Tải bản đầy đủ (.doc) (88 trang)

Đồ án tốt nghiệp các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may của công ty dệt may hà nội sang thị trường mỹ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (477.1 KB, 88 trang )

Đẩy mạnh xuất khẩu là một chủ trương kinh tế lớn của Đảng và Nhà nước ta
được khẳng định tại Đại hội Đảng VIII (1996), Đại hội IX (2001) và trong nghị
quyết 01/NQ- TW của Bộ Chính trị với mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá (CNH, HĐH) hướng về xuất khẩu.
Với lợi thế về xuất khẩu hàng dệt may, vấn dề thâm nhập và phát triển các
thị trường mới, có dung lượng thị trường lớn đang đặt ra cho các doanh nghiệp dệt
may Việt Nam những khó khăn và thách thức. Hàng dệt may Việt Nam đã có mặt
và dần củng cố vị trí của mình tại các thị trường lớn như EU, Nhật Bản… Tuy
nhiên hàng dệt may Việt Nam đang gặp những khó khăn không nhỏ trong việc đẩy
mạnh lượng hàng xuất khẩu và để tìm được lối ra cho bài toán thị trường tiêu thụ
thì hướng cần thiết nhất là khai thác để thâm nhập và mở rộng thị phần ở những thị
trường mới trong đó có Mỹ là một thị trường đầy hứa hẹn và có tiềm năng nhất.
Tiềm năng hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam là rất to lớn: cùng với
việc ký kết hiệp định song phương, quan hệ thương mại Việt - Mỹ đã bước sang
trang mới. Vì vậy việc xem xét khả năng thâm nhập và đẩy mạnh xuất khẩu hàng
dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ một thị trường có dung lượng tiêu thụ
lớn nhất thế giới là có cơ sở và đã trở nên rất cần thiết. Tuy nhiên bên cạnh những
thuận lợi còn có không ít những khó khăn và thách thức đòi hỏi không chỉ sự nỗ lực
rất lớn của các doanh nghiệp dệt may Việt Nam mà cần có sự hỗ trợ tích cực từ
phía Nhà nước để có thể tiếp cận và đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam
vào thị trường Mỹ.
Công ty Dệt may Hà Nội là một trong những con chim đầu đàn của Tổng
Công ty Dệt May Việt Nam, trong bước chuyển mình của toàn ngành dệt may Việt
Nam, Công ty cũng đang từng bước mở rộng thị trường xuất khẩu sản phẩm dệt
may của mình sang thị trường Mỹ và trong những bước tiến này Công ty sẽ gặp
không ít những khó khăn và thách thức. Trong quá trình thực tập tại Công ty, tôi
thấy cần thiết phải có những biện pháp cụ thể nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu
sản phẩm dệt may của Công ty sang thị trường Mỹ nhất là trong bối cảnh hiện nay.
Xuất phát từ ý tưởng đó cùng với những kiến thức được trang bị ở trường và
những thông tin thực tế thu thập được trong thời gian thực tập, tôi đã quyết định lựa
chọn đề tài: “Các biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may của Công ty


Dệt May Hà Nội sang thị trường Mỹ” làm đồ án tốt nghiệp của mình.
Đối tượng nghiên cứu đề tài tập trung vào hoạt động xuất khẩu của một
doanh nghiệp bao gồm nhiều khâu từ khâu điều tra thị trường nước ngoài, quảng bá
sản phẩm, tìm và lựa chọn đối tác xuất khẩu, đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng,
1


đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu… và các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động
xuất khẩu của doanh nghiệp.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là hoạt động xuất khẩu sản phẩm dệt may
sang thị trường Mỹ của Công ty Dệt May Hà Nội.
Trong đề tài này, tôi sử dụng phương pháp thống kê số liệu để phân tích,
đánh giá thực trạng hoạt động xuất khẩu hàng dệt may của Công ty Dệt May hà Nội
sang thị trường Mỹ trong thời gian qua, kết hợp với biện pháp tìm kiếm, thu thập và
xử lý những thông tin có liên quan đến thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may ở Mỹ,
từ đó đưa ra những biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng dệt
may sang thị trường Mỹ của Công ty Dệt May Hà Nội trong thời gian tới.
Nội dung của đề tài được chia làm ba phần như sau:
Chương I: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu.
Chương II: Thực trạng xuất khẩu sản phẩm dệt may của Công ty Dệt May
Hà Nội sang thị trường Mỹ.
ChươngIII: Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm dệt may của
Công ty Dệt May Hà Nội sang thị trường Mỹ.
Trong khả năng có thể tôi đã rất cố gắng để hoàn thiện đề tài này, tuy nhiên
do hạn chế về mặt kiến thức và về thời gian cũng như nguồn tài liệu nên chắc chắn
bàI viết này sẽ còn nhiều thiếu sót, rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến để tôI
có thể nhận thức về vấn đề này một cách hoàn thiện hơn. Qua đây tôi xin chân
thành cảm ơn GS.TS Đỗ Hoàng Toàn - thầy giáo trực tiếp hướng dẫn, tập thể
Phòng Kế hoạch Thị trường, tập thể Phòng Xuất Nhập khẩu, Ban Giám đốc Công
ty Dệt May Hà Nội đã cung cấp tài liệu và dành thời gian cũng như ý kiến đóng

góp để tôI hoàn thành đề tài này.Tôi xin chân thành cảm ơn!

2


Chương I:

Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu
I. Khái niệm xuất khẩu, nội dung của hoạt động xuất khẩu và các hình thức xuất khẩu

1. Khái niệm xuất khẩu.
Hiện nay, có rất nhiều quan điểm khác nhau về xuất khẩu
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hoạt động xuất khẩu là một bộ phận của
thương mại quốc tế, trong đó hàng hoá và dịch vụ được bán cho người nước ngoài
nhằm thu ngoại tệ.
Theo quan điểm này thì xuất khẩu là việc bán hàng hoá và dịch vụ chỉ nhằm
mục đích thu ngoại tệ. Quan điểm này đúng một phần, bởi mục đích của xuất khẩu
không chỉ là để thu ngoại tệ mà là để đạt được những lợi ích nhất định trong đó lợi
nhận chỉ là một lợi ích.
Quan điểm thứ hai thì cho rằng: Xuất khẩu là một quá trình trao đổi hàng
hoá giữa các nước thông qua mua bán nhằm đạt được mức lợi nhuận cao nhất.
Quan điểm này lại rơi vào tình trạng như quan điểm thứ nhất, bởi lợi nhuận chỉ là
một trong những lợi ích mà xuất khẩu hướng tới.
Quan điểm thứ ba cho rằng: Xuất khẩu là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ
giữa các quốc gia thông qua mua bán, lấy tiền tệ làm môi giới, tuân theo nguyên tắc
ngang giá. Quan điểm này hoàn toàn đúng song nó cũng chưa khái quát hết được
những hình thức xuất khẩu đã xuất hiện trong thực tế. Theo như định nghĩa này thì
xuất khẩu bên cạnh dòng vận động của hàng hoá còn có dòng vận động của tiền với
chức năng môi giới, thế nhưng trong hình thức buôn bán đối lưu - một hình thức
xuất khẩu - thì chỉ có dòng vận động của hàng hoá mà không có dòng vận động của

tiền.
Tóm lại, những quan điểm trên đều đúng, song nó chỉ phản ánh hoạt động
xuất khẩu trong những trường hợp riêng biệt mà thôi. Hiện nay, có một khái niệm
được nhiều người công nhận và mang tính khái quát cao:
Xuất khẩu hàng hoá là sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ với người nước
ngoài thông qua mua bán nhằm đạt được những mục đích nhất định.
2. Nội dung cơ bản của hoạt động xuất khẩu.
Hoạt động xuất khẩu phức tạp hơn, rủi ro hơn nhiều so với việc bán sản
phẩm trên thị trường nội địa. Để hoạt động được trên thị trường quốc tế, tất cả các
doanh nghiệp dù đã có kinh nghiệm hay bắt đầu tham gia vào kinh doanh đều phải
tuân thủ một cách nghiêm túc các công đoạn của một thương vụ làm ăn thì mới có
khả năng tồn tại được lâu dài. Hoạt dộng xuất khẩu được tổ chức thực hiện với
3


nhiều khâu tù điều tra nghiên cứu thị trường nước ngoài, lựa chọn hàng hoá xuất
khẩu, lựa chọn đối tác đàm phán, ký kết, thực hiện hợp đồng…mỗi khâu nghiệp vụ
phải nghiên cứu kỹ lưỡng đặt trong mối quan hệ lẫn nhau, tranh thủ nắm bắt những
lợi thế nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh xuất khẩu đạt hiệu quả cao. Nội dung
hoạt động xuất khẩu bao gồm:
2.1. Nghiên cứu tiếp cận thị trường.
Nghiên cứu thị trường trong kinh doanh quốc tế là một loạt các thủ tục và kỹ
thuật được đưa ra để giúp các nhà kinh doanh có đầy đủ các thông tin cần thiết, từ
đó có thể đưa ra quyết định chính xác, là điều kiện tiên quyết đầu tiên đối với bất
kỳ một doanh nghiệp nào muốn tham gia vào thị trường quốc tế. Đó là quá trình
điều tra, khảo sát để tìm khả năng bán hàng đối một hoặc một nhóm sản phẩm và cả
biện pháp để thực hiện mục tiêu đó.
Hoạt động nghiên cứu thị trường xuất khẩu về cơ bản cần bao gồm những
nội dung sau:
2.1.1. Nghiên cứu nhu cầu về sản phẩn hàng hoá mà doanh nghiệp có thể cung

