Tải bản đầy đủ (.doc) (101 trang)

Đánh giá thực trạng tài chính và một số giải pháp tài chính chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh tại công ty cổ phần bưu chính VIETTEL

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (590.96 KB, 101 trang )

BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH
  
***

LÊ THU VÂN
Lớp: CQ46/11.02
ĐỀ TÀI:
Đánh giá thực trạng tài chính và một số giải pháp tài chính chủ yếu nhằm nâng
cao hiệu quả kinh doanh tại công ty cổ phần bưu chính VIETTEL

LUẬN VĂN CUỐI KHÓA
Chuyên ngành: TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP


Hà nội – 2012

CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP VÀ
PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1 Vài nét về tài chính doanh nghiệp.
1.1.1 Khái quát về TCDN và hoạt động tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp là một khâu của hệ thống tài chính trong nền kinh tế,
là một phạm trù kinh tế khách quan gắn liền với sự ra đời của nền kinh tế hàng hóa
tiền tệ.
Bất kỳ doanh nghiệp nào khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh cũng
cần có một lượng vốn tiền tệ nhất định. Mỗi loại hình doanh nghiệp trong các thời
kỳ khác nhau lại có những phương thức khác nhau để tạo lập nguồn vốn. Hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bắt đầu từ việc dùng số vốn tiền tệ ban đầu
để mua sắm các yếu tố đầu vào cho đến khi sản xuất xong, bán hàng hóa và thu
được tiền. Số tiền bán hàng đó được doanh nghiệp sử dụng để bù đắp các khoản chi
phí, nộp thuế, sau đó tiếp tục phân phối. Do vậy, quá trình hoạt động của doanh


nghiệp nhìn nhận từ góc độ tài chính cũng chính là quá trình tạo lập, phân phối và
sử dụng các quỹ tiền tệ hợp thành hoạt động tài chính của doanh nghiệp. Trong quá
trình đó, làm phát sinh, tạo ra sự vận động của các dòng tiền bao hàm dòng tiền
vào, dòng tiền ra gắn liền với hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh thường
xuyên hàng ngày của doanh nghiệp.
Bên trong quá trình tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp là các quan
hệ kinh tế dưới hình thức giá trị hợp thành các quan hệ chính của doanh nghiệp và
bao hàm các quan hệ tài chính chủ yếu sau:
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước: Quan hệ này được thể hiện
chủ yếu ở chỗ doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ chính với Nhà nước như nộp
thuế, lệ phí vào ngân sách Nhà nước…

2


- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế và tổ chức xã hội
khác: Trong đó mối quan hệ giữa doanh nghiệp và các chủ thể kinh tế khác là mối
quan hệ rất đa dạng, phong phú được thể hiện trong việc thanh toán, thưởng phạt
vật chất khi doanh nghiệp và các chủ thể khác như nhà cung cấp, nhà đầu tư, khách
hàng… thực hiện cung cấp hàng hóa, dịch vụ cho nhau.
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với người lao động trong doanh nghiệp:
Quan hệ này thể hiện trong việc doanh nghiệp thanh toán tiền lương, thưởng phạt
vật chất với người lao động trong quá trình tham gia vào hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp.
- Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với các chủ sở hữu của doanh nghiệp:
Quan hệ này thể hiện trong việc đầu tư, góp vốn hay rút vốn của chủ sở hữu đối với
doanh nghiệp và trong việc phân chia lợi nhuận sau thuế của doanh nghiệp.
- Quan hệ tài chính trong nội bộ doanh nghiệp: Đây là mối quan hệ thanh toán
giữa các bộ phận nội bộ doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh, trong việc hình
thành và sử dụng các quỹ trong doanh nghiệp

Từ những vấn đề trên có thể rút ra một số điểm sau:
- Xét về hình thức, TCDN là quỹ tiền tệ trong quá trình tạo lập, phân phối, sử
dụng và vận động gắn liền với hoạt động của doanh nghiệp.
Xét về bản chất, TCDN là các quan hệ kinh tế dưới hình thức giá trị nảy sinh
gắn liền với việc tạo lập, sử dụng quỹ tiền tệ của doanh nghiệp trong quá trình hoạt
động của doanh nghiệp.
- Hoạt động tài chính là một mặt hoạt động của doanh nghiệp nhằm đạt tới các
mục tiêu của doanh nghiệp đề ra. Các hoạt động gắn liền với việc tạo lập, phân
phối, sử dụng và vận động chuyển hóa của quỹ tiền tệ thuộc hoạt động tài chính của
doanh nghiệp.
1.1.2 Nội dung tài chính doanh nghiệp
Tài chính doanh nghiệp bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
3


a. Lựa chọn quyết định đầu tư.
Triển vọng của một doanh nghiệp trong tương lại phụ thuộc rất lớn vào quyết
định đầu tư dài hạn với quy mô lớn như quyết định đầu tư đổi mới công nghệ, mở
rộng sản xuất kinh doanh, sản xuất sản phẩm mới… Để đi đến quyết định đầu tư
đòi hỏi doanh nghiệp phải xem xét cân nhắc nhiều mặt về kinh tế, kỹ thuật và tài
chính. Trong đó, về mặt tài chính phải xem xét các khoản chi tiêu vốn cho đầu tư
và thu nhập do đầu tư đưa lại hay nói cách khác là xem xét dòng tiền ra và dòng
tiền vào liên quan đến khoản đầu tư để đánh giá cơ hội đầu tư về mặt tài chính. Đó
là quá trình hoạch định dự toán vốn đầu tư và đánh giá hiệu quả tài chính của việc
đầu tư.
b. Xác định nhu cầu vốn và tổ chức huy động vốn đáp ứng kịp thời, đủ nhu cầu
vốn cho các hoạt động của doanh nghiệp.
Tất cả các hoạt động của doanh nghiệp đều đòi hỏi phải có vốn.Tài chính
doanh nghiệp phải xác định nhu cầu vốn cần thiết cho các hoạt động của doanh
nghiệp trong kỳ (bao hàm vốn ngắn hạn và vốn dài hạn). Tiếp theo, phải tổ chức

