Tải bản đầy đủ (.docx) (56 trang)

Giới thiệu về nhà văn Nam Cao

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (210 KB, 56 trang )

Nam Cao (1917-1951) là một trong những nhà văn Việt Nam tiêu biểu nhất thế kỷ 20.
Nhiều truyện ngắn của ông được xem như là khuôn thước cho thể loại này. Đặc biệt một
số nhân vật của Nam Cao trở thành những hình tượng điển hình, được sử dụng trong
ngôn ngữ hàng ngày
Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lý Nhân - nay là xã
Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm
bút danh: Nam Cao.
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì
mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may,
bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ
bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào
hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác “tìm đường” của Nam Cao thời kỳ
đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.
Sáng tác của Ông đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử
thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam Cao càng bộc lộ ý
nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc
đáo. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với thể loại truyện ngắn và tiểu thuyết Việt
Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
Giá trị con người được đề cao trong truyện của Nam Cao, nhất là trong truyện ngắn nổi
danh Chí Phèo mà trước đây ít người được biết.
Truyện ngắn của Nam Cao có nghệ thuật trong kết cấu và ngôn từ. Nhiều truyện của ông
mang tính cách tâm lý đến bây giờ vẫn còn là những khuôn thước tốt cho người muốn
bước vào lãnh vực truyện ngắn. Với Nam Cao, ta có thể nói như với Edgar Poe, truyện
ngắn đã thành hình và có quy luật riêng của nó.
Có những nhà văn mà tác phẩm càng đi vào thời gian càng có giá trị Nam Cao ở vào
trường hợp đó. Truyện của ông là những bộ nhớ ghi lại một cách sống động những sinh
hoạt đặc biệt của nông thôn Việt Nam cách đây nửa thế kỷ. Ta yêu mến dân tộc ta. Ta tha
thiết với những gì mà dân tộc ta đã trải qua tất nhiên ta tha thiết và mến yêu những nét
chấm phá trong truyện của Nam Cao. Ở đây có đầy đủ hết, từ anh mõ nghèo nàn nhưng ai
cũng sợ, đến những chức dịch luôn luôn ậm ọc nhưng chỉ biết có những miếng đỉnh
chung tại chốn đình chung, từ một anh tha phương cầu thực vào sống nhờ trong làng đến


một người lính tập có dịp ra khỏi lũy tre làng nên đã mở mắt với đời ... đủ cả
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------


Thời niên thiếu
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (người Công giáo), sinh năm 1915, nhưng theo giấy
khai sinh ghi thì là ngày 29 tháng 10 năm 1917. Quê ông tại làng Đại Hoàng, tổng Cao
Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân nay là tỉnh Hà Nam - xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân,
Hà Nam. Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh: Nam Cao.
Xuất thân từ một gia đình bậc trung Công giáo, cha Nam Cao là ông Trần Hữu Huệ, thợ
mộc, làm thuốc, mẹ là bà Trần Thị Minh làm vườn, làm ruộng và dệt vải. Nam Cao học
sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi ông xuống Nam
Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung. Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi
Thành Chung ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi.
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì
mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may,
bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên Tiểu thuyết thứ
bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn, Một bà hào
hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác "tìm đường" của Nam Cao thời kỳ
đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.
Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường
tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái chết
của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân
Du, Nguyệt.
Đến với con đường văn học
Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với
bút danh Nam Cao do NXB Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một hiện
tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo. Phát xít Nhật
vào Đông Dương, trường bị trưng dụng, Nam Cao thôi dạy học.
Rời Hà Nội, Nam Cao về dạy học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại

làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài
nhiều kỳ Truyện người hàng xóm trên Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết
mòn, sau đổi là Sống mòn. Tháng 4 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và là
một trong số những thành viên đầu tiên của tổ chức này.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở
phủ Lý Nhân, rồi ông được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương. Ông
cho in truyện ngắn Mò sâm banh trên tạp chí Tiên Phong.


Năm 1946, Nam Cao ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc. Tiếp đó, ông
vào miền Nam với tư cách phóng viên. Tại Nam Bộ, Nam Cao viết và gửi in truyện ngắn
Nỗi truân chuyên của khách má hồng trên tạp chí Tiên Phong, in tập truyện ngắn Cười ở
NXB Minh Đức, in lại tập truyện ngắn Chí Phèo. Ra Bắc, Nam Cao nhận công tác ở Ty
Văn hóa Hà Nam, làm báo Giữ nước và Cờ chiến thắng của tỉnh này. Mùa thu năm 1947,
Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, viết Nhật ký ở
rừng. Tại chiến khu, năm 1948 Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.
Năm 1950 Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà
soạn tạp chí Văn nghệ. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học
tập của văn nghệ sỹ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương
Đảng. Trong năm đó, ông tham gia chiến dịch biên giới.
Tháng 5 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu 3, sau
đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác thuế
nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho cuốn
tiểu thuyết sẽ hoàn thành.
Qua đời
Nam Cao hy sinh ngày 28 tháng 11 năm 1951 (30 - 10 âm lịch), tại Hoàng Đan (Ninh
Bình) do bị đối phương phục kích.
Năm 1956, tiểu thuyết Sống mòn của ông được xuất bản lần đầu .
Đầu năm 1996, một chương trình mang tên "Tìm lại Nam Cao" được Hiệp hội Câu lạc bộ
UNESSCO Việt Nam tổ chức với quy mô chưa từng có gồm 35 đơn vị tham gia như Bộ

Lao động Thương binh - Xã hội, Hội Nhà vănViệt Nam, Báo Nhân dân... Điều đặc biệt là
trong đó có sự góp mặt của 7 nhà ngoại cảm mà Liên hiệp khoa học công nghệ tin học
ứng dụng (UIA) đã đứng ra mời họ tham gia chương trình "Tìm lại Nam Cao". Kết quả
sau gần nửa thế kỷ nằm hiu quạnh trong nấm mồ vô danh, cuối cùng Nam Cao đã về
yênnghỉ vĩnh hằng nơi quê nhà (xã Hoà Hậu, Lý Nhân, Hà Nam).
Một Nhà tưởng niệm Nam Cao cũng đã được thành lập từ ngày 30 tháng 11 năm 2004 tại
xã Hòa Hậu huyện Lý Nhân tỉnh Hà Nam, để tưởng niệm nhà văn.
Sự nghiệp văn chương
Quan điểm nghệ thuật


Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề Sống và Viết, rất có ý thức về
quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói,nhắc đến Nam Cao là nhắc đến chủ nghĩa
hiện thực trong Văn học Việt Nam từ 1930 đến 1945,đấy mới thực sự tự giác đầy đủ về
những nguyên tắc sáng tác của ông.
Thời gian đầu lúc mới cầm bút, chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời. Dần
dần, Ông nhận ra thứ văn chương đó xa lạ với đời sống lầm than của người lao động;
chính vì vậy, Ông đã đoạn tuyệt với nó và tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ
nghĩa. Tác phẩm Giăng sáng (1942); phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen
tối, bất công – Đó là thứ "Ánh trăng lừa dối". Nam Cao nhận thức nghệ thuật phải gắn bó
với đời sống, nhìn thẳng vào sự thật "tàn nhẫn", phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của
nhân dân và vì họ mà lên tiếng.
Đời thừa (1943); khẳng định phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một
tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ,
vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu , bác ái, công bằng. Và "Văn chương
không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương chỉ dung nạp
những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo ra cái
gì chưa có". Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng với nghề; và cho
rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương mà còn là đê tiện.
Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu với

ý nghĩ: lợi ích dân tộc là trên hết. Nhật ký Ở rừng (1948) - là tác phẩm có giá trị của văn
xuôi thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp, thể hiện quan niệm "sống đã rồi hãy viết" và
"góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này là chính để sửa soạn cho tôi một nghệ
thuật cao hơn".
Phong cách nghệ thuật
Đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó
là nguyên nhân của những hoạt động bên ngoài – Đây là phong cách rất độc đáo của Nam
Cao. Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người
trong con người".
Tâm lý nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút
Nam Cao.
Thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự tầm thường quen thuộc trong
đời sống hàng ngày của "Những truyện không muốn viết", tác phẩm của Nam Cao làm


nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ
thuật.
Giọng điệu riêng, buồn thương, chua chát.Ông có phong cách nghệ thuật triết lí trữ tình
sắc lạnh. Có nhà nghiên cứu đã ví ông với nhà văn Lỗ Tấn của Trung Quốc với phong
cách Téc-mốt (Phiên âm tiếng việt có nghĩa là cái phích nước)
Và quan niệm nghệ thuật của ông là " Nghệ thuật vị nhân sinh ( nghệ thuật phải viết về
con người và hướng đến những điều tốt đẹp của con người); ông phê phán quan niệm "
nghệ thuật vị nghệ thuật" ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện
truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX.
Trước cách mạng tháng 8
Người Trí thức nghèo: Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức
nghèo trong xã hội đương thời trước 1945, những "giáo khổ trường tư", những nhà văn
nghèo, viên chức nhỏ - Đó là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và nhân
phẩm, có hoài bão, tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao
quý; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho "chết mòn",

phải sống như "một kẻ vô ích, một người thừa". Phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt, phi
nhân đạo bóp ngẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời nói lên khao khát một
lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.
Người nông dân nghèo: Nhà văn dựng lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt
Nam trước 1945 nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm;
càng hiền lành, càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp, hắt hủi, bất công, lăng nhục tàn nhẫn;
người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nam Cao không hề bôi nhọ
người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản
chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của người nông
dân; Kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945.
Sau cách mạng tháng 8
"Đôi mắt", tác giả thể hiện một cái nhìn, một quan điểm, một sự thay đổi đói với thời
cuộc, có đi nhiều tìm hiểu nhiều va quan sát nhiều mới có sự thay đổi cách nhìn cách
nghĩ
sau cách mạng tháng 8 nhà văn tích cực tham gia vào kháng chiến có sự thay đổi trong
quan niệm nghệ thuật và nhìn nhận hướng đi mới cho nhân vật


những tác phẩm văn chương của Nam Cao đã trở thành những tuyên ngôn nghệ thuật cho
giới nghệ sĩ đương thời
"Trăng sáng" là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao " Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật
không cần là ánh trăng lừa dối,nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có
thế chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than.
Tác phẩm
Kịch
Đóng góp (1951)
Tiểu thuyết
Truyện người hàng xóm (1944) - Báo Trung văn Chủ nhật.
Sống mòn (viết xong 1944, xuất bản 1956), ban đầu có tên Chết mòn - Nhà xuất bản Văn
Nghệ.