ứng.
Việc nghiên cứu nhằm giải đáp các vấn để như nhu cầu của thị trường, thị
hiếu tiêu dùng, khả năng và các nguồn cung cấp chủ yếu của các đối thủ cạnh tranh.
Từ đó xác định dược khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Trên cùng một
thị trường nước ngoài có rất nhiều loại hàng hoá cùng loại của các nhà cung ứng
khác nhau, trong đó có những loại sản phẩm của nhà cung ứng này chiếm phần
nhiều thị trường, số khác của nhà cung ứng khác lại chiếm được rất ít thị phần của
thị trường. Điều này có quan hệ mật thiết tới chất lượng, quy cách, chủng loại, màu
sắc, trang trí bao bì của hàng hoá, chất lượng dịch vụ…có thích ứng với thị trường
hay không. Chúng ta cần phải làm rõ tình hình tiêu thụ của thị trường, của các loại
hàng hoá khác nhau này đặc biệt là nghiên cứu các đặc điểm của các loại hàng hoá
bán chạy trên thị trường, nhằm chủ động thích ứng với nhu cầu thị trường, mở rộng
xuất khẩu. Một yếu tố xần xem xét là tìm hiểu giá trị thương phẩm của hàng hoá,
chu kỳ sống mà sản phẩm đang trải qua: Chu kỳ sống của sản phẩm là tiến trình
phát triển của việc tiêu thụ một mặt hàng bao gồm bốn giai đoạn: (1) thâm nhập (2) phát triển - (3) bão hoà - (4) thoái trào. Việc xuất khẩu những mặt hàng đang ở
giai đoạn (1) và (2) gặp nhiều thuận lợi nhất. Tuy vậy có khi mặt hàng ở giai đoạn
(4) nhưng nhờ các biện pháp xúc tiến tiêu thụ như quảng cáo, cải tiến hệ thống tiêu
thụ, giảm giá…người ta vẫn có thể đẩy mạnh được xuất khẩu.
2.1.2. Nghiên cứu dung lượng thị trường.

4


Nghiên cứu dung lượng thị trường là việc nghiên cứu về khối lượng hàng hoá mà
thị trường có thể tiêu thụ hoặc giao dịch để có thể nhập khẩu trong một thời gian
nhất định. Nghiên cứu dung lượng thị trường cần xác định nhu cầu thị trường, khả
năng sản xuất tại chỗ, triển vọng thay đổi dung lượng, khả năng và các nguồn cung
cấp chủ yếu của các đối thủ cạnh tranh. Trên cơ sở phân tích, người ta làm thành
bảng cân đối nhu cầu về từng mặt hàng. Bảng đó có các số liệu về sản xuất, nhập
khẩu, xuất khẩu, dự trữ, diễn biến nhu cầu của khả năng cung cấp. Từ đó rút ra nhu

cầu xuất khẩu của công ty vào thị trường đó.
Các nhân tố làm dung lượng thị trường thay đổi có thể chia thành ba nhóm
căn cư vào thời gian ảnh hưởng của nó tới thị trường.
Nhóm I. Các nhân tố làm cho dung lượng thị trường có tính chu kỳ như sự
vận động của tình hình kinh tế các nước trên thế giới, nhất là các nước có nhu cầu
nhập khẩu hàng hoá mà doanh nghiệp có khả năng đáp ứng; tính thời vụ trong quá
trình sản xuất và lưu thông hàng hoá.
Nhóm II. Các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến đổi của dung lượng thị
trường như tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ, các biện pháp chế độ chính
sách của Nhà nước, thị hiếu tập quán của người tiêu dùng.
Nhóm III. Các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đến thị trường như hiện tượng đầu
cơ trên thị trường, bão lụt, hạn hán…
Việc nắm vững được dung lượng thị trường giúp cho nhà kinh doanh cân
nhắc để ra quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng chớp được thời cơ giao dịch
nhằm đạt hiệu quả cao.
2.1.3Nghiên cứu các hình thức và biện pháp tiêu thụ hàng hoá.
Nghiên cứu để biết điều kiện về chính trị, thương mại của nước đó, các mối
quan hệ và các điều kiện hiệp định thương mại của Chính phủ nước khác, hệ thống
pháp luật và các biện pháp điều hoà xuất khẩu, biểu thuế quan hàng hoá xuất khẩu,
việc tham gia của nước đó vào khối chính trị, các tổ chức kinh tế thế giới, luật
ngoại hối, các chế độ tín dụng và các biện pháp cơ chế xuất nhập khẩu.
2.1.4. Nghiên cứu giá cả hàng hoá trên thị trường.
Trong buôn bán quốc tế, giá cả càng trở nên phức tạp do buôn bán diễn ra ở
các khu vực khác nhau với thời gian dài và vận chuyển qua nhiều nước với thủ tục
và chính sách thuế khác nhau. Để thích ứng với các biến động của thị trường, các
nhà kinh doanh thường phải thực hiện việc định giá linh hoạt phù hợp với khả năng
và mục đích của doanh nghiệp. Thông thường các nhà xuất khẩu định giá bán dựa
trên căn cứ sau:
• Căn cứ giá thành cộng chi phí khác.
5



• Căn cứ vào sức mua của người tiêu dùng và nhu cầu của họ.
• Căn cứ vào giá cả của đối thủ cạnh tranh.
Nghiên cứu giá cả được coi là một khâu rất quan trọng trong hoạt động xuất
khẩu hàng hoá, là chiến lược ưu tiên hàng đầu bởi nó ảnh hưởng trực tiếp đế khối
lượng tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Định giá bảo đảm cho các nhà sản
xuất giành thắng lợi trong kinh doanh, đây cũng là phương pháp tốt nhất để tránh
rủi ro và thua lỗ.
2.1.5. Nghiên cứu mạng lưới kênh phân phối của thị trường.
Nghiên cứu để lựa chọn hệ thống kênh phân phối phù hợp với loại hàng hoá
của doanh nghiệp nhằm vào đối tượng khách hàng nhất định.
2.1.6. Nghiên cứu lựa chọn đối tác kinh doanh.
Kết quả xuất khẩu phụ thuộc vào thương nhân cụ thể mà doanh nghiệp lựa
chọn, vì vậy phải làm rõ:
- Thái độ chính trị của đối tác.
- Triết lý kinh doanh.
- Khả năng vốn và cơ sở vật chất, tiềm lực tài chính.
- Uy tín, mối quan hệ của họ trên thương trường.
- Những người chịu trách nhiệm thay mặt để kinh doanh và phạm vi của họ
đối với nghĩa vụ của công ty.
Việc nghiên cứu tình hình thị trường giúp cho đơn vị kinh doanh lựa chọn
được thị trường, thời cơ thuận lợi, lụa chọn được phương thức mua bán và những
điều kiện giao dịch thích hợp. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp, kết qủa của hoạt
động xuất khẩu còn phụ thuộc vào khách hàng. Trong cùng điều kiện như nhau,
việc giao dịch với khách hàng này thì thành công, nhưng với khách hàng khác lại
bất lợi. Vì vậy, một nhiệm vụ quan trọng của doah nghiệp trong giai đoạn chuẩn bị
là lựa chọn được những khách hàng có triển vọng nhất.
* Các bước tiến hành nghiên cứu thị trường.
Bước 1: Tổ chức hợp lý việc nghiên cứu thu thập các nguồn thông tin về nhu

cầu thị trường. Hông tin là cơ sở để ra các quyết đinh. Yêu cầu trước tiên là phải
nắm bắt thông tin một cách nhanh chóng, bởi vì mọi biến động của thị trường diễn
ra rất nhanh và phức tạp, nếu không nắm bắt được thì công ty sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội
trong kinh doanh. Những thông tin mà công ty có được đòi hỏi phải chính xác vì nó
là căn cứ đề ra quyết định đúng đắn.
Bước 2: Phân tích và xử lý đúng đắn số liệu thông tin thu thập được.

