Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Pháp luật về bảo đảmtiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm - Những vấn đề lý luậnvà thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng Techcombank

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (385.6 KB, 94 trang )

Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

1

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

LỜI NÓI ĐẦU

Ngày nay, sự bùng nổ về công nghệ, thông tin và kỹ thuật kết hợp
với tính năng động của thị trường đã làm xuất hiện nhiều loại hình kinh
doanh và sản xuất mới, tuy nhiên để theo kịp với xu hướng và sự phát
triển nhanh chóng này thì không phải mọi doanh nghiệp, tổ chức đều
có đủ khả năng về tài chính. Do đó, hiện nay một trong những vấn đề
quan trọng nhất để các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế tiến hành kinh
doanh hiệu quả là phải huy động đủ vốn từ các nguồn khác nhau để đáp
ứng đủ cho quá trình đó.
Với chức năng là trung gian tín dụng, hoạt động của các NHTM
và các TCTD hiện nay đóng vai trò quan trọng trong việc huy động
vốn cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và tổ chức kinh tế.
Các NHTM thực hiện huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ
chức, cơ quan, cá nhân … và sử dụng nguồn vốn này để cho vay, đáp
ứng nhu cầu vốn trong hoạt động kinh tế, góp phần kích thích quá trình
luân chuyển vốn của toàn xã hội và thúc đẩy quá trình tái sản xuất.
Hiện nay, cho vay là một hình thức cấp tín dụng chủ yếu trong
hoạt động tín dụng của các NHTM tại Việt nam. Trong quá trình cho
vay, các NHTM phải có trách nhiệm với khoản tiền cho vay, đảm bảo
thu hồi được vốn và lãi, nên việc áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền
vay là điều tất yếu tại các ngân hàng. Cũng như các NHTM khác,
Techcombank (Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần Kỹ Thương) cũng




Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

2

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

thực hiện các biện pháp bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, trong quá trình
áp dụng các biện pháp bảo đảm tiền vay, các NHTM còn gặp một số
khó khăn, đặc biệt trong vấn đề xử lý tài sản bảo đảm.
Với lý do trên, tôi quyết định chọn đề tài “Pháp luật về bảo đảm
tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm - Những vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng Techcombank” cho báo cáo thực
tập của mình. Trong đề tài này, các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng
tài sản bao gồm: Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng; bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình
thành từ vốn vay. Đây là ba biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
quan trọng được các NHTM và các TCTD nói dung và Techcombank
nói riêng sử dụng.
Báo cáo này bao gồm ba phần sau:
I/ Cơ sở pháp lý về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử lý tài sản
bảo đảm
II/ Thực tiễn áp dụng những quy định của pháp luật về bảo đảm
tiền vay bằng tài
sản và việc xử lý tài sản bảo đảm tại ngân hàng Techcombank
III/ Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng
những quy định pháp luật về bảo đảm tiền vay bằng tài sản và xử

lý tài sản bảo đảm tại ngân hàng Techcombank


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

3

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS
TMCP
TCTD
DVKH
SME

Bộ luật dân sự
Thương mại cổ phần
Tổ chức tín dụng
Dịch vụ khách hàng
Khối khách hàng doanh nghiệp vừa và


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

Techcombank
Nghị định 165/1999/NĐCP

Nghị định 178/1999/NĐCP
Nghị định 163/2006/NĐCP
Nghị định 05/2005/NĐ-CP

Nghị định 08/2000/NĐ-CP

TTLT 03/2001/TTLTNHNN-BTP-BTC-TCĐC

4

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

nhỏ
Ngân hàng Kỹ thương Việt Nam
Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày
19/11/1999 của Chính phủ về giao dịch
bảo đảm
Nghị định số 178/1999/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 29/12/1999 về bảo đảm tiền vay
của các tổ chức tín dụng
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 29/11/2006 về giao dịch bảo
đảm
Nghị định số 05/2005/NĐ-CP ngày
18/01/2005 của Chính phủ về ban hành
quy chế bán đấu giá tài sản
Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 10/03/2000 về đăng ký giao dịch
bảo đảm


Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLTNHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC ngày
23/04/2001 hướng dẫn việc xử lý tài sản
bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ cho các tổ
chức tín dụng
TTLT 05/2005/TTLT-BTP- Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-BTPBTNMT
BTNMT ngày 16/6/2005 của Bộ Tư pháp,
Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

5

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

việc đăng ký thế chấp, bảo lãnh bằng quyền
sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất
Quyết định 1627/2001/QĐ- Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN của
NHNN
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày
31/12/2001 về việc ban hành quy chế cho
vay của tổ chức tín dụng đối với khách
hàng
Quyết định 127/2005/QĐ- Quyết định số 127/2005/QĐ-NHNN của
NHNN
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày
3/2/2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số

điều của Quy chế cho vay của TCTD đối
với khách hàng ban hành kèm theo Quyết
định số 1627/2001/QĐ-NHNN
Quy chế về bảo đảm bằng
Quy chế về đảm bảo bằng tài sản của
tài sản tại ngân hàng TMCP Ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam
Kỹ Thương Việt Nam
(Ban hành kèm theo quyết định số
238/QĐ-HĐ ngày 23/02/2001 của Chủ
tịch Hội Đồng quản trị Ngân hàng TMCP
Kỹ Thương Việt Nam)