huy động các nguồn vốn kịp thời, đầy đủ và có lợi cho các hoạt động của doanh
nghiệp. Để đi đến quyết định lựa chọn hình thức và phương pháp huy động vốn
thích hợp, cần xem xét cân nhắc nhiều mặt như kết cấu nguồn vốn; chi phí sử dụng
vốn từng nguồn; những điểm lợi, bất lợi của từng phương thức huy động…
c. Sử dụng có hiệu quả số vốn hiện có, quản lý chặt chẽ các khoản thu chi và
đảm bảo khả năng thanh toán của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp phải tìm mọi biện pháp huy động tối đa số vốn hiện có
của doanh nghiệp vào hoạt động kinh doanh, giải phóng kịp thời số vốn ứ đọng,
theo dõi chặt chẽ và thực hiện tốt việc thanh toán, thu hồi tiền bán hàng và các
khoản thu khác, đồng thời quản lý chặt chẽ mọi khoản chi phát sinh trong quá trình
hoạt động của doanh nghiệp. Thường xuyên tìm biện pháp thiết lập sự cân bằng
giữa thu và chi tiền, đảm bảo cho doanh nghiệp luôn có khả năng thanh toán các
khoản nợ đến hạn.
4


d. Thực hiện việc phân phối lợi nhuận, trích lập và sử dụng các quỹ của doanh
nghiệp.
Thực hiện phân phối hợp lý lợi nhuận sau thuế cũng như trích lập và sử dụng
tốt các quỹ của doanh nghiệp sẽ góp phần quan trọng vào việc phát triển doanh
nghiệp, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của người lao động trong doanh
nghiệp.
e. Kiểm soát thường xuyên tình hình hoạt động của doanh nghiệp.
Thông qua tình hình thu chi tiền tệ hàng ngày, các báo cáo tài chính, tình hình
thực hiện các chỉ tiêu tài chính cho phép kiểm soát được tình hình hoạt động của
doanh nghiệp. Mặt khác, cần định kỳ tiến hành phân tích tình hình tài chính của
doanh nghiệp. Qua phân tích cần đánh giá được hiệu quả sử dụng vốn, những điểm
mạnh và điểm yếu trong quản lý và dự báo trước tình hình tài chính của doanh
nghiệp, từ đó giúp cho các nhà lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp kịp thời đưa ra các
quyết định thích hợp điều chỉnh hoạt động kinh doanh và tài chính.

f. Thực hiện kế hoạch hóa tài chính.
Các hoạt động của doanh nghiệp cần được dự kiến trước thông qua việc lập kế
hoạch tài chính. Có kế hoạch tài chính tốt thì doanh nghiệp mới cỏ thể đưa ra các
quyết định tài chính thích hợp nhằm đạt tới các mục tiêu của doanh nghiệp. Quá
trình thực hiện kế hoạch tài chính cũng là quá trình chủ động đưa ra các giải pháp
hữu hiệu khi thị trường biến động.
1.2 Phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp.
1.2.1 Sự cần thiết của việc phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.2.1.1 Khái niệm phân tích TCDN.
Phân tích TCDN là tổng thể các phương pháp công cụ cho phép thu thập và xử
lý các thông tin kế toán và các thông tin khác trong quản lý doanh nghiệp, nhằm
đánh giá tình hình tài chính, khả năng triển vọng của doanh nghiệp, giúp người sử
5


dụng thông tin đưa ra các quyết định quản lý phù hợp. Phân tích TCDN bao gồm
các bước chủ yếu:
o Thu thập thông tin
o Xử lý thông tin
o Dự đoán và quyết định
1.2.1.2 Ý nghĩa của việc phân tích TCDN.
Có rất nhiều đối tượng quan tâm, sử dụng thông tin tài chính của doanh
nghiệp. Mỗi đối tượng quan tâm dưới góc độ, mục đích khác nhau để đưa ra các
quyết định phù hợp với lợi ích của chính họ. Có thể chia các đối tượng quan tâm
đến những thông tin về tình hình tài chính của các DN thành hai nhóm: Nhóm có
quyền lợi trực tiếp và nhóm có quyền lợi gián tiếp.
Nhóm có quyền lợi trực tiếp bao gồm các nhà quản trị doanh nghiệp, nhà đầu
tư, người cho vay.
Nhóm có quyền lợi gián tiếp bao gồm các cơ quan quản lý Nhà nước, người
lao động, đối thủ cạnh tranh, nhà phân tích tài chính…

Các đối tượng sử dụng thông tin tài chính khác nhau sẽ đưa ra các quyết định
với mục tiêu khác nhau. Vì vậy, phân tích tài chính đối với mỗi đối tượng khác
nhau sẽ đáp ứng các vấn đề chuyên môn khác nhau.
- Phân tích TCDN đối với nhà quản lý doanh nghiệp: Các nhà quản lý công ty
là những người trực tiếp quản lý công ty, họ cần các thông tin để nắm bắt, kiểm
soát và chỉ đạo tình hình sản xuất kinh doanh của công ty. Các thông tin do các báo
cáo tài chính thường không đáp ứng đủ nhu cầu thông tin của họ, chính vì vậy họ
cần được cung cấp thông tin phục vụ cho việc quản lý doanh nghiệp và đưa ra các
quyết định quản lý sản xuất kinh doanh của công ty. Phân tích tài chính doanh
nghiệp đối với các nhà quản lý công ty nhằm đáp ứng những mục tiêu sau:

6


Một là: Tạo ra những chu kỳ đều đặn để đánh giá hoạt động quản lý trong giai
đoạn đã qua, việc thực hiện cân bằng tài chính, khả năng sinh lời, khả năng thanh
toán và rủi ro tài chính của công ty…
Hai là: Hướng các quyết định của doanh nghiệp theo chiều hướng phù hợp với
tình hình thực tế của công ty, như quyết định về đầu tư, tài trợ, phân phối lợi
nhuận…
Ba là: Phân tích tài chính của các doanh nghiệp là cơ sở cho những dự đoán tài
chính.
Bốn là: Phân tích tài chính là một công cụ để kiểm tra, kiểm soát hoạt động
quản lý trong công ty.
- Phân tích TCDN đối với nhà đầu tư: Đối với nhà đầu tư, mục đích của họ là
xem xét thực trạng tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay không? Lợi tức cổ
phần là bao nhiêu? Mức tăng trưởng cao hay thấp? Nhà đầu tư luôn mong muốn
mỗi đồng vốn bỏ ra sinh lời cao nhất đông thời họ phải tìm cách bảo vệ an toàn cho
đồng vốn của mình. Vì vậy, ngoài việc quan tâm đến cổ tức, mức độ hoàn vốn, tỷ lệ
tăng trưởng, các nhà đầu tư còn quan tâm nhiều đến mức độ rủi ro của các dự án

đầu tư. Phân tích TCDN sẽ giúp cho họ biết được giới hạn an toàn của đồng vốn
đến mức nào, khả năng sinh lời của nó cao hay thấp? Từ đó các nhà đầu tư sẽ có cơ
sở để xem xét tiếp có nên quyết định đầu tư hay không? Nếu có thì mức độ đầu tư
là bao nhiêu thì hợp lý?
- Phân tích TCDN đối với người cho vay: Người cho vay bao gồm các ngân
hàng và các tổ chức tín dụng cũng có thể là các doanh nghiệp khác. Đây là những
người cho doanh nghiệp vay vốn để đảm bảo nhu cầu sản xuất - kinh doanh. Mục
đích của họ là muốn biết được khả năng thanh toán của doanh nghiệp như thế nào?
Phân tích TCDN sẽ cho họ biết được những thông tin cần thiết về năng lực tài
chính của khách hàng, từ đó đưa ra quyết định đúng đắn về việc có cho doanh
nghiệp vay hay không?