Và bốn tiểu thuyết bản thảo bị thất lạc: Cái bát, Một đời người, Cái miếu, Ngày lụt.
Truyện ngắn
Ba người bạn

Bài học quét nhà

Cái chết của con Mực

Cái mặt không chơi được

Chuyện buồn giữa đêm vui
Con mèo mắt ngọc
Điếu văn
Đời thừa (1943)

Bẩy bông lúa lép

Cười
Chí Phèo (1941)
Đôi mắt (1948)
Đòn chồng

Con mèo
Đầu đường xó chợ
Đôi móng giò
Đón khách

Nhỏ nhen

Làm tổ


Lang Rận

Lão Hạc (1943)

Mong mưa

Một truyện xu-vơ-nia

Một đám cưới (1944)
Người thợ rèn
Những trẻ khốn nạn

Mua danh
Nhìn người ta sung sướng
Nụ cười

Mua nhà
Những chuyện không muốn viết
Nước mắt


Nửa đêm

Phiêu lưu

Quái dị

Quên điều độ


anh tẻ

Rửa hờn

Thôi về đi

Giăng sáng (1942)

Sao lại thế này?
Trẻ con không được ăn thịt chó
Truyện tình

Truyện biên giới

Tư cách mõ

Từ ngày mẹ chết

Xem bói
Ngoài ra ông còn làm thơ và biên soạn sách địa lý với Văn Tân Địa dư các nước Châu Âu
(1948), Địa dư các nước châu Á, châu Phi (19669), Địa dư Việt Nam (1951).
Vào ngày này cách đây 99 năm, ngày 29/10/1915, nhà văn Nam Cao - một trong những
nhà văn hiện thực phê phán Việt Nam tiêu biểu nhất thế kỷ XX, đã chào đời.
Nhiều truyện ngắn của ông được xem như là khuôn thước cho thể loại này. Đặc biệt, một
số nhân vật trong các tác phẩm của Nam Cao trở thành những hình tượng điển hình, được
sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày.
Nhà văn Nam Cao.
Nam Cao viết truyện đầu tay khi chưa tròn 20 tuổi, viết tác phẩm xuất sắc “Chí Phèo” lúc
26 tuổi, viết tiểu thuyết “Sống mòn” lúc 29 tuổi... để rồi tên tuổi của ông được xướng lên
cùng với Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng - những nhà văn hiện thực xuất

sắc nhất. Ông còn là một trong những cây bút tiêu biểu của văn xuôi Việt Nam thời kỳ
kháng chiến chống Pháp.
Nam Cao là bút danh của nhà văn - nhà báo - liệt sĩ Trần Hữu Tri. Ông sinh ra trong một
gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, nay là xã Hòa Hậu,
huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam.
Học xong thành chung, Nam Cao bôn ba nhiều nơi, nhưng bệnh tật đã khiến ông phải về
quê, sống bằng nghề dạy học và viết văn. Năm 1943, ông gia nhập Hội văn hoá cứu quốc
và tham gia phong trào Việt Minh ở địa phương. Cách mạng tháng Tám (1945), ông tham
gia khởi nghĩa giành chính quyền và được cử làm chủ tịch xã.
Sau Cách mạng Tháng Tám, với tư cách là phóng viên, Nam Cao có mặt trong đoàn quân
Nam tiến, rồi lên chiến khu Việt Bắc làm phóng viên báo Cứu quốc. Ngày 30/11/1951,
trên đường đi công tác, ông hy sinh tại làng Vũ Đại, huyện Gia Viễn, Ninh Bình, khi tài


năng đang nở rộ. Ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh đợt 1, năm
1996.
Sinh thời, Nam Cao thường suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”. Sự nghiệp của ông bắt đầu
bằng các trang văn lãng mạn. Nhưng rồi, ông nhận ra: văn chương lãng mạn xa lạ với đời
sống lầm than. Khi nhận ra: “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối”, Nam Cao
khước từ chủ nghĩa lãng mạn để coi trọng nghệ thuật hiện thực vị nhân sinh.
Hơn ai hết, Nam Cao coi nghề văn là nghề sáng tạo, nhà văn là nhà sáng tạo. Và ông đã
thể hiện được sự sáng tạo trong từng trang sách. Ông không chỉ xây dựng được những
tính cách điển hình vô tiền khoáng hậu mà còn là người đầu tiên phản ánh sâu sắc hiện
tượng nông dân lương thiện tha hóa thành quỷ dữ, trí thức tài năng vật lộn với bi kịch
tinh thần nhằm bảo vệ nhân cách.
Hình tượng nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn cùng tên.
Năm 1941, tập truyện đầu tay “Đôi lứa xứng đôi” (tên trong bản thảo là “Cái lò gạch cũ”)
của Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới (Hà Nội) ấn hành được đón nhận như là một hiện
tượng văn học. Sau này, khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là “Chí Phèo”.
Đây là một truyện ngắn xuất sắc được viết từ cái làng yêu dấu gắn với tuổi thơ của ông

với những câu chữ đau vào tận gan ruột, viết về số phận người nông dân bị xã hội thực
dân phong kiến đàn áp, biến dạng từ bần cùng hóa đến lưu manh hóa.
Miêu tả chân thực cuộc sống nghèo khổ, tủi nhục của người tiểu tư sản, Nam Cao đặc
biệt đi sâu vào những đau đớn trong tâm hồn của họ và đặt ra những vấn đề có ý nghĩa xã
hội sâu sắc. Đó là cái bi kịch của những kẻ khao khát sống cuộc sống có ý nghĩa chân
chính mà cứ bị lo lắng cơm áo hàng ngày giày vò, phải sống cuộc sống “đời thừa” vô
nghĩa, như các tác phẩm: “Đời thừa”, “Nước mắt”, “ Trăng sáng”, “Bài học quét nhà”.
Nhiều truyện của Nam Cao cũng đã ghi lại cuộc đấu tranh tư tưởng của người tiểu tư sản,
đấu tranh với sự cám dỗ của cuộc sống hưởng lạc tư sản, đấu tranh với lối sống ích kỷ,
dung tục tiểu tư sản để vươn tới lẽ sống nhân đạo.
Truyện dài Sống mòn là sự tổng hợp của những sáng tác về đề tài tiểu tư sản của Nam
Cao. Truyện dài “Truyện người hàng xóm” miêu tả cuộc sống lam lũ tối tăm của một
xóm nghèo ngoại ô, nhưng ánh lên cái nhìn lạc quan nhân đạo của những người nghèo
khổ.


Với hơn 20 truyện ngắn viết về nông dân, tiêu biểu như: “Chí Phèo”, “Lão Hạc”, “Một
đám cưới”, “Một bữa no”, “Lang Rận”, “Điếu văn”, “Mua danh”, “Tư cách mõ”... Nam
Cao đã dựng lên bức tranh về nông thôn Việt Nam những năm 1940-1945.
Cùng với các nhà văn hiện thực xuất sắc Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng,
các tác phẩm của Nam Cao thời kỳ 1941-1944 đã góp phần không nhỏ vào thành tựu của
dòng văn học hiện thực Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Có thể nói, từ tác phẩm “Chí Phèo” để lại dấu ấn, đến năm 1944, là thời kỳ sáng tác sung
mãn và có hiệu quả nhất trong đời viết văn của Nam Cao. Ông đã đạt tới đỉnh cao chất
lượng mới: Chất lượng ngôn ngữ nghệ thuật, chất lượng tư duy xã hội và tư duy văn học.
Sau 1945, đặc biệt là từ kháng chiến chống Pháp, ông nêu quyết tâm: “sống đã rồi hãy
viết”. “Sống” là cầm súng chiến đấu giải phóng dân tộc, sẵn sàng làm anh “tuyên truyền
viên nhãi nhép” đem ngòi bút phục vụ công nông binh. Ông vui vẻ nhận ra “góp sức vào
công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ thuật cao hơn”.
Lúc này ngòi bút Nam Cao hoạt động với tư cách ngòi bút của một cán bộ làm báo, làm

