Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Vận dụng quan điểm hồ chí minh về quan hệ việt nam – lào trong sự nghiệp đổi mới ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (692.24 KB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------

LÊ THỊ BÍCH NGỌC

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ
VIỆT NAM – LÀO TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội -2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

-----------------------

LÊ THỊ BÍCH NGỌC

VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ
VIỆT NAM – LÀO TRONG SỰ NGHIỆP ĐỔI MỚI
Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Chun ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số: 603127


Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Vũ Quang Hiển

Hà Nội -2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 4
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................................ 4
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến luận văn ........................................... 5
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................ 13
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 13
5. Cơ sở lý luận, phương pháp và nguồn tài liệu nghiên cứu ........................... 14
6. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 15
Chƣơng 1: QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM –
LÀO .................................................................................................................. 16
1.1. Điều kiện hình thành quan hệ Việt Nam – Lào ..................................... 16
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý ............................................................... 16
1.1.2. Đặc điểm dân cư, văn hóa, lịch sử ......................................................... 16
1.1.3.Truyền thống chống giặc ngoại xâm ........................................................ 17
1.2. Quá trình hình thành và phát triển ...................................................... 22
1.2.1. Trong thời kỳ vận động thành lập Đảng ................................................. 22
1.2.2. Trong thời kỳ cách mạng 1930 - 1945 .................................................... 26
1.2.3. Trong kháng chiến chống Pháp 1946 - 1954 .......................................... 29
1.2.4. Trong kháng chiến chống Mỹ 1954 – 1969 ............................................ 34
1.3. Nội dung quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam – Lào ......... 39
1.3.1. Giúp bạn là tự giúp mình ........................................................................ 39
1.3.2. Tơn trọng quyền dân tộc tự quyết ........................................................... 43
1.3.3. Đoàn kết và xây dựng liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào là một nhân
tố chiến lược đảm bảo thắng lợi cách mạng mỗi nước ..................................... 46



1.3.4. Coi trọng và giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân tộc và liên minh
trong đấu tranh chống kẻ thù chung .................................................................. 50
1.4. Giá trị tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam -Lào................... 52
Chƣơng 2: VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ
VIỆT NAM - LÀO THỜI KỲ ĐỔI MỚI ...................................................... 55
2.1. Đặc điểm tình hình và thực tiễn quan hệ Việt Nam – Lào trong thời
kỳ đổi mới ......................................................................................................... 55
2.1.1. Đặc điểm tình hình .................................................................................. 55
2.1.2. Hợp tác chính trị ...................................................................................... 57
2.1.3. Hợp tác kinh tế ........................................................................................ 62
2.1.4. Hợp tác an ninh – quốc phịng ................................................................ 71
2.1.5. Hợp tác văn hóa, giáo dục, khoa học kỹ thuật, giao thông vận tải ......... 76
2.1.5.1. Hợp tác giáo dục - đào tạo ................................................................... 77
2.1.5.2. Hợp tác văn hóa.................................................................................... 80
2.1.5.3. Hợp tác khoa học kỹ thuật, khoa học công nghệ ................................. 83
2.1.5.4. Hợp tác giao thông vận tải ................................................................... 85
2.2. Một số giải pháp quán triệt và vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về
quan hệ Việt Nam – Lào ................................................................................. 87
2.2.1. Bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách về quan hệ hợp tác Việt Nam
– Lào, Lào – Việt Nam ...................................................................................... 88
2.2.2. Tăng cường hợp tác toàn diện trong các lĩnh vực giữa hai nước Việt
Nam và Lào ....................................................................................................... 89
2.2.3. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục quan điểm Hồ Chí Minh về
mối quan hệ đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam . 92
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 96
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 98