7


Các chủ ngân hàng quan tâm đến vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp coi đó như
nguồn đảm bảo cho ngân hàng có thể thu hồi nợ khi doanh nghiệp thua lỗ hay phá
sản. Ngân hàng sẽ hạn chế cho các doanh nghiệp vay khi nó có dấu hiệu không có
khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn.
Cũng giống như các chủ ngân hàng, các nhà cung cấp tín dụng khác như: các
doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu đầu vào cần thông tin để quyết định có bán
hàng trả chậm cho doanh nghiệp hay không.
- Phân tích tài chính đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: Bao gồm các cơ
quan quản lý cấp bộ, cơ quan thuế, thanh tra tài chính… Các cơ quan dựa vào các
báo cáo tài chính của doanh nghiệp để phân tích, đánh giá tình hình tài chính nhằm
mục đích kiểm tra, giám sát hoạt động sản xuất kinh doanh đồng thời qua đó giúp
các cơ quan Nhà nước hoạch định các chính sách vĩ mô phù hợp với tình hình
chung của các doanh nghiệp.
- Phân tích tài chính đối với người lao động: Đó là những người hưởng lương
trong doanh nghiệp. Đây là những người có nguồn thu nhập duy nhất là tiền lương

được trả và các khoản tiền thưởng hoặc phụ cấp theo quy định. Kết quả hoạt động
sản xuất kinh doanh có tác động trực tiếp tới người lao động. Do vậy, phân tích
TCDN giúp cho họ định hướng việc làm ổn định, yên tâm trong công việc.
- Phân tích tài chính đối với các đối thủ cạnh tranh: Họ là những người quan
tâm đến tình hình tài chính của công ty, các chỉ tiêu thể hiện khả năng sinh lời,
doanh thu bán hàng và các chỉ tiêu tài chính khác phục vụ cho việc đề ra các biện
pháp cạnh tranh với công ty.
Các thông tin về tình hình tài chính của doanh nghiệp nói chung còn được các
nhà nghiên cứu, các sinh viên kinh tế quan tâm phục vụ cho việc nghiên cứu và học
tập.
Như vậy, thông qua việc phân tích TCDN giúp cho người sử dụng thông tin ra
quyết định, lựa chọn các phương án kinh doanh tối ưu để đạt được mục đích. Đồng
8


thời nó là công cụ để đánh giá hoạt động kinh doanh được các nhà đầu tư, các cơ
quan quản lý Nhà nước và các đối tượng khác quan tâm sử dụng. Do đó, phân tích
TCDN đã trở thành công cụ không thể thiếu và có ý nghĩa thiết thực trong nền kinh
tế thị trường.
1.2.1.3 Mục tiêu chủ yếu của việc phân tích TCDN.
- Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp đầy đủ các thông tin hữu ích cho
các nhà đầu tư, các nhà cho vay và những người sử dụng thông tin tài chính khác để
giúp họ có những quyết định đúng đắn.
- Phân tích TCDN phải cung cấp cho các đối tượng sử dụng thông tin cần thiết
để đánh giá khả năng thanh toán, tình hình sử dụng tài sản,…
- Phân tích tình hình tài chính phải cung cấp những thông tin về nguồn vốn
chủ sở hữu, các khoản nợ, kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh, các sự kiện
và tình huống làm biến đổi kết cấu nguồn vốn của doanh nghiệp.
Các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nó góp phần cung cấp các
thông tin nền tảng đặc biệt phục vụ cho công tác quản trị TCDN.

1.2.2 Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.2.1 Tài liệu sử dụng trong phân tích TCDN.
Để phân tích một cách hoàn thiện và đầy đủ về tình hình tài chính doanh
nghiệp, chúng ta sử dụng rất nhiều tài liệu khác nhau, từ nhiều nguồn khác nhau.
Đó là thông tin chung về tình hình kinh tế, tiền tệ, các thông tin về ngành kinh tế
của doanh nghiệp,… Tuy nhiên tài liệu liên quan đến tình hình tài chính doanh
nghiệp chủ yếu là các báo cáo tài chính: bảng cân đối kế toán, bảng báo cáo kết quả
hoạt động kinh doanh, và các báo cáo khác.
1.2.2.2 Phương pháp phân tích.
Phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp, bao gồm hệ thống các công cụ
và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối quan hệ
9


bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tình hình hoạt động tài
chính doanh nghiệp, các chỉ tiêu tổng hợp, các chỉ tiêu chi tiết, các chỉ tiêu tổng
quát chung, các chỉ tiêu có tính chất đặc thù nhằm đánh giá toàn diện thực trạng
hoạt động tài chính của doanh nghiệp.
Có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp như: Phương pháp so
sánh, phương pháp liên hệ đối chiếu, phương pháp phân tích nhân tố, phương pháp
đồ thị, phương pháp biểu đồ, phương pháp toán tài chính… kể cả phương pháp
phân tích các tình huống giả định. Tuy nhiên, trong phân tích TCDN người ta chủ
yếu thường sử dụng các phương pháp sau:
a. Phương pháp so sánh: So sánh là một phương pháp nhằm nghiên cứu sự
biến động và xác định mức độ biến động của chỉ tiêu phân tích. Để áp dụng phương
pháp so sánh cần chú ý các vấn đề sau đây:
Thứ nhất: Điều kiện so sánh.
- Phải tồn tại ít nhất hai đại lượng (2 chỉ tiêu)
- Các đại lượng phải đảm bảo tính chất so sánh được. Đó là sự thống nhất về
nội dung kinh tế, thống nhất về phương pháp tính toán, thống nhất về thời gian và

đơn vị đo lường.
Ngoài ra, trong trường hợp so sánh hai doanh nghiệp với nhau, ngoài các điều
kiện nêu trên, thì cần đảm bảo điều kiện khác như cùng quy mô, loại hình hoạt
động, có điều kiện kinh doanh tương tự nhau.
Thứ hai: Xác định gốc để so sánh.
Kỳ gốc so sánh tùy thuộc vào mục đích của phân tích.
- Gốc so sánh là kỳ kế hoạch khi đánh giá tình hình thực hiện mục tiêu, nhiệm
vụ đặt ra.
- Gốc so sánh là trị số của chỉ tiêu phân tích ở kỳ trước hoặc hàng loạt kỳ trước
(năm trước) nhằm xác định xu hướng và tốc độ phát triển của chỉ tiêu phân tích.
10