văn. Ngoài viết văn, ông còn viết tin, làm ca dao, soạn kịch ngắn tuyên truyền, viết hoặc
dịch sách phổ thông về địa lý, lịch sử, thời sự.
Trong mảng sáng tác sau cách mạng, Nam Cao đã để lại nhiều sáng tác có giá trị đặc sắc
và tiêu biểu cho văn xuôi kháng chiến thời kỳ đầu. “Nhật ký ở rừng” viết trong thời kỳ
ông công tác tại Bắc Cạn, đã thể hiện niềm yêu thương ấm áp đối với người dân miền núi
chất phác mà thiết tha với cách mạng, niềm quyết tâm và tin tưởng của người nghệ sĩ tiểu
tư sản trung thực đang nỗ lực vươn lên trong cuộc sống mới.
Truyện ngắn “Đôi mắt” là truyện ngắn thành công nhất của Nam Cao trong kháng chiến.
Chuyện biên giới và bút ký “Vài nét ghi qua vùng giải phóng” viết trong dịp ông tham
gia chiến dịch Cao Bằng-Lạng Sơn là những ký họa sinh động, tràn ngập không khí lạc
quan, có những hình ảnh giản dị, đẹp đẽ về chủ nghĩa anh hùng. Tất cả toát lên vẻ đẹp và
sức mạnh tinh thần của bộ đội, nhân dân trong chiến dịch...
Có thể nói, trong các tác phẩm của Nam Cao, nổi bật một phong cách trữ tình, sâu lắng,
trào lộng, xót xa, hóm hỉnh mà tế nhị, sang trọng mà bình dị, tinh vi mà khái quát. Ở đây
có cả văn chương, có cả tâm huyết, có cả tài năng lớn của một ước vọng nhân văn cao
đẹp mà nhà văn ký thác với cuộc đời.
Với 15 năm cầm bút, ông đã để lại một văn nghiệp đồ sộ với 2 tiểu thuyết, 50 truyện
ngắn, bút ký…, trong đó có những nhân vật mà diện mạo và số phận của nó không thể
phai mờ trong tâm trí bạn đọc nhiều thế hệ.


Nam Cao (1915 – 1951) là bút danh của nhà văn - nhà báo - liệt sĩ Trần Hữu Tri. Ông
sinh ra trong một gia đình nông dân tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang,
nay thuộc Hòa Hậu, Lí Nhân, Hà Nam (cách thành phố Nam Định chừng hơn 10 km).
Học xong thành chung, Nam Cao bôn ba nhiều nơi, nhưng bệnh tật đẩy ông về quê. Từ
đó, Nam Cao sống chật vật bằng nghề dạy học và viết văn. Năm 1943 , ông vào Hội Văn
hoá cứu quốc. Tham gia Tổng khởi nghĩa ở quê hương, ông được cử làm chủ tịch xã.
I. Cuộc đời và con người
1. Sơ lược về tiểu sử
Sau Cách mạng, với tư cách phóng viên - Nam Cao có mặt trong đoàn quân Nam tiến, rồi

lên chiến khu Việt Bắc làm công tác văn nghệ. Cuối tháng 11 năm 1951, trên đường đi
công tác vào vùng địch tạm chiếm, Nam Cao anh dũng hi sinh tại làng Vũ Đại, huyện Gia
Viễn, Ninh Bình, khi tài năng đang nở rộ; gần đây (1998), mộ phần của ông đã được đưa
về quê hương.
Là cây bút xuất sắc của dòng văn học hiện thực (1940 - 1945), là người đi tiên phong
trong việc xây dựng nền văn học mới, Nam Cao được Nhà nước truy tặng Giải thưởng
Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1,1996).
2. Con người
nha van nam cao
Những ai từng sống, chiến đấu với Nam Cao đều thấy rõ ba đặc điểm trong tích cách của
ông.
Nhìn bề ngoài, Nam Cao có phần vụng về, ít nói, lạnh lùng nhưng nội tâm thì luôn luôn
sôi sục, căng thẳng. Trong ông thường diễn ra xung đột gay gắt giữa “lòng nhân đạo và
thói ích kỷ, giữa tinh thần dũng cảm và thái độ hèn nhát, giữa tính chân thực với sự giả
dối, giữa khát vọng cao cả với mong muốn tầm thường”. Các trang viết về tri thức nghèo
thể hiện rất rõ đặc điểm trên đây trong con người Nam Cao.
Nam Cao sống ân tình với người nghèo khổ, bị áp bức, khinh miệt. Ông cho rằng: không
có tình thương thì không xứng đáng được gọi là Người. Trước Cách mạng, Nam Cao
mang nặng tâm sự u uất của một trí thức tài cao phận thấp, nhưng không khinh bạc, “ngất
ngưởng” như Nguyễn Tuân... Trong bất cứ hoàn cảnh nào, ông cũng giữ trọn tấm lòng
nhân hậu, hiền hòa. Không nỡ ăn bát cơm ngon dành riêng cho mình, Nam Cao muốn


chia đều cho cả nhà... Vì vậy, viết về người nghèo, ngòi bút Nam Cao lúc nào cũng tràn
đầy niềm xót thương, cảm thông...
Ông luôn luôn trăn trở, suy tư về bản thân và cuộc sống. Vì thế, từ những chuyện nhỏ
nhặt, thường ngày, Nam Cao nêu được nhiều vấn đề xã hội lớn lao, nhiều bài học triết lý
sâu sắc. Với mình thì khiêm nhường, với người thì trân trọng. Đánh giá văn học thời kì
đầu kháng chiến chống Pháp, ông viết “Nguyễn Huy Tưởng dẫn đầu ... Tố Hữu, Kim Lân
thứ nhì; Nam Cao bét, bởi vì xét ra vẫn cũ...”

Ba đặc điểm trên đây ảnh hưởng nhiều đến phong cách sáng tác của Nam Cao.
II. Sự nghiệp văn học
Mười năm cầm bút, Nam Cao để lại cho đời một khối lượng sáng tác khá đồ sộ - “Toàn
tập Nam Cao” gồm 1400 trang được hoàn thiện năm 1999.
1. Quan điểm nghệ thuật
Sinh thời, Nam Cao thường suy nghĩ về vấn đề “sống và viết”. Sự nghiệp của ông bắt đầu
bằng các trang văn lãng mạn. Lúc này, quan điểm sáng tác lãng mạn ảnh hưởng đến Nam
Cao khá rõ. Nhưng rồi, tác giả nhận ra: văn chương lãng mạn có phần xa lạ với đời sống
lầm than, nhà văn lãng mạn thoát li không ưa sự thật; âm điệu ảo não, thất tình tràn đầy
các trang sách của họ.
Sau bao trăn trở, khi nhận ra: “nghệ thuật không phải là ánh trăng lừa dối”, Nam Cao
khước từ chủ nghĩa lãng mạn để coi trọng nghệ thuật hiện thực vị nhân sinh. Trong thời
kì này, “Trăng sáng” (1943) được xem là một tuyên ngôn nghệ thuật. Truyện ngắn trên
đánh dấu bước trưởng thành của Nam Cao về quan điểm sáng tác. Nó thể hiện cuộc đấu
tranh day dứt của nhà văn Điền trước hai lối viết, hai cách sống (mơ mộng hay thực tế;
lãng mạn hay hiện thực ...). Qua Điền, Nam Cao thiết tha khẳng đinh: “nghệ thuật có thể
chỉ là tiếng kêu đau khổ kia toát ra từ những kiếp lầm than”. Vì thế, văn nhân không được
“trốn tránh” sự thật, mà “cứ đứng trong lao khổ, mở hồn ra đón lấy tất cả những vang
động của đời”. Sau “Trăng sáng”, Nam Cao là nhà văn hiện thực – người thư kí trung
thành của thời đại. Với quan niệm “chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội”, văn chương sẽ
không có giá trị, ông nghĩ: viết thì “rất cần sự thực”. Từ những việc nhỏ nhoi, xoàng
xĩnh, người sáng tác phải nêu được những vấn đề có ý nghĩa xã hội.
Tác phẩm văn học có giá trị phải thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc, “chứa đựng được
một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình
bác ái, sự công bằng… Nó làm cho người gần người hơn” (Đời thừa). Trước Cách mạng,
Nam Cao đã coi trọng đôi mắt tình thương và khẳng định: nhà văn phải là nhà nhân đạo.