6


Bước 3: Xác định thị trường có khả năng nhất đối với công ty, đó là việc trả
lời những câu hỏi sau:
- Thị trường nào là có triển vọng nhất đối với côgn ty?
- Thị trường cần mặt hàng gì? Những mặt hàng nào có khả năng tiêu thụ lớn
nhất? Mặt hàng đó ở thời kỳ nào của chu kỳ sống?
- Tình hình sản xuất mặt hàng đó ra sao?
- Dung lượng thị trường là bao nhiêu?
- Những yêu cầu của thị trường đối với hàng hoá?
- Thị hiếu mạng lưới tiêu thụ, phương pháp tiêu thụ và hệ thống kênh phân
phối?
Khi nghiên cứu những vấn đề trên, người ta thường sử dụng hai phương
pháp chủ yếu là điều tra qua tài liệu, sách báo, internet…và điều tra tại chỗ. Ngoài
ra còn có các phương pháp khác như mua bán thử, mua dịch vụ thông tin của các
doanh nghiệp điều tra tín dụng, thông qua người thứ ba để tìm hiểu khách hàng.
Điều tra qua tài liệu sách báo: Phương pháp này còn gọi là phương pháp
nghiên cứu tại phòng làm việc (Desk research), đây là phương pháp phổ biến nhất
và ít tốn kém nhất. Tài liệu thường sử dụnglà các bản tin giá cả thị trường của các
cơ quan thông tin như Thông tấn xã Việt Nam, Trung tâm Thông tin Kinh tế đối
ngoại, các báo cáo của cơ quan Thương vụ Việt Nam tại nước ngoài, Phòng
Thương mại và Công nghiệp Việt Nam, Internet…

Điều tra tại chỗ (Field research): ở phương pháp này, người ta cử người đến
tận thị trường để tìm hiểu tình hình, tiếp xúc với các thương nhân mà họ có thể trở
thành khách hàng tiềm năng của công ty. Phương pháp này tuy tốn kém nhưng giúp
các công ty xuất khẩu nhanh chóng nắm bắt được những thông tin chính xác và
toàn diện.
Đây là bước quan trọng thể hiện tư tưởng chỉ bán cái mà thị trường đang cần
chứ không phải bán cái mà doanh nghiệp đang có.
2.2. Lập phương án kinh doanh.
Trên cơ sở kết quả thu lượm được trong quá trình nghiên cứu tiếp cận thị
trường, doanh nghiệp kinh doanh quốc tế bắt đầu lập phương án kinh doanh, bao
gồm những bước sau:
Đáng giá tình hình thị trường: Trong bước này, người lập phương án rút ra
những nét tổng quát về tình hình thị trường, phân tích những khó khăn và thuận lợi
trong kinh doanh xuất khẩu.
Chọn mặt hàng, thời cơ và phương thức xuất khẩu. Sự lựa chọn này phỉ có
tính thuyết phục trên cơ sở phân tích tình hình có liên quan.
7


Đề ra mục tiêu: Những mục tiêu đề ra trong một phương án kinh doanh xuất
khẩu bao giờ cũng là mục tiêu cụ thể như: doanh số bán hàng, giá bán, phát triển thị
trường ở những thị trường nào, tăng thị phần…
Đề ra biện pháp thực hiện: Những biện pháp thực hiện này là công cụ để đạt
tới mục tiêu đề ra. Những biện pháp có thể là: đầu tư sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm, cải tiến bao bì, đẩy mạnh quảng cáo, lập chi nhánh ở nước ngoài, mở
rộng mạng lưới đại lý…
Sơ bộ đánh giá hiệu quả kinh tế của việc xuất khẩu. Các chỉ tiêu đánh giá
chủ yếu là: tỷ suất ngoại tệ, chỉ tiêu thời gian hoà vốn, chỉ tiêu điểm hoà vốn.

2.3. Quảng cáo đàm phán và ký kết hợp đồng xuất khẩu.

Sau giai đoạn nghiên cứu tiếp cận thị trường, để chuẩn bị cho những giao
dịch xuất khẩu, các doanh nghiệp bắt đầu tiến hành tiếp xúc với kháck hàng bằng
biện pháp quảng cáo.
2.3.1. Quảng cáo.
Quảng cáo là sự tuyên truyền, giới thiệu về hàng hoá và dịch vụ nhằm thu
hút sự chú ý của những đối tượng có thể đang và sẽ trở thành khách hàng tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp, gây sự thích thú đối với hàng hoá và dịch vụ đó và
cuối cùng làm cho họ trở thành khách hàng thực tế của doanh nghiệp.
Tác dụng của quảng cáo đối với người mua có thể tóm tắt qua 4 pha sau:
• A (gây sự chú ý: attention).
• I (gây thích thú: interest).
• D (gây ham muốn: desire).
• A (thúc đẩy hành động).
Những nội dung chủ yếu của quảng cáo là: phẩm chất của hàng hoá, công
dụng của hàng hoá, phương pháp sử dụng và bảo quản hàng hoá, đặc điểm của
hàng hoá đó, điều kiện mua bán và giá cả, địa điểm bán hoặc nơi trưng bày, địa chỉ
của đơn vị nhập khẩu hoặc cơ quan đại diện cho đơn vị đó, cách thức gửi đơn đặt
hàng.
Các phương thức quảng cáo chủ yếu là thông qua báo chí, tập san, các loại
ấn phẩm, phát thanh, truyền hình, mạng internet, điện ảnh, quảng cáo ngoài trời,
tham gia các hội chợ triển lãm, gửi tặng phẩm…
Công tác quảng cáo tuyên truyền càng tốt thì càng thúc đẩy xuất khẩu, làm
mở rộng thị trường tiêu thụ, đẩy nhanh tốc độ và quy mô xuất khẩu.ở các nước
công nghiệp phát triển do cạnh tranh gay gắt nhằm tranh giành thị trường và khách
8


hàng để tiêu thụ, việc tổ chức quảng cáo sản phẩm xuất khẩu lại càng trở nên cấp
thiết hơn đối với các nhà xuất khẩu. Các hãng lớn, nhất là các hãng tư bản độc
quyền, đều tự đảm lấy việc quảng cáo cho hàng hoá của mình. ở nước ta hiện nay,

các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu và Phòng Thương mại và Công nghiệp là cơ
quan chủ yếu có trách nhiệm tiến hành quảng cáo cho các mặt hàng của Việt Nam
ở thị trường nước ngoài.
2.3.2. Đàm phán ký kết hợp đồng xuất khẩu
2.3.2.1. Các hình thức đàm phán xuất khẩu.
Đàm phán là việc trao đổi với nhau các điều kiện mua bán giữa nhà xuất
khẩu và khách hàng để đi đến ký kết hợp đồng xuất khẩu. Thông thường có những
hình thức sau;
Đàm phán qua thư tín: Ngày nay việc sử dụng hình thức này vẫn là phổ biến
giữa các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu, những cuộc tiếp xúc ban đầu thường là
qua thư tín. Sau này hai bên có điều kiện gặp nhau trực tiếp thì việc quan hệ thư tín
vẫn tiếp tục. Việc đàm phán qua thư tín phải luôn nhớ rằng thư từ là sứ giả của
mình đối với khách hàng bởi vậy cách viết thư đòi hỏi phải đảm bảo lịch sự, chính
xác.
Đàm phán qua điện thoại: việc đàm phán, trao đổi qua điện thoại nhanh
chóng, giúp cho các nhà doanh nghiệp tiến hành đàm phán một cách khẩn trương,
đúng lúc và vào thời điểm cần thiết. Trao đổi qua điện thoại là việc trao đổi bằng
miệng, không có gì làm bằng chứng cho những quyết định, thoả thuận trong trao
đổi, bởi vậy hình thức này chỉ nên áp dụng trong trường hợp cần thiết, khẩn trương
kẻo lỡ thời cơ hoặc trong trường hợp chỉ chờ xác nhận một cách chi riết. Khi phải
sử dụng điện thoại để đàn phán, cần phải chuẩn bị nội dung chu đáo để trao đổi, sửa
khi trao đổi bằng điện thoại cần có thư xác nhận nội dung đàm phán.
Đàm phán bằng cách gặp gỡ trực tiếp: việc gặp gỡ trựctiếp giữa hai bên trao
đổi về điều kiện đàm phán, đây là hình thức rất quan trọng, đẩy mạnh tốc độ giải
quyết mọi vấn đề mà các bên cùng quan tâm. Hình thức này thường được dùng khi
có các điều kiện phải giải thích cặn kẽ, thuyết phục nhau hoặc là đàm phán những
hợp đồng lớn, phức tạp.
2.3.2.2. Nội dung của đàm phán.
Nội dung của một cuộc đàm phán trong thương mại quốcc tế bao gồm những
vấn đề sau: Tên hàng, phẩm chất, số lượng, bao bì đóng gói, điều kiện giao hàng,

giá cả,thanh toán, bảo hiểm, bảo hành, khiếu nại, phạt vầ bồi thường thiệt hại, trọng
tài, trường hợp bất khả kháng.
* Các bước tiến hành đàm phán.
9