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

CHDCND : Cộng hòa dân chủ nhân dân
CHND

: Cộng hòa nhân dân

CHXHCN : Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
CNTB

: Chủ nghĩa tư bản

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

DCND

: Dân chủ nhân dân

ĐCSVN

: Đảng Cộng sản Việt Nam

ĐLĐVN

: Đảng Lao động Việt Nam

ĐNDL

: Đảng Nhân dân Lào


ĐNDCML : Đảng Nhân dân cách mạng Lào
HN

: Hà Nội

Nxb

: Nhà xuất bản

NDCM

: Nhân dân cách mạng

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao gồm hệ thống những quan điểm
về các vấn đề thế giới và thời đại, về đường lối quốc tế, chiến lược, sách lược,
chính sách đối ngoại và ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại. Tư tưởng này
thể hiện trong hoạt động đối ngoại của Hồ Chí Minh, Đảng và Nhà nước Việt
Nam.
Hịa bình, hợp tác và phát triển luôn là nội dung xuyên suốt của ngoại
giao Việt Nam. Hịa bình, độc lập tự chủ để phát triển và phát triển nhằm bảo
vệ hịa bình. Cuộc đấu tranh anh dũng của dân tộc Việt Nam suốt bao thế kỷ
qua cũng vì mục tiêu độc lập dân chủ ấy. Hồ Chí Minh đã phát triển đường lối
đối ngoại vì hịa bình, hợp tác và phát triển lên tầm cao mới. Để chiến thắng

kẻ thù mạnh hơn mình gấp nhiều lần, Hồ Chí Minh ln chủ trương tăng
cường đoàn kết và tranh thủ sự hợp tác quốc tế và coi đây là một vấn đề có
tầm chiến lược hàng đầu trong đường lối cách mạng Việt Nam.
Một phần quan trọng trong đường lối đối ngoại của Hồ Chí Minh là
hợp tác với các nước láng giềng. Đặc biệt, Người rất quan tâm chú trọng đến
quan hệ giữa hai nước trên bán đảo Đông Dương: Việt Nam – Lào. Ngay từ
những năm đầu lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tìm thấy
những nét tương đồng tạo cơ sở khách quan hình thành nên mối quan hệ đoàn
kết chiến đấu Việt Nam – Lào là cùng nằm trên bán đảo Đơng Dương, có
chung đường biên giới trên bộ, núi liền núi, sơng liền sơng; có quan hệ truyền
thống về nhiều mặt; cùng chịu sự áp bức, đô hộ của thực dân Pháp và sự can
thiệp của các thế lực đế quốc. Hồ Chí Minh là người đặt nền móng đầu tiên và


phấn đấu không mệt mỏi nhằm xây dựng, vun đắp mối quan hệ hữu nghị,
đoàn kết đặc biệt giữa hai dân tộc Việt Nam và Lào. Người chủ trương thực
hiện chính sách dân tộc tự quyết và tăng cường đồn kết giữa hai nước nhằm
đấu tranh chống kẻ thù chung “Tơi tin chắc rằng trong cuộc đấu tranh chính
nghĩa đánh đuổi kẻ thù chung, để giành tự do và độc lập, nhân dân Pathet
Lào, nhân dân Việt Nam và nhân dân Cao Miên, đoàn kết chặt chẽ trong khối
liên minh Việt – Miên – Lào, nhất định sẽ thắng lợi hoàn toàn” [44; tr.152].
Quan điểm ngoại giao này được Người thể hiện xuyên suốt quá trình lãnh đạo
cách mạng Việt Nam.
Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam -Lào có giá trị khoa học
và thực tiễn rất quan trọng. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng đã vận dụng và phát
triển quan điểm của Người nhằm xây đắp tình hữu nghị Việt Nam – Lào ngày
một tốt đẹp và bền vững hơn trên tất cả các lĩnh vực.
Với mong muốn tìm hiểu và làm rõ hơn hệ thống quan điểm và hoạt
động của Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam - Lào và sự vận dụng của Đảng
Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới, tôi chọn đề tài “Vận dụng quan

điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam – Lào trong sự nghiệp đổi mới ở
Việt Nam” làm luận văn Thạc sĩ ngành Chính trị học, chun ngành Hồ Chí
Minh học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề nghiên cứu quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ ngoại giao giữa
Việt Nam với các nước nói chung cũng như quan hệ Việt Nam – Lào nói
riêng trong các thời kỳ cách mạng không phải là mới đối với các nhà nghiên
cứu khoa học trong và ngồi nước.
2.1. Nhóm các cơng trình khoa học nghiên cứu về quan hệ Việt Nam
– Lào