Qua “Trăng sáng”, “Đời thừa”,... ông muốn văn học phản ánh cuộc đời của tầng lớp sống
dưới đáy xã hội. Từ bi kịch của Hộ, Nam Cao khuyên nhà văn tạm thời hi sinh nghệ thuật

đề giữ lối sống nhân đạo.
Hơn ai hết, Nam Cao coi nghề văn là nghề sáng tạo, nhà văn là nhà sáng tạo. Đành rằng,
làm nghề gì cũng phải sáng tạo, nhưng yêu cầu này đối với các tác gia nghệ thuật khắt
khe hơn nhiều. Trong cuộc sống, sáng tạo là làm ra những sản phẩm tinh thần, vật chất
chưa từng có; nhà văn phải biết tìm tòi, “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo
những cái gì chưa có”... Đối lập với sáng tạo là sự cẩu thả -cẩu thả trong nghề văn chẳng
những “bất lương” mà còn “đê tiện”.
Nam Cao đã thực hiện ba quan điểm trên trong từng trang sách. Ông không chỉ xây dựng
được những tính cách điển hình vô tiền khoáng hậu (trước chưa có, sau chưa thấy) mà
còn là người đầu tiên phản ánh sâu sắc hiện tượng nông dân lương thiện tha hóa thành
quỷ giữ, trí thức tài năng vật lộn với bi kịch tinh thần nhằm bảo vệ nhân cách.
Trước Cách mạng tháng Tám, Nam Cao sáng tác theo quan điểm hiện thực phê phán.
Tuy vậy, nhiều trang viết của ông đã hé lộ nhân tố mới (Chí Phèo thức tỉnh, giết bá
Kiến). Sau 1945, đặc biệt là từ kháng chiến chông Pháp, ông nêu quyết tâm: “sống đã rồi
hãy viết”. “Sống” là cầm súng chiến đấu giải phóng dân tộc, sẵn sàng làm anh “tuyên
truyền viên nhãi nhép” đem ngòi bút phục vụ công nông binh (Đôi mắt; Ở rừng). Ông vui
vẻ nhận ra “góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi
một nghệ thuật cao hơn”. Quan điểm tiến bộ trên đây giúp Nam Cao thành nhà văn cách
mạng, nghệ sĩ chân chính của thời đại.
2. Các đề tài chính trong sáng tác của Nam Cao trước Cách mạng
Trước 1945, tài năng Nam Cao kết tinh trong gần 60 truyện ngắn, một truyện vừa
(Chuyện người hàng xóm), và tiểu thuyết Sống mòn. Tác phẩm của ông chủ yếu xoay
quanh hai đề tài: người tri thức nghèo và nông dân bần cùng.
Ở đề tài thứ nhất, ấn tượng hơn cả là:
- Những truyện không muốn viết (1942)
- Trăng sáng (1943)
- Đời thừa (1943)
- Quên điều độ (1943)
-Sống mòn (tiểu thuyết - 1944).



Qua các trang viết trên, Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người tri thức
nghèo trong xã hội cũ. Đó là những “giáo khổ trường tư”, nhà văn túng quẫn, viên chức
nhỏ - nghèo... Qua họ, ông nêu lên nhiều triết lí sâu sắc, có ý nghĩa xã hội to lớn. Trí thức
trong sáng tác của Nam là những người có tài năng, tâm huyết, biết tự trọng và ôm ấp
hoài bão lơn lao (xây dựng một sự nghiệp tinh thần cao quý) nhưng không thực hiện
được vì nạn áo cơm ghì sát đất. Hộ thiết tha viết tác phẩm ăn giải Nô-ben; Thứ mong
muốn được đóng góp công sức làm đổi thay nền giáo dục để xã hội công bằng. Vậy mà
cả hai đều bị dồn vào tình trạng “chết mòn”, phải sống như “một kẻ vô ích, một người
thừa”. Qua đề tài này, Nam Cao phê phán xã hội cũ giết chết tài năng, tàn phá tâm hồn
nghệ sĩ. Ông cũng thể hiện thành công quá trình người trí thức tự đấu tranh, khắc phục
mặt hạn chế, vươn lên giữ lối sống đẹp.
Ở đề tài thứ hai, Nam Cao viết chừng hai mươi truyện ngắn phản ánh cuộc đời tăm tối, số
phận bi thảm của người nông dân; tiêu biểu là:
- Chí Phèo (1941)
- Trẻ con không được ăn thịt chó (1942).
- Lão Hạc (1943)
- Một bữa no (1943)
- Một đám cưới (1944)
Trong đó,”Chí Phèo” xứng đáng là kiệt tác. Viết về đề tài này, Nam Cao khắc họa bức
tranh chân thực về nông thôn Việt Nam xơ xác , bần cùng trong khoảng thời gian 1940
-1945. Ông đặc biệt quan tâm tới tình trạng nghèo đói và quá trình một bộ phận thấp cổ
bé họng bị tha hóa, bị cự tuyệt quyền làm người. Càng hiền lành họ càng bị chà đạp phũ
phàng. Viết về nông dân, Nam Cao kết án đanh thép xã hội thực dân phong kiến đã huỷ
hoại nhân hình, sói mòn nhân tính của những con người lương thiện. Không “bôi nhọ”
nông dân, ông đi sâu vào nội tâm nhân vật để phát hiện, khẳng định nhiều phẩm chất cao
cả của những người bị xã hội dập vùi.
Đó là hai đề tài quen thuộc, nhưng vì biết khơi những nguồn chưa ai khơi, Nam Cao vẫn
tạo được sự hấp dẫn. Viết về nông dân hay trí thức, sáng tác của Nam Cao luôn luôn thể
hiện nỗi băn khoăn day dứt trước số phận con người và thường lấy nguyên mẫu từ quê

hương, bản thân. Sáng tác của ông chứa đựng nội dung triết học sâu sắc.
Sau Cách mạng, Nam Cao vẫn tiếp tục viết về nông dân, trí thức với “đôi mắt” mới.
3. Nghệ thuật viết truyện của Nam Cao


Nam Cao có biệt tài phân tích và diễn tả những quá trình tâm lý phức tạp, những ngõ
ngách sâu kín nhất trong tâm hồn con người. Nhờ vậy, ông khắc họa được những điển
hình độc đáo. Am hiểu nhân vật, Nam Cao tạo nên nhiều đoạn đối thoại và độc thoại nội
tâm rất chân thật, sinh động.
Truyện ngắn Nam Cao mang tính triết lý sâu sắc mà không khô khan. Tinh lọc qua trái
tim chất chứa đau đớn, dằn vặt, ... câu chữ của Nam Cao kết hợp hài hòa giữa triết lí và
trữ tình.
Nam Cao biết linh hoạt thay đổi giọng điệu. Ông có ý thức sử dụng hai giọng chủ yếu:
- Giọng tự sự lạnh lùng, mỉa mai. Ở đây, tác giả thường dùng đại từ có sắc thái dửng
dưng, khinh bạc (hắn, y, thị ... )
- Giọng trữ tình tha thiết với những thán từ: Chao ôi ! Hỡi ôi ! Ơi !
Hai giọng điệu đối lập ấy đan xen hòa hợp tạo nên phong vị riêng cho các trang viết Nam
Cao.
Nói về truyện ngắn, phải khẳng định: Nam Cao có đóng góp to lớn đối với sự phát triển
của ngôn ngữ văn xuôi. Đến Nam Cao, truyện ngắn nước nhà mới thực sự hoàn thiện một
quá trình hiện đại.
Nam Cao xứng đáng là tác gia lớn; ông đã để lại nhiều kiệt tác. Cuộc đời, trang viết Nam
Cao là một tấm gương sáng về nhiều mặt cho văn nghệ sĩ muôn đời.
4. Phong cách nghệ thuật
Phong cách nghệ thuật của nhà văn là những đặc điểm nội dung, hình thức riêng bào trùm
toàn bộ sáng tác của họ. Trong nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, Nam Cao là cây bút có
phong cách độc đáo.
Viết về nông dân hay trí thức, Nam Cao quan tâm tới đời sống tinh thần của họ và đặc
biệt hứng thú với việc khám phá “con người trong con người” (sau vẻ bề ngoài của Chí
Phèo, thị Nở, lang Rận... còn có một con người khác mà chỉ những ai cố công tìm hiểu

mới phát hiện được) Ông quan niệm “bản tính cốt yếu của sự sống là cảm giác và tư
tưởng” (Sống mòn). Cảm giác, tư tưởng càng sâu sắc, linh diệu thì sự sống càng cao. Vì
thế, Nam Cao đặc biệt chú ý tới chiều sâu bên trong của con người, coi đó là nguyên
nhân của hành động.
Với quan niệm về con người như thế, Nam Cao có khuynh hướng tìm vào nội tâm. Ông
có sở trường và biệt tài diễn tả, phân tích tâm lý. Nội tâm nhân vật thành trung tâm chú ý,


đối tượng trực tiếp của ngòi bút Nam Cao. Ông đặc biệt sắc sảo khi thể hiện những quá
trình tâm lý phức tạp (quỷ dữ thức tỉnh; hiện tượng dở say dở tỉnh; cá tính chấp chới giữa
thiện - ác, hiền - dữ, người - vật… Để đi vào chiều sâu không cùng của nội tâm, Nam
Cao thường sử dụng những đoạn độc thoại nội tâm chân thật, sinh động.
Mặt khác, trong kết cấu - ông thường đảo lộn trật tự thời gian, không gian, tạo nên kiểu
kết cấu tâm lý phóng khoáng, linh hoạt mà vẫn nhất quán, chặt chẽ. Về đề tài, ngòi bút
Nam Cao cũng quan tâm đến “Những chuyện không muốn viết” - chuyện nhỏ nhặt,
thường ngày. Từ đó, ông đặt ra những vấn đề xã hội, con người, cuộc sống và nghệ thuật
chân chính.
Kể chuyện bằng ngôi thứ nhất hay thứ ba, Nam Cao vẫn là nhà văn có giọng điệu riêng:
- Triết lí, mỉa mai, chua chát;
- Dửng dưng, lạnh lùng mà tràn đầy thương cảm, đằm thắm, thiết tha…
Kết luận:
Hi sinh vì sự nghiệp giải phóng dân tộc khi mới 37 tuổi, Nam Cao chưa biết ông được tôn
vinh là nhà văn lớn. Hơn nửa thế kỉ đã qua đi, tác phẩm của Nam Cao càng khẳng định
giá trị hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc
đáo.
Nam Cao (1917-1951) là một nhà văn hiện thực lớn (trước Cách Mạng), một nhà báo
kháng chiến (sau Cách Mạng), một trong những nhà văn tiêu biểu nhất thế kỷ 20 của Việt
Nam. Ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện phong cách truyện ngắn
và tiểu thuyết Việt Nam ở nửa đầu thế kỷ 20.
Thân thế và sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]

Thời niên thiếu[sửa | sửa mã nguồn]
Nam Cao tên thật là Trần Hữu Tri (có nguồn ghi là Trần Hữu Trí[1]), sinh năm 1915,
nhưng theo giấy khai sinh ghi thì là ngày 29 tháng 10 năm 1917.[cần dẫn nguồn] Quê ông
tại làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay là xã Hòa Hậu,
huyện Lý Nhân, Hà Nam). Ông đã ghép hai chữ của tên tổng và huyện làm bút danh:
Nam Cao.[2]
Ông xuất thân từ một gia đình Công giáo bậc trung. Cha ông là ông Trần Hữu Huệ, làm
nghề thợ mộc và thầy lang trong làng. Mẹ ông là bà Trần Thị Minh, vừa là nội trợ, làm
vườn, làm ruộng và dệt vải.


