MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra một cách mạnh mẽ trên thế giới
như hiện nay, hoạt động thông tin nói chung và báo chí nói riêng ngày càng
đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Báo chí truyền thông đang thực
sự có những bước đột biến vào những năm đầu thực hiện chính sách mở cửa
từ thập kỷ 90 của thế kỷ XX (từ Đại hội VI) mới thực sự đi vào chiều sâu về
cả lượng và chất.
Trong những năm qua, thông tin trên báo chí nước ta đã góp phần quan
trọng vào mọi mặt của đời sống xã hội, phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Với hơn 20 năm thực hiện chính sách và đường lối đổi mới do Đảng ta
lãnh đạo, các phương tiện truyền thông đại chúng đóng vai trò hết sức quan
trọng trên các lĩnh vực: Thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền quan điểm, đường
lối, chủ trương của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát hiện và
phản ánh tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; những vấn đề bức xúc trong
đời sống xã hội; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực, quan liêu
lãng phí và suy thoái đạo đức, lối sống… Báo chí cũng đã góp phần giáo dục
truyền thống tốt đẹp của dân tộc, truyền thống cách mạng, góp phần nâng cao
dân trí, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao, phong phú và đa dạng về đời sống
tinh thần của nhân dân…
Bên cạnh những vấn đề trên, báo chí nước ta trong quá trình đổi mới và hội
nhập đã góp phần nâng cao chất lượng thông tin đối ngoại, góp phần quan trọng giới
thiệu đất nước, văn hóa con người Việt Nam với bạn bè quốc tế; thực hiện đường lối
đối ngoại độc lập, tự chủ, đa dạng, đa phương hóa các quan hệ quốc tế của Đảng, Nhà
nước ta; góp phần nâng cao uy tín và vị thế Việt Nam trên trường quốc tế.
1
Tìm hiểu về vai trò của báo chí Việt Nam thời kỳ đổi mới trong quá trình
giao lưu, tiếp nhận và hội nhập văn hóa quốc tế chính là góp phần tìm hiểu vai
trò của báo chí nói riêng và các phương tiện thông tin đại chúng nói chung
trong quá trình đất nước hội nhập mạnh mẽ; đồng thời, qua đó nhận ra và khắc
phục những hạn chế của quá trình thông tin trên báo in Việt Nam trong giai
đoạn tiếp theo của quá trình giao lưu, tiếp nhận và hội nhập văn hóa quốc tế. Đó
cũng chính là những nội dung chủ yếu được đề cập trong tiểu luận này.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích
- Tìm hiểu, nghiên cứu, làm rõ những thành tựu nổi bật của báo chí
thời kì đổi mới.
- Qua việc tìm hiểu những thành tựu và hạn chế của từng giai đoạn báo
chí rút ra bài học bổ trợ cho việc trau dồi kiến thức về lịch sử nói chung, lịch
sử báo chí Việt Nam nói riêng, phục vụ cho môn học cũng như công việc làm
báo sau này của bản thân.
- Trang bị những kiến thức cơ bản về lịch sử báo chí Việt Nam, có cái
nhìn tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của báo chí việt nam qua
các thời kì lịch sử.
- Thấy được lịch sử báo chí như một bộ phận của lịch sử dân tộc. Gắn
liền với sự phát triển của báo chí Việt nam là sự phát triển tư tưởng, văn hóa,
ngôn ngữ ở mỗi thời kì lịch sử.
2.2.Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích trên tiểu luận thực hiện những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Đi vào phân tích vai trò, thành tựu của báo chí thời kì đổi mới.
+ Thời kì đầu đổi mới(1986 – 1995).
+ Thời kì hội nhập phát triển (1996 đến nay).
- Rút ra ưu, nhược điểm của báo chí thời kì này.
2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Hoạt động của báo chí Việt Nam trong thời kì đổi mới
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ đề tài này, tập trung đánh giá, phân tích vai trò,
thành tựu của báo chí Việt Nam thời kì đổi mới(1986 đến nay)
4. Phương pháp nghiên cứu
•
Phương pháp thu thập và tìm kiếm thông tin: Tập hợp, tìm kiếm
những thông tin phục vụ cho bài tiểu luận trên các phương tiện
thông tin đại chúng như sách, báo, tạp chí…để thực hiện quá
trình nghiên cứu đề tài.
• Phương pháp khảo sát : Đây là phương pháp được sử dụng chủ
yếu để khảo sát các thông tin trên báo, các nguồn tin liên quan
đến vấn đề nghiên cứu.
• Phương pháp thống kê : Dùng để thống kê bảng số liệu, nội dung
liên quan đến báo chí thời kì đổi mới.
• Phương pháp phân tích và tổng hợp : Dựa trên các tài liệu tham
khảo ( sách, báo có liên quan đến đề tài), tiến hành phân tích,
chọn lọc, những thông tin có liên quan để bổ sung cho nghiên
cứu, đảm bảo cho tiểu luận có cái nhìn đa chiều, toàn diện hơn.
• Phương pháp so sánh, đối chiếu: Đối với các tài liệu thu thập được,
cần so sánh, đỗi chiếu, rút ra thông tin chính xác và cần thiết.
5.Kết cấu
Gồm phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục và
hai chương.
3
CHƯƠNG I: NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT VÀ VAI TRÒ BÁO CHÍ VIỆT
NAM THỜI KÌ ĐỔI MỚI.
1. Những nét khái quát về báo chí Việt nam thời kì đổi mới
- Từ tháng 5/1975 trở đi, với thắng lợi hoàn toàn giải phóng dân tộc,
thống nhất đất nước, thành lập nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trên cả nước hình thành một nền báo chí thống nhất, dân chủ, tiến bộ đặt
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Một kỷ nguyên mới của báo
chí Việt Nam được mở ra.