- Gốc so sánh có thể là số liệu của một doanh nghiệp hoặc có thể là số liệu
trung bình của ngành khi đánh giá vị trí doanh nghiệp so với doanh nghiệp khác
hoặc tổng thể một ngành.
Thứ ba: Kỹ thuật so sánh.
- So sánh về số tuyệt đối: Là việc xác định chênh lệch giữa trị số của chỉ tiêu
phân tích với trị số của kỳ gốc. Kết quả so sánh cho thấy sự biến động về số tuyệt
đối của chỉ tiêu hiện tượng kinh tế đang nghiên cứu.
- So sánh số tương đối: Là xác định số % tăng (giảm) giữa thực tế so với kỳ
gốc để so sánh.
b. Phương pháp tỷ lệ.
Là phương pháp trong đó các tỷ số được sử dụng để phân tích. Các tỷ số thông
thường được thiết lập bởi hai chỉ tiêu khác nhau. Các chỉ tiêu này phải có mối quan
hệ với nhau. Để phân tích được bằng phương pháp này bắt buộc người phân tích
phải hiểu được ý nghĩa của các tỷ số tức là hiểu được mối quan hệ giữa các chỉ tiêu
cấu thành. Phân tích tỷ lệ yêu cầu phải xác định được ngưỡng, định mức chuẩn để
so sánh.
Trong phân tích tài chính các tỷ lệ tài chính được chia thành các nhóm tỷ lệ

đặc trưng phản ánh những nội dung cơ bản theo mục tiêu hoạt động của doanh
nghiệp: khả năng thanh toán, tốc độ luân chuyển, cơ cấu vốn, khả năng sinh lời. Đó
là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, tỷ lệ phản ánh hiệu quả hoạt động, tỷ lệ
về cơ cấu vốn và nhóm tỷ lệ khả năng sinh lời.
1.2.3 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp.
Để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp, các nhà quản trị tài chính
doanh nghiệp thường xem xét các nội dung sau:
- Bảng cân đối kế toán
- Báo cáo kết quả kinh doanh
11


- Các chỉ tiêu tài chính đặc trưng
- Bảng phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn.
1.2.3.1. Đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu
trên Bảng cân đối kế toán.
Đánh giá khái quát tình hình tài chính là việc xem xét, nhận định về tình hình
tài chính doanh nghiệp. Công việc này sẽ cung cấp cho người sử dụng thông tin
biết được tình hình tài chính của doanh nghiệp là khả quan hay không khả quan.
Việc đánh giá khái quát tình hình tài chính doanh nghiệp trước tiên dựa vào Bảng
cân đối kế toán.
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp phản ánh tổng quát
tình hình tài sản của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định dưới hình thái
tiền tệ theo hai cách phân loại là tài sản và nguồn hình thành tài sản. Về bản chất
Bảng cân đối kế toán là một bảng cân đối tổng hợp giữa tài sản với vốn chủ sở hữu
và công nợ phải trả.
Phần tài sản phản ánh số vốn và kết cấu các loại vốn của đơn vị hiện có tại
thời điểm lập báo cáo đang tồn tại dưới dạng hình thái vật chất như tài sản cố định,
vật liệu, sản phẩm, hàng hóa, tiền tệ, các khoản đầu tư tài chính hoặc dưới hình thái
nợ phải thu ở tất cả các khâu, các giai đoạn trong quá trình sản xuất kinh doanh (thu

mua, dự trữ, sản xuất, tiêu thụ), thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp.
Phần tài sản phản ánh chính sách tài trợ của doanh nghiệp. Căn cứ vào nguồn số
liệu này trên cơ sở tổng số và kết cấu tài sản mà đánh giá một cách tổng quát qui
mô tài sản, năng lực và trình độ sử dụng vốn của doanh nghiệp.
Phần nguồn vốn phản ánh chính sách huy động vốn của doanh nghiệp, phản
ánh các nguồn hình thành các loại tài sản hiện có của doanh nghiệp, các loại vốn
kinh doanh của doanh nghiệp như nguồn vốn chủ sở hữu, nguồn vốn nợ phải trả tại
thời điểm báo cáo. Tỷ lệ và kết cấu của từng nguồn trong tổng số nguồn vốn hiện
có phản ánh chất lượng hoạt động, thực trạng tình hình tài chính của doanh nghiệp.
12


Phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý, vật chất của doanh nghiệp đối với tài
sản đang quản lý, sử dụng. Cụ thể là đối với Nhà nước, cấp trên, nhà đầu tư, cổ
đông, Ngân hàng, các tổ chức tín dụng, khách hàng, các đơn vị kinh tế khác, cán bộ
công nhân viên.
Để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu trên
Bảng cân đối kế toán thì ta đánh giá trên các giác độ sau:
Thứ nhất, xem xét sự biến động của tổng tài sản cũng như từng loại tài sản
thông qua việc so sánh giữa cuối năm với đầu năm cả về số tuyệt đối lẫn số tương
đối của tổng tài sản cũng như chi tiết đối với từng loại tài sản. Qua đó thấy được sự
biến động về qui mô kinh doanh, năng lực kinh doanh của doanh nghiệp.
Khi xem xét đến vấn đề này, cần quan tâm chú ý đến tác động của từng loại
tài sản đối với quá trình kinh doanh. Cụ thể là:
- Sự biến động của tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn ảnh hưởng đến khả năng
ứng phó đối với các khoản nợ đến hạn.
- Sự biến động của hàng tồn kho chịu ảnh hưởng lớn bởi quá trình sản xuất
kinh doanh từ khâu dự trữ sản xuất đến khâu bán hàng.
- Sự biến động của khoản phải thu chịu ảnh hưởng đến công việc thanh toán
và chính sách tín dụng của doanh nghiệp đối với khách hàng. Điều đó ảnh hưởng