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

6

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

LỜI CẢM ƠN
Em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các cô chú, các anh chị tại
PHÒNG PHÁP CHẾ - NGÂN HÀNG TECHCOMBANK đã giúp
đỡ và tạo điều kiện để em hoàn thành tốt thời gian thực tập và báo cáo
tốt nghiệp của mình.
Với thầy cô giáo trong KHOA LUẬT – TRƯỜNG ĐẠI HỌC
KINH TẾ QUỐC DÂN, em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các
thầy cô đã giúp đỡ em trong 4 năm học tập ở trường cũng như trong
thời gian thực tập, đặc biệt là cô giáo PGS.TS NGUYỄN THỊ THANH

THỦY, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ và tạo điều kiện cho em
hoàn thành xuất sắc bài báo cáo tốt nghiệp “Pháp luật về bảo đảm tiền
vay bằng tài sản và xử lý tài sản bảo đảm - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng Techcombank” của mình.

TRẦN HỒNG NHUNG
KHOA LUẬT K48


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

7

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

2006 - 2010

CHƯƠNG I
CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ
XỬ LÝ TÀI SẢN BẢO ĐẢM
I/ KHÁI QUÁT VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN VÀ
CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM TIỀN VAY BẰNG TÀI SẢN THEO
QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH
1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.1 Khái niệm và vai trò của bảo đảm tiền vay trong hoạt động cho
vay của các tổ chức tín dụng.



Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

8

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

Để tiến hành hoạt động kinh doanh của mình, các doanh nghiệp
cần có nguồn vốn tốt. Nguồn vốn này có thể là vốn tự có, và có thể là
vốn vay từ các ngân hàng và các TCTD. Chính vì thế, trong khoảng 10
năm trở lại đây, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản pháp lý xung
quanh vấn đề bảo đảm tiền vay. Tuy nhiên, tại thời điểm hiện nay,
không có một văn bản có hiệu lực pháp lý nào định nghĩa về “bảo đảm
tiền vay”. Ngày 29/12/1999, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
178/1999/NĐ-CP về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng (sau
đây gọi là Nghị định 178/1999/NĐ-CP) trong đó có định nghĩa “bảo
đảm tiền vay” như sau: “Bảo đảm tiền vay là việc TCTD áp dụng các
biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp luật để
thu hồi được các khoản nợ đã cho khách hàng vay” (Điều 2.1 Nghị
định 178/1999/NĐ-CP). Tuy nhiên, ngày 29/11/2006, Chính phủ lại
ban hành Nghị định 163/2006/NĐ-CP về giao dịch bảo đảm (sau đây
gọi là Nghị định 163/2006/NĐ-CP), thay thế cho Nghị định
178/1999/NĐ-CP. Nghị định 163/2006/NĐ-CP không đưa ra định
nghĩa về “bảo đảm tiền vay” mà chỉ quy định thế nào là “bên bảo
đảm”, “bên nhận bảo đảm”, “bên bảo đảm ngay tình”. Như vậy, trong
tất cả các văn bản pháp lý có hiệu lực tính đến năm 2009, không một
văn bản nào đưa ra khái niệm chuẩn về “bảo đảm tiền vay”. Tuy vậy,
với quan điểm riêng của mình và căn cứ vào các quy định của Nghị
định 163/2006/NdĐ-CP thì “bảo đảm tiền vay” chính là “những biện

pháp được các TCTD áp dụng cho các hoạt động tín dụng của mình với
mục đích làm tăng khả năng thu hồi khoản tiền đã cho vay”.


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

9

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

Với định nghĩa trên, ta thấy bảo đảm tiền vay có ba vai trò chính
và quan trọng nhất, đó là:
Thứ nhất, bảo đảm tiền vay là cơ sở pháp lý để các TCTD thu hồi
khoản nợ của khách hàng đối với mình.
Trước khi cho vay một khoản tiền, các TCTD thường yêu cầu
khách hàng của mình phải đảm nảo cho khoản tiền vay bằng tài sản để
lương trước sự rủi ro trong hoạt động kinh doanh của khách hàng.
Thông qua hợp đồng tín dụng, hai bên thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ
của của mình đối với tài sản bảo đảm đó. Trường hợp khách hàng vay
không có khả năng trả nợ, ngân hàng có toàn quyền quyết định việc xử
lý tài sản bảo đảm đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng và sử dụng
tài sản đó để khấu trừ vào khoản nợ của khách hàng. Để hoạt động kinh
doanh tiến hành thuận lợi, đảm bảo lợi ích của các bên, TCTD dùng
các biện pháp bảo đảm tiền vay đảm bảo cho ngân hàng thu hồi nợ.
Thứ hai, bảo đảm tiền vay là biện pháp nhằm giảm rủi ro trong
hoạt động tín dụng của các TCTD.
Rủi ro trong hoạt động cho vay của các TCTD là điều không thể
tránh khỏi. Các TCTD cho khách hàng vay tiền với mục đích gián tiếp