Thuở nhỏ, ông học sơ học ở trường làng. Đến cấp tiểu học và bậc trung học, gia đình gửi
ông xuống Nam Định học ở trường Cửa Bắc rồi trường Thành Chung (nay là trường
THPT Chuyên Lê Hồng Phong- Nam Định). Nhưng vì thể chất yếu, chưa kịp thi Thành
Chung, ông đã phải về nhà chữa bệnh, rồi cưới vợ năm 18 tuổi.
Đến với văn nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
Nam Cao từng làm nhiều nghề, chật vật kiếm sống và đến với văn chương đầu tiên vì
mục đích mưu sinh. Năm 18 tuổi vào Sài Gòn, ông nhận làm thư ký cho một hiệu may,
bắt đầu viết các truyện ngắn Cảnh cuối cùng, Hai cái xác. Ông gửi in trên tuần báo Tiểu
thuyết thứ bảy, trên báo Ích Hữu các truyện ngắn Nghèo, Đui mù, Những cánh hoa tàn,
Một bà hào hiệp với bút danh Thúy Rư. Có thể nói, các sáng tác "tìm đường" của Nam
Cao thời kỳ đầu còn chịu ảnh hưởng của trào lưu văn học lãng mạn đương thời.
Trở ra Bắc, sau khi tự học lại để thi lấy bằng Thành chung, Nam Cao dạy học ở Trường
tư thục Công Thành, trên đường Thụy Khuê, Hà Nội. Ông đưa in truyện ngắn Cái chết
của con Mực trên báo Hà Nội tân văn và in thơ cùng trên báo này với các bút danh Xuân
Du, Nguyệt.
Năm 1941, tập truyện đầu tay Đôi lứa xứng đôi, tên trong bản thảo là Cái lò gạch cũ, với
bút danh Nam Cao do Nhà xuất bản Đời mới Hà Nội ấn hành được đón nhận như là một
hiện tượng văn học thời đó. Sau này khi in lại, Nam Cao đã đổi tên là Chí Phèo.
Phát xít Nhật thâm nhập Đông Dương, trường sở bị trưng dụng, ông rời Hà Nội, về dạy

học ở Trường tư thục Kỳ Giang, tỉnh Thái Bình, rồi về lại làng quê Đại Hoàng. Thời kỳ
này, Nam Cao cho ra đời nhiều tác phẩm. Ông in truyện dài nhiều kỳ Truyện người hàng
xóm trên tờ Trung Bắc Chủ nhật, viết xong tiểu thuyết Chết mòn, sau đổi là Sống mòn...
Tham gia hoạt động cách mạng[sửa | sửa mã nguồn]
Tháng 4 1943, Nam Cao gia nhập Hội Văn hóa cứu quốc và là một trong số những thành
viên đầu tiên của tổ chức này. Bị địch khủng bố gắt gao, ông phải lánh về quê.
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Nam Cao tham gia cướp chính quyền ở
phủ Lý Nhân, rồi ông được cử làm Chủ tịch xã của chính quyền mới ở địa phương[cần
dẫn nguồn]. Ông cho in truyện ngắn Mò sâm banh trên tạp chí Tiên Phong.
Năm 1946, Nam Cao ra Hà Nội hoạt động trong Hội Văn hóa Cứu quốc. Tiếp đó, ông
vào miền Nam với tư cách phóng viên. Tại Nam Bộ, Nam Cao viết và gửi in truyện ngắn
Nỗi truân chuyên của khách má hồng trên tạp chí Tiên Phong, in tập truyện ngắn Cười ở
Nhà xuất bản Minh Đức, in lại tập truyện ngắn Chí Phèo. Ra Bắc, Nam Cao nhận công


tác ở Ty Văn hóa Hà Nam, làm báo Giữ nước và Cờ chiến thắng của tỉnh này. Mùa thu
năm 1947, Nam Cao lên Việt Bắc. Ông là thư ký tòa soạn báo Cứu quốc Việt Bắc, viết
Nhật ký ở rừng. Tại chiến khu, năm 1948 Nam Cao gia nhập Đảng cộng sản Việt Nam.
Năm 1950 Nam Cao chuyển sang làm việc ở Hội Văn nghệ Việt Nam, làm việc trong toà
soạn tạp chí Văn nghệ. Tháng 6, ông thuyết trình về vấn đề ruộng đất trong hội nghị học
tập của văn nghệ sỹ, sau đó ông được cử làm Ủy viên tiểu ban văn nghệ của Trung ương
Đảng. Trong năm đó, ông tham gia Chiến dịch Biên giới.
Tháng 5 năm 1951, Nam Cao và Nguyễn Huy Tưởng về dự Hội nghị văn nghệ Liên khu
3, sau đó hai nhà văn cùng vào công tác khu 4. Nam Cao trở ra tham gia đoàn công tác
thuế nông nghiệp, vào vùng địch hậu khu 3. Ông có ý định kết hợp lấy thêm tài liệu cho
cuốn tiểu thuyết sẽ hoàn thành.[3]
Qua đời[sửa | sửa mã nguồn]
Trên đường đi công tác, ông bị quân Pháp phục kích và bắn chết vào ngày 28 tháng 11
năm 1951 (30 tháng Mười âm lịch), tại Hoàng Đan (Ninh Bình).[1] [4]
Sau khi ông mất, mộ phần bị thất lạc. Mặc dù vậy, ảnh hưởng của ông đến văn học Việt

Nam vẫn đáng kể. Năm 1956, tiểu thuyết Sống mòn của ông được xuất bản lần đầu [2].
Đầu năm 1996, một chương trình có tên "Tìm lại Nam Cao" nhằm tìm lại mộ phần của
ông được Hiệp hội Câu lạc bộ UNESCO Việt Nam tổ chức với sự tham gia của 35 đơn vị
tham gia như Bộ Lao động Thương binh - Xã hội, Hội Nhà văn Việt Nam, Báo Nhân
dân... Với sự giúp đỡ của 7 nhà ngoại cảm mà Liên hiệp khoa học công nghệ tin học ứng
dụng (UIA) mời dự, một ngôi mộ được cho là của Nam Cao đã được tìm thấy ở nghĩa
trang huyện Gia Viễn, (Ninh Bình) và quy tập về quê hương ông (xã Hòa Hậu, Lý Nhân,
Hà Nam).[5]
Cũng trong năm 1996, Nam Cao được truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và
nghệ thuật ngay trong đợt 1.
Một Nhà tưởng niệm Nam Cao cũng đã được thành lập từ ngày 30 tháng 11 năm 2004 tại
Hà Nam, để tưởng niệm nhà văn [6].
Quan điểm nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]
Quan điểm nghệ thuật "vị nhân sinh"