Bước 1: Chào hàng (Offer): Để có thể tiến tới ký kết một hợp đồng xuất
khẩu, người xuất khẩu phảI đưa ra một bảng chào hàng với bên mua mà trong đó có
ghi rõ những điều kiện giao dịch cụ thể. Đây là việc nhà xuất khẩu thể hiện rõ ý
định của mình là bán hàng, là lời đề nghị ký kết hợp đồng, nếu việc mua bán xuất
phát từ phía người mua thì có thể hỏi giá hoặc dặt hàng. Trong chào hàng, người ta
ghi rõ: tên hàng, quy cách phẩm chất, số lượng, giá cả, điều kiện giao hàng, điều
kiện thanh toán…
Chào hàng có hai loại:
Chào hàng cố định: là việc chào bán một lô hàng cho người mua nào đó
trong đó có nêu rõ thời gian mà người choà hàng chịu trách nhiệm về lời đề nghị
của mình.
Chào hàng tự do: là loại chào hàng không ràng buộc trách nhiệm. Người
chào hàng tự do cần phảI làm rõ tất cả những yếu tố cần thiết liên quan đến thương
vụ xuất khẩu.
Trước khi chào hàng, nhà xuất khẩu cần nắm được quan hệ cung cầu về hàng
hoá trên thế giới, mức giá hiện hành trên thị trường, nhu cầu của người mua và khả
năng của anh ta. Trên cơ sở đó ta xác định nên đưa loại đơn chào hàng nào: đơn
chào hàng cố định hay đơn chào hàng tự do.
Dù chào hàng theo cách nào, đơn chào hàng cũng cần rõ ràng và có sức hấp
dẫn. Sự hấp dẫn không chỉ thể hiện ở giá thấp, ở sự giảm giá mà còn có thể ở dịch
vụ cung cấp cho người mua, điều kiện thanh toán có lợi cho người mua.
Bước 2. Hoàn giá (Counter): Khi người nhận được đơn chào hàng nhưng
không chấp nhận toàn bộ mà đưa ra một lời đề nghị mới thì lời đề nghị này được
gọi là hoàn giá. Thường thì giao dịch không kết thúc từ lần giao dịch đầu tiên mà

phải trải qua nhiều lần hoàn giá.
Bước 3. Chấp nhận (Acceptance): Là sự đồng ý hoàn toàn tất cả mọi điều
kiện mà khía bên kia đưa ra, khi đó hợp đồng mới xác lập. Một chấp thuận nếu
muốn có hiệu lực về pháp luật cần đảm bảo các điều kiện sau:
- Phải được chính người nhận giá chấp nhận.
- Phải đồng ý hoàn toàn vô điều kiện mọi nội dung của đơn chào hàng.
- Phải chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của lời chào hàng.
- Chấp nhận phải được truyền đạt đến người phát ra đề nghị.
Bước 4. Xác nhận (Confirmation): Hai bên mua bán đã thống nhất thoả thuận với
nhau điều kiện giao dịch, có ki cẩn thận ghi lại mọi điều kiện đã thoả thuận gửi cho
bên kia, đó là văn kiện xác nhận. Xác nhận thường được lập thành hai bản, bên

10


nhận ký trước rồi đưa cho bên kia, bên ki ký xong giữ lại một bảnvà gửi trả lại một
bản.
2.3.3. Hợp đồng xuất khẩu.
Một hợp đồng xuất khẩu gồm ba phần chính:
Phần đầu: Là phần ghi rõ ngày tháng thành lập hợp đồng, các bên ký kết hợp
đồng, nguyện vọng ký kết hợp đồng của hai bên và căn cứ pháp lý của hợp đồng.
Phần chính: Nêu cụ thể các điều khoản của hợp đồng như tên hàng, quy
cách, chất lượng, số lượng, đơn giá, phương thức thanh toán, giao hàng… Những
điều khoản này thể hiện quyền và nghĩa vụ của mỗi bên.
Phần cuối: Ghi rõ số bản hợp đồng, ngôn ngữ sử dụng và hiệu lực của nó,
thời gian, địa điểm ký kết hợp đồng.
Công tác chuẩn bị trước khi ký hợp đồng là rất quan trọng. Điều này đòi hỏi
những người có thẩm quyền đi ký hợp đồng phải hết sức thận trọng, phải xem xét
kỹ lưỡng trước khi ký kết, phải đảm bảo được quyền lợi tối đa cho doanh nghiệp.
Cụ thể, trong nội dung cơ bản của hợp đồng xuất khẩu, hai bên phải thoả thuận các

vấn đề sau:
- Nội dung của việc xuất khẩu.
- Bao bì đóng gói, ký mã hiệu hàng hoá.
- Thời gian, phương tiện và địa điểm giao hàng, quyền sở hữu hàng hoá.
- Giám định hàng hoá.
- Sát trùng hàng hoá (nếu bên mua yêu cầu).
- Điều kiện xếp dỡ hàng hoá và thưởng phạt.
- Những chứng từ cần thiết cho lô hàng xuất khẩu.
- Đồng tiền thanh toán, phương thức và thời hạn thanh toán
- Các trường hợp bất khả kháng.
- Trách nhiệm của các bên do vi phạm hợp đồng
- Các diều kiện khác.
- Hiệu lực của hợp đồng.
Khi ký kết hợp đồng cần chú ý các điều kiện sau:
- Hợp đồng phải được trình bày rõ ràng, sáng sủa, phản ánh đứng nội dung
dã thoả thuận, không để tình trạng mập mờ tránh suy luận.
- Hợp đồng cần đề cập đầy đủ mọi vấn đề, tránh việc áp dụng tập quán để
giải quyết những vấn đề mà bên kia không đề cập đến. Trong hợp đồng không được
có những điều khoản trái ngược với luật lệ hiện hành ở nước bán hoặc nước mua.
2.4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
11


Sau khi hợp đồng được ký kết thì doanh nghiệp phải thực hiện theo các quy
định trong hợp đồng. Tiến hành sắp xếp những công việc phải làm ghi thành bảng
biểu theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng, kịp thời ghi những diễn biến, những văn
bản phát đi và nhận được để xử lý và giải quyết cụ thể.
Sau khi ký kết hợp đồng, cần xác định rõ trách nhiệm, nội dung và trình tự
công việc cần làm, cố gắng không để xảy ra sai sót, tránh gây thiệt hại. Điều đặc
biệt cần lưu ý là tất cả những sai sót đều là cơ sở phát sinh khiếu nại và làm giảm

uy tín của nhà xuất khẩu.

12


Sau đây là trình tự thực hiện hợp đồng xuất khẩu:
Ký kết
hợp đồng XK

Kiểm tra
L/C

XinKý
giấkyphép
ết
hợp đồ
XK
ng XK

Chu
Ký ẩknếtbị
hợhpàđồ
ngng
hoá
XK

Uỷ thác
thuê tàu

Làm thủ tục

hảI quan

KiKý
ểmkđị
ếtnh
hợhpàđồ
ngng
hoá
XK

Uỷ thác
thuê tàu

Giao hàng
lên tàu

Làm thủ tục
thanh toán

Giai quyết
khiếu nại nếu có

Hình 1.1. Quy trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
2.4.1. Xin giấy phép xuất khẩu (nếu có).
Giấy phép xuất khẩu là vấn đề quan trọng đầu tiên về mặt pháp lý để tiến
hành các khâu khác trong quá trình xuất khẩu hàng hoá. Với xu hướng mở rộng
quan hệ hợp tác quốc tế, Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị sản xuất
kinh doanh, làm hàng xuất khẩu, và xuất khẩu những mặt hàng Nhà nước không
cấm và hạn chế.
Thực tế nước ta, trước ngày 15/12/1995 giấy phép xuất khẩu được sử dụng

rất rộng rãi nhằm kiểm soát hoạt động xuất khẩu. Mỗi doanh nghiệp sau khi ký kết
được hợp đồng xuất khẩu thì đều phải xin giấy phép chuyến để thực hiện hợp đồng
xuất khẩu đó. Trước tình hình hoat động xuất khẩu mỗi ngày càng tăng lên mạnh
mẽ thì giấy phép xuất khẩu đã trở thành thủ tục gây khó khăn, cản trở và hạn chế
hoạt động xuất khẩu. Để tháo gỡ những thủ tục rườm rà và đẩy mạnh xuất khẩu,
ngày 15/12/1995 Chính phủ đã ra quyết định doanh gnhiệp nào có giấy phép kinh
doanh xuất nhập khẩu thì khi tiến hành xuất khẩu không cần phải xin giấy phép
xuất khẩu trừ những trường hợp sau cần phải xin giấy phép xuất khẩu chuyến:
Hàng xuất khẩu thuộc diện cần thiết điều hành để bảo đảm cân đối cung cầu trong
nước, hàng tạm nhập tái xuất, hàng dự hội chợ triển lãm.
ở Việt Nam hiện nay, theo QĐ 46/2001/QĐ - TTG ngày 4/4/2001 về quản lý
hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá giai đoạn 2001 - 2005 nêu rõ Danh mục mặt
hàng cấm xuất nhập khẩu, Danh mục mặt hàng phải xin phép của 7 chuyên ngành
là Bộ NNPT NT, Bộ Thuỷ sản, Ngân hàng Nhà nước, Tổng cục Bưu điện, Bộ
13


VHTT, Bộ Y tế, Bộ Công nghiệp. Bộ Thương mại cũng có thông tư 11/2001/TTBTM hướng dẫn thi hành quyết định này.
2.4.2.Chuẩn bị hàng xuất khẩu.
Hiện nay ở nước ta không chỉ có những doanh nghiệp thương mại làm công
tác xuất khẩu mà còn có rất nhiều các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp làm công
tác xuất khẩu trực tiếp với khách hàng nước ngoài. Các công việc mà doan nghiệp
sản xuất phải làm trong khâu chuẩn bị hàng hoá xuất khẩu gồm có:
- Tổ chức sản xuất, thu gom hàng xuất khẩu trên cơ sở đàm phán ký kết hợp
đồng. Các loại hàng đó phải theo đúng hợp đồng đã ký về chủng loại, màu sắc, kích
thước và số lượng.
- Thực hiện đóng gói hàng hoá xuất khẩu, trong khâu này phải lưu ý tới bao
bì đóng gói bởi vì trong buôn bán hàng hoá nói chung và hàng hoá xuất khẩu nói
riêng, vấn đề bao bì có ý nghĩa rất quan trọng, nó được thể hiện ở những khía cạnh
sau:

+ Bảo đảm được phẩm chất hàng hoá trong quá trình vận chuyển, tránh được
rủi ro, mất mát.
+ Tạo điều kiện cho việc nhận biết hàng hoá.
+ Gây ấn tượng và làm cho người mua thích thú hàng hoá.
Trong xuất khẩu người ta sử dụng rất nhiều bao bì như : hòm, bao, kiện,
thùng để bao bọc hàng hoá. Tuỳ từng loại hàng mà người ta sử dụng hình thức bao
bì cho phù hợp.
- Kẻ ký mã hiệu là những ký hiệu bằng chữ, bằng số hoặc bằng hình vẽ được
ghi ở bên ngoài bao bì nhằm thông báo những chi tiết cần thiết cho việc giao nhận,
bốc dỡ và bảo quản hàng hoá. Yêu cầu của ký mã hệu là sáng sủa, dễ đọc, không
phai màu, không thấm nước, không làm ảnh hưởng tới phẩm chất hàng hoá.
2.4.3. Uỷ thác thuê tầu.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, việc thuê chở hàng dựa vào
căn cứ sau đây:
- Căn cứ vào những điều khoản của hợp đồng.
- Căn cứ vào đặc điểm hàng xuất khẩu.
- Căn cứ vào điều kiện vận tải.
Nếu điều kiện giao hàng của hợp đồng là CIF hoặc CFR (cảng đến) thì đơn
vị xuất khẩu phải thuê tầu biển để giao hàng. Nếu điều kiện cơ sở giao hàng là
POB, đơn vị xuất khẩu phải ký hợp đồng chuyên chở hàng không để chở hàng.
Thông thường, trong nhiều trường hợp đợn vị xuất khẩu hàng hoá thường uỷ
thác việc thuê tàu, lưu cước cho một công ty vận tải.
14


2.4.4. Kiểm nghiệm hàng hoá xuất khẩu.
Thực chất là kiểm tra số lượng và chất lượng hàng hoá hàng hoá xuất khẩu.
Kiểm nghiệm hàng hoá có tác dụng sau:
- Đảm bảo quyền lợi cho khách hàng.
- Ngăn chặn kịp thời những hậu quả xấu.

- Phân định trách nhiệm của các khâu trong sản xuất.
- Bảo đảm uy tín cho nhà sản xuất cũng như nhà xuất khẩu trong quan hệ
buôn bán.
Kiểm nghiệm hàng hoá phải được thực hiện ở hai cấp: cấp cơ sở và cửa
khẩu, trong đó kiểm tra cơ sở do phòng KCS tiến hành có vai trò quyết định và có
tác dụng triệt để nhất. Kiểm tra ở cửa khẩu có tác dụng kiểm tra lại kết quả ở cơ sở.
2.4.5. Làm thủ tục hải quan.
Hàng hoá vận chuyển qua biên giới quốc gia để xuất khẩu hoặc nhập khẩu
đều phải làm thủ tục hải quan. Thủ tục hải quan là một công cụ để quản lý hành vi
buôn bán theo pháp luật của Nhà nước để ngăn chặn xuất khẩu lậu qua biên giới, để
kiểm tra giấy tở nhằm tránh sai sót giả tạo, để thống kê hàng hoá xuất nhập khẩu.
Việc làm thủ tục hải quan gồm ba bước:
- Khai báo hải quan.
- Xuất trình hàng hoá.
- Thực hiện các quyết định của hải quan.
2.4.6. Giao hàng lên tàu.
Phần lớn số hàng xuất khẩu được vận chuyển bằng đường biển, đường sắt,
bằmg container. Tuỳ thuộc vào phương tiện chuyên chở hàng hoá mà chủ hàng
phải làm những công việc khác nhau.
Nếu vận chuyển bằng đường biển, chủ hàng phải căn cứ vào chi tiết hàng
xuất khẩu để lập bảng đăng ký hàng chuyên chở cho người vận tải để lấy hồ sơ xếp
hàng, bố trí phương tiện đưa hàng vào cảng, xếp lên tàu, lấy biên lai thuyền phó và
đổi biên lai thuyền phó lấy vận đơn đường biển.
2.4.7. Mua bảo hiểm.
Chuyên chở hàng hoá trong thương mại quốc tế gặp rất nhiều rủi ro, tổn thất,
nhất là khi có trên 80% lượng hàng hoá được vận chuyển bằng đường biển, buộc
các nhà xuất khẩu phải thận trọng đề phòng rủi ro bằng cách mua bảo hiểm cho
hàng hoá (trong trường hợp mua bán theo điều kiện CIF), còn trong những trường
hợp khác người mua phải mau bảo hiểm cho hàng hoá.
2.4.8. Làm thủ thục thanh toán.


15


Tuỳ theo phương thức thanh toán hai bên đã thoả thuận trong hợp đồng mà
bước này được tiến hành theo những cách khách nhau. Đối với trường hợp sư dụng
thư tín dụng chứng từ, người xuất khẩu sau khi giao hàng xong lập bộ chứng từ
thanh toán phù hợp với thư tín dụng mà người mua đã mở gửi đến ngân hàng đại
diện của người nhập khẩu thông qua ngân hàng đại diện của mình để lấy được
thanh toán tiền hàng.
2.5. Giải quyết khiếu nại nếu có.
Trong trường hợp có phát sinh khiếu nại thì hai bên có thể tự thoả thuận dàn
xếp hoặc đưa vụ việc ra cơ quan trọng tài hay toà án kinh tế để giả quyết.
Tuỳ thuộc vào từng hợp đồng mà cán bộ xuất khẩu phải thực hiện các
nghiệp vụ khác nhau. Trình tự nghiệp vụ không cố định. Từng khâu nghiệp vụ cụ
thể có thể là nghĩa vụ cảu người bán hay người mua phụ thuộc vào các quy định
điều kiện cơ sở giao hàng ghi trong hợp đồng mua bán hàng hoá đã ký kết
3. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu
Hiện nay, trên thế gới có rất nhiều hình thức xuất khẩu khác nhau với nhiều
biến tướng của nó. Nhưng nhìn chung là có sáu hình thức xuất khẩu chủ yếu sau:
3.1. Xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là việc nhà sản xuất trực tiếp tiến hành các giao dịch với
khách hàng nước ngoài thông qua các đơn vị, tổ chức của mình.
Hình thức này áp dụng khi mà Công ty đã phắt triển đủ mạnh để có thể thành
lập một tổ chức riêng của mình nhằn phát triển thị trường quốc tế. Tổ chức này có
thể bố trí ở trong nước hoặc ở thị trường nước ngoài. Xuất khẩu trực tiếp thừng đòi
hỏi chi phí cao hơn, bên cạnh đó nhà xuất khẩu cũng có thể gặp rất nhiều rủi ro như
không bán được hàng, không thu được tiền hay gặp những sự cố bất ngờ khác…
Tuy vậy, hình thức xuất khẩu này có thể cho phép Công ty có thể duy trì được sự
kiểm soát ở mức độ lớn tất cả các điều kiện mà trong đó sản phẩn được bán trên thị

trường quốc tế. Hơn nữa, nó còn cho phép Công ty nắm được phản ứng của thị
trường để tìn ra những cơ hội mới và xu hướng mới của thị trường.
3.2. Xuất khẩu gián tiếp.
Xuất khẩu gián tiếp là việc nhà sản xuất thông qua dịch vụ của các tổ chức
độc lập để tiến hành xuất khẩu sản phẩm củă mình ra thị trường nước ngoài.
Hình thức này được sử dụng khi mà nguồn lực của Công ty dành cho việc mở rộng
thị trường quốc tế bị hạn chế hoặc mục tiêu của Công ty chỉ là thử nghiệm thị
trường trước khi quyết định đầu tư các nguồn lực vào thị trường đó.