đến việc quản lý và sử dụng vốn đặc biệt là vốn lưu động của doanh nghiệp.
- Sự biến động của tài sản cố định cho thấy quy mô và năng lực sản xuất hiện
có của doanh nghiệp.
Thứ hai, xem xét cơ cấu vốn có hợp lý hay không? Cơ cấu đó tác động như
thế nào đến quá trình kinh doanh?
Để làm được điều này, trước hết xác định tỷ trọng của từng loại tài sản trong
tổng tài sản, sau đó so sánh tỷ trọng từng loại giữa số cuối kỳ với đầu năm để thấy
được sự biến động của cơ cấu vốn. Điều này chỉ thực sự phát huy tác dụng khi để ý
đến tính chất ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp kết hợp với việc xem xét
13


tác động của từng loại tài sản đến quá trình kinh doanh và hiệu quả kinh doanh đạt
được trong kỳ. Có như vậy mới đưa ra được quyết định hợp lý về việc phân bổ vốn
cho từng giai đoạn, từng loại tài sản của doanh nghiệp.
Thứ ba, khái quát xác định mức độ độc lập về tài chính của doanh nghiệp
qua việc so sánh từng loại nguồn vốn giữa cuối kỳ với đầu năm cả về số tương đối
lẫn số tuyệt đối, xác định và so sánh giữa cuối kỳ với đầu năm về tỷ trọng của từng
loại nguồn vốn trong tổng nguồn vốn.
Nếu nguồn vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng cao và có xu hướng tăng thì điều
đó cho thấy khả năng đảm bảo về mặt tài chính của công ty là cao, mức độ phụ
thuộc về mặt tài chính đối với các chủ nợ thấp, nhưng một mặt nó có thể phản ánh
việc sử dụng vốn của doanh nghiệp không tốt gây ra ứ đọng vốn và ngược lại, và
điều này làm thay đổi độ lớn của đòn bẩy tài chính.
Thứ tư, xem xét mối quan hệ cân đối giữa các chỉ tiêu, các khoản mục trên
Bảng cân đối kế toán.
Do tồn tại mối quan hệ kinh tế với các đối tượng khác nên luôn xảy ra hiện
tượng chiếm dụng và bị chiếm dụng vốn. Vấn đề quan tâm là tính chất hợp lý và
hợp pháp của các khoản chiếm dụng và bị chiếm dụng.
Nếu xét tính cân đối về mặt thời gian của tài sản và nguồn vốn của doanh

nghiệp trên bảng cân đối kế toán có 3 trường hợp xảy ra:
TH1: Nợ ngắn hạn = Tài sản ngắn hạn
hoặc Tài sản dài hạn = NVCSH + nợ dài hạn
Thì bảng cân đối kế toán có phần tài sản và nguồn vốn cân đối về mặt thời gian.
Đây là một tình huống ít khi xảy ra, nó mang lại cho doanh nghiệp sự an toàn ổn
định về mặt tài chính bởi lẽ doanh nghiệp đã dùng nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư
cho tài sản ngắn hạn và nguồn dài hạn để đầu tư cho tài sản dài hạn.
TH2: Nợ ngắn hạn < Tài sản ngắn hạn

14


Do tính chất cân đối của bảng cân đối kế toán nên ta có:
+ Tài sản dài hạn < NVCSH + nợ dài hạn
Như vậy, trong trường hợp này doanh nghiệp đã dùng 1 phần nguồn vốn dài hạn để
tài trợ cho tài sản ngắn hạn. Điều này làm cho tài chính của doanh nghiệp an toàn
nhưng hiệu quả kinh doanh lại bị giảm sút do chi phí của nguồn vốn dài hạn bao
giờ cũng cao hơn nguồn ngắn hạn.
+ TH3: Nợ ngắn hạn > Tài sản ngắn hạn
Do tính chất cân đối của bảng cân đối kế toán nên ta có:
+ Tài sản dài hạn > NVCSH + nợ dài hạn
Trường hợp này thì chi phí sử dụng vốn của doanh nghiệp thấp hơn trong 2
trường hợp trên do doanh nghiệp đã dùng 1 phần nguồn vốn ngắn hạn để đầu tư cho
tài sản dài hạn nhưng như thế tình hình tài chính lại không an toàn, ảnh hưởng
không tốt đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Trong 3 trường hợp trên về
mặt lý thuyết thì trường hợp 1 là trường hợp tốt nhất vì doanh nghiệp có phần tài
sản và nguồn vốn cân đối về mặt thời gian nhưng phải dựa trên tình hình thực tế
của doanh nghiệp để xem xét đánh giá chứ không phải lúc nào doanh nghiệp cũng
phải cố gắng để đạt được kết cấu nguồn vốn và tài sản như ở trường hợp 1.
Thứ năm, xem xét trong năm công ty đã có những khoản đầu tư nào? làm thế

nào để công ty mua sắm được tài sản? công ty đang gặp khó khăn hay thuận lợi ?
thông qua việc phân tích tình hình khai thác và sử dụng nguồn tài trợ vốn trong
năm.
1.2.3.2.Đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu trên Báo
cáo kết quả kinh doanh.
Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là một bản báo cáo tài chính tổng hợp
phản ánh tình hình và kết quả hoạt động kinh doanh theo từng loại hoạt động của
doanh nghiệp. Số liệu trên báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp về
phương thức kinh doanh, về việc sử dụng các tiềm năng vốn, lao động, kỷ thuật,
15


kinh nghiệm quản lý của doanh nghiệp, và chỉ ra rằng các họat động kinh doanh đó
đem lại lợi nhuận hay gây ra tình trạng thua lỗ.
Đây là một bản báo cáo tài chính được những nhà lập kế hoạch rất quan tâm,
vì nó cung cấp các số liệu về hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp đã thực hiện
trong kỳ. Nó còn được coi như là một bản hướng dẫn để dự báo xem doanh nghiệp
sẽ hoạt động ra sao trong tương lai.
Nội dung của báo cáo kết quả họat động kinh doanh có thể thay đổi theo từng
thời kỳ tùy theo yêu cầu quản lý, nhưng phải phản ánh được các nội dung cơ bản
sau: doanh thu, giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp
và lợi nhuận. Ngoài ra báo cáo kết quả kinh doanh còn cho biết tình hình thực hiện
nghĩa vụ đối với Nhà nước của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh đó.
Thông qua các chỉ tiêu trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh để kiểm
tra, phân tích và đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch, dự toán chi phí sản xuất, giá
vốn, doanh thu bán hàng và cung cấp dịch vụ, tình hình chi phí, thu nhập của hoạt
động khác và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ. Để từ đó có những
nhận xét, đánh giá sâu hơn tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, tình hình sử
dụng lao động, vật tư, tiền vốn của doanh nghiệp, tìm ra nguyên nhân của những
kết quả đó và đưa ra các giải pháp, quyết định tài chính phù hợp.