Trong cuộc đời cầm bút, Nam Cao luôn suy nghĩ về vấn đề Sống và Viết, rất có ý thức về
quan điểm nghệ thuật của mình. Có thể nói, nhắc đến Nam Cao là nhắc đến chủ nghĩa
hiện thực trong Văn học Việt Nam từ 1930 đến 1946.
Thời gian đầu lúc mới cầm bút, ông chịu ảnh hưởng của văn học lãng mạn đương thời.
Dần dần nhận ra thứ văn chương đó xa lạ với đời sống lầm than của người lao động, ông
đã đoạn tuyệt với nó và tìm đến con đường nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Tác phẩm
Giăng sáng (1942); phê phán thứ văn chương thi vị hóa cuộc sống đen tối, bất công – Đó
là thứ "Ánh trăng lừa dối". Nam Cao nhận thức nghệ thuật phải gắn bó với đời sống, nhìn
thẳng vào sự thật "tàn nhẫn", phải nói lên nỗi khốn khổ, cùng quẫn của nhân dân và vì họ
mà lên tiếng.
Đời thừa (1943); khẳng định một tác phẩm văn học phải vượt lên trên tất cả các bờ cõi và
giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái
gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi; ca tụng tình yêu, bác ái, công bằng
và "Văn chương không cần đến sự khéo tay, làm theo một cái khuôn mẫu. Văn chương

chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi và
sáng tạo ra cái gì chưa có". Ông đòi hỏi nhà văn phải có lương tâm, có nhân cách xứng
với nghề; và cho rằng sự cẩu thả trong văn chương chẳng những là bất lương mà còn là
đê tiện.
Sau 1945, tham gia kháng chiến chống Pháp, sẵn sàng hy sinh thứ nghệ thuật cao siêu với
ý nghĩ: lợi ích dân tộc là trên hết. Nhật ký Ở rừng (1948) - tác phẩm có giá trị của văn
xuôi thời kỳ đầu kháng chiến chống Pháp - thể hiện quan niệm "sống đã rồi hãy viết" và
"góp sức vào công việc không nghệ thuật lúc này chính là để sửa soạn cho tôi một nghệ
thuật cao hơn".
Các đề tài chính[sửa | sửa mã nguồn]
Trước cách mạng tháng 8
Người Trí thức nghèo: Nam Cao miêu tả sâu sắc tấn bi kịch tinh thần của người trí thức
nghèo trong xã hội đương thời trước 1945, những "giáo khổ trường tư", những nhà văn
nghèo, những viên chức nhỏ. Họ là những trí thức có ý thức sâu sắc về giá trị sự sống và
nhân phẩm, có hoài bão, tâm huyết và tài năng, muốn xây dựng một sự nghiệp tinh thần
cao quý; nhưng lại bị gánh nặng áo cơm và hoàn cảnh xã hội ngột ngạt làm cho "chết
mòn", phải sống như "một kẻ vô ích, một người thừa". Phê phán sâu sắc xã hội ngột ngạt,
phi nhân đạo bóp ngẹt sự sống, tàn phá tâm hồn con người, đồng thời nói lên khao khát
một lẽ sống lớn, có ích, có ý nghĩa, xứng đáng là cuộc sống con người.


Người nông dân nghèo: Nhà văn dựng lên một bức tranh chân thực về nông thôn Việt
Nam trước 1945 nghèo đói, xơ xác trên con đường phá sản, bần cùng, hết sức thê thảm;
càng hiền lành, càng nhẫn nhục thì càng bị chà đạp, hắt hủi, bất công, lăng nhục tàn nhẫn;
người nông dân bị đẩy vào con đường tha hóa, lưu manh hóa. Nam Cao không hề bôi nhọ
người nông dân, trái lại, đã đi sâu vào nội tâm nhân vật để khẳng định nhân phẩm và bản
chất lương thiện ngay cả khi bị vùi dập, cướp mất cà nhân hình, nhân tính của người nông
dân; Kết án đanh thép cái xã hội tàn bạo đó trước 1945.
Sau cách mạng tháng 8
"Đôi mắt", tác giả thể hiện một cái nhìn, một quan điểm, một sự thay đổi đối với thời

cuộc, có đi nhiều tìm hiểu nhiều và quan sát nhiều mới có sự thay đổi cách nhìn cách
nghĩ[cần dẫn nguồn]
Sau cách mạng tháng 8 nhà văn tích cực tham gia vào kháng chiến có sự thay đổi trong
quan niệm nghệ thuật và nhìn nhận hướng đi mới cho nhân vật[cần dẫn nguồn]
Những tác phẩm văn chương của Nam Cao đã trở thành những tuyên ngôn nghệ thuật
cho giới nghệ sĩ đương thời [cần dẫn nguồn]
"Trăng sáng" là một tuyên ngôn nghệ thuật của Nam Cao: "Chao ôi! Chao ôi! Nghệ thuật
không cần là ánh trăng lừa dối,nghệ thuật không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật có
thế chỉ là tiếng đau khổ kia, thoát ra từ những kiếp lầm than".
Phong cách nghệ thuật[sửa | sửa mã nguồn]
Đề cao con người tư tưởng, đặc biệt chú ý tới hoạt động bên trong của con người, coi đó
là nguyên nhân của những hoạt động bên ngoài – Đây là phong cách rất độc đáo của Nam
Cao. Quan tâm tới đời sống tinh thần của con người, luôn hứng thú khám phá "con người
trong con người".
Tâm lý nhân vật trở thành trung tâm của sự chú ý, là đối tượng trực tiếp của ngòi bút
Nam Cao.
Thường viết về những cái nhỏ nhặt, xoàng xĩnh. Từ cái sự tầm thường quen thuộc trong
đời sống hàng ngày của "Những truyện không muốn viết", tác phẩm của Nam Cao làm
nổi bật vấn đề xã hội có ý nghĩa to lớn triết lý sâu sắc về con người, cuộc sống và nghệ
thuật.
Giọng điệu riêng, buồn thương, chua chát.Ông có phong cách nghệ thuật triết lí trữ tình
sắc lạnh. Có nhà nghiên cứu đã ví ông với nhà văn Lỗ Tấn của Trung Quốc với phong
cách Téc-mốt (Phiên âm tiếng việt có nghĩa là cái phích nước)


Và quan niệm nghệ thuật của ông là " Nghệ thuật vị nhân sinh (nghệ thuật phải viết về
con người và hướng đến những điều tốt đẹp của con người); ông phê phán quan niệm "
nghệ thuật vị nghệ thuật" ông có nhiều đóng góp quan trọng đối với việc hoàn thiện
truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam trên quá trình hiện đại hóa ở nửa đầu thế kỉ XX
Nam Cao - Nhà văn hiện thực xuất sắc, Nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn

Nam Cao (1915 - 1951) là một trong số những nhà văn lớn nhất của nền văn xuôi
hiện đại Việt Nam. Sáng tác của ông đã vượt qua những thử thách khắc nghiệt của thời
gian, càng thử thách lại càng ngời sáng. Thời gian càng lùi xa, những tác phẩm của ông
càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật
điêu luyện, độc đáo.
Nam Cao là nhà văn lớn nhất của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930
-1945. Trong số các nhà văn hiện thực, ông là cây bút có ý thức sâu sắc nhất về quan
điểm nghệ thuật của mình. Ông phê phán khá toàn diện và triệt để tính chất thoát ly, tiêu
cực của văn chương lãng mạn đương thời, coi đó là thứ “ánh trăng lừa dối”, đồng thời
yêu cầu nghệ thuật chân chính phải trở về với đời sống, phải nhìn thẳng vào sự thật, nói
lên được nỗi thống khổ của hàng triệu nhân dân lao động lầm than (Giăng sáng).
Xuất hiện trên văn đàn khi trào lưu hiện thực chủ nghĩa đã đạt được nhiều thành
tựu xuất sắc, Nam Cao ý thức sâu sắc rằng: “Văn chương chỉ dung nạp được những
người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì
chưa có” (Đời thừa). Và Nam Cao đã thực sự tìm được cho mình một hướng đi riêng
trong việc tiếp cận và phản ánh hiện thực. Nếu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Ngô Tất Tố - những nhà văn hiện thực xuất sắc thời kỳ Mặt trận dân chủ (1936 1939) đều tập trung phản ánh trực tiếp những mâu thuẫn, xung đột xã hội thì sáng tác của
Nam Cao - đại biểu ưu tú nhất của trào lưu hiện thực chặng đường cuối cùng (1940 1945), trừ truyện ngắn Chí Phèo (mà theo tôi là dư âm còn sót lại của thời kỳ 1936 1939) trực tiếp đề cập tới xung đột giai cấp, còn các tác phẩm khác đều tập trung thể hiện
xung đột trong thế giới nội tâm của nhân vật. Hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ không tạo
điều kiện cho Nam Cao đi thẳng vào những vấn đề cấp bách nhất của xã hội, không trực
tiếp miêu tả những sự kiện có ý nghĩa xã hội lịch sử rộng lớn. Nhiều tác phẩm của ông
được dệt lên bằng toàn những “cái hàng ngày” chủ yếu liên quan đến cuộc sống riêng tư
của các nhân vật, những sự kiện vặt vãnh, nhỏ nhoi, tủn mủn mà nhà văn gọi là “những
chuyện không muốn viết”. Chưa bao giờ cái vặt vãnh hàng ngày lại có một sức mạnh ghê
gớm như trong sáng tác của Nam Cao. Chỉ có tiếng con khóc, tiếng vợ gắt gỏng cũng đủ
sức lôi tuột văn sĩ Điền đang nhởn nhơ trên chín tầng mây với ánh trăng giống như “cái
vú mịn tròn đầy” xuống mặt đất với biết bao cực khổ lầm than (Giăng sáng). Miếng cơm,