Nguyễn Văn Khoan (2008): “Việt – Lào hai nước chúng ta”, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã khẳng định những cống hiến của Hồ Chí
Minh và các thế hệ cán bộ, chuyên gia Việt Nam đối với Lào thơng qua
những bài nói, bài viết của các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước Việt Nam
và Lào.
Nhìn một cách tổng quát, trải qua gần nửa thế kỷ (1930 – 1975) đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc, quan hệ đoàn kết Việt – Lào đã tồn tại và trải
qua một quá trình phát triển biện chứng từ thấp đến cao xuyên suốt trong lịch
sử đấu tranh giải phóng dân tộc [32; tr.364].
Lê Đình Chỉnh (2007): Quan hệ đặc biệt hợp tác toàn diện Việt Nam Lào trong giai đoạn 1954 - 2000 , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách
này trình bày, đánh giá quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào trên các
lĩnh vực qua các giai đoạn cách mạng khác nhau.
“Quan hệ đoàn kết chiến đấu Việt Nam – Lào giai đoạn 1930 – 1945 là
cơ sở vững chắc, tạo ra những thuận lợi cho hai dân tộc bước vào giai đoạn
cách mạng mới tiếp tục giành thắng lợi trong cách mạng dân tộc, dân chủ
[3;tr.25].
Đảng nhân dân Cách mạng Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam Lịch sử
quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào - Việt Nam 1930 – 2007. Cơng trình đã

tái hiện lịch sử phát triển quan hệ Việt Nam – Lào qua các giai đoạn và thành
tựu hai nước đạt được trên các lĩnh vực chính trị, đối ngoại, kinh tế, văn hóa,
khoa học kỹ thuật từ năm 1930 đến năm 2007; đồng thời các tác giả đánh giá
bài học kinh nghiệm, triển vọng phát triển quan hệ Việt Nam – Lào, Lào –
Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam – Lào trong thời kỳ đổi mới 1986
– 2007 đã trải qua nhiều khó khăn, thử thách, nhưng với sự quyết tâm của hai
Đảng, hai Nhà nước và sự nỗ lực phấn đấu của các cấp, các ngành, các địa


phương và các doanh nghiệp hai nước, quan hệ hợp tác toàn diện Việt Nam –
Lào đã ngày càng được đẩy mạnh và khuyến khích phát triển cả về chiều rộng
lẫn chiều sâu, từ hợp tác về chính trị, đối ngoại, quốc phòng, an ninh đến hợp
tác kinh tế, văn hóa, khoa học – kỹ thuật, hợp tác giữa các địa phương và đạt
được những kết quả ngày càng to lớn hơn, góp phần thúc đẩy cơng cuộc đổi
mới và phát triển của mỗi nước [15; tr.728].
Vũ Dương Huân (2007): Thành tựu hợp tác đặc biệt, toàn diện Việt –
Lào trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 8. Qua bài viết, tác giả đã
khái quát những thành tựu to lớn, đáng tự hào mà hai nước đạt được trong q
trình hợp tác đặc biệt tồn diện trên cơ sở phát huy truyền thống đoàn kết,
giúp đỡ lẫn nhau. Hai nước khẳng định, trong bối cảnh quốc tế mới tuy có
phức tạp, thách thức, song quan hệ đặc biệt Việt – Lào sẽ tiếp tục phát triển
mạnh mẽ.
Về thương mại, hai bên đã ký các Hiệp định thương mại 5 năm và nghị
định thư hàng năm, tạo hành lang pháp lý cho trao đổi thương mại giữa hai
nước. Năm 2005 hai bên đã thỏa thuận giảm thuế xuất nhập khẩu cho hàng
hóa có xuất xứ từ hai nước từ 5% - 0% [24; tr.39].
Vũ Công Quý (2004): Quan hệ hợp tác Việt Nam – Lào từ 1977 đến
2003, Tạp chí Nghiên cứu Đơng Nam Á, số 3. Tác giả đánh giá thực trạng
quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và Lào trên các lĩnh vực từ năm 1977 đến

2003.
Giai đoạn 2001 – 2005, theo Hiệp định hợp tác Việt Nam dự tính viện
trợ khơng hồn lại cho Lào khoảng 500 tỷ VND nhằm ưu tiên đào tạo phát
triển nhân lực, các dự án nâng cao nghiệp vụ cho Lào trên tất cả các mặt [62;
tr.21].
Liên minh đoàn kết chiến đấu Việt Nam – Lào – Campuchia của Hoàng
Văn Thái (1983), Nxb Sự thật, Hà Nội.