- Cùng với việc xoá bỏ nền báo chí thực dân mới của Mỹ, báo chí giải
phóng, cách mạng theo chân các chiến sĩ bộ đội Cụ Hồ tiến vào các thành phố
và được in ấn, phát hành công khai ngay tại các vùng vừa giải phóng.
- Việc thống nhất báo chí của hai miền được thực hiện. Báo Cứu quốc
(ở miền Bắc) và báo Giải phóng ( ở miền Nam) hợp nhất thành báo Đại đoàn
kết; Báo Văn nghệ giải phóng ( miền Nam) cũng thực hiện hợp nhất với báo
Văn nghệ ( miền Bắc). Hoạt động báo chí được đẩy mạnh. Riêng Sài gòn đã
có hàng loạt tờ báo phục vu nhu cầu của các đối tượng công chúng như: Sài
gòn giải phóng, Tuổi trẻ, Phụ nữ, Công nhân giải phóng, Khăn quàng đỏ,
Văn nghệ Sài Gòn, Sài Gòn giải phóng bằng tiếng Hoa... Trên cả nước, 40
tỉnh đãc có báo của Đảng bộ tỉnh. Tổng số toàn quốc năm 1976 có 168 tờ báo,
tạp chí ( trong đó 118 tờ của cơ quan trung ương, 50 tờ của địa phương). Đến
1985, con số này tăng lên 186, chủ yếu là tăng thêm các cơ quan báo chi ở
trung ương.
- Từ khi ra đời, trong sự nghiệp cách mạng của Đảng, báo chí luôn đóng
vai trò rất quan trọng. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói, Nhà báo là chiến sĩ
cách mạng, trang giấy và ngòi bút là vũ khí sắc bén của họ.
4
Hay nói cách khác, báo chí bao giờ cũng là một lực lượng làm công tác tuyên
truyền tập thể, cổ động tập thể. Báo chí bao giờ cũng đồng hành với dân tộc
trong suốt chặng đường đấu tranh và xây dựng đất nước.
Trong công cuộc kháng chiến, nơi khó khăn nhất, ác liệt nhất là nhà báo đều
có mặt. Trong công cuộc bảo vệ tổ quốc, trong các mũi tấn công của dân tộc,
bên cạnh máu xương của đồng bào, chiến sĩ thì đội ngũ nhà báo hy sinh cũng
rất lớn.
Ngay khi đoàn quân tiến về Sài Gòn, ở tất cả các mũi tấn công đều có nhà báo.
Ở các thời khắc quan trọng nhất đều có nhà báo và họ phản ánh trung thực các
thời khắc đó cho người dân. Trong công cuộc đổi mới, báo chí cổ vũ phát hiện
nhân tố mới. Việc nhìn nhận đó góp phần nâng niu, ghi nhận những nhân tố
đó. Từ việc phát hiện ra họ, Đảng và nhà nước sẽ đưa ra những quyết sách
quan trọng.
2.Vai trò của báo chí việt nam thời kì đổi mới
Trong đời sống chính trị - xã hội, báo chí giữ một vai trò hết sức quan
trọng. Bất kỳ một lực lượng cầm quyền nào trong các quốc gia trên thế giới
đều sử dụng báo chí như một công cụ để tác động vào tư tưởng, tình cảm của
công chúng, nhằm tạo ra ở họ những nhận thức mới, những định hướng có giá
trị cho cuộc sống. Ở nước ta, báo chí là công cụ chính trị của Đảng, của Nhà
nước, của các tổ chức, đoàn thể xã hội, là diễn đàn của nhân dân. Vai trò của
báo chí trong đời sống chính trị - xã hội thể hiện rõ trong hai cuộc kháng chiến
của nhân dân ta là chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ để giải phóng đất
nước. Ngay khi chưa có Đảng lãnh đạo, các lực lượng xã hội đã có những tờ
báo hoạt động rất tích cực và đã gây được sự chú ý của dư luận xã hội về các
vấn đề chính trị. Báo chí đã trở thành vũ khí quan trọng của nhân dân ta trong
5
các cuộc đấu tranh chính trị. Báo chí thật sự đã trở thành vũ khí sắc bén trên
mặt trận tư tưởng - văn hóa, mặt khác, nó cũng tạo những điều kiện cần thiết
để cho mọi người dân có thể tham gia vào đời sống chính trị của đất nước. Vì
vậy, ý nghĩa của thông tin báo chí rất quan trọng. Với nội dung thông tin có
định hướng đúng đắn, chân thật, có sức thuyết phục, báo chí có khả năng hình
thành dư luận xã hội, dẫn đến hành động xã hội, phù hợp với sự vận động của
hiện thực theo những chiều hướng có chủ định. Báo chí không chỉ là vũ khí tư
tưởng sắc bén, lợi hại mà còn là người tuyên truyền tập thể, cổ động tập thể, tổ
chức tập thể; điều này càng phù hợp với thời đại bùng nổ thông tin hiện nay.
Báo chí biểu hiện vai trò trong đời sống xã hội trên nhiều lĩnh vực như:
Về chính trị: Báo chí là công cụ, là vũ khí quan trọng trên mặt trận tư
tưởng - văn hóa. Vai trò của báo chí trong lĩnh vực chính trị là hướng dẫn
nhận thức và hành động cho công chúng. Báo chí là lực lượng xung kích trên
mặt trận tư tưởng - văn hóa của Đảng, là công cụ tham gia quản lý xã hội;
công cụ giám sát cán bộ, Đảng viên về đạo đức lối sống. Lịch sử cũng chỉ ra
rằng, bất cứ chế độ nào trên thế giới cũng sử dụng và khai thác triệt để các
phương tiện truyền thông đại chúng nhằm phục vụ, củng cố và duy trì chế độ
đó. Trong xã hội hiện đại, người nào nắm được các phương tiện thông tin đại
chúng có thể “điểu khiển” con người theo ý muốn, có nghĩa là dùng báo chí để
hàng ngày phát đi những thông điệp chính trị nhằm giáo dục ý thức, tư tưởng,
thuyết phục quần chúng làm theo ý muốn của mình.