manh áo hàng ngày cùng với những xích mích vặt vãnh, những ghen tuông vớ vẩn,

những đố kị nhỏ nhen cũng dư thừa sức mạnh khống chế, giam cầm chung thân mấy anh
giáo khổ trường tư trong cái ao tù ngột ngạt của những kiếp Sống mòn. Cả lý tưởng nhân
đạo cao cả, cả hoài bão nghệ thuật chân chính đều có nguy cơ chết mòn trước sự tấn công
quyết liệt, dai dẳng và tàn bạo của cái đói (Đời thừa).v.v… Từ những chuyện vụ vặt đời
thường, Nam Cao đã thực sự động chạm đến vấn đề có tính chất nhân bản, đã đặt ra
những vấn đề sâu sắc về cuộc sống, về thân phận của con người, về vấn đề cải tạo xã hội,
về tương lai của dân tộc và nhân loại. Bi kịch của đời thường, của những cái vặt vãnh
hàng ngày, qua ngòi bút đầy tài năng của Nam Cao đã trở thành những bi kịch vĩnh cửu.
Nam Cao là nhà văn của chủ nghĩa hiện thực tâm lý. Điều đó có quan hệ mật thiết
tới quan niệm về con người của ông. Nam Cao viết trong Sống mòn: “Sống tức là cảm
giác và tư tưởng. Sống cũng là hành động nữa, nhưng hành động chỉ là phần phụ: có cảm
giác, có tư tưởng mới sinh ra hành động”. Một quan niệm về con người như thế đã chi
phối thủ pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của Nam Cao. Sự chú ý đặc biệt tới thế giới bên
trong của con người đã thường xuyên chế ước hứng thú nghệ thuật ngày càng tăng của
nhà văn đối với tính chất nhiều dự định của cá tính con người, động cơ nội tại của hành vi
nhân vật và quan hệ phức tạp của nó với hiện thực xung quanh.
Đối với Nam Cao, cái quan trong hơn cả trong nhiệm vụ phản ánh chân thật cuộc
sống là cái chân thật của tư tưởng, của nội tâm nhân vật. Xét tới cùng, cái quan trọng nhất
trong tác phẩm không phải là bản thân sự kiện, biến cố tự thân mà là con người trước sự
kiện, biến cố. Vì vậy, trong sáng tác của Nam Cao, hứng thú của những chi tiết tâm lý
thường thay thế cho hứng thú của chính bản thân các sự kiện, biến cố. Như vậy, nguyên
tắc các sự kiện, biến cố, tình tiết chỉ giữ vai trò “khiêu khích” các nhân vật, để cho nhân
vật bộc lộ những nét tâm lý, tính cách của mình. Cho nên, trong Mua nhà, Nam Cao
không tập trung miêu tả sự việc mua được cái nhà gỗ rẻ mà tập trung xoáy sâu vào những
suy nghĩ, dằn vặt, những ân hận, dày vò của nhân vật người kể chuyện về tình trạng
“hạnh phúc chỉ là một cái chăn quá hẹp. Người này co thì người kia bị hở”. Đời thừa
cũng không hướng vào việc miêu tả nỗi khổ áo cơm mà tập trung thể hiện phản ứng tâm
lý của con người trước gánh nặng áo cơm làm mai một tài năng và xói mòn nhân cách.
Cho nên, trước khi bán một con chó, lão Hạc phải trải qua biết bao băn khoăn, day dứt,
dằn vặt và khi buộc phải bán nó thì lão vô cùng ân hận, tột cùng đau đớn, tuổi già mà

khóc hu hu như con nít. Chí Phèo, con quỷ dữ của làng Vũ Đại, ăn trong lúc say, ngủ
trong lúc say, đập đầu rạch mặt, chửi bới, dọa nạt trong lúc say, như là con vật sống trong
vô thức, vậy mà sau lần gặp Thị Nở ở bờ sông, cứ “vẩn vơ nghĩ mãi”. Còn Thị Nở, người
đàn bà vô tâm có cái tật đột nhiên muốn ngủ không sao chữa được, về nhà lên giường
muốn ngủ hẳn hoi mà vẫn không sao ngủ nổi, thị cứ “lăn ra lăn vào”.v.v… Nam Cao


chẳng những miêu tả sinh động những chi tiết, những biểu hiện tâm lý nhỏ nhặt nhất mà
còn theo dõi, phân tích quá trình tích tụ của chúng dẫn tới sự nảy sinh những phẩm chất
mới trong tâm hồn con người. Không chỉ dừng lại ở những khoảnh khắc, Nam Cao đã
miêu tả thành công những quá trình tâm lý của nhân vật. Ngòi bút của ông tỏ ra có biệt
tài trong khi miêu tả những trạng thái tâm lý phức tạp, những hiện tượng lưỡng tính dở
say, dở tỉnh, dở khóc, dở cười, mấp mé ranh giới giữa thiện với ác, giữa hiền với dữ, giữa
con người với con vật… Nam Cao đã khắc phục được tính phiến diện, đơn giản trong
việc miêu tả tâm lý nhân vật. Qua ngòi bút của ông, tâm lý con người được thể hiện một
cách phong phú đa dạng với nhiều sắc thái tinh vi.
Trong sáng tác của Nam Cao, tâm hồn con người là sân khấu bi kịch và bi hài
kịch của những xung đột tư tưởng, ý tưởng. Thi pháp chủ nghĩa hiện thực tâm lý của
Nam Cao thích ứng với việc nghiên cứu, phân tích và khám phá bằng nghệ thuật tâm lý
của nhân vật hơn là việc phân tích và miêu tả những biến cố, xung độ đích thực của chính
bản thân đời sống xã hội. Đối với Nam Cao, sự phân tích tâm lý hầu như là điều kiện cơ
bản nhất của việc thể hiện con người theo phương pháp hiện thực có chiều sâu của ông.
Nam Cao đã lấy thế giới nội tâm nhân vật làm đối tượng chính của sự miêu tả. Ông đã
hướng ngòi bút của mình vào việc khám phá con người trong con người miêu tả và phân
tích mọi chiều sâu, mọi chuyển biến trong thế giới tâm hồn của nhân vật. Chính vì vậy
mà đối với ông, việc miêu tả ngoại hình chỉ có ý nghĩa khi nó nhằm thể hiện và làm nổi
rõ bộ mặt tinh thần của nhân vật. Những cảnh thiên nhiên cũng chỉ có lý do tồn tại khi nó
gắn liền với tâm trạng của con người. Giữa những bức tranh phong cảnh thoáng nhìn
tưởng chỉ thuần tuý những cảnh vật thiên nhiên, nhà văn đã khéo léo treo lên những mảnh
tâm hồn của nhân vật.

lao hac
Nam Cao mong muốn khai thác những vấn đề của cuộc sống không phải ở bề
rộng mà là ở bề sâu. Thoát khỏi cách nói chút ít về tất cả, ông đã tập trung bút lực vào
việc miêu tả nội tâm của nhân vật. Nhà hiện thực chủ nghĩa Nam Cao đã mở rộng việc
phản ánh hiện thực bằng cách khai thác sâu sắc thế giới tâm hồn của con người. Qua ngòi
bút ông, thế giới bên trong của con người, kể cả những “con người bé nhỏ”, thậm chí cả
những kẻ khốn khổ tủi nhục nhất như Chí Phèo và Thị Nở cũng là cả một vũ trụ bao la!
Đối với Nam Cao, việc phân tích tâm lý nhân vật không tách rời việc phân tích cuộc sống
xã hội nói chung. Thông qua việc miêu tả, phân tích tâm lý để thể hiện những mâu thuẫn,
xung đột xã hội, Nam Cao đã mở ra một khuynh hướng phân tích mới cho phương pháp
hiện thực chủ nghĩa trong văn học Việt Nam. Có thể nói, cảm hứng phân tích phê phán
thấm nhuần trong toàn bộ sáng tác của Nam Cao. Nó là một đặc điểm nổi bật, trở thành
“linh hồn”, “cốt tuỷ” chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao.


Cái gốc, nền tảng vững chắc của chủ nghĩa hiện thực của Nam Cao là chủ nghĩa
nhân đạo. Trong truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao khẳng định: “Một tác phẩm thật giá trị,
phải vượt lên bên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả đời
người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, vừa phấn khởi. Nó
ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn”. Như
vậy, trong quan niệm của Nam Cao, chủ nghĩa nhân đạo được đặt ra, như một yêu cầu tất
yếu đối với những tác phẩm “thật có giá trị”.
Trong mỗi trang văn của Nam Cao đều bộc lộ tấm lòng của một con người đau
đời và thương đời da diết. Nam Cao yêu thương những con người bị cuộc đời đày đọa.
Xã hội cũ đã làm cho ông đau xót khi mà đa số những nhân vật của ông bị đẩy vào cảnh
khốn cùng, không đạt được gì trong cuộc đời, không có đủ điều kiện để phát huy những
khả năng tiềm tàng ưu việt của mình.
Nam Cao là nhà văn của những người nông dân nghèo khổ và bất hạnh, nhà văn
của những người khốn khổ, tủi nhục nhất trong xã hội thực dân phong kiến. Trái tim nhân
đạo và cái nhìn sắc sảo của ông đã thấu hiểu những hoàn cảnh thiếu nhân tính làm cho