16


Với hình thức xuất khẩu gián tiếp, Công ty chỉ xác lập ở mức thấp hoặc
không xác lập được mối liên hệ trực tiếp với thị trường nước ngoài. Vì vậy việc
nắm bắt các thông tin về thị trường nước ngoài bị hạn chế và Công ty không thể
thích ứng nhanh được với những biến động của thị trường.
3.3. Xuất khẩu tại chỗ.
Xuất khẩu tại chỗ là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho khách hàng nước
ngoài ngay tại nước xuất khẩu. Nó được hiểu là việc cung cấp hàng hoá và dịch vụ
cho các ngoại giao đoàn, cho khách du lịch quốc tế.
Đặc điểm của phương thức này là hàng hóa không qua biên giới quốc gia,
doanh nghiệp không cần thuê phương tiện vận tải, không cần mua bảo hiểm hàng
hoá, không cần ra nước ngoài đàm phán…và do đó giảm chi phí và tăng lợi nhuận
cho doanh nghiệp. Tuy nhiên, nhược điểm lớn nhất của phương thức này là tính thụ
động của nó. Doanh nghiệp xuất khẩu hoàn toàn bị phụ thuộc vào khách hàng,
lượng hàng hoá và dịch vụ tiêu thụ không lớn, do vậy khả năng kinh doanh trên thị
trường quốc tế của doanh nghiệp bị hạn chế.
3.4. Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là một hoạt động kinh doanh thương mại trong đó một bên
(gọi là bên gia công) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một bên

khác (gọi là bên đặt gia công) để chế biến thành thành phẩm, giao lại cho bên đặt
gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công). Như vậy, trong gia công quốc tế
hoạt động xuất nhập khẩu gắn liền với hoạt động sản xuất.
Gia công quốc tế ngày nay khá phổ biến trong buôn bán ngoại thương của
nhiều nước. Đối với bên đặt gia công, phương thức này giúp cho họ lợi dụng được
giá rẻ về nguyên phụ liệu và nhân công của nước nhận gia công. Đối với bên nhận
gia công, phương thức này giúp cho họ giải quyết công ăn việc làm cho người lao
động trong nước hoặc nhận được thiết bị hay công nghệ mới về nước mình.
3.5. Tái xuất.
Tái xuất là việc xuất khẩu trở ra nước ngoài những hàng hoá mà trước đây
đã nhập khẩu nhưng chưa qua chế biến ở nước tái xuất.
Hàng hoá có thể đi từ nước xuất khẩu đến nước tái xuất rồi đến nước nhập
khẩu, hoặc có thể đi thẳng từ nước xuất sang nước nhập khầu và tiền sẽ được nước
tái xuất thu từ nước nhập khẩu rồi trả cho nước xuất khẩu. Tái xuất bao gồm nhập
khẩu và xuất khẩu với mục đích thu về số ngoại tệ lớn hơn số ngoại tệ bỏ ra ban
đầu. Hình thức này luôn thu hút ba nước: nước xuất khẩu, nước tái xuất và nước
nhập khẩu.
3.6. Buôn bá đối lưu.
17


Buôn bán đối lưu là một phương thức giao dịch trao đổi hàng hoá, trong đó
xuất khẩu kết hợp chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua,
lượng hàng giao đi có giá trị tương ứng với lượng hàng nhận về.
Với phương thức này, mục đích của xuất khẩu không phải nhằm thu về một
khoản ngoại tệ mà nhằm thu về một lượng hàng hoá khác có giá trị tương đương.
Buôn bán đối lưu có các loại hình như: hàng đổi hàng, trao đổi bù trừ, mua đối lưu,
chuyển nợ, mua lại sản phẩm.
Phương thức này giúp cho doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá hoặc nhận
được mặt hàng cần thiết mà không cần sử dụng ngoại tệ, giới thiệu được sản phẩm

của mình với bạn hàng quốc tế. Nhược điểm lớn nhất của phương thức này là
nghiệp vụ của nó khá phức tạp bởi hoạt động xuất khẩu luôn gắn liền với hoạt động
nhập khẩu và chúng bị ảnh hưởng lẫn nhau.
II.

Các yếu tố chính ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp.

Trong hoạt động xuất khẩu có rất nhiều các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động
này, có những yếu tố thì ảnh hưởng trực tiếp và có những yếu tố có ảnh hưởng gián
tiếp, có những nhân tố là nhân tố khách quan, có những nhân tố là nhân tố chủ
quan. Đề có thể dẽ dàng nhận thấy những ảnh hưởng và mức độ ảnh hưởng của các
yếu tố đến hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp ta có thể chia thành bốn nhóm
nhân tố chính:
- Nhóm các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.
- Nhóm các nhân tố thuộc môi trường tác nghiệp.
- Nhóm các nhân tố thuộc về sản phẩm.
- Nhóm các nhân tố của hoạt động xúc tiến xuất khẩu.
Tuy nhiên nếu suy xét đến cùng thì sản phẩm lại là kết quả của nhiều quá
trình hoạt động như: thiết kế, tìm nguồn cung ứng, sản xuất… Do vậy nếu theo một
các tiếp cận khác ta có thể nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất
khẩu theo các nhóm yếu tố như sau:
- Nhóm các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.
- Nhóm các yếu tố thuộc môi trường tác nghiệp.
- Nhóm các nhân tố thuộc về các lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
Trong đề tài này, người viết nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động
xuất khẩu theo các tiếp cận thứ hai.
1. Nhóm các nhân tố thuộc môi trường vĩ mô.
Là môi trường bao gồm những nhân tố có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhưng lại nằm ngoài sự kiểm soát, khống chế của
doanh nghiệp buộc các doanh nghệp phải tự thay đổi mình cho phù hợp với môi

trường. Kinh doanh trong môi trường quốc tế buộc các doanh nghiệo phải đối mặt
18


với ít nhất hai cấp độ các yếu tố không thể kiểm soát đựoc, trong phạm vi quốc gia
và các nước trên thế gới. Do vậy, nhóm các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô có ảnh
hưởng đến hoạt động xuất khẩu lại được xem xét ở hai góc độ, đó là: môi trường vĩ
mô trong nước và môI trường kinh doanh quốc tế.
2. Môi trường vĩ mô trong nước.
Những nhân tố thuộc môi thường vĩ mô trong nước bao gồm những nhân tố:
2.1. Chính trị và pháp luật.
Các yếu tố chính trị có thể ảnh hưởng tới việc mở rộng phạm vi thị trường
cũng như dung lượng của thị trường, ngoài ra còn mở rộng ra nhiều cơ hội kinh
doanh hấp dẫn trên thị trường quốc tế. Song mặt khác nó cũng có thể trở thành một
hàng rào cản trở quyết liệt, hạn chế khả năng hoạt động của các doanh nghiệp, làm
tác nghẽn hoạt động xuất khẩu. Các yếu tố chính trị có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt
động xuất khẩu: sự bất ổn về chính trị sẽ làm chậm lại sự tăng trưởng, kìm hãm sự
phát triển của khoa học công nghệ gây khó khăn cho việc cải tiến công nghệ tăng
chất lượng sản phẩm xuất khẩu; bất ổn về chính trị sẽ làm cho môi trường kinh
doanh bất ổn định gây tâm lý lo ngại cho những đối tác cung ứng nguyên vật liệu
từ nước ngoài cho hoạt động sản xuất hàng hoá xuất khẩu và không hấp dẫn các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu của nước ngoài làm đối tác xuất khẩu của
các doanh nghiệp trong nước do đó mà hoạt động xuất khẩu gặp rất nhiều khó
khăn.
Luật pháp cũng là một yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu. Bất
kỳ doanh nghiệp xản xuất kinh doanh xuất khẩu muốn tồn tại và phát triển lâu dài
thì phải tuân thủ pháp luật. Trong hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp phải tuân thủ
luật thương mại quốc tế, pháp luật quy định những mặt hàng nào được phép xuất
khẩu (có nghĩa là được xuất khẩu những mặt hàng mà pháp luật không cấm), những
hình thức xuất khẩu mà doanh nghiệp được phép?

Để thành công trong hoạt độnh xuất khẩu, các doanh nghiệp phải phân tích,
dự đoán về chính trị cùng xu hướng vận động của nó, bao gồm:
- Sự ổn định về chính trị, đường lối ngoại giao.
- Sự cân bằng các chính sách của Nhà nước.
- Vai trò của các chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Chính phủ.
- Sự điều tiết và khuynh hướng can thiệp của Chính phủ vào đời sống kinh tế.
- Sự phát triển các quyết định bảo vệ quyền lợi của người tiêu dùng.
- Hệ thống luật pháp, sự hoàn thiện và hiệu lực thi hành chúng.