1.2. Về kinh tế: Trong nền kinh tế thị trường, thông tin chính xác, kịp
thời là sức mạnh tạo nên thắng lợi cạnh tranh. Các phương tiện thông tin đại
chúng có vai trò to lớn trong việc cung cấp những thông tin có giá trị đó. Các
lĩnh vực thông tin kinh tế cần như: Thông tin thị trường, hàng hóa (bao gồm
thông tin giá cả, sức tiêu thụ, thị hiếu và xu hướng biến đổi thị hiếu tiêu dùng)
…; Thông tin thị trường tài chính (tiền tệ, vốn, giá cả, cổ phiếu, sự vận động
6
của các dòng tài chính), thị trường lao động, vật tư, thiết bị, đặc biệt là thị
trường công nghệ (chu kỳ công nghệ, sự chuyển giao công nghệ). Báo chí
không chỉ dừng lại trong việc cung cấp thông tin thuần túy mà còn có thể
hướng dẫn thị trường, hướng dẫn việc áp dụng khoa học kỹ thuật và công
nghệ mới, giới thiệu những mô hình, điển hình tiên tiến trong sản xuất và
kinh doanh. Với việc phổ biến các kinh nghiệm thành công hay thất bại trong
quản lý, kinh doanh và áp dụng công nghệ mới, tiết kiệm chi phí trong sản
xuất, báo chí góp phần tạo nên hiệu quả kinh tế lớn cho xã hội.
1.3.Về văn hóa - xã hội: Vai trò của báo chí trong lĩnh vực văn hóa thể
hiện trên nhiều mặt. Thứ nhất, báo chí làm giàu, làm đẹp cho vốn văn hóa dân
tộc, nhất là ngôn ngữ, báo chí là nơi vừa giữ gìn và sáng tạo ra nhiều từ mới,
thuật ngữ mới cả trong cách viết và cách thể hiện, trong việc chuẩn ngôn ngữ
nói và viết. Thứ hai, báo chí đăng tải các tác phẩm văn học nghệ thuật, khoa
học, âm nhạc và các lĩnh vực khác. Thứ ba, qua các phương tiện thông tin đại
chúng, công chúng có thể tiếp nhận nhiều tri thức văn hóa của các tri thức dân
tộc trên thế giới. Thứ tư, báo chí góp phần nâng cao văn hóa, giải trí, làm cho
mọi người ngày càng hiểu nhau, xích lại gần nhau hơn, chia sẻ tâm tư, tình
cảm, đồng thời cùng học tập, tiếp thu được nền văn hóa đa dạng, phong phú
của các dân tộc khác để làm giàu cho văn hóa dân tộc mình. Trong giai đoạn
mới, để thực hiện tốt vai trò của mình, các phương tiện thông tin đại chúng ở
nước ta phải thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ đấu tranh chống tham nhũng, tiêu
cực và các tệ nạn xã hội; tăng cường truyền bá văn hóa dân tộc và tinh hoa
văn hóa nhân loại; xây dựng nền đạo đức mới trên nền tảng đạo lý dân tộc;
vun đắp, hoàn thiện hình mẫu con người Việt Nam hiện đại, kế thừa nét đẹp
truyền thống của cha ông; nâng tầm trí tuệ, tri thức khoa học, công nghệ của
mỗi công dân.
7
CHƯƠNG 2: THÀNH TỰU NỔI BẬT CỦA BÁO CHÍ VIỆT NAM
THỜI KÌ ĐỔI MỚI.
1. Giai đoạn đầu đổi mới ( 1986 – 1995)
* Bước vào công cuộc đổi mới đất nước, phát huy truyền thống vẻ vang
của nền báo chí cách mạng, báo chí dưới sự lãnh đạo của Đảng đã mạnh dạn
nhìn thẳng vào sự thật, phê phán những hiện tượng tiêu cực, tham ô tham
nhũng... đang diễn ra trong đời sống xã hội. Bên cạnh đó, báo chí cũng đã cổ
vũ tích cực cho những phong trào, đơn vị làm ăn tiên tiến, những nhân tố mới,
những gương người tốt việc tốt, có nhiều thành tích tiêu biểu được xã hội
công nhận.
* Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đánh dấu sự đổi mới toàn diện đất
nước, Đảng ta lại càng thấy rõ hơn vai trò của báo chí và sử dụng báo chí như
một công cụ sắc bén để tuyên truyền, phổ biến những chủ trương, chính sách
mới của Đảng đến với nhân dân. Nhiều chủ trương mới của Đảng như việc
thực hiện phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, chiến lược kinh tế
những năm 1986-1990, cụ thể là việc thực hiện ba chương trình kinh tế lớn
tăng, đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp... đã được Đảng chỉ đạo tuyên
truyền sâu rộng trong nhân dân, gắn chặt với thực tế đang diễn ra ở mỗi đơn
vị, địa phương. Những nội dung này đã được nhấn mạnh trong Văn kiện Đại
hội VI của Đảng.
* Các phương tiện thông tin đại chúng có nhiệm vụ truyền bá đường
lối, chính sách của Đảng, đi sát thực tế, thông tin kịp thời và phân tích sâu sắc
những sự kiện mới; phát hiện và phản ánh trung thực những điển hình tiên
tiến, nhiệt tình ủng hộ, cổ vũ các nhân tố mới...