Đoàn kết, liên minh ba nước được bền vững là vì đã lấy chủ nghĩa
Mác – Lênin và chủ nghĩa quốc tế vô sản làm nền tảng, lấy sự nhất trí về
đường lối chính trị chung và trong từng giai đoạn cách mạng làm cốt lõi, dưới
sự lãnh đạo của các đảng mác xít – lêninnít chân chính [66; tr.42].
Trình Mưu, "Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng nhân
dân Cách mạng Lào quyết định thắng lợi liên minh Việt - Lào, Tạp chí Lý
luận Chính trị, 12/2008, tr 35 – 39. Tác giả đã khẳng định liên minh là nhu
cầu tự nhiên của hai Đảng qua các thời kỳ và sự phối hợp giữa hai Đảng trong
việc đề ra đường lối chiến lược, sách lược; trong việc xây dựng căn cứ địa và
hậu phương; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị và hoạt động ngoại giao
trong sự nghiệp cách mạng hai nước.
Nhờ giúp nhau xây dựng được đường lối đúng, sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam và Đảng nhân dân Cách mạng Lào đã thiết lập được mối
quan hệ lâu dài, thường xuyên bền chặt, nhịp nhàng trong mỗi bước chuyển
của lịch sử cách mạng Đông Dương [38; tr.37].
Vấn đề này cũng đã được nhiều tác giả chọn làm hướng nghiên cứu cho
đề tài luận văn, luận án như “Quan hệ Việt Nam – Lào – Campuchia trong
kháng chiến chống Pháp 1945 – 1954” của Đỗ Đình Hãng; “Quan hệ Việt
Nam – Lào giai đoạn 1954 – 1975” của Lê Đình Chỉnh…
Dương Minh Huệ (2011), Hợp tác giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và
Đảng Nhân dân cách mạng Lào về đào tạo cán bộ trong hệ thống chính trị từ

1986 đến 2006. Luận án đã tái hiện quá trình hợp tác đào tạo cán bộ trong hệ
thống chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách mạng
Lào từ năm 1996 đến năm 2006; những thành tựu, hạn chế, bài học kinh
nghiệm của quá trình hợp tác đào tạo cán bộ giữa hai Đảng.
Trong những năm 1991 – 2006, hệ thống Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, các bộ, ngành, đồn thể chính trị xã hội trung ương tích cực


đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chính trị, cán bộ chuyên môn và lưu học
sinh giúp Đảng và Nhà nước Lào. Hằng năm, nguồn kinh phí dành cho đào
tạo cán bộ, học sinh Lào tại Việt Nam chiếm khoảng 40% số viện trợ của
Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Lào [25; tr.98].
Trong những năm vừa qua cũng đã diễn ra nhiều hội thảo tại Lào, Việt
Nam bàn về mối quan hệ khăng khít giữa hai nước Việt Nam – Lào anh em
như Kỷ yếu hội thảo khoa học “Tình hữu nghị đồn kết Việt Nam – Lào” của
Bảo tàng Hồ Chí Minh; Hội thảo khoa học quốc tế: Liên minh chiến đấu Lào Việt Nam trên chiến trường cánh đồng Chum - Xiêng Khoảng...
2.2. Nhóm các cơng trình khoa học nghiên cứu quan điểm Hồ Chí
Minh về quan hệ Việt Nam – Lào
Đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học của các nhà khoa học
luận bàn về vấn đề này như:
Bảo tàng Hồ Chí Minh (2007): Biên niên sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh
với tình đồn kết hữu nghị đặc biệt Việt Nam – Lào, Nxb CTQG Hà Nội.
Cuốn sách này đã tái hiện những sự kiện lịch sử, những bài nói, bài viết, bức
thư, điện… của Chủ tịch Hồ Chí Minh viết về quan hệ Việt Nam – Lào, đã
làm rõ quan điểm giúp bạn là tự giúp mình “giúp nhân dân nước bạn tức là
mình tự giúp mình….”
Lào và Việt là hai nước anh em. Mối quan hệ giữa hai dân tộc rất là
mật thiết. Đối với kiều bào ta làm ăn sinh sống ở đất nước Lào thì Lào lại như
là một Tổ quốc thứ hai. Tục ngữ có câu: “Bán bà con xa, mua láng giềng gần”
ý nghĩa là như thế [1; tr.32].