đầu tư khoản tiền đó, thông qua các hoạt động kinh doanh, hoạt động
sản xuất, dự án đầu tư… của khách hàng và thu lợi nhuận từ khoản đầu
tư đó. Tuy nhiên, các dự án kinh doanh, sản xuất hay đầu tư của khách
hàng không phải lúc nào cũng diễn ra suôn sẻ và có lợi nhuận. Điều
này phụ thuộc vào sự biến động của thị trường và cơ hội kinh doanh
của khách hàng, là những yếu tố khó đoán trước (mặc dù khi đi vay,
khách hàng luôn đưa ra lý do thuyết phục nhất, thể hiện khả năng thu


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

10

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

lời cao nhất để TCTD cho mình vay tiền). Vì vậy, ngân hàng cần áp
dụng biện pháp bảo đảm tiền vay để đảm bảo rằng trong trường hợp
khách hàng của mình không thể trả khoản nợ đã vay, ngân hàng vẫn có
thể thu hồi khoản tiền đã cho vay (một phần hoặc tất cả khoản vay).
Bảo đảm tiền vay là biện pháp giúp ngân hàng giảm rủi ro trong hoạt
động cho vay tài chính của mình.
Thứ ba, bảo đảm tiền vay bảo vệ quyền lợi và hạn chế tranh chấp
xảy ra giữa các bên tham gia hoạt động tín dụng.
Trong hợp đồng tín dụng được kí kết giữa khách hàng và các
TCTD, các bên có quyền thỏa thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của
mỗi bên đối với tài sản bảo đảm. Trong trường hợp khách hàng không
trả nợ được khoản tiền đã vay, TCTD có toàn quyền đối với tài sản bảo
đảm theo như đã thỏa thuận trong hợp đồng và quyền lợi của TCTD sẽ

không bị xâm phạm. Tranh chấp giữa khách hàng vay và TCTD cũng
sẽ được hạn chế bởi các bên chỉ bị xử lý tài sản bảo đảm theo thỏa
thuận đã nêu trước đó trong hợp đồng tín dụng.
1.2. Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
1.2.1. Khái niệm và đặc điểm của các biện pháp bảo đảm tiền vay
bằng tài sản.
Hiện nay trong các văn bản pháp luật hiện hành, không một văn
bản nào đưa ra định nghĩa về “Biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản”. Căn cứ vào cách giải thích từ ngữ quy định tại Điều 2 Nghị định
178/1999/NĐ-CP ta có thể hiểu “biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài
sản” chính là việc sử dụng tài sản để thực hiện nghĩa vụ trả nợ.


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

11

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

Nghị định 163/2006/NĐ-CP không quy định rõ các biện pháp nào
là biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản, tuy nhiên Khoản 1 Điều 3
Nghị đinh 178/1999/NĐ-CP lại quy định: “Biện pháp bảo đảm tiền vay
bằng tài sản: Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay; Bảo
lãnh bằng tài sản của bên thứ ba; Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ
vốn vay.”
Về bản chất, bảo đảm tiền vay bằng tài sản chính là việc bên bảo
đảm xác nhận trong hợp đồng tín dụng về quyền của bên nhận bảo đảm
đối với tài sản mà bên bảo đảm đưa ra để bảo đảm cho khoản vay của

mình, trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện được nghĩa vụ
trả nợ. Bên nhận bảo đảm sẽ có toàn quyền quyết định đối với tài sản
đó. Nếu bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp chính tài sản của
khách hàng vay thì đối tượng trực tiếp được đưa ra bảo đảm là tài sản
bảo đảm thuộc sở hữu của người bảo đảm. Tài sản đó được đem ra bảo
đảm cho chính nghĩa vụ trả nợ của người đó đối với ngân hàng. Nếu
bảo đảm tiền vay bằng cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh thì đối
tượng trực tiếp được đưa ra bảo đảm là sự cam kết. Khi nghĩa vụ đã
cam kết giữa bên được bảo lãnh và bên nhận bảo đảm bị vi phạm thì
bên bảo lãnh mới sử dụng tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ cho
bên được bảo lãnh. Nếu bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ
vốn vay thì tài sản bảo đảm là tài sản hình thành trong tương lai.
Như vậy, nhìn chung các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
có những đặc điểm sau:
Thứ nhất: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là sự
thỏa thuận của các bên tham gia quan hệ tín dụng.


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

12

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

Điều 52 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi, bổ sung năm
2004 quy định: “TCTD có quyền xem xét, quyết định cho vay trên cơ
sở có bảo đảm hoặc không có bảo đảm bằng tài sản cầm cố, thế chấp
của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba và chịu trách nhiệm về

quyết định của mình. TCTD không được cho vay trên cơ sở cầm cố
bằng cổ phiếu của chính TCTD cho vay.”
Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là hoàn toàn không
bắt buộc, và phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa các bên. Tùy theo từng
trường hợp cụ thể, các bên thỏa thuận để bảo đảm quyền lợi của mình
không bị xâm phạm khi một bên vi phạm hợp đồng tín dụng.
Thứ hai: Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản là biện
pháp mang tính dự phòng.
Tính dự phòng của các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
thể hiện ở chỗ tài sản bảo đảm chỉ được đem ra xem xét và giải quyết
khi người đi vay không thực hiện được nghĩa vụ hoặc thực hiện không
đúng nghĩa vụ của mình đối với bên cho vay. Tính dự phòng này giúp
kích thích người đi vay nâng cao nghĩa vụ trả nợ của mình. Tài sản của
họ sẽ không bị xử lý nếu họ thực hiện đúng theo thỏa thuận đã nêu
trong hợp đồng bảo đảm tiền vay, hợp đồng tín dụng.
1.2.2. Các loại biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
Trong 7 biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự quy định
tại Khoản 1 điều 318 BLDS 2005. Trên thực tế có những biện pháp
sau: cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng; bảo lãnh bằng tài