* Báo chí là tiếng nói của Đảng, đồng thời cũng phản ánh tiếng nói của
quần chúng. Trình độ mọi mặt của nhân dân ngày càng cao đòi hỏi báo chí và
các phương tiện khác phải đảm bảo tính chân thực, nâng cao chất lượng, tăng
8
cường tính quần chúng và tính chiến đấu, khắc phục tình trạng giản đơn, đơn
điệu, hời hợt, sáo rỗng, một chiều.
* Có thể nói rằng, so với các giai đoạn trước đó, báo chí của chúng ta
giai đoạn 1986-1990 đã có sự chuyển biến rõ rệt về tư duy cũng như cách
nhìn nhận, đánh giá các sự kiện, vấn đề đang diễn ra trong cuộc sống. Trước
đây, Đảng thường coi báo chí là một công cụ nặng về tuyên truyền các chủ
trương, chính sách, thì giờ đây Đảng ta coi báo chí là một công cụ, một kênh
thông tin quan trọng gắn kết chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, vừa để phát
huy quyền làm chủ của nhân dân, vừa để lãnh đạo và quản lý đất nước. Qua
các kênh thông tin của báo chí, nhân dân đã nói lên được những tâm tư,
nguyện vọng của mình tới các cơ quan chức năng, các vị lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước. Có thể nói rằng, nhờ việc đổi mới tư duy và cách nhìn nhận của
Đảng ta đối với báo chí, mà báo chí trong điều kiện mới có cơ hội để phát huy
tốt hơn tính dân chủ, tự cởi trói mình để hoàn thành sứ mệnh thiêng liêng
trong công cuộc đổi mới của đất nước.
* Thành công của báo chí những năm đầu của thời kỳ đổi mới đã tạo ra cho
hoạt động báo chí của nước ta những năm sau đó những tiền đề vững chắc để
chúng ta tiếp tục công cuộc đổi mới đất nước, đấu tranh chống lại các thế lực
thù địch từ bên ngoài đang thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” chống phá
nước ta trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, chính trị, văn hóa – xã hội, an ninh,
quốc phòng, cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
* Nói một cách khái quát thì Báo chí Việt Nam đang có sự phát triển
phong phú đa dạng.
Đến thời điểm này chúng ta đã có đầy đủ các loại hình báo chí mà thế giới đã
có, như báo nói, báo hình, báo mạng, với số lượng tương đối phong phú; một
9
đội ngũ những người làm báo đông đảo, với hơn 16 nghìn nhà báo được cấp
thẻ hành nghề chưa kể hàng trăm ngàn cộng tác viên báo chí.
Có thể nói, thời gian gần đây, Báo chí của ta đã có sự đổi mới, kể cả nội
dung, hình thức, cơ sở vật chất đảm bảo cho hoạt động báo chí. Tính chuyên
nghiệp ngày càng được nâng cao và có thể nói trong bối cảnh hội nhập chúng ta đã
có những bước khởi động, theo kịp với sự phát triển trong khu vực và trên thế giới.
* Các tờ báo điển hình giai đoạn này: Báo Văn nghệ vốn nặng về thông
tin văn học nhưng cũng phản ánh khá đầy đủ về công cuộc đổi mới đất nước.
Ngoài các thông tin về những chủ trương, đường lối phát triển kinh tế của
Đảng, Nhà nước, báo đã mở chuyên mục “Ý kiến bạn đọc”, lấy nhiều ý kiến
của nhân dân, các nhà văn, nhà thơ đóng góp cho công cuộc đổi mới đất nước.
Cũng trong thời gian này, báo đã phối hợp với Đài Tiếng nói Việt Nam tổ
chức cuộc thi viết về thể loại bút ký nhằm tuyên dương người tốt việc tốt,
những người lao động miệt mài xây dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc, đồng thời phê phán những hiện tượng tiêu cực đang diễn ra trong đời
sống xã hội.
* Báo Đại đoàn kết, cơ quan ngôn luận của Ủy ban Trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam có bề dày lịch sử hơn 50 năm (tiền thân là báo Cứu
quốc) đã được sự yêu mến của bạn đọc trong và ngoài nước. Tiếp thu truyền
thống của những tờ báo tiền thân, báo Đại đoàn kết không ngừng cải tiến nội
dung cũng như hình thức trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân thực
hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, góp phần tạo nên sức mạnh
cho công cuộc đổi mới. Bên cạnh đó, báo Đại đoàn kết cũng đã chú trọng
phản ánh với Đảng, Nhà nước những kiến nghị, đề xuất của tầng lớp nhân
dân, giúp Đảng và Nhà nước kịp thời sửa chữa sai lầm, bổ sung thiếu sót, nhất
là trong những vấn đề bức xúc của xã hội đặt ra. Mặt khác, đi đôi với việc
10
biểu dương nhân tố mới, điển hình mới, những kinh nghiệm làm ăn giỏi của
nhân dân, báo còn góp phần đấu tranh chống tiêu cực, chống các tệ nạn ức
hiếp, trù dập quần chúng, vi phạm quyền công dân, thông tin những vấn đề
sôi động, những sự kiện lớn trong nước và quốc tế, vạch trần âm mưu phá
hoại của các thế lực thù địch chống phá nước ta trên đường đổi mới.
* Báo chí nước ta giai đoạn này có những đổi mới trên nhiều bình diện,
điều đáng nói trước tiên là trong giai đoạn này, đội ngũ nhà báo nước ta, cả
chuyện nghiệp lẫn không chuyên đã có sự lớn mạnh hơn nhiều so với đội ngũ
nhà báo các thời kỳ trước đó. Với sự lớn mạnh và trưởng thành như vậy, họ
đã phát huy và đóng góp tích cực của mình trong công cuộc đổi mới đất nước.