Bùi Đình Phong (1996): “Một vài suy nghĩ về tư tưởng Hồ Chí Minh
trong quan hệ đồn kết Việt Nam – Lào”, Tạp chí Nghiên cứu Đơng Nam Á,
số 3, tr 90-92. Qua bài viết, tác giả đã làm rõ cốt lõi tư tưởng Hồ Chí Minh về
quan hệ Việt – Lào là chủ nghĩa nhân đạo – sợi chỉ đỏ xuyên suốt tư tưởng Hồ


Chí Minh về quan hệ Việt – Lào và khẳng định tư tưởng tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa là sợi dây văn hóa bền chặt nối liền tình cảm thủy chung
giữa hai dân tộc, góp phần định hướng, xây dựng nền văn hóa, giáo dục nhân
dân Lào.
Giải phóng con người bị áp bức là một yếu tố thường trực trong tư
tưởng Hồ Chí minh. Thơng qua lý luận và hành động, tổ chức và chỉ đạo thực
tiễn đối với cuộc đấu tranh cứu nước của nhân dân Lào, chủ nghĩa nhân đạo
Hồ Chí Minh đã góp phần vào sự thắng lợi của cơng cuộc giải phóng nhân
dân các bộ tộc Lào. Người đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải
phóng dân tộc Việt Nam, góp phần vào công cuộc đấu tranh chung của các
dân tộc, trong đó có dân tộc Lào, vì hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến
bộ xã hội [57; tr.91].
PGS.TS. Nguyễn Bá Linh, TS. Phạm Sang, TS. Bua Khăm (2005): Hồ
Chí Minh với nhân dân Lào, nhân dân Lào với Hồ Chí Minh, Nxb CAND.
Tác phẩm này được xuất bản bằng hai thứ tiếng là tiếng Việt và tiếng Lào.
Qua cơng trình nhóm tác giả đã khẳng định được vai trị to lớn của Chủ tịch
Hồ Chí Minh – người đặt nền móng cho quan hệ Việt Nam - Lào; lịng biết ơn
của nhân dân Lào đối với Hồ Chí Minh.
Để có được các nhân tố bên trong của cách mạng Lào, trước hết Hồ Chí
Minh quan tâm tới việc xây dựng các cơ sở chính trị, các căn cứ cách mạng
trong nhân dân. Ngay từ buổi “trứng nước” của cách mạng Lào, cũng như
cách mạng Việt Nam. Hồ Chí Minh là một trong những người đầu tiên bắt tay
vào việc xây dựng các cơ sở cách mạng trong quần chúng, tuyên truyền, tổ
chức quần chúng làm cách mạng, những năm 1928 – 1929 và đầu 1930, Hồ

Chí Minh đã chọn Lào là một hướng để truyền bá chủ nghĩa Mác – Lênin và
tư tưởng cứu nước mới vào Việt Nam, vào Đông Dương [35; tr.34].