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

13

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

sản của bên thứ ba; bảo đảm tiền vay bằng tài sản hình thành từ vốn

vay, là các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản được ngân hàng áp
dụng:
- Cầm cố tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên cầm cố) giao
tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia (sau đây gọi là bên
nhận cầm cố) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự (Điều 326 BLDS
2005).
Việc chuyển giao tài sản bảo đảm trong cầm cố là chuyển giao
thực tế, do đó chỉ được coi là hoàn thành nghĩa vụ chuyển giao tài sản
khi bên nhận cầm cố hoặc người thứ ba được bên nhận cầm cố ủy
quyền đã giữ tài sản. Như vậy, tài sản cầm cố có thể do bên nhận cầm
cố trực tiếp giữ tài sản hoặc ủy quyền cho người thứ ba giữ tài sản.
(Điều 16 Nghị định 163/2006/NĐ-CP)
- Thế chấp tài sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp)
dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân
sự đối với bên kia (sau đây gọi là bên nhận thế chấp) và không chuyển
giao tài sản đó cho bên nhận thế chấp (khoản 1 Điều 342 BLDS 2005).
Hợp đồng cầm cố tài sản và thế chấp tài sản phải được lập thành
văn bản, ghi rõ giá trị tài sản và thời hạn đảm bảo.
Có hai điểm khác biệt quan trọng giữa hai biện pháp cầm cố và
thế chấp mà ta cần lưu ý như sau:
Thứ nhất: Việc chuyển giao tài sản: Nếu áp dụng biện pháp cầm
cố thì tài sản phải được chuyển giao cho bên nhận cầm cố giữ.


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

14

Sinh viên: Trần Hồng Nhung

Mã SV: CQ482104

BLDS 2005 không căn cứ vào việc phân biệt tài sản bảo đảm là
động sản hay bất động sản để quy định hình thức hợp đồng bảo đảm là
cầm cố hay thế chấp, mà căn cứ vào tiêu chí là khả năng dịch chuyển
của tài sản. Nếu là cầm cố tài sản thì phải chuyển giao tài sản từ bên
cầm cố sang bên nhận cầm cố. Còn nếu là thế chấp tài sản thì không
phải chuyển giao tài sản từ bên thế chấp sang cho bên nhận thế chấp
mà bên thế chấp chỉ phải giao các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu, sử
dụng của mình đối với tài sản cho bên nhận thế chấp.
Thứ hai: Người thứ ba giữ tài sản cầm cố và người thứ ba giữ tài
sản thế chấp.
Trong trường hợp thế chấp, việc người thứ ba giữ tài sản thế chấp
phải do cả hai bên thế chấp và bên nhận thế chấp thỏa thuận và thống
nhất ý kiến, đồng thời người này có các quyền và nghĩa vụ được quy
định tại Điều 352 và Điều 353 BLDS 2005. Còn trường hợp cầm cố,
việc người thứ ba giữ tài sản hoàn toàn do ý chí của bên nhận cầm cố
thông qua việc ủy quyền. Thực chất, quan hệ giữa bên nhận cầm cố và
người thứ ba giữ tài sản cầm cố là quan hệ độc lập mang tính chất của
hợp đồng gửi giữ tài sản. Do đó, ngay cả khi người thứ ba giữ tài sản
thì bên nhận cầm cố vẫn phải chịu trách nhiệm trước bên cầm cố về
việc thực hiện các nghĩa vụ theo quy định tại Điều 332 BLDS 2005 và
các nghĩa vụ khác mà các bên đã thỏa thuận.
- Bảo lãnh là việc người thứ ba (sau đây gọi là bên bảo lãnh) cam
kết với bên có quyền (sau đây gọi là bên nhận bảo lãnh), sẽ thực hiện
nghĩa vụ thay cho bên có nghĩa vụ (sau đây gọi là bên được bảo lãnh)
nếu khi đến thời hạn mà bên được bảo lãnh không thực hiện hoặc thực