Cùng với sự lớn mạnh về số lượng, đội ngũ những người làm báo đã có sự đổi
mới trong tư duy cũng như phương thức làm báo, tư duy khác trước, các vấn
đề thường được xem xét dưới nhiều góc độ, nhiều hướng, nhiều chiều, phát
huy được tính khách quan trong hoạt động báo chí. Nhiều vấn đề bức xúc
trong xã hội đã được nhà báo dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật, đưa ra trước
công luận nên đã được sự ủng hộ nhiệt tình của đông đảo công chúng. Nhà
báo cũng trở nên khẩn trương hơn trong tác nghiệp, đưa tin, viết bài và bình
giá các vấn đề để đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ đổi mới.
* Báo chí giai đoạn này cũng tỏ ra năng động hơn, nhạy bén hơn trong
tuyên truyền, phổ biến các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng đến
với đông đảo quần chúng nhân dân. Qua đó, giúp nhân dân có được nhận thức
đúng đắn, thực hiện tốt hơn những quyết sách mà Đảng và Nhà nước ta đã đề
ra trong công cuộc đổi mới đất nước.
* Báo chí bám sát thực tiễn, phản ảnh sự đổi mới hàng ngày, hàng giờ
của đất nước trên tất cả mọi lĩnh vực đời sống. Nhiều nhà báo không ngại đi
sâu, đi sát cơ sở, phản ánh kịp thời các vấn đề nảy sinh, từ đó giúp Đảng và
11
Nhà nước có được những chủ trương phù hợp, sát với tình hình thực tế. Đây
có thể xem là đóng góp lớn nhất của báo chí nước ta thời kỳ này.
* Cùng với sự đổi mới về nội dung, trong giai đoạn này báo chí đã có
nhiều đổi mới về hình thức: từ cách trình bày đến các chuyên trang, chuyên
mục cũng có sự cải tiến để phục vụ tốt hơn nhiệm vụ tuyên truyền về công
cuộc đổi mới đất nước. Giai đoạn này cũng xuất hiện thêm nhiều thể loại, tiêu
biểu là xã luận, chính luận, điều tra...
* Trong giai đoạn này, ngôn ngữ báo chí đã có sự thay đổi rõ rệt. So
với báo chí giai đoạn trước đó, lớp ngôn ngữ chính trị và lớp ngôn ngữ
thường ngày đã xuất hiện đậm đặc trên mỗi trang viết, bài báo, bám sát những
chủ trương đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nước.
Nhiều khái niệm, thuật ngữ mới trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa – xã hội, đều
được đề cập và giải thích rõ ràng mà báo chí các giai đoạn trước đó chưa có
hoặc đã có nhưng chưa đề cập sâu sắc.Với chức năng và vai trò của mình, báo
chí nước ta giai đoạn này đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử, góp phần đắc
lực vào việc thúc đẩy nhanh tiến trình đổi mới đất nước.
2. Báo chí thời kì hội nhập phát triển ( 1996 đến nay)
2.1 Qui mô, chất lượng, số lượng báo chí phát triển nhanh.
- Tính đến tháng 2/ 1995, cả nước có 375 cơ quan báo và tạp chí,
khoảng hơn 360 triệu bản in với nhiều loại hình phong phú: hàng ngày, hàng
tuần, nửa tháng, hàng tháng, số cuối tuần, số cuối tháng... Một số tờ báo ra
thêm phụ san định kì hoặc không định kì. Một số báo bằng tiếng nước ngoài
( Anh, Pháp, Hoa…). Quảng cáo cũng là một hoạt động được mở rộng trên
báo chí.
- Đến đầu 2007, cả nước đã có 687 cơ quan báo chí với khoảng hơn
800 ấn phẩm, gồm 172 báo ( trung ương: 71, địa phương 101); 448 tạp
chí( trung ương: 352; dịa phương: 96); 67 đài phát thanh, truyền hình ( trung
12
ương: 2; địa phương 65); 5 báo điện tử, 105 trang tin điện tử của các cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp…
- Chưa đầy một năm sau đó, cuối 2007, cả nước đã có 702 tờ báo và tạp
chí với 830 ấn phẩm, 68 đài phát thanh, truyền hình ( trong đó 3 đài truyền
hình trung ương là VTV, VTC, VCTV; 1 đài phát thanh quốc gia là Đài tiếng
nói Việt Nam, 64 đài phát thanh, truyền hình cấp tỉnh và thành phố trực thuộc
Trung ương, trên 600 đài phát thanh cấp huyện và hàng chục phường, xã, thị
trấn, nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện, trường học; 1 hãng thông tấn nhà nước là
Thông tấn xã Việt Nam ( TTXVN); 6 báo mạng điện tử, 100 tờ báo in đưa lên
mạng Internet bằng các thứ tiếng, hàng ngàn trang điện tử…
- Đến cuối năm 2009, cả nước có 706 cơ quan báo in, 1 hãng thông tấn
quốc gia, 2 đài phát thanh truyền hình quốc gia và trên 560 đài phát thanh truyền hình cấp tỉnh, huyện.
- Ở tất cả các bộ, ngành, tổ chức chính trị - xã hội đều có cơ quan báo
chí. Các bộ lớn như: Bộ Quốc phòng, trên 20 cơ quan báo chí, Bộ Công An có
gần 20 cơ quan báo chí, Bộ Y tế, 15 cơ quan báo chí. Tổ chức chính trị có
nhiều cơ quan báo chí nhất là Trung ương Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh với 10 cơ quan báo chí. Các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đều
có ít nhất 2 đến 3 cơ quan báo chí, gồm báo của Đảng bộ địa phương, đài phát
thanh - truyền hình, tạp chí của Hội văn nghệ…Các địa phương có nhiều cơ
quan báo chí nhất là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Hải phòng, Đà Nẵng,
Nghệ An, Thừa Thiên - Huế, Đồng Nai…
* Sự tăng trưởng của báo chí Việt Nam thời kì này thể hiện rõ nét ở sự
phát triển về chủng loại. Báo in, ngoài những ấn phẩm vốn có như: nhật báo,
tuần báo, báo thưa kì, tạp chí, bản tin… đã xuất hiện những tờ tạp chí –
magazin với nội dung thiên về giải trí và mục đích rõ ràng là tập trung thu hút
quảng cáo. điều này có nghĩa là đã xuất hiện một loại sản phẩm báo chí có
13
mục đích thương mại. Mặt khác, vào thời điểm 1986, cả nước mới chỉ có 5 tờ
nhật báo, nay đã lên tới trên 20 tờ. Trên cả nước, hiện có 533 cơ quan báo in,
tạp chí với 713 ấn phẩm và hơn 1000 bản tin. Hàng năm, số lượng báo phát
hành ở nước ta khoảng 600 triệu bản, bình quân có 7,5 bản báo/người/năm.