1.2.3.3. Đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp thông qua các chỉ tiêu tài chính
đặc trưng.
Các số liệu báo cáo tài chính chưa lột tả được hết thực trạng tài chính của
doanh nghiệp, do đó các nhà tài chính còn dùng các hệ số tài chính để giải thích
thêm các mối quan hệ tài chính. Mỗi một doanh nghiệp khác nhau, có các hệ số tài
chính khác nhau, thậm chí một doanh nghiệp ở các thời điểm khác nhau cũng có
các hệ số tài chính không giống nhau. Do đó người ta coi các hệ số tài chính là
những biểu hiện đặc trưng nhất về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một
thời kỳ nhất định.

16


Tình hình tài chính được đánh giá là lành mạnh trước hết phải được thể hiện
ở khả năng chi trả, vì vậy chúng ta bắt đầu đi từ việc phân tích khả năng thanh toán
1.2.3.3.1.Các chỉ tiêu về tình hình công nợ và khả năng thanh toán.
Xem xét đến tình hình công nợ và khả năng thanh toán cũng là một nội
dung rất quan trọng khi đánh giá tình hình tạo lập và phân bổ vốn của doanh
nghiệp. Việc tạo lập, phân bổ vốn không hợp lý có thể trực tiếp ảnh hưởng không
tốt tới tình hình công nợ cũng như khả năng thanh toán thông qua việc doanh
nghiệp đầu tư vốn quá nhiều vào các khoản phải thu hay huy động vốn quá nhiều từ
bên ngoài, đặc biệt là nguồn vốn ngắn hạn. Ngược lại, kết cấu các nguồn tài trợ và
việc phân bổ vốn là hợp lý, phù hợp với điều kiện sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp, đặc thù của ngành thì điều này làm tăng tính lành mạnh về mặt tài chính
của doanh nghiệp. Chính vì lẽ đó, khi phân tích tài chính rất cần thiết phải đánh giá
tình hình thanh toán cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp.

 Về tình hình công nợ.
Đánh giá sự biến động của các khoản phải thu và các khoản phải trả từ đó đánh giá
được sự tự chủ về mặt tài chính, tính hợp lý trong việc áp dụng các chính sách tín

dụng thương mại đối với bạn hàng và việc chấp hành kỷ luật thanh toán của doanh
nghiệp. Chúng ta xem xét tình hình công nợ của doanh nghiệp thông qua 2 chỉ tiêu
sau:
♦ Hệ số các khoản phải thu
Hệ số các khoản phải thu

=

Các khoản phải thu
Tổng tài sản

Các khoản phải thu thể hiện vốn bị chiếm dụng của doanh nghiệp, do vậy chỉ tiêu
này phản ánh quy mô vốn bị chiếm dụng của doanh nghiệp trong tổng tài sản.
Thông thường nếu chỉ tiêu này càng lớn thì doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn càng
nhiều. Đó là dấu hiệu không tốt, nhưng để đánh giá được tính hợp lý của nó cần
xem xét đến yếu tố đặc điểm sản xuất kinh doanh, chính sách tiêu thụ, chính sách

17


thu hồi nợ hay doanh số bán chịu trong kỳ cũng như đặc thù của từng giai đoạn
phát triển của doanh nghiệp…
♦ Hệ số các khoản phải trả
Hệ số các khoản phải trả

=

Các khoản phải trả
Tổng tài sản


Các khoản phải trả phản ánh các khoản vốn đi chiếm dụng của doanh nghiệp. Các
khoản phải trả ở đây bao gồm cả các khoản phải trả ngắn hạn và các khoản phải trả
dài hạn. Và được tính bằng công thức:
- Các khoản phải trả ngắn hạn = Nợ ngắn hạn – Vay và nợ ngắn hạn
- Các khoản phải trả dài hạn = Nợ dài hạn – Vay và nợ dài hạn
Hệ số này càng cao một mặt thể hiện tính độc lập tự chủ về mặt tài chính của doanh
nghiệp giảm, doanh nghiệp đang gặp phải áp lực trả nợ lớn. Mặt khác nếu không có
tranh chấp hoặc nợ quá hạn xảy ra, thì việc chiếm dụng vốn cũng cho thấy tính linh
hoạt của doanh nghiệp trong tổ chức nguồn vốn. Hệ số này phụ thuộc vào chính
sách tài chính của từng doanh nghiệp trong từng thời kỳ, về giá trị vật tư đầu vào
mua vào trong kỳ để phục vụ kế hoạch sản xuất kinh doanh trong kỳ, về khả năng
thỏa thuận dựa vào quan hệ thân tín với nhà cung cấp…Chúng ta phải phân tích và
tìm ra nguyên nhân ảnh hưởng đến chỉ tiêu này và sự biến động của nó để có sự
điều chỉnh hợp lý.
 Về khả năng thanh toán
- Hệ số khả năng thanh toán hiện thời(hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn)
Hệ số khả năng thanh toán hiện thời =

Tổng tài sản ngắn hạn
Tổng nợ ngắn hạn

Hệ số này là mối quan hệ giữa tài sản ngắn hạn và các khoản nợ ngắn hạn. Hệ
số này phản ánh 1 đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo bằng bao
nhiêu đồng TSNH. Tính hợp lý của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh
doanh, ngành nghề nào mà TSNH chiếm tỷ trọng lớn thì hệ số này lớn và ngược lại.
18


Nếu hệ số này thấp thì thể hiện khả năng trả nợ của doanh nghiệp ở mức độ
thấp và cũng là dấu hiệu báo trước những khả năng tiềm ẩn về tài chính mà doanh

nghiệp có thể gặp phải trong việc trả nợ.
Nếu hệ số này mà cao thì cho thấy doanh nghiệp có khả năng cao trong việc
sẵn sàng thanh toán các khoản nợ đến hạn. Nếu trong trường hợp hệ số này mà quá
cao chưa chắc là tốt vì có thể doanh nghiệp có một lượng hàng tồn kho lớn gây ứ
đọng vốn hoặc vốn bị chiếm dụng ở các khoản phải thu quá lớn… Để đánh giá sát
hơn cần phải xem xét kết hợp với các chỉ tiêu khác hoặc đi sâu xem xét chi tiết hơn.
- Hệ số khả năng thanh toán nhanh.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh = Tổng tài sản ngắn hạn - hàng tồn kho
Tổng nợ ngắn hạn
Các tài sản ngắn hạn trước khi mang đi thanh toán cho chủ nợ đều phải chuyển
đổi thành tiền. Trong tài sản ngắn hạn hiện có thì hàng tồn kho chưa thể chuyển đổi
ngay thành tiền, do đó hàng tồn kho có tính thanh khoản kém nhất. Vì vậy hệ số
khả năng thanh toán nhanh là thước đo khả năng trả nợ ngay các khoản nợ ngắn
hạn của doanh nghiệp trong kỳ không dựa vào việc phải bán các loại vật tư, hàng
hóa.
Nhìn chung hệ số này càng cao càng tốt nhưng nếu quá cao thì cần phải xem
xét lại vì trong tổng tài sản ngắn hạn thì bộ phận các khoản phải thu là khó thu hồi
nhất và nếu khoản phải thu lớn thì nó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nhanh
của doanh nghiệp.
- Hệ số khả năng thanh toán tức thời.
Hệ số khả năng thanh toán tức thời =

