Công việc xin phép thành lập doanh nghiệp rất phức tạp, tốn kém cả về thời gian
và tiền bạc. Vào thời kỳ đó hoàn thành thủ tục thành lập một doanh nghiệp trung
bình mất khoảng sáu tháng và tốn hơn 1.000 USD, bằng khoảng ba – bốn lần thu
nhập bình quân đầu người. Sau khi thành lập, doanh nghiệp cũng chỉ được quyền
kinh doanh những gì mà cơ quan nhà nước cho phép. Vì vậy, mọi sự thay đổi liên
quan đến doanh nghiệp như thay đổi về vốn, ngành, nghề kinh doanh, người góp
vốn, địa điểm đặt trụ sở chính và phạm vi kinh doanh… đều phải được các ủy ban
nhân dân cấp tỉnh cho phép hoặc chấp thuận. Kết quả là, trong gần 10 năm (1991
– 1999) có khoảng 45.000 doanh nghiệp thành lập; và đến ngày 31/12/1999 chỉ
còn khoảng gần 30.000 doanh nghiệp đang tồn tại, trong đó gần 2/3 là doanh
nghiệp tư nhân, khoảng vài trăm CTCP và số còn lại là công ty trách nhiệm hữu
hạn.Vì lý do đó, việc sửa đổi, thay thế Luật này được đặt ra như là một sự tất yếu
khách quan.
Ngày 12/6/1999, Quốc hội đã thông qua LDN để thay thế cho Luật Công ty
và LDN tư nhân. Những thay đổi trong LDN 1999 đã thúc đẩy cho sự phát triển
của khu vực kinh tế tư nhân trong nước. Theo số liệu thống kê của Cục Phát triển
Doanh nghiệp nhỏ và vừa (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) thì từ đầu năm 2000 đến hết
năm 2005, đã có 160.752 doanh nghiệp đăng ký thành lập, gấp 3,3 lần so với tổng
số doanh nghiệp được thành lập giai đoạn 1991 – 1999. Đã có sự thay đổi đáng kể
về cơ cấu loại hình doanh nghiệp, doanh nghiệp tư nhân giảm xuống đáng kể, từ
khoảng 74% tổng số doanh nghiệp thành lập năm 1991 xuống còn khoảng hơn
20% năm 2006. CTCP tăng nhanh và liên tục, đặc biệt năm 2000 chỉ chiếm
khoảng 10% thì đến năm 2006 đã chiếm khoảng 20% tổng số doanh nghiệp.
24



Tổ chức và quản lý của Công ty cổ phần theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2005 – Một số vấn đề lý luận và thực tiễn

Sau hơn 5 năm đi vào hoạt động, LDN 1999 đã được thay đổi bằng LDN
2005. Trong LDN 2005, CTCP vẫn tiếp tục được ghi nhận và được quy định theo
hướng tiếp cận dần đến các chuẩn mực quốc tế về quản trị CTCP.

2.3. Khái quát chung về tổ chức và quản lý trong công ty cổ phần
2.3.1. Khái niệm tổ chức và quản lý trong công ty cổ phẩn
Dưới góc độ luật học, có thể đưa ra khái niệm: “Tổ chức và quản lý công ty
là hệ thống các thiết chế, theo đó việc tổ chức quản lý công tu được thực hiện trên
cơ sở phân định rõ rang về quyền, nghĩa vụ của các chủ sở hữu, người quản lý,
những người có lợi ích liên quan và các phương pháp áp dung theo trình tự thủ tục
nhằm đảm bảo tổ chức và hoạt động công ty một cách hiệu quả nhất”.
Tổ chức và quản lý trong công ty cổ phần là một bộ phận của tổ chức và
quản lý công ty. Theo đó, “Tổ chức và quản lý trong CTCP là một hệ thống các cơ
chế mà các chủ sở hữu đặt ra trên cơ sở các quy định về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của từng bộ máy quản lý, nguyên tắc hoạt động và thủ tục thông qua các
quyết định”. Trong đó bao gồm hai công việc là tổ chức CTCP và quản lý CTCP.
Nói đến tổ chức công ty là hoạt động tổ chức, sắp xếp, điều hành chung trong công
ty. Quản lý công tu là nói đến mối liên hệ giữa các bộ phận trong công ty. Cụ thể
hơn đối với CTCP thì đó là mối liên hệ giữa các cổ đông khác nhau trong việc
quyết định đường lối và hoạt động của công ty. Nhìn chung, tổ chức và quản lý
trong CTCP xác định rõ sự phân bổ các quyền và nghĩa vụ giữa các chủ thể tham
gia khác nhau trong công ty.

25



×