Hầu hết các trung tâm tỉnh lị đều được đọc báo phát hành trong ngày.
- Hiện nay, hệ thống phát thanh của nước ta gồm hàng trăm đài phát
sóng, trong đó riêng Đài Tiếng nói Việt Nam trực tiếp quản lí 11 đài phát sóng
với công xuất hơn 8000 KW. Tín hiệu của Đài đã được truyền dẫn qua vệ tinh.
Hệ thống phát thanh địa phương gồm 64 đài ở các tỉnh, thành phố, 606 đài phát
thanh, truyền thanh cấp huyện, trong đó có 288 đài phát sóng FM.
- Truyền hình đã tập trung tăng thời lượng, nâng cao chất lượng chương
trình về nội dung, kỹ thuật, nghệ thuật, hình thức thể hiện, tăng cường tính
toàn quốc và quốc tê. Hiện nay, Đài truyền hình Việt Nam đã phát sóng trên 8
kênh. Đài truyền hình kỹ thuật số đã lớn mạnh nhanh chóng với hàng nghìn
cán bộ, phóng viên, biên tập viên… với các chương trình thông tin, giải trí
hấp dẫn. Thống kê trên cả nước, có khoảng 10 triệu máy thu hình, gần 85% số
hộ gia đình được xem truyền hình. Ngoài đài truyền hình quốc gia, còn có 4
trung tâm truyền hình khu vực của đài quốc gia và ở 64 tỉnh, thành phố đều có
đài truyền hình hoặc đài phát thanh - truyền hình.
- Thông tấn xã Việt nam hiện là hãng tin duy nhất của nước ta có 5 ban
biên tập tin, ảnh, 9 cơ quan báo chí, 1 trung tâm dữ liệu - tư liệu, 1 trung tâm
nghe nhìn, 1 nhà xuất bản, 61 phân xã trong nước và 25 phân xã nước ngoài.
Ngoài việc cung cấp trên mạng Internet và mạng nội bộ, Thông tấn xã việt
nam cung cấp hơn 30 loại sản phẩm thông tin bằng tiếng Việt và tiếng nước
ngoài cho các đối tượng có nhu cầu.
- Trong những năm qua, Việt Nam là nước có tốc độ tăng trưởng viễn
thông Internet cao nhất trong khu vư ASEAN với tốc độ bình quân là 32%/
14
năm. Hiện đã có 6 nhà cung cấp dịch vụ keets nối Internet ( IXP), khoảng 20
nhà cung cấp dịch vụ Internet ( ISP), hơn 50 nhà cung cấp thông tin ( ICP) và
báo điện tử trên Internet, có khoảng 2500 trang tin điện tử ( Website) đang
hoạt động…
* Sự phát triển Internet tạo động cơ thúc đẩy các cơ quan báo chí phát
triển báo chí đa phương tiện. Một số các tờ báo đã xuất bản đồng thời nhiều
loại báo chí khác nhau. Sự đa dạng hoá thông tin cùng với sự chuyên biệt hoá
đối tượng công chúng tiếp nhận thông tin vừa là kết quả có tính lô gic của
việc tăng nhanh số lượng, chủng loại sản phẩm báo chí, vừa là hệ quả tất yếu
của những tác động bởi các yếu tố kinh tê, chính trị, xã hội và kỹ thuật - nghệ
trong quá trình thực hiện chính sách đổi mới ở Việt Nam.
2.2 Đội ngũ người làm báo ngày càng phát triển lớn mạnh
- Năm 1991, nước ta có gần 7000 nhà báo, đến 2005, cả nước đã có
15.000 nhà báo được phát thẻ ( tăng hơn 2 lần trong vòng 15 năm). Đó là
chưa kể hàng chục nghìn người đang làm việc tại hơn 600 đài truyền thanh,
truyền hình cấp huyện, ở các bản tin định kì ở các cơ quan báo chí đảm bảo
cho quá trình tác nghiệp của các nhà báo.
- Đến cuối 2009, đội ngũ người làm báo nước ta đã phát triển lên hơn
17 nghìn hội viên hội nhà báo. Đội ngũ này ngày càng trẻ hoá, được đào tạo
bài bản, hệ thống, có chất lượng và trình độ nghiệp vụ. Đến nay, gần 80% nhà
báo có trình độ đại học trở lên, số nhà báo có 2 bằng đại học, sử dụng được 12 ngoại ngữ ngày càng tăng.
- Ở tất cả 63 tỉnh, thành phố đều có hội nhà báo cấp tỉnh, thành phố. Ở
trung ương có 15 Liên chi hội nhà báo và hàng trăm chi hội trực thuộc. Hoạt
động của các cấp hội ngày càng được nâng cao.