Tiền và tương đương tiền
Nợ ngắn hạn

Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa các khoản tiền mặt và coi như tiền mặt
(tiền gửi ngân hàng, ngân phiếu, chứng khoán... ) với số nợ ngắn han của doanh
nghiệp. Còn hệ số này mà quá cao là không tốt vì các khoản tiền mặt và coi như
19



tiền mặt quá nhiều làm vòng quay tiền chậm lại, gây ứ đọng vốn làm giảm hiệu quả
sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp.
- Hệ số thanh toán lãi vay.
Lãi vay phải trả là một khoản chi phí cố định. Nguồn để trả lãi vay là lợi
nhuận sau khi đã trừ đi chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. So sánh
giữa nguồn để trả lãi vay và lãi vay phải trả sẽ cho chúng ta biết doanh nghiệp đã
sẵn sàng trả lãi vay đến mức nào.
Hệ số thanh toán lãi vay =

Lợi nhuận trước lãi vay và thuế
Số lãi vay phải trả trong kỳ

Hệ số này dùng để đo lường mức độ lợi nhuận có được do sử dụng vốn để đảm
bảo trả lãi cho chủ nợ. Nói cách khác, hệ số thanh toán lãi vay cho chúng ta biết
được số vốn đi vay đã sử dụng tốt đến mức độ nào và đem lại một khoản lợi nhuận
là bao nhiêu, có đủ bù đắp lãi vay phải trả hay không.
Hệ số này nhỏ hơn 1 thì số lãi vay của doanh nghiệp không đủ để trả lãi tiền
vay trong trường hợp này doanh nghiệp bị lỗ. Tất nhiên trong phân tích, đánh giá
không thể so sánh chỉ tiêu này một cách đơn giản vì nó phụ thuộc trực tiếp vào khả
năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp.
1.2.3.3.2. Các chỉ tiêu về cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu tài sản.
Đạt được cơ cấu vốn và nguồn vốn tối ưu luôn là mong muốn của các nhà
quản trị tài chính. Vì vậy nghiên cứu cơ cấu nguồn vốn và cơ cấu tài sản sẽ cung
cấp cho các nhà quản trị tài chính doanh nghiệp có một cái nhìn tổng quát về sự
phát triển lâu dài của doanh nghiệp.



Cơ cấu nguồn vốn:


 Hệ số nợ.
Tổng số nợ

Hệ số nợ =

Tổng nguồn vốn
20


Hệ số nợ phản ánh trong một đồng vốn hiện có của doanh nghiệp thì có bao
nhiêu đồng vốn vay. Hệ số này dùng để đo lường mức độ góp vốn của chủ doanh
nghiệp. Xác định trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với chủ nợ trong việc góp
vốn. Các chủ nợ thường thích hệ số này thấp vì nó đảm bảo khả năng các khoản
vay của họ sẽ thu hồi được. Còn chủ doanh nghiệp thì thích hệ số này cao bởi vì khi
đó họ chỉ cần bỏ một lượng vốn ít hơn mà lại được sử dụng một lượng tài sản lớn.
Khi tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh (ROA) lớn hơn chi phí sử dụng vốn vay
(r) thì nếu vay càng nhiều phần dành cho chủ sở hữu càng cao (ROE càng cao). Hệ
số nợ cao đồng nghĩa với rủi ro mất khả năng thanh toán cao nếu hoạt động sản
xuất kinh doanh không có hiệu quả.
 Hệ số vốn chủ sở hữu.
NVCSH

Hệ số vốn chủ sở hữu =

Tổng nguồn vốn
Hệ số vốn chủ sở hữu là một chỉ tiêu tài chính đo lường sự góp vốn của chủ sở
hữu trong tổng số vốn hiện có của doanh nghiệp. Hệ số này càng cao càng chứng tỏ
mức độ độc lập, tự chủ về mặt tài chính của doanh nghiệp.




Cơ cấu tài sản

 Tỷ trọng đầu tư vào tài sản dài hạn
Tỷ trọng đầu tư vào tài sản dài hạn =

Tài sản dài hạn
Tổng tài sản

Chỉ tiêu này phản ánh tình trạng cơ sở vật chất kỷ thuật, năng lực sản xuất và
xu hướng phát triển lâu dài cũng như khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp. Nếu
số đầu năm nhỏ hơn cuối năm thì chứng tỏ doanh nghiệp đã quan tâm đầu tư đổi
mới tài sản cố định, tăng năng lực sản xuất cho tương lai và ngược lại. Tuy nhiên
chỉ tiêu này có ảnh hưởng tốt hay xấu đến doanh nghiệp thì còn phụ thuộc vào
ngành nghề kinh doanh của từng doanh nghiệp trong một thời gian cụ thể.
 Tỷ trọng đầu tư vào tài sản ngắn hạn.
21


Tỷ trọng đầu tư vào tài sản ngắn hạn = Tài sản ngắn hạn
Tổng tài sản
Tương tự chỉ tiêu trên, chỉ tiêu này phản ánh mức độ đầu tư vào tài sản ngắn hạn
của doanh nghiệp. Tuy nhiên cần căn cứ vào ngành kinh doanh và chiến lược kinh
doanh cụ thể trong từng thời kỳ của doanh nghiệp để đánh giá mức độ hợp lý trong
việc đầu tư của doanh nghiệp
1.2.3.3.3. Hệ số hiệu suất hoạt động.
Các chỉ tiêu này dùng để đo lường hiệu quả sử dụng vốn, tài sản của một
doanh nghiệp bằng cách so sánh doanh thu với việc bỏ vốn vào kinh doanh dưới
các tài sản khác nhau.