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD

Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

15

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

hiện không đúng nghĩa vụ. Các bên cũng có thể thoả thuận về việc bên
bảo lãnh chỉ phải thực hiện nghĩa vụ khi bên được bảo lãnh không có
khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình (Điều 361 BLDS 2005).
Thông qua biện pháp bảo lãnh, chủ nợ (bên có quyền) có được
một con nợ dự bị (bên có nghĩa vụ), bên cạnh con nợ chính. Trong
quan hệ tín dụng, khách hàng vay trở thành con nợ của ngân hàng
thông qua hợp đồng cho vay. Đó là con nợ chính. Còn người bảo lãnh
cho khách hàng vay sẽ phải thực hiện nghĩa vụ như con nợ, nếu con nợ
không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình, dựa trên cam kết bảo lãnh.
Đó chính là con nợ dự bị.
Quan hệ giữa bên bảo lãnh và bên được bảo lãnh là một quan hệ
độc lập, có thể phát sinh từ thỏa thuận giữa hai bên (đặc biệt là trong
trường hợp bảo lãnh có thù lao) hoặc phát sinh từ quyền yêu cầu hoàn
trả của bên bảo lãnh đối với bên được bảo lãnh.
Hợp đồng bảo lãnh phải được lập thành văn bản. Bên bảo lãnh
phải có tài sản lớn hơn tài sản mà họ đứng ra bảo lãnh.
Thay đổi về các biện pháp bảo lãnh.
BLDS 2005 không định nghĩa “bảo lãnh bằng tài sản” như các
văn bản trước đây và cũng không có quy định về việc cấm các bên xác
lập, thực hiện biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo hình
thức “bảo lãnh bằng tài sản” và trong trường hợp này gọi là bảo lãnh
bằng tài sản của bên thứ ba.
BLDS 2005 đưa ra quy định riêng về xử lý tài sản bảo lãnh. Điều

369 BLDS 2005 quy định: “Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

16

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh mà bên bảo lãnh không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì bên bảo lãnh phải đưa tài sản
thuộc sở hữu của mình để thanh toán cho bên nhận bảo lãnh”.
1.3. Tài sản bảo đảm tiền vay và các điều kiện về tài sản bảo đảm.
1.3.1. Khái niệm tài sản bảo đảm tiền vay.
Với ba vai trò chính và quan trọng của bảo đảm tiền vay như đã
phân tích tại Phần 1.1 – Chương I (là cơ sở pháp lý để các TCTD thu
hồi khoản nợ của khách hàng đối với mình và là biện pháp giúp giảm
rủi ro trong hoạt động tín dụng của các TCTD), biện pháp bảo đảm
tiền vay được hầu hết tất cả các ngân hàng và các TCTD hiện nay áp
dụng.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản lại được ưu tiên sử dụng rộng rãi
và thường xuyên hơn cả. Các khoản vay có bảo đảm bằng tài sản có độ
an toàn cao hơn những khoản vay áp dụng các biện pháp bảo đảm
khác. Trường hợp có vi phạm hợp đồng và có tranh chấp giữa bên vay
(khách hàng) và bên cho vay, thì độ rủi ro của khoản vay có tài sản
bảo đảm cũng giảm thấp hơn so với các khoản vay không có tài sản
bảo đảm. Với sự biến động khó lường của thị trường, sự cạnh tranh cao
giữa các nhà sản xuất, những khó khăn không thể đoán trước được

trong quá trình hoạt động kinh doanh … khiến thua lỗ, phá sản có khả
năng xảy ra cao. Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản sẽ tăng
độ an toàn cho các khoản vay, hạn chế các tổn thất của các TCTD khi
khách hàng không có khả năng trả nợ cho khoản tiền mình đã vay. Như


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

17

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

vậy, tài sản bảo đảm đóng vai trò quan trọng, chủ yếu nhất trong hoạt
động cho vay của các TCTD.
Khoản 7 Điều 3 Nghị định 163/2006/NĐ-CP định nghĩa về tài
sản bảo đảm như sau: “Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm
dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đối với bên nhận bảo
đảm”.
Tài sản được dùng làm tài sản bảo đảm tiền vay rất phong phú và
đa dạng. Ngoài các loại tài sản được quy định tại BLDS 2005: Bất
động sản và động sản; quyền tài sản, hiện nay pháp luật Việt Nam cũng
cho phép sử dụng tài sản hình thành trong tương lai làm tài sản bảo
đảm nghĩa vụ. Khoản 2 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP quy định:
“Tài sản hình thành trong tương lai là tài sản thuộc sở hữu của bên bảo
đảm sau thời điểm nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được
giao kết. Tài sản hình thành trong tương lai bao gồm cả tài sản đã được
hình thành tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, nhưng sau thời
điểm giao kết giao dịch bảo đảm mới thuộc sở hữu của bên bảo đảm.”

Trong trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản hình
thành trong tương lai thì khi bên bảo đảm có quyền sở hữu một phần
hoặc toàn bộ tài sản bảo đảm, bên nhận bảo đảm có các quyền đối với
một phần hoặc toàn bộ tài sản đó. Ví dụ: “Ngân hàng nhận bảo đảm
bằng công trình xây dựng hình thành trong tương lai, thì khi bên bảo
đảm hoàn thành hạng mục nào của công trình, ngân hàng cũng có ngay
quyền xử lý đối với hạng mục đó để thu hồi nợ, chứ không phải chờ
đến khi công trình được hoàn thành đồng bộ mới được coi là tài sản
bảo đảm.”