2.3 Một số những bước tiến khác của báo chí
15
- Công chúng ngày càng tích cực chủ động tham gia vào hoạt động báo
chí truyền thông
- Báo chí truyền thông tham gia tích cực, chủ động các hoạt động báo
chí khu vực và thế giới
- Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ báo chí truyền thông được đẩy
mạnh
- cơ sở vật chất, kỹ thuật, tài chính và đời sống người làm báo được
nâng lên rõ rệt
- Báo chí ngày càng phát huy vai trò tích cực đối với đời sống xã hội
* Hơn hai mươi năm đồng hành với công cuộc đổi mới đất nước, báo chí
Việt Nam đã không ngừng hoàn thiện về nội dung, hình thức, từng bước phát
triển về số lượng, chất lượng để thực hiện ngày càng tốt vai trò của mình
trong đời sống xã hội. Báo chí thực sự trở thành cầu nối giữa Đảng, Nhà nước
và nhân dân, tạo sức mạnh đoàn kết chống lại những luận điệu phản đọng,
xuyên tạc của kẻ thù, xây dự nền văn hoá dân tộc, từng bước đẩy lùi tệ nạn xã
hội, củng cố niềm tin của nhân dân vào công cuộc xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội.Từ những nỗ lực đúng hướng trên, chúng ta có thể khẳng định,
báo chí đã góp phần tích cực vào thành tựu chung của đất nước thời gian qua,
nhất là từ Ðại hội X đến nay.
3. Những hạn chế mà báo chí Việt nam thời kì đổi mới cần khắc phục
Ưu điểm lớn nhất của báo chí chúng ta hiện nay là nội dung phong phú,
đa dạng và toàn diện. Tính chuyên nghiệp của báo chí ngày càng được nâng
lên, nắm bắt được những vấn đề mới mà công chúng quan tâm. Báo chí chúng
ta hiện nay cũng đã làm tốt những đợt tập trung tuyên truyền trọng điểm về
những chủ trương, chính sách của Nhà nước và đạt được những hiệu quả lớn.
16
Tuy nhiên, bên cạnh đó báo chí hiện nay cũng còn những hạn chế, thiếu sót.
- Một số cơ quan báo chí và nhà báo có những biểu hiện chưa nghiêm
túc trong quá trình thực hiện Luật Báo chí, làm giảm hiệu quả thông tin báo
chí, ảnh hưởng không tốt đến kỷ cương xã hội
- Tình trạng thông tin thiếu chính xác vẫn là vấn đề khiến dư luận quan
tâm. Vẫn còn một số cơ quan báo chí, nhất là báo chí điện tử thông tin không
chính xác, thiếu nhạy cảm về chính trị;
- Sự trùng lặp thông tin, phản ánh giống nhau khiến công chúng nhàm
chán. Một số báo chí điện tử còn sơ hở trong sử dụng lại tin bài của nước
ngoài, có báo còn đăng cả những thông tin mật của Nhà nước, những bí mật
kinh tế liên quan đến hoạt động sản xuất-kinh doanh của các doanh nghiệp
- Tiếp theo đó là báo chí hiện nay vẫn nặng về phản ánh sự kiện, thiếu
những thông tin hướng dẫn cho người đọc người xem cần phải làm gì. Nói
cách khác thì trong các thông tin yếu tố xây dựng còn kém.
Một số báo chí điện tử còn nặng thông tin về tiêu cực, có nhiều tin bài
chạy theo thị hiếu tầm thường để “hấp dẫn” người đọc, ít chú ý đến việc phát
hiện, cổ vũ, biểu dương những gương người tốt, việc tốt, những nhân tố mới,
điển hình tiên tiến trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Hạn chế cuối cùng là kỹ năng làm báo trong xu hướng hội tụ hiện nay
đòi hỏi tính chuyên nghiệp cao nhưng không phải người làm báo nào cũng đáp
ứng được điều đó.
4. Một số giải pháp phát triển báo chí Việt Nam hiện nay
Vận dụng Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí cách mạng, công tác lãnh
đạo, quản lý báo điện tử cần tập trung vào một số vấn đề sau:
17
1. Cần lãnh đạo, quản lý hệ thống báo chí điện tử bảo đảm đúng định hướng
chính trị tư tưởng. Đây là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong công
tác lãnh đạo, quản lý hệ thống báo chí điện tử. Định hướng chính trị tư tưởng
có ý nghĩa như “kim chỉ nam” dẫn đường mọi hoạt động. Báo chí nước ta là
báo chí xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, gắn liền với
dân chủ XHCN, không phục vụ mục đích, quyền lợi của riêng một cá nhân,
lực lượng nào nên không thể tách rời yếu tố định hướng chính trị tư tưởng.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã chỉ rõ: Tăng
cường sự lãnh đạo của đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ
quan báo chí. Khắc phục những biểu hiện lệch lạc trong hoạt động báo chí,
xuất bản, văn hoá, văn nghệ, nhất là xa rời tôn chỉ, mục đích, chạy theo thị
hiếu thấp kém, vì lợi ích vật chất cá nhân cục bộ. Định hướng chính trị tư
tưởng đối với báo chí điện tử phải báo đảm một số vấn đề cơ bản sau:
- Phải thông tin nhanh, trung thực về mọi mặt của tình hình đất nước và
thế giới.
- Tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, thành tựu văn hoá, khoa học, kỹ thuật trong nước và
thế giới theo đúng tôn chỉ, mục đích của cơ quan báo chí, góp phần nâng cao
kiến thức, đáp ứng nhu cầu văn hoá lành mạnh của nhân dân, bảo vệ truyền
thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng và phát triển nền dân chủ XHCN, tăng
cường khối đoàn kết toàn dân, xây dựng cơ sở vật chất cho thời kỳ quá độ lên
CNXH và bảo vệ Tổ quốc.
- Phản ánh kịp thời và hướng dẫn dư luận xã hội; là diễn đàn thực hiện
quyền tự do ngôn luận của nhân dân.
18
- Phát hiện, biểu dương gương tốt, nhân tố mới; đấu tranh chống các hành
vi vi phạm pháp luật và các hiện tượng tiêu cực xã hội khác.