Một số bài viết của các nhà nghiên cứu Việt Nam và Lào tìm hiểu về
vấn đề này được đăng trên các tạp chí như Trịnh Nhu (2009), "Tư tưởng Hồ
Chí Minh về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào", Tạp chí Lịch sử Đảng, số 6,
trang 19. Bài viết này đã khẳng định công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí
Minh trong q trình chăm lo, vun đắp, xây dựng quan hệ đoàn kết Việt Nam
– Lào, Lào – Việt Nam trên các giai đoạn cách mạng. Đồng thời tác giả cũng
khẳng định việc học tập, vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về
quan hệ Việt Nam – Lào là một nhiệm vụ quan trọng thường xuyên của hai
Đảng, hai Nhà nước và nhân dân hai nước Việt Nam, Lào.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam – Lào là một bộ phận hữu
cơ của quan hệ dân tộc – quốc tế được xác lập trong điều kiện cụ thể của hai
dân tộc Việt Nam, Lào. Đó là một di sản tư tưởng chính trị và nhân văn vơ
cùng cao q của hai dân tộc Việt Nam, Lào, khích lệ tinh thần tự lực và đoàn
kết, giúp đỡ nhau của hai Đảng và quân, dân hai nước [53; tr.18].
Xamản Vinhakệt (2010), "Chủ tịch Hồ Chí Minh với mối quan hệ hữu
nghị đồn kết đặc biệt Lào - Việt Nam", Tạp chí Lý luận Chính trị, số 5. Tác
giả khẳng định cơng lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong mối quan hệ
đoàn kết đặc biệt Việt Nam – Lào, vai trò của Người đối với sự nghiệp cách
mạng của Lào.Từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Hồ Chí Minh
sáng lập, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng hai dân tộc Việt – Lào
“đó vừa là nghĩa vụ quốc tế, vừa là lợi ích sống cịn của mỗi nước” [73; tr.56].
Nguyễn Thị Quế, Đỗ Thị Ánh (2010), "Một số quan điểm của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về quan hệ Việt - Lào", Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 5,
tr 3-10. Bài viết đã đề cập một số quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
mối quan hệ Việt – Lào và khẳng định vai trò của Người trong việc giáo dục
cho những người cách mạng Việt Nam và Lào nhận thức sâu sắc mối quan hệ

hai nước.


Trong quá trình chỉ đạo và thực hiện Chủ tịch Hồ Chí Minh thường
xuyên quán triệt cán bộ và bộ đội ta: Phải đảm bảo tuyệt đối cơng tác bí mật,
tôn trọng đầy đủ các nguyên tắc làm việc giữa hai Đảng, coi trọng ý kiến của
phía Lào, mọi cơng việc của Lào là do Lào tự quyết định, phía Việt Nam
khơng được bao biện làm thay [61; tr.8].
Lê Đình Chỉnh (2000), “Hồ Chí Minh với quan hệ đặc biệt Việt –
Lào”, Tạp chí Nghiên cứu Đơng Nam Á, số 2, tr 78-81.tác giả đã làm rõ công
lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh – người đặt nền móng đầu tiên cho mối
quan hệ Lào – Việt. Người đã giải quyết đúng đắn, sáng tạo mối quan hệ đại
đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế, biến nó trở thành sức mạnh cho nhân
dân Việt Nam và nhân dân Lào.
Đoàn kết và giúp đỡ cách mạng Lào là nhiệm vụ thường xuyên của
Đảng và nhân dân Việt Nam. Trong cuộc đời hoạt động của mình, Hồ Chí
Minh thường xuyên cùng với Trung ương Đảng ta luôn luôn kiểm điểm, rút
kinh nghiệm nhằm giúp cách mạng Lào đạt kết quả ngày càng cao [4; tr.80].
2.3. Những vấn đề các cơng trình chưa làm sáng tỏ
Mối quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào và tư tưởng Hồ Chí Minh về
quan hệ hai nước là chủ đề thu hút được sự quan tâm, chú ý của các nhà
nghiên cứu Việt Nam và Lào. Mặc dù các cơng trình nghiên cứu trên đã khái
quát chung về tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, quan hệ Việt Nam - Lào qua
các thời kỳ cách mạng khác nhau, tất cả những kết quả nghiên cứu đó là tài
liệu tham khảo quý giá đối với tác giả khi thực hiện luận văn này. Tuy nhiên
chưa có cơng trình nào đi sâu nghiên cứu, làm rõ một cách có hệ thống q
trình hình thành và phát triển; quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam Lào và sự vận dụng của Đảng và Nhà nước Việt Nam thời kỳ đổi mới
như thế nào.
2.4. Những vấn đề luận văn cần đi sâu nghiên cứu