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

18

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

Đối với tài sản pháp luật quy định phải đăng ký quyền sở hữu mà
bên bảo đảm chưa đăng ký thì bên nhận bảo đảm vẫn có quyền xử lý
tài sản khi đến hạn xử lý. Ví dụ: “Ngân hàng tài trợ vốn để xây dựng
nhà ở và nhận bảo đảm bằng chính ngôi nhà sẽ được xây, thì ngân hàng
có quyền xử lý ngôi nhà để thu hồi nợ kể cả khi con nợ chưa làm thủ
tục cấp sổ hồng.”
Tài sản hình thành trong tương lai là đối tượng của quan hệ thế
chấp. Bên thế chấp có nghĩa vụ tạo điều kiện để bên nhận thế chấp thực
hiện quyền giám sát, kiểm tra quá trình hình thành tài sản. Việc giám
sát, kiểm tra của bên nhận thế chấp không được cản trở hoặc gây khó
khăn cho việc hình thành tài sản.

“Tài sản hình thành từ vốn vay” về bản chất chính là tài sản hình
thành trong tương lai, tuy nhiên giá trị tài sản được tạo nên bởi một
phần hoặc toàn bộ khoản vay của khách hàng vay. Trên thực tế, ngân
hàng rất khó định giá tài sản hình thành từ vốn vay để bảo đảm nghĩa
vụ trả nợ cho chính khoản vay đã được đầu tư vào tài sản đó, đặc biệt,
lại phải xác định số tiền vay cho phù hợp với quy định số tiền vay phải
nhỏ hơn giá trị tài sản đem bảo đảm. Xảy ra tình trạng này là vì tại thời
điểm tiếp nhận hồ sơ vay, ngân hàng chỉ có thể đánh giá tài sản hình
thành trong tương lai thông qua các hồ sơ, giấy tờ liên quan mà khách
hàng vay cung cấp, tuy nhiên giá trị tài sản hình thành trong tương lai
lại thay đổi lên xuống khó lường tùy theo biến động của thị trường.
Chính vì vậy, các ngân hàng và TCTD thường thắt chặt hạng mục cho
vay thế chấp bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
1.3.2. Các điều kiện để tài sản trở thành tài sản bảo đảm.


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

19

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

Như đã phân tích tại phần 1.3.1, tài sản theo quy định của pháp
luật Việt Nam hiện hành rất phong phú và đa dạng, nhưng không phải
tất cả các loại tài sản đều có thể được sử dụng làm tài sản bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ. Để trở thành tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì tài
sản phải thoả mãn một số điều kiện sau:
Thứ nhất: Tài sản bảo đảm thực hiện nghĩa vụ phải thuộc quyền

sở hữu hợp pháp của bên bảo đảm (Điều 320 BLDS 2005).
“Điều 320 BLDS 2005: Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự
1. Vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở
hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch.
2. Vật dùng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự là vật hiện có
hoặc được hình thành trong tương lai. Vật hình thành trong tương lai là
động sản, bất động sản thuộc sở hữu của bên bảo đảm sau thời điểm
nghĩa vụ được xác lập hoặc giao dịch bảo đảm được giao kết.”
Điều kiện này được đặt ra bởi trên thực tế, khi bên bảo đảm
không thực hiện được nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ
đối với bên nhận bảo đảm thì tài sản bảo đảm lúc này sẽ bị đưa ra phát
mại để thực hiện nghĩa vụ chính trong hợp đồng tín dụng. Do đó, tài
sản phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm.
Để chứng minh được tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, bên
bảo đảm phải xuất trình các giấy tờ, tài liệu, và các văn bản có liên
quan thể hiện quyền sở hữu hợp pháp của mình đối với tài sản đó.
Tài sản thuộc sở hữu của nhiều người đem ra làm tài sản bảo đảm
phải được cam kết bằng văn bản của các đồng sở hữu và tài sản đó
không có tranh chấp.


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

20

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

Tài sản thuộc sở hữu tập thể, tài sản của doanh nghiệp liên doanh,

công ty cổ phần, công ty TNHH phải có nghị quyết bằng văn bản của
Hội đồng quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng thành
viên đồng ý và ủy quyền cho người đại diện vay vốn và ký hợp đồng
bảo đảm. Tài sản của hộ gia đình phải có cam kết đồng ý của các đồng
sở hữu trong gia đình.
Tuy nhiên, có một ngoại lệ nằm ngoài quy định này. Đối với
Doanh nghiệp Nhà nước khi cầm cố tài sản của nhà nước giao cho
doanh nghiệp để vay vốn ngân hàng thì tài sản đó chỉ phải thuộc quyền
quản lý, sử dụng hợp pháp của doanh nghiệp đó và là tài sản được
dùng để bảo đảm tiền vay (khoản 3 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐCP).
Thứ hai: Tài sản bảo đảm tiền vay phải được phép giao dịch.
Tài sản được phép giao dịch là tài sản không bị cấm giao dịch
theo quy định của pháp luật tại thời điểm xác lập giao dịch bảo đảm.
Tài sản bị hạn chế giao dịch, lưu thông với những điều kiện nhất định
thì vẫn được coi là tài sản được phép giao dịch, nhưng khi xử lý tài sản
bảo đảm thì phải tuân thủ đầy đủ điều kiện đó.
Điều kiện này bảo vệ quyền và lợi ích của bên nhận bảo đảm.
Trong trường hợp bên bảo đảm không thực hiện hoặc thực hiện không
đầy đủ nghĩa vụ của mình thì bên nhận bảo đảm vẫn giữ được quyền và
lợi ích của mình. Nếu tài sản bảo đảm thuộc loại tài sản bị pháp luật
cấm giao dịch, bên nhận bảo đảm sẽ không được đảm bảo về mặt pháp
lý để xử lý tài sản bảo đảm và sẽ gặp nhiều tổn thất. Do đó, tài sản bảo
đảm phải là tài sản được phép giao dịch.