- Mở rộng sự hiểu biết lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc, tham gia
vào sự nghiệp của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội.
Để bảo đảm định hướng chính trị tư tưởng đối với hệ thống báo chí điện
tử, công tác lãnh đạo, quản lý cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau:
Một là, ban hành văn bản hướng dẫn và những quy định cụ thể phù hợp
thực tiễn; cung cấp thông tin định hướng về hoạt động chính trị, kinh tế-xã hội
lớn của đất nước để báo chí điện tử có căn cứ thực hiện.
Hai là, nâng cao phẩm chất, bản lĩnh chính trị, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ những người làm báo nói chung,
báo chí điện tử nói riêng, nhất là tổng biên tập, phó tổng biên tập, những
người trực tiếp quyết định chất lượng cũng như tính định hướng của báo chí
điện tử.
Ba là, xây dựng, quản lý tốt quy trình làm báo chí điện tử, bảo đảm vừa
tạo điều kiện cho phóng viên, biên tập viên tác nghiệp thuận lợi, nhanh nhạy,
vừa bảo đảm quy trình duyệt tin bài của người có trách nhiệm trong cơ quan
báo chí (tổng biên tập hoặc phó tổng biên tập được uỷ quyền).
Bốn là, phát huy vai trò của các cơ quan quản lý báo chí, cơ quan chủ
quản trong việc định hướng chính trị tư tưởng cho báo chí điện tử.
2. Nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin, tuyên truyền, xây dựng phong
cách làm việc theo hướng chuyên môn hoá cao.
19
3. Phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật và nghiệp vụ.
Yếu tố làm nên tính ưu việt của báo chí điện tử chính là khoa học-công nghệ,
song những hạn chế, khuyết điểm của báo chí điện tử cũng có nguyên nhân từ
yếu tố này. Để báo chí điện tử phát triển cơ sở hạ tầng kĩ thuật, nghiệp vụ cần
tập trung vào một số vấn đề chính sau:
- Có biện pháp để sớm “chuẩn hoá” một số tiêu chí về hạ tầng kỹ thuật đảm
bảo cho một tờ báo điện tử hoạt động.
- Mở rộng hợp tác quốc tế, trao đổi kinh nghiệm với nước ngoài về chuyên
môn, nghiệp vụ, kỹ thuật và quản lý báo chí điện tử.
- Có biện pháp quản lý tên miền, bản quyền tên và thiết kế báo, bảo đảm an
ninh mạng đối với hệ thống báo chí điện tử.
- Làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, phóng viên, nhanh chóng xây
dựng đội ngũ cán bộ quản lý, biên tập viên, phóng viên, kỹ thuật viên, nhân
viên làm việc trong các cơ quan báo chí điện tử có phẩm chất chính trị vững
vàng, có trình độ nghiệp vụ và kỹ thuật đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, làm chủ
được hệ thống hạ tầng hiện đại.
20
KẾT LUẬN
Nhìn lại những chặng đường đã đi qua của báo chí Việt Nam, có thể
thấy mỗi bước trưởng thành của báo chí luôn gắn liền với lịch sử dân tộc. Báo
chí Việt Nam cũng có thể làm được những điều kì diệu như chính dân tộc Việt
Nam đã viết lên những trang sử hào hùng trong công cuộc dựng nước và giữ
nước. Với gần 1,5 thế kỉ hình thành và phát triển, báo chí Việt Nam dã không
ngừng phát huy vai trò của mình đối với đời sống xã hội. Mỗi thời kì với
những đặc điểm riêng, báo chí việt Nam đã làm nên những sắc diện đáng nhớ.
Qua hơn 20 năm đổi mới, các phương tiện thông tin đại chúng nói
chung và báo chí nói riêng đã có những đóng góp hết sức quan trọng trong sự
nghiệp đổi mới và quá trình giao lưu, tiếp nhận và hội nhập văn hóa quốc tế.
Những thành tựu và đóng góp đó có nguyên nhân sâu xa từ quá trình đổi mới
của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hơn 20 năm qua mà báo chí Việt Nam là
một biểu hiện sinh động. Xu thế hội nhập và giao lưu quốc tế đang diễn ra
mạnh mẽ hơn bao giờ hết, báo chí Việt Nam phải tiếp tục đóng vai trò là công
cụ tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng, định hướng công chúng và
phục vụ nhu cầu thông tin của nhân dân. Bên cạnh những thành tựu, báo chí
Việt Nam vẫn còn những hạn chế, tồn tại cần được chỉ rõ và khắc phục.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp,
hoàn thành những nhiệm vụ nói trên cũng chính là việc tạo lập cơ sở, điều
kiện cho báo chí phát triển theo xu hướng tích cực, góp phần phát triển kinh tế
- xã hội, giữ vững ổn định nhằm thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
21
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. TS. Trịnh Thị Bích Liên, Đề cương bài giảng môn Lịch sử báo chí Việt
Nam, phần 3.2. Báo chí Việt Nam thời kì đổi mới và hội nhập.
2. Dương Xuân Sơn, Đinh Hường, Trần Quang, Cơ sở lý luận báo chí truyền
thông, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2007.
3. Lê Doãn Hợp, Quản lý báo chí trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay ,
Tạp chí Cộng sản, Hà Nội, số 776 tháng 6 năm 2007, trang 36 - 39.
4. Tạ Ngọc Tấn, Một số vấn đề về phát triển báo chí nước ta hiện nay , Tạp
chí Cộng sản, Hà Nội, số 775, tháng 5 năm 2007, trang 41 - 47.
5. Nguyễn Thị Thanh, Báo chí Việt Nam trong tiến trình hội nhập và phát
triển của đất nước , Tạp chí Lý luận chính trị & Truyền thông, Hà Nội, số 7,
tháng 7 năm 2007 trên internet.
22
MỤC LỤC
23