con người bị tha hóa. Viết về những con người dưới đáy của xã hội, Nam Cao đã bộc lộ
sự cảm thông lạ lùng của một trái tim nhân đạo lớn. Thế giới, cuộc đời con người, mối
quan hệ giữa những con người được nhìn nhận bằng những con mắt của chính họ. Nhà
văn, trong những đánh giá và nhận xét, đã xuất phát từ lợi ích và yêu cầu của chính
những con người cùng khổ nhất, không có quyền, bị xã hội áp bức, chà đạp xuống tận
bùn đen. Nam Cao đã bảo vệ, bênh vực, minh oan, “chiêu tuyết” cho những con người
thấp cổ bé họng, bị cuộc đời xua đuổi, hắt hủi, khinh bỉ một cách bất công. Với trái tim
đầy yêu thương của mình , Nam Cao vẫn tin rằng trong tâm hồn của những người không
còn được là người, những con người bề ngoài được miêu tả như những con vật vẫn còn
nhân tính, vẫn còn những khát khao nhân bản. Ông nhận ra đằng sau những bộ mặt xấu xí
đến “ma chê quỷ hờn” của Thị Nở (Chí Phèo) của mụ Lợi (Lang Rận) của Nhi (Nửa
đêm). v.v… vẫn là một con người, một tâm tính người thật sự, cũng khao khát yêu
thương. Và khi được ngọn lửa tình yêu sưởi ấm, những tâm hồn tưởng chừng đã cằn cỗi,
khô héo ấy cũng ánh lên những vẻ đẹp với những hồi hộp, vui mừng sung sướng, cũng
lườm, nguýt, âu yếm, cũng e lệ, làm duyên theo kiểu cách riêng của họ. Thậm chí, trong
đáy sâu tâm hồn đen tối của một kẻ cục súc, u mê như Chí Phèo - một kẻ đã bị cuộc đời
tàn phá, huỷ hoại từ nhân hình đến nhân tính - nhà văn vẫn nhìn thấy những rung động
thật sự của tình yêu của niềm khao khát muốn trở lại làm người lương thiện. Có thể nói,
cùng với việc lên án gay gắt những thành kiến, định kiến tồi tệ, những sự nhục mạ danh
dự và phẩm giá con người, chính việc phát hiện ra cái phần con người còn sót lại trong
một kẻ lưu manh trân trọng những khao khát nhân bản và miêu tả những rung động trong


sáng của những tâm hồn tưởng chừng đã bị cuộc đời làm cho cằn cỗi, u mê đã làm cho
Nam Cao trở thành một trong số những nhà văn nhân đạo lớn nhất trong nền văn học
hiện đại Việt Nam.
Nam Cao là nhà văn của những người trí thức nghèo, của những kiếp “Sống mòn”
có hoài bão, có tâm huyết, tài năng, muốn vươn lên cao nhưng lại bị chuyện áo cơm ghì
sát đất. Nếu như mỗi tác phẩm viết về đề tài người nông dân của Nam Cao đều là sự trả
ơn, gửi gắm ân tình với người nghèo khổ thì mỗi trang viết về đề tài người trí thức đều

chứa đựng tâm sự, nỗi đau và niềm khát khao cháy bỏng của chính nhà văn.
Nam Cao giống với Xuân Diệu, Thạch Lam ở chỗ đã thức tỉnh sâu sắc về ý thức
cá nhân, về sự tồn tại có ý nghĩa về ý thức cá nhân trên đời. Họ hết sức nhạy cảm với
những kiếp sống nhỏ bé, cơ cực, sống mòn mỏi, lắt lay, quẩn quanh, bế tắc. Những con
người không hề biết sống làm vui, không bao giờ biết đến ánh sáng và hạnh phúc. Đến
trong ước mơ mà vẫn cứ quẩn quanh không biết mơ ước gì hơn một chuyến tàu đêm vụt
đi qua cái phố huyện nghèo (Thạch Lam - Hai đứa trẻ). Xuân Diệu cũng không sao chịu
nổi “nỗi đìu hiu của cái ao đời bằng phẳng” (Tỏa nhị kiều) và khao khát: “Thà một phút
huy hoàng rồi chợt tối/ Còn hơn le lói suốt trăm năm” (Giục giã). Nhưng có lẽ, không ai
trong số họ lại đau đớn khôn nguôi, phẫn uất cao độ như Nam Cao trước tình trạng con
người không sao thoát khỏi tình trạng sống mòn. Trước cách mạng, không có nhà văn
nào có cách nhìn sâu sắc, có tầm triết lý, tổng hợp khái quát cao về tình trạng chết mòn
của con người như nhà văn lớn Nam Cao. Mỗi nhân vật của ông là một kiểu đời thừa,
một lối sống mòn, một cách chết mòn. Một cuộc sống vô lý, vô ích, vô nghĩa, “chết mà
chưa làm gì cả”, “chết trong lúc sống”, “chết mà chưa sống”. Nam Cao không chấp nhận
sự sống của con người chỉ là sự tồn tại sinh học. Ông coi đó không phải là cuộc sống
xứng đáng của con người: “Có thú vị gì cái lối sống co quắp vào mình, cái lối sống quá ư
loài vật, chẳng còn biết một việc gì ngoài cái việc kiếm thức ăn đổ vào dạ dày?”. Cuộc
sống xứng đáng với danh hiệu cao quý của con người, theo quan niệm của Nam Cao, là
phải có đời sống tinh thần cao đẹp, sống với đầy đủ giá trị của sự sống. Xuất phát từ tư
tưởng cao sâu đó, Nam Cao đã đồng cảm sâu sắc và đau đớn vô hạn trước bi kịch của
những con người muốn sống có ý nghĩa bằng sự cống hiến của mình mà rốt cuộc phải
sống như một kẻ vô ích, một “người thừa”. “Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khao
khát làm một cái gì mà nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được
cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt?” (Đời thừa).
Qua những nhân vật trí thức tâm huyết của mình, những Điền, những Hộ, những
Thứ..., Nam Cao thể hiện niềm khao khát, một lẽ sống lớn, khao khát một cuộc sống sâu
sắc mãnh liệt, có ích và có ý nghĩa. Hộ trong Đời thừa hằng tâm niệm: “Kẻ mạnh không
phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỉ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ



khác trên đôi vai của mình” và mơ ước viết được “một tác phẩm thực sự có giá trị (...)
làm cho người gần người hơn”. Thứ trong Sống mòn đã từng “thích làm một việc gì có
ảnh hưởng đến xã hội ngay” và mong muốn đem “những sự đổi thay lớn lao đến cho xứ
sở mình”. Hơn một lần Thứ mơ ước: “Mình cũng là một vĩ nhân, một anh hùng, vượt lên
trên sự tầm thường để chỉ nghĩ đến một cái gì vĩ đại thôi. Y nghĩ đến những phương kế để
xoay ngược lại, đồng thời xếp đặt cho người với người ổn thoả hơn”. Những con người
mang hoài bão lớn ấy khi chạm trán với cuộc đời đều nếm trải đắng cay, đau đớn, đều
lâm vào tình trạng “sống mòn”. Nhưng dẫu bị “áo cơm ghì sát đất”, tuy “sống mòn”
nhưng họ chưa hoàn toàn cạn kiệt hết niềm tin, niềm hi vọng, vẫn khao khát được sống,
được cống hiến, được phát triển; vẫn khao khát mỗi cá nhân được phát triển “đến tận độ”
để góp vào “công việc tiến bộ chung” của loài người. Cao cả và đẹp đẽ biết bao lý tưởng
nhân văn của Nam Cao được gửi gắm qua những dòng suy ngẫm của nhân vật Thứ về sự
sống: “Thứ vẫn không thể nào chịu được rằng sống chỉ là làm thế nào cho mình và vợ
con mình có cơm ăn, áo mặc thôi. Sống là để làm một cái gì cao đẹp hơn nhiều, cao quý
hơn nhiều. Mỗi người sống phải làm thế nào cho phát triển đến tận độ những khả năng
của loài người chứa đựng ở trong mình. Phải gom góp sức lực của mình vào công việc
tiến bộ chung. Mỗi người chết đi, phải để lại một chút gì cho nhân loại”. Như vậy, trong
quan niệm của Nam Cao, ý thức cá nhân, sự tồn tại có ý nghĩa của mỗi cá nhân trên đời
đâu chỉ một chiều là tranh thủ từng giây, từng phút để tận hưởng những khoảnh khắc
đang có cho “chếnh choáng mùi thơm”, cho “đã đầy ánh sáng”, cho “no nê thanh sắc của
thời tươi” (Xuân Diệu). Nam Cao đòi hỏi để cho mỗi cá nhân được phát triển đến tận độ
với một ý thức đầy trách nhiệm và trong mối quan hệ mật thiết với sự phát triển chung
của xã hội loài người. Tư tưởng nhân văn mới mẻ và sâu sắc đó chưa từng có trong nền
văn học hiện đại Việt Nam trước cách mạng. Đó là một tư tưởng lớn vượt ra ngoài cả thời
đại Nam Cao.
Có thể nói, tư tưởng nhân đạo thấm nhuần trong sáng tác của Nam Cao. Ông là
nhà văn đồng tình với khát vọng sống lương thiện và khát vọng được phát huy đến tận độ
tài năng của con người. Tư tưởng nhân đạo mới mẻ, phong phú và sâu sắc đó cho thấy
nhà văn không chỉ dừng lại ở chỗ tố cáo những thế lực tàn bạo chà đạp quyền sống của

con người mà còn đòi hỏi xã hội tạo những điều kiện để con người được sống một cuộc
sống thực sự có ý nghĩa.
Nam Cao (29 tháng 10, 1917 - 30 tháng 11, 1951) là một nhà văn Việt Nam hiện thực
lớn, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn tiêu biểu nhất thế kỷ 20. Sáng tác của Ông đã vượt
qua được những thử thách khắc nghiệt của thời gian, càng thử thách lại càng ngời sáng.
Thời gian càng lùi xa, tác phẩm của Nam Cao càng bộc lộ ý nghĩa hiện thực sâu sắc, tư
tưởng nhân đạo cao cả và vẻ đẹp nghệ thuật điêu luyện, độc đáo. Ông có nhiều đóng góp


×