 Số vòng quay hàng tồn kho.
Giá vốn hàng bán

Số vòng quay hàng tồn kho =

Hàng tồn kho bình quân trong kỳ
Số vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần mà hàng tồn kho luân chuyển
trong kỳ. Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá là
tốt bởi vì doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh
số cao. Tuy nhiên vòng quay hàng tồn kho cao hay thấp còn phụ thuộc vào đặc
điểm của ngành kinh doanh.
 Số ngày một vòng quay hàng tồn kho.
Số ngày một vòng quay hàng tồn kho = Số ngày trong kỳ(360)
Số vòng quay HTK
Số ngày một vòng quay hàng tồn kho phản ánh số ngày bình quân hàng tồn
kho quay được một vòng. Số ngày này càng nhỏ thì vòng quay hàng tồn kho càng
nhanh. Số ngày này nhỏ thì vốn vật tư, hàng hóa của doanh nghiệp luân chuyển
càng nhanh, không bị ứ đọng, góp phần làm tăng hiệu quả hoạt động kinh doanh.
 Vòng quay các khoản phải thu.
22


Vòng quay các khoản phải thu =

Doanh thu có thuế gián thu
Số dư bình quân các khoản phải thu

Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của
doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cao chứng tỏ nhanh thu hồi vốn. Nếu chỉ tiêu này nhỏ
chứng tỏ doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn lớn. Tuy nhiên chỉ tiêu này cao hay thấp

còn phụ thuộc vào chính sách bán chịu của doanh nghiệp.
 Kỳ thu tiền trung bình.
Số ngày trong kỳ

Kỳ thu tiền trung bình =

Vòng quay các khoản phải thu
Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải
thu. Vòng quay các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ và
ngược lại. Nếu kỳ thu tiền bình quân càng dài thì doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn
lớn. Tuy nhiên kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp cũng chưa có kết luận chính xác
được vì nó phụ thuộc vào chính sách tín dụng của doanh nghiệp.
 Vòng quay vốn lưu động.
Vòng quay vốn lưu động =

Doanh thu thuần
VLĐ bình quân trong kỳ

Chỉ tiêu này phản ánh trong kỳ vốn lưu động quay được mấy vòng hay một
đồng vốn lưu động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Chỉ tiêu này
càng lớn chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn lưu động càng có hiệu quả và ngược
lại. Tuy nhiên để đánh giá chính xác chỉ tiêu này cần phải so sánh với chuẩn mực
của ngành.
 Số ngày một vòng quay vốn lưu động (kỳ luân chuyển vốn lưu động).
Kỳ luân chuyển vốn lưu động =

Số ngày trong kỳ (360)
Số vòng quay VLĐ

Chỉ tiêu này phản ánh trung bình một vòng quay vốn lưu động hết bao nhiêu

ngày và nó là chỉ tiêu nghịch đảo của chỉ tiêu vòng quay vốn lưu động. Do đó nếu
23


chỉ tiêu này thấp thì tốt vì vốn lưu động không bị ứ đọng, còn ngược lại nếu chỉ tiêu
này cao thì cho thấy VLĐ bị ứ đọng, bị chiếm dụng, hiệu quả sử dụng vốn thấp.
 Hiệu suất sử dụng vốn cố định.
Hiệu suất sử dụng vốn cố định =

Doanh thu thuần
Vốn cố định bình quân

Chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả sử dụng vốn cố định, nó cho chúng ta biết đầu
tư một đồng vốn cố định tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
Chỉ tiêu này muốn phân tích một cách rõ ràng thì ta phải đi sâu tìm hiểu cơ cấu
các loại tài sản cố định đó. Điều này gợi ý cho doanh nghiệp cân nhắc trước khi đầu
tư vào TSCĐ mới hoặc xem xét mức khấu hao của TSCĐ cũ đã hợp lý hay chưa.
 Vòng quay toàn bộ vốn.
Doanh thu thuần

Vòng quay toàn bộ vốn =

Vốn kinh doanh bình quân
Chỉ tiêu này phản ánh vốn của doanh nghiệp trong kỳ quay được bao nhiêu
vòng. Qua chỉ tiêu này có thể đánh giá khả năng sử dụng tài sản của doanh nghiệp
thể hiện qua doanh thu thuần được sinh ra từ tài sản mà doanh nghiệp đã đầu tư.
Việc tăng nhanh vòng quay toàn bộ vốn của doanh nghiệp góp phần không nhỏ vào
việc tăng lợi nhuận, tăng khả năng cạnh tranh và uy tín của doanh nghiệp.
1.2.3.3.4.Hệ số hiệu quả hoạt động:
Các chỉ số về hiệu quả hoạt động luôn được các nhà quản trị tài chính quan

tâm. Chúng là cơ sở quan trọng để đánh giá hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh
trong một kỳ nhất định, là một luận cứ quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các
quyết định tài chính trong tương lai.
 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên doanh thu hay hệ số lãi ròng (ROS).
Lợi nhuận sau thuế

Hệ số lãi ròng (ROS) =

Doanh thu thuần
24


Chỉ tiêu này để đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thịnh
vượng hay suy thoái, xác định trong một đồng doanh thu có mấy đồng lợi nhuận.
Nhìn chung chỉ số này cao do giá thành sản phẩm giảm mà chất lượng sản phẩm
không giảm thì tốt, nhưng nếu cao do giá bán tăng thì chưa chắc đã tốt vì nó ảnh
hưởng đến tính cạnh tranh của doanh nghiệp, làm cho tiêu thụ sản phẩm giảm dẫn
đến doanh thu và lợi nhuận giảm theo.
 Tỷ suất lợi nhuận trước lãi vay và thuế trên vốn kinh doanh hay tỷ suất
sinh lời kinh tế của tài sản (ROAE).
Tỷ suất sinh lời kinh tế =
của tài sản (ROAE)

Lợi nhuận trước lãi vay và thuế (EBIT)
Tổng tài sản bình quân (hay VKD bình quân)

Chỉ tiêu này phản ánh khả năng sinh lời của tài sản hay vốn kinh doanh không
tính đến ảnh hưởng của thuế thu nhập doanh nghiệp và nguồn gốc của vốn kinh
doanh.
 Tỷ suất lợi nhuận trước thuế trên vốn kinh doanh.

Tỷ suất lợi nhuận trước
thuế trên VKD

Lợi nhuận trước thuế

=

VKD bình quân (Tổng tài sản bình quân)

Tỷ suất lợi nhuận vốn kinh doanh là chỉ tiêu đo lường mức sinh lời của tổng vốn.
Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn kinh doanh bình quân trong kỳ tạo ra mấy
đồng lợi nhuận. Nếu tỷ suất này cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng vốn tốt có hiệu
quả cao và ngược lại tỷ suất này thấp thì chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động kém
hiệu quả.
 Tỷ suất lợi nhuận sau thuế trên vốn kinh doanh hay tỷ suất sinh lời ròng
của tài sản (ROA)
Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế trên VKD (ROA)

Lợi nhuận sau thuế

=

VKD (hay tài sản) bình quân

Chỉ tiêu phản ánh mỗi đồng vốn sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận
sau thuế.
25



×