1.2. Các chính sách kinh tế.
1.2.1 Chính sách về thuế quan và công cụ phi thuế quan.

19


Hệ thống thuế quan cũng là một nhân tố có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động
xuất khẩu thông qua thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu đối với nguyên liệu sản xuất
hàng hoá xuất khẩu phải nhập từ nước ngoài. Nếu như thuế nhập nguyên vật liệu để
sản xuất quá cao sẽ làm cho chi phí sản xuất cao dẫn đến giá thành hàng hoá xuất
khẩu cao làm giảm khả năng cạnh tranh của hàng hoá và giảm lợi nhuận cho nhà
xuất khẩu như vậy sẽ làm giảm xuất khẩu và ngược lại. Nếu thuế xuất khẩu cao
cũng dẫn đến tình trạng làm giảm xuất khẩu bởi nó có ảnh hưởng tương tự như việc
tăng thuế nhập khẩu đối với nguên vật liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất
khẩu.
Các công cụ phi thuế quan như hạn ngạch nhập khẩu đối với nguyên vật liệu
nhập khẩu để sản xuất hàng hoá xuất khẩu và hạn ngạch xuất khẩu cũng gây khó
khăn rất lớn cho hoạt động xuất khẩu.
Vì những ảnh hưởng đó mà đế khuyến khích xuất khẩu Chính phủ thường
miễm thuế xuất khẩu và giảm thuế nhập khẩu nguyên vật liệu để sản xuất hàng hoá
xuất khẩu đối với những mặt hàng có lợi thế sản xuất. Chính phủ thường áp dụng

hạn ngạch xuất khẩu đối với những hàng hoá mà sản xuất không đủ đáp ứng nhu
cầu trong nước và tăng thuế nhập khẩu đối với nguyên vật liệu dùng để sản xuất
hàng hoá xuất khẩu. Tuy nhiên trong xu thế hội nhập kinh tế và xu thế tham gia các
tổ chức kinh tế quốc tế, thì việc sử dụng hạn ngạch và thuế nhập khẩu cao sẽ không
được áp dụng hoặc được áp dụng nhưng ở mức rất thấp tuỳ thuộc vào từng mặt
hàng.
1.2.2. Chính sách tỷ giả hối đoái (TGHĐ).
Trong thanh toán quốc tế, người ta thường phải sử dụng những đồng tiền của
những nước khác nhau, do vậy tỷ suất ngoại tệ so với đồng tiền trong nước có ảnh
hưởng rất lớn đến hoạt động xuất khẩu: nếu TGHĐ > tỷ suất lợi nhuận thì hoạt
động xuất khẩu có lãi vì vậy thúc đẩy xuất khẩu và ngược lại. Chính vì thế mà
TGHĐ trở thành một công cụ điều tiết của Nhà nước: để khuyến khích hay hạn chế
hoạt động xuất nhập khẩu, Nhà nước có thể sử dụng chính sách TGHĐ để điều tiết.
1.3. Hệ thống ngân hàng tài chính.
Hoạt động xuất nhập khẩu liên quan chặt chẽ đến vấn đề thanh toán quốc tế,
thông qua hệ thống Ngân hàng Tài chính giữa các quốc gia. Nó tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho việc thanh toán được thực hiện một cách đơn giản, nhanh chóng,
chắc chắn. Nhờ có hệ thống ngân hàng này sẽ bảo đảm rằng người bán sẽ thu được
tiền và người mua sẽ nhận được hàng, làm giảm bớt việc phải dành nhiều thời gian
và chi phí để các bên đối tác tìm hiểu về nhau.

20


Nếu như một quốc gia có hệ thống ngân hàng tài chính phát triển, hiện đại thì
đó cũng là một điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước trong hạt động
xuất khẩu và ngược lại.
1.4. Mối quan hệ kinh tế quốc tế.
Mối quan hệ kinh tế quốc tế có ảnh hưởng lớn đến hoạt động xuất khẩu. Sự
thoả thuận ký kết hợp tác giữa các quốc gia bằng các chính sách, hiệp định sẽ tạo

cho hoạt động xuất khẩu một môi trường tự do và hợp lý trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Khi xuất khẩu hàng hoá từ quốc gia này sang quốc gia khách, doanh
nghiệp phải đối mặt với hàng rào thuế quan và phi thuế quan, các hàng rào này chặt
chẽ hay lới lỏng phụ thuộc vào quan hệ kinh tế song phương giữa nước nhập khẩu
và nước xuất khẩu, điều đó có nghĩa là nếu một nước có quan hệ bền vững, tốt đẹp
với các quốc gia khác sẽ tạo ra những tiền đề thuận lợi cho công việc đẩy mạnh
xuất khẩu của nước đó.
2. Môi trường kinh doanh quốc tế.
Môi trường kinh tế quốc tế có ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu về cơ bản
chỉ xét đến môi trường kinh doanh với các đặc điểm về pháp luật, kinh tế, tập quán
thương mại tại nước nhập khẩu mà thôi.
3. Môi trường tác nghiệp.
3.1. Khách hàng.
Khách hàng là cá nhân, tổ chức có nhu cầu về hàng hoá, dịch vụ và có khả
năng thanh toán mà chưa chưa được đáp ứng và mong muốn được thoả mãn. Thị
trường của doanh nghiệp là tập hợp các khchs hàng rất đa dạng, khác nhau về tuổi
tác, gới tính, mức thu nhập, nơi cư trú, sở thích tiêu dùng và vị trí trong xã hội.
Người ta có thể chia các khách hàng nói trên thành những nhóm khách hàng khác
nhau, mỗi nhóm có đặc trưng riêng phản ánh qua nhu cầu của họ (những đặc điểm
này là gợi ý quan trọng để doanh nghiệp đưa ra các biện pháp phù hợp để thu hút
khách hàng).
Trong các nhân tố thuộc môi trường tác nghiệp thì khách hàng luôn là nhân
tố được xem xét đến hàng đầu. Theo quan điểm marketing hiện đại thì mọi hoạt
động của doanh nghiệp đều phải xuất phát từ khách hàng và nhằm hướng tới khách
hàng, doanh nghiệp chỉ có thể bán được hàng khi khách hàng có nhu cầu.
Hoạt động xuất khẩu là hành vi bán hàng ra thị trường quốc tế, khách hàng là nguời
nước ngoài, doanh nghiệp phải xác định được khách hàng của mình là ai, họ cần gì,
mình có thể đáp ứng nhu cầu đó được không? Doanh nghiệp phải dự báo được nhu
cầu của khách hàng bao gồm: nhu cầu của khách hàng, dung lượng của thị trường,
21



sở thích, thị hiếu, thói quên khi mua hàng, mục đích mua sắm, thời điểm tiêu dùng,
cách thức mua, niềm tin của khách hàng vào sản phẩm…
3.2. Đối thủ cạnh tranh.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường thì cạnh tranh là vấn đề mà không một
doanh nghiệp nào có thể trốn tránh được. Mọi nỗ lực cố gắng của doanh nghiệp để
tồn tại và phát triển cũng có nghĩa là để chiến thắng trong cạnh tranh.
Sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế rất khốc liệt. Hoạt động xuất khẩu của
một doanh nghiệp muốn phát triển được trên thị trường quốc tế đòi hỏi doanh
nghiệp đó phải bước qua rào cản cạnh tranh trên thị trường đó. Ngày nay, các đối
thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế không chỉ dựa vào sự vượt bậc về tài chính,
khoa học công nghệ mà còn liên kết thành các tập đoàn lớn tạo nên thế mạnh độc
quyền trên thị trường. Như vậy, hoạt động của các tổ chức xuất khẩu nhỏ bé của
các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Chính vì vậy
vượt qua các yếu tố cản trở của các đối thủ cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ
đảm bảo cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp được đẩy mạnh.
Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp xuất khẩu trên một thị trường là những
đơn vị cùng sản xuất cùng loại mặt hàng hoặc sản xuất mặt hàng có khả năng thay
thế ở thị trường đó và những đơn vị cũng xuất khẩu cùng loại mặt hàng hoặc mặt
hàng có khả năng thay thế vào thị trường đó. Thông tin về đối thủ cạnh tranh không
chỉ là nhận biết sự có mặt của nó mà còn nghiên cứu khả năng cung ứng, khả năng
cạnh tranh và chất lượng sản phẩm cạnh tranh trên thị trường, nguồn đầu vào và
đầu ra hiện tại của đối thủ, chiến lược cạnh tranh của đối thủ…
3.3. Người cung ứng.
Người cung ứng là nơi đảm bảo đầu vào cho hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Thông tin cần thu thập đối với người ứng là xác định số lượng chủng
loại mặt hàng, sự lớn mạnh và khả năng cung ứng hiện tại cũng như trong tương
lai. Để có quyết định mua hàng đúng đắn, doanh nghiệp phải xác định rõ đặc điểm
của từng nguồn hàng. Trên cơ sở đó lựa chọn đơn vị cung ứng tốt nhất về chất

lượng, có uy tín giao hàng, có độ tin cậy, bảo đảm cao và hạ giá. Nếu như những
yếu tố đó không đảm bảo thì việc thực hiện được hợp đồng sẽ rất khó khăn.
3.4. Trung gian thương mại.
Trung gian thương mại là một trong những yếu tố trung gian tương đối quan
trọng trong kinh doanh xuất khẩu. Đó là những cá nhân, tổ chức giúp doanh nghiệp
tuyên truyền quảng cáo, phân phối hàng hoá và bán hàng đến tận tay người mua.
Trong kinh doanh xuất khẩu, trung gian thương mại có hai loại đại lý và môi giới.