Với tinh thần khiêm tốn học hỏi, tác giả luận văn xin phép được tiếp
thu, kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các nhà khoa học, lấy đó làm
những gợi ý quan trọng để phục vụ cho quá trình nghiên cứu và hoàn thiện đề
tài luận văn Thạc sĩ.
Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, tác giả tập trung nghiên cứu, giải
quyết một số vấn đề sau:
- Trình bày quá trình hình thành và phát triển quan điểm Hồ Chí Minh
về quan hệ Việt Nam – Lào.
- Hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam – Lào.
- Khẳng định giá trị quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam – Lào
- Sự vận dụng và phát triển quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt
Nam – Lào thời kỳ đổi mới
- Đưa ra một số giải pháp nhằm thực hiện quán triệt và vận dụng quan
điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam - Lào
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Luận văn có mục đích làm rõ q trình hình thành, hệ thống quan điểm
Hồ Chí Minh và nét độc đáo, sáng tạo của Người trong quá trình xây dựng và
phát triển quan hệ đặc biệt Việt Nam – Lào. Làm rõ quan điểm ngoại giao
đúng đắn đó của Hồ Chí Minh qua từng thời kỳ cách mạng khác nhau.
Trên cơ sở đó, luận văn phân tích rõ sự vận dụng của Đảng Cộng sản
Việt Nam về quan điểm Hồ Chí Minh trong quan hệ Việt Nam – Lào thời kỳ
đổi mới hiện nay, được thể hiện rõ nét nhất qua đường lối, chủ trương, hoạt
động và thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực của Đảng và Nhà nước ta
trong những năm qua và thực tiễn cách mạng hiện nay.
Đưa ra một số giải pháp thực hiện quán triệt và vận dụng quan điểm Hồ
Chí Minh về quan hệ Việt Nam – Lào.


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu hệ thống quan điểm Hồ Chí Minh trong
quan hệ Việt Nam – Lào và sự vận dụng của Đảng trong sự nghiệp đổi mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu quá trình hình thành và hệ thống quan điểm Hồ
Chí Minh về quan hệ Việt Nam – Lào trong quá trình hoạt động cách mạng
của Người từ những năm 20 thế kỷ XX đến năm 1969.
- Đặc điểm tình hình chi phối quan hệ Việt Nam - Lào từ năm 1986
đến nay và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới.
5. Cơ sở lý luận, phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
5.1. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa vào quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam – Lào;
những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về ngoại
giao, đặc biệt là trong quan hệ Việt – Lào làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu.
Tác giả còn sử dụng phương pháp lịch sử, hệ thống, so sánh, phân tích
các nguồn tư liệu, gắn lý luận với thực tiễn.
5.2. Nguồn tài liệu
Luận văn chủ yếu dựa vào các nguồn tài liệu sau:
- Văn kiện Đảng
- Các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Chủ tịch Cayxỏn
Phơmvihản và các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước hai nước.
- Các Hiệp định được ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Lào; Báo cáo
tổng kết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, các bộ, ban, ngành về q
trình hợp tác tồn diện trên các lĩnh vực giữa Việt Nam và Lào.


- Hồi ký của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước Việt Nam và Lào.
- Các cơng trình khoa học nghiên cứu những vấn đề liên quan đến đề
tài luận đăng tải trên các Tạp chí Nghiên cứu Đơng Nam Á, Tạp chí Lịch sử
Đảng, Tạp chí Lý luận Chính trị, Tạp chí Đối ngoại,….

- Một số luận án, luận văn liên quan đến đề tài luận văn.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được chia thành 2 chương:
- Chương 1: Quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam - Lào
- Chương 2: Vận dụng quan điểm Hồ Chí Minh về quan hệ Việt Nam Lào thời kỳ đổi mới.