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

21


Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

Thứ ba: Tài sản không có tranh chấp.
Bên bảo đảm phải chứng minh và cam kết bằng văn bản về tình
trạng không có tranh chấp quyền và nghĩa vụ liên quan đến tài sản tại
thời điểm ký kết hợp đồng bảo đảm tiền vay.
Thứ tư: Giá trị tài sản bảo đảm tiền vay có thể lớn hơn, nhỏ hơn
hoặc bằng giá trị nghĩa vụ được bảo đảm (Điều 5 Nghị định
163/2006/NĐ-CP)
Các quan hệ bảo đảm tiền vay là sự thỏa thuận của các bên và
được ghi nhận trong hợp đồng tín dụng hoặc hợp đồng bảo đảm. Chính
vì vậy pháp luật hiện nay không đưa ra giới hạn cụ thể cho giá trị tài
sản bảo đảm được các bên thỏa thuận. Điều 5 Nghị định 163/206/NĐCP quy định: “Trường hợp bên bảo đảm dùng một tài sản để bảo đảm
thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 324 Bộ
luật Dân sự thì các bên có thể thoả thuận dùng tài sản có giá trị nhỏ
hơn, bằng hoặc lớn hơn tổng giá trị các nghĩa vụ được bảo đảm, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Những tài sản bảo đảm thoả mãn các điều kiện trên thì sẽ được
dùng để bảo đảm tiền vay tại các TCTD. Riêng đối với tài sản bảo đảm
là giá trị quyền sử dụng đất thì điều kiện của tài sản bảo đảm sẽ do
pháp luật về đất đai quy định.
Việc không ấn định tỉ giá cụ thể giữa khoản tiền vay và giá trị tài
sản bảo đảm đã mở rộng hơn quyền tự do kinh doanh của các TCTD,
phần nào đó tạo ra những cơ hội mới để các TCTD cạnh tranh bình
đẳng với nhau.


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)


22

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

2. Các biện pháp bảo đảm tài sản bằng tiền vay theo quy định của
pháp luật hiện hành.
2.1. Bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp của khách
hàng vay và của bên bảo lãnh.
2.1.1. Nguyên tắc bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp
của khách hàng vay và của bên bảo lãnh.
Cùng với những nguyên tắc chung của bảo đảm tiền vay bằng tài
sản, mỗi biện pháp bảo đảm tiền vay cụ thể lại có những nguyên tắc
riêng nhất định. Những nguyên tắc này mang tính định hướng, buộc
các bên bảo đảm (bao gồm khách hàng vay là bên cầm cố, thế chấp tài
sản và bên bảo lãnh) và bên nhận bảo đảm (ngân hàng và các TCTD)
phải tuân theo khi tham gia vào quan hệ tín dụng bảo đảm tiền vay
bằng cầm cố, thế chấp, bảo lãnh (bảo đảm bằng tài sản của bên thứ ba).
Nghị định 163/2006/NĐ-CP hiện nay không có điều luật cụ thể
nào quy định về các nguyên tắc của bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm
cố, thế chấp của khách hàng vay, bảo lãnh của bên thứ ba. Tuy nhiên,
trên thực tế, khi tham gia vào các quan hệ tín dụng bảo đảm tiền vay,
các bên thường tuân theo các nguyên tắc sau:
Thứ nhất: Khi vay tiền tại ngân hàng và các TCTD, khách hàng
phải đem tài sản của mình ra cầm cố, thế chấp, hoặc phải được bên thứ
ba bảo lãnh bằng tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ đồi với
ngân hàng, các TCTD, trừ trường hợp được TCTD cho vay có bảo đảm
bằng tài sản hình thành từ vốn vay. Đây là nguyên tắc đầu tiên trong
mọi giao dịch tín dụng có bảo đảm bằng tài sản.



Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

23

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

Thứ hai: Việc lựa chọn áp dụng biện pháp bảo đảm bằng tài sản
cầm cố, thế chấp của khách hàng vay hoặc bảo lãnh của bên thứ ba
giữa khách hàng vay và ngân hàng, các TCTD phải được lập thành văn
bản cụ thể.
Thứ ba: TCTD có quyền quyết định lựa chọn tài sản đủ điều kiện
để làm bảo đảm cho khoản vay của mình cũng như quyết định lựa chọn
bên thứ ba bảo lãnh bằng tài sản cho khách hàng vay.
Thứ tư: Bên bảo lãnh chỉ được bảo lãnh bằng tài sản thuộc sở hữu
của mình, tài sản là giá trị quyền sử dụng đất, tài sản thuộc quyền quản
lý, sử dụng đối với bên bảo lãnh là Doanh nghiệp Nhà nước. TCTD và
bên bảo lãnh có thể thoả thuận việc áp dụng hoặc không áp dụng biện
pháp cầm cố, thế chấp tài sản của bên bảo lãnh để đảm bảo thực hiện
nghĩa vụ bảo lãnh. Trường hợp bên bảo lãnh là TCTD thì việc thực
hiện bảo lãnh theo quy định về bảo lãnh ngân hàng quy định tại Luật
Các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi bổ sung năm 2004 và các quy định
của Ngân hàng Nhà nước.
Thứ năm: Đối với giá trị quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với
đất có đủ điều kiện làm tài sản bảo đảm tiền vay theo quy định của
pháp luật thì việc thế chấp, bảo lãnh đồng thời cả giá trị quyền sử dụng
đất và tài sản gắn liền với đất hay tách rời là do các bên thoả thuận.