22


Thông tin cần thu thập đối với trung gian thương mại chủ yếu là uy tín và khả năng
thực hiện các công việc mà doanh nghiệp có nhu cầu uỷ thác của họ.
4. Những yếu tố thuộc về nội bộ doanh nghiệp.
4.1. Nguồn nhân lực.
Chất lượng nguồn nhân lực là một yếu tố rất quan trọng có ảnh hưởng trực
tiếp đến hoạt động xuất khẩu bởi vì suốt quá trình của hoạt động xuất khẩu đều do
con người đảm nhận, từ khâu thiết kế mẫu, quảng cáo, chào hàng, ký kết hợp đồng,
sản xuất, chuyển hàng cho đối tác xuất khẩu… đến việc làm những thủ tục cần thiết
cho hoạt động xuất khẩu. Như vậy khi xem xét đến nguồn nhân lực thì không chỉ
đề cập đến một cách chung chung mà phải đánh giá theo từng bộ phận, từng chức
năng mà họ thực hiện. Dưới đây chỉ đề cập đến những người lao động ở các lĩnh
vực có ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động xuất khẩu:
Cán bộ quản lý: Cán bộ quản lý trong doanh nghiệp được coi là trụ cột, là
đầu tầu của mỗi chức năng để cho toàn bộ hệ thống doanh nghiệp được vận hành
một cách có hiệu quả. Như vậy nếu nếu đội ngũ cán bộ quản lý làm việc không có
năng lực, không có trách nhiệm thì sẽ làm cho cả hệ thống không thể vận hành một
cách bình thường được, nói một cách khác thì khi đó toàn bộ hệ thống như một cơ
thể bị hỏng một chức năng nào đó làm nó khó có thể thực hiện được chức năng
tổng thể. Ngoài ra khi nói tới cán bộ quản lý thì thường làm cho người ta nghĩ tới

những cán bộ quản lý cấp cao trong doanh nghiệp như Tổng giám đốc, các giám
đốc, phó giám đốc, khả năng hay năng lực điều hành của những cán bộ này có tính
quyết định tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Với việc đề ra chững chiến
lược, kế hoạch cấp công ty và những biện pháp cần thiết để thực hiện những chiến
lược, kế hoạch đó. Sự phát triển của doanh nghiệp phụ thuộc vào hướng đi của họ
là đúng hay sai.
Hoạt động xuất khẩu có liên quan đến tất cả các chức năng trong doanh
nghiệp, mặt khác nó còn đòi hỏi một cách khắt khe hơn trong việc thực hiện các
chức năng đó vì vậy năng lực của cán bộ quản lý có ý nghĩa rất quan trọng tới hoạt
động này.
Cán bộ xuất nhập khẩu: cán bộ xuất nhập khẩu là những người trực tiếp thực
hiện chức năng xuất khẩu qua việc tìm đối tác, đàm phán, ký kết hợp đồng, giao
hàng… do vậy để đẩy mạnh xuất khẩu thì yếu tố con người trong việc thực hiện
chức năng này có ý nghĩa quyết định đến việc xuất khẩu có thành công hay không.
Trong lĩnh vực này đòi hỏi cán bộ xuất khẩu không những phải giỏi về nghiệp vụ
xuất khẩu mà còn phải năng động; giỏi ngoại ngữ; thành thạo trong việc trao đổi,
giao dịch với khách hàng bằng những phương tiện hiện đại như qua Fax,
23


internet…; đặc biệt phải có kiến thức về văn hoá, tập quán kinh doanh, pháp luật tại
các thị trường nước ngoài của doanh nghiệp và các thị trường khác. Nếu như họ
không hiểu được tầm quan trọng của việc phải trang bị những kiến thức đó thì có
thể trong nhiều trường hợp họ sẽ làm mất khách hàng của doanh nghiệp hoặc có thể
dẫn đến việc doanh nghiệp bị thiệt hại do bị phạt hay phải bồi thường do không
thực hiện đúng theo quy định của pháp luật hay các điều khoản trong hợp đồng.
Điều đó sẽ làm mất uy tín của doanh nghiệp trong kinh doanh xuất nhập khẩu.
Công nhân kỹ thuật: Chất lượng sản phẩm xuất khẩu là một yếu tố quyết
định dến khả năng cạnh tranh của sản phẩm đó trên thị trường quốc tế, do vậy trong
quá trình sản xuất hàng hoá xuất khẩu thì việc đảm bảo chất lượng hàng hoá là một

việc rất quan trọng. Điều này không chỉ phụ thuộc vào chất lượng nguyên phụ liệu,
công nghệ sản xuất mà còn phụ thuộc phần nhiều vào tay nghề công nhân do vậy
việc nâng cao tay nghề đội ngũ công nhân là hết sức cần thiết.
4.2. Hoạt động Marketing.
Trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh hàng hoá thì việc tiếp thị, tìm đầu ra
cho sản phẩm là hết sức quan trọng và chức năng này thuộc về hoạt động
Marketing. Hoạt động này bao gồm: nghiên cứu thị trường, xác định thị phần, quản
cáo, tiếp thị sản phẩm… và nhiệm vụ chính của nó là quảng bá sản phẩm cho
doanh nghiệp. Đối với hoạt dộng xuất khẩu thì hoạt động này là rất khó khăn
nhưng cũng rất quan trọng. Khó khă ở chỗ là đối tượng của hoạt động là thị trường
nước ngoài nên việc nghiên cứu thị trường và quảng bá sản phẩm là không phải dễ
dàng và rất tốn kém. Do hoạt động xuất khẩu là bán hàng ở thị trường nước ngoài
nên việc tìm hiểu về thị hiếu tiêu dùng, thói quen tiêu dùng, hệ thống phân phối,
đối thủ cạnh trạnh… tại thị trường đó là việc rất cần thiết, nó đóng một vai trò quan
trọng trong việc xuất khẩu thành công và đứng vững ở thị trường đó.
4.3. Hoạt động R&D.
Hoạt động R&D là việc nghiên cứu thiết kế sản phẩm mới, tính năng mới
nhằm đưa ra thị trường những loại sản phẩm được người tiêu dùng đón nhận và
đem lại hiệu quả cho doanh nghiệp. Việc nghiên cứu thiết kế sản phẩm mới dựa
trên thị hiếu người tiêu dùng và xu hướng tiêu dùng trong tương lai cộng thêm sự
sáng tạo để tạo sự khác biệt cho sản phẩm, điều này tạo lợi thế cho doanh nghiệp
trong chiến lược cạnh tranh hướng vào sự khác biệt hoá. Nếu hoạt động này có hiệu
quả thì sẽ tạo được thế chủ động cho doanh nghiệp trong việc tiêu thụ hàng hoá.
Trong hoạt động xuất khẩu thì việc thiết kế sản phẩm phù hợp với nhu cầu và thị
hiếu tiêu dùng tại thị trường xuất khẩu thì đó được coi là thành công bước đầu của
doanh nghiệp và ngược lại thì doanh nghiệp sẽ pải chịu một thiệt hại nặng nề vì sẽ
24


rất khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm của mình.

4.4. Hoạt động sản xuất.
Hoạt dộng sản xuất là một quá trình bao gồm các khâu: có được nguyên vật
liệu, phụ liệu để sản xuất, sản xuất và đóng gói. Trong hoạt động xuất khẩu thì một
đòi hỏi rất khắt khe đó là chất lượng sản phẩm và thời hạn giao hàng. Chất lượng
sản phẩm phải đáp ứng theo đúng yêu cầu của đối tác xuất khẩu về chất liệu, mẫu
mã, hơn nữa nếu chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mà tốt được người tiêu
dùng ở thị trường đó chấp nhận thì sẽ tạo cơ sở làm ăn lâu dài giữa doanh nghiệp
và đối tác. Khi ký kết hợp đồng xuất khẩu thì một trong những điều khoản thoả
thuận chủ yếu đó là thời hạn giao hàng, do vậy trong quá trình sản xuất ngoài việc
đảm bảo chất lượng sản phẩm còn phải luôn đảm bảo tiến độ sản xuất để kịp giao
hàng đúng thời hạn. Nếu không đảm bảo những yêu cầu trong hợp đồng của đối tác
thì doanh nghiệp trước hết sẽ bị mất uy tín trong kinh doanh và sau đó là phải chịu
thiệt hại do phải bồi thường.
III.Vai trò của hoạt động xuất khẩu và một số chỉ tiêu chính đánh giá hiệu quả của hoạt
động xuất khẩu

1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu.
Xuất khẩu là nội dung chính của hoạt động ngoại thương, là hoạt động được
ưu tiên trong thương mại quốc tế. Nó đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với các
doanh nghiệp nói riêng cũng như sự phát triển kinh tế của Việt Nam nói chung.

1.1. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các doanh nghiệp.
Ngày nay việc mở rộng và phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm của doanh
nghiệp ra thị trường quốc tế là một xu hướng tất yếu khách quan của các doanh
nghiệp sản xuất và kinh doanh, bởi vì hoạt động xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ
đem lại cho doanh nghiệp rất nhiều lợi ích, trong đó có những lợi ích chính sau
đây:
- Xuất khẩu trước hết làm cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp có đầu
ra ổn định, từ đó tạo ra thu nhập ổn định, lợi nhuận cao, mang về ngoại tệ để nhập
khẩu tư liệu sản xuất và tái sản xuất mở rộng:Thông thường, một nhà nhập khẩu có

ý định tìm kiếm nguồn cung cấp hàng hoá từ nước ngoài thì một trong những tiêu
chuẩn mà họ quan tâm là: liệu năng lực sản xuất của nhà cung ứng đó có thể đáp
ứng được đơn đặt hàng với khối lượng lớn hay không, nhà cung cấp đó có đáng tin
cậy để có thể xây dựng mối quan hệ làm ăn lâu dài được không? Khi đã tìm được
những đối tác như vậy thì hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp sẽ đem lại những
kết quả rất khả quan.
25


×