Trường hợp các bên thoả thuận thế chấp, bảo lãnh tách rời giữa tài sản
gắn liền với đất và giá trị quyền sử dụng đất thì TCTD nhận bảo đảm
phải có khả năng quản lý tài sản trong quá trình cho vay và xử lý được
tài sản đó để thu hồi nợ nếu khách hàng vay không trả được nợ.


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

24

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

2.1.2. Hợp đồng bảo đảm tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp
của khách hàng vay.
Hợp đồng bảo đảm tiền vay là công cụ để thực hiện giao dịch bảo
đảm, tạo ra mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng và khách hàng vay.
Hợp đồng bảo đảm tiền vay là cơ sở pháp lý, trong đó quy định cụ thể
các điều khoản mà hai bên đã thoả thuận để thực hiện việc cho vay,
quản lý và sử dụng khoản vay, tài sản bảo đảm, phương thức thu hồi
nợ, biện pháp xử lý tài sản bảo đảm và phương thức giải quyết tranh
chấp (nếu có).
Điều 327 và Điều 343 BLDS 2005 quy định: “hợp đồng cầm cố,
thế chấp phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng
hoặc ghi trong hợp đồng chính”. Trong trường hợp pháp luật có quy
định thì hợp đồng cầm cố, thế chấp phải được công chứng, chứng thực
hoặc đăng ký. Ngoài ra, Điều 51 Luật Các tổ chức tín dụng 1997, sửa
đổi bổ sung năm 2004 và Điều 17 Quy chế cho vay của tổ chức tín
dụng đối với khách hàng ban hành theo Quyết định số 1627/2001/QĐNHNN của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ngày 31/12/2001 về việc

ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng (sau
đây gọi là Quyết định 1627/2001/QĐ-NHNN) quy định nội dung chính
của hợp đồng tín dụng phải có nội dung về hình thức bảo đảm tiền vay,
giá trị tài sản bảo đảm và phương thức xử lý tài sản bảo đảm... Như
vậy, TCTD hoàn toàn có thể đưa các nội dung chủ yếu của biện pháp
bảo đảm vào hợp đồng tín dụng mà không cần phải lập thành văn bản
riêng. Điều này giúp bộ hồ sơ cho vay của TCTD vừa đảm bảo căn cứ
pháp lý vừa đơn giản.


Khoa Luật – Trường ĐH KTQD
Luật Kinh Doanh 48 (2006 – 2010)

25

Sinh viên: Trần Hồng Nhung
Mã SV: CQ482104

Bên cạnh việc ghi nhận hợp đồng cầm cố, thế chấp phải được lập
thành văn bản, pháp luật đã dành cho các bên (bên nhận cầm cố, thế
chấp và bên cầm cố, thế chấp) quyền được thoả thuận công chứng hay
chứng thực hợp đồng cầm cố, thế chấp ngoại trừ những trường hợp
pháp luật có quy định khác.
Trong trường hợp một tài sản được cầm cố, thế chấp để bảo đảm
thực hiện nhiều nghĩa vụ trả nợ tại các TCTD thì mỗi lần cầm cố, thế
chấp phải được lập thành văn bản và việc cầm cố phải được đăng ký tại
cơ quan đăng ký giao dịch bảo đảm. Ngoài ra, bên cầm cố, thế chấp
phải thông báo cho TCTD nhận cầm cố, thế chấp tiếp theo về các lần
bảo đảm trước đó, nếu không thông báo thì phải bồi thường khi có thiệt
hại xảy ra cho bên bị thiệt hại (Điều 324 BLDS 2005). Khoản 1 Điều 2

Nghị định số 08/2000/NĐ-CP của Chính phủ ngày 10/03/2000 về đăng
ký giao dịch bảo đảm (sau đây gọi là Nghị định 08/2000/NĐ-CP) quy
định các trường hợp sau phải đăng ký tại cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm:
“ a) Việc cầm cố, thế chấp tài sản mà pháp luật quy định tài sản
đó phải đăng ký quyền sở hữu;
b) Việc cầm cố, thế chấp tài sản không thuộc quy định tại điểm a,
khoản 1 Điều này nhưng các bên thoả thuận bên cầm cố, bên thế chấp
hoặc người thứ ba giữ tài sản;
c) Việc cầm cố, thế chấp một tài sản để bảo đảm thực hiện nhiều
nghĩa vụ;
d) Văn bản thông báo về việc xử lý tài sản bảo đảm”.


×