Chƣơng 1
QUAN ĐIỂM HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ
VIỆT NAM - LÀO
1.1. Điều kiện hình thành quan hệ Việt Nam - Lào
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý
Việt Nam và Lào là hai nước nằm trên bán đảo Đơng Dương, cùng có
chung một dãy Trường Sơn hùng vĩ và dịng nước sơng Mê Kơng, có vị trí địa
– chiến lược quan trọng ở khu vực Đông Nam Á do nằm kề con đường giao
thương hàng hải, nối liền Đơng Bắc Á, Nam Á qua Tây Thái Bình Dương và
Ấn Độ Dương. Về địa – quân sự, Cánh đồng Chum – Xiêng Khoảng; Tây
Nguyên và cao nguyên Bôlavên của Lào; vùng rừng núi Tây Bắc Việt Nam và
Đông Bắc Lào… đều là những vị trí có tầm chiến lược quan trọng trên bán
đảo Đông Dương, ai nắm được những vùng chiến lược trên sẽ làm chủ toàn
bộ chiến trường Đơng Dương, vì vậy hai nước thường là nạn nhân của các
cuộc xâm lược thuộc địa. Những đặc điểm này đã chi phối đến quan hệ Việt
Nam – Lào, Lào – Việt Nam.
1.1.2. Đặc điểm dân cư, văn hóa, lịch sử
Việt Nam và Lào đều là những quốc gia đa dân tộc, Việt Nam có 54
dân tộc, Lào có 49 tộc người, có lịch sử phát triển lâu đời. Do quan hệ gần gũi
và lâu đời, nhất là các vùng biên giới nên người Việt và người Lào đã am hiểu
về nhau nhiều. Giữa hai nền văn hóa Việt Nam và văn hóa Lào có sự tương
đồng đó là nền văn minh lúa nước Đơng Nam Á. Văn hóa làng – nước của

Việt Nam có nhiều nét tương đồng với mơ hình tổ chức xã hội cổ truyền bản –
mường của dân Lào.
Trong lịch sử thế giới, hiếm có quan hệ láng giềng nào như hai dân tộc
Việt Nam và Lào, khơng hề có cuộc chiến tranh thơn tính lẫn nhau, khơng có


sự thù hằn, mâu thuẫn dân tộc, cùng giúp đỡ, nương tựa vào nhau chống lại
thiên tai địch họa. Từ thời cổ, trung đại, quan hệ giữa hai nhà nước về cơ bản
là quan hệ bang giao láng giềng thân thiện “Tinh thần lấy hòa hiếu làm trọng
xuyên suốt thế kỷ XIV và XV trong quan hệ bang giao Đại Việt – Lạn Xạng,
Lạn Xạng – Đại Việt, cho dù khơng phải khơng có những thời khắc gặp nguy
nan khi xảy ra biến cố đụng chạm lợi ích giữa các tập đồn phong kiến dưới
thời Vua Lê Thánh Tơng. Đó là sự kiện nhà Lê đưa quân sang Lạn Xạng vào
năm 1479. Nhưng hai nước thật sáng suốt và công bằng khi cả Lào và Việt
đều có ý thức đề cao khơng thù hận, biết chủ động vun đắp tình thân ái và hữu
nghị lâu dài giữa hai dân tộc” [15; tr.14].
Thời kỳ cận, hiện đại, quan hệ Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam phát
triển ngày càng sâu sắc, hai dân tộc đoàn kết, nương tựa vào nhau trong cuộc
cách mạng chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ kéo dài.
1.1.3. Truyền thống chống giặc ngoại xâm
Bắt nguồn từ yêu cầu sống còn của hai dân tộc trong lịch sử chống giặc
ngoại xâm, với tinh thần “giúp bạn là tự giúp mình”, Việt Nam và Lào đã kề
vai, sát cánh, nương tựa vào nhau, cùng nhau đoàn kết trong các cuộc đấu
tranh bảo vệ nền độc lập xuyên suốt thời kỳ cổ, trung đại, hiện đại. Truyền
thống yêu nước của Việt Nam và Lào ngày càng được hun đúc và trở thành cơ
sở vững chắc cho sự đoàn kết, gắn bó giữa hai nước.
Trong lịch sử cận và hiện đại, Việt Nam và Lào đều có chung kẻ thù
xâm lược là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, do đó tất yếu phải hình thành liên
minh chiến đấu chống kẻ thù chung vì độc lập, tự do của hai quốc gia, dân tộc.
Bán đảo Đơng Dương có vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng trong thời

kỳ phát triển chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh và chủ nghĩa tư bản độc
quyền, chiếm được Đông Dương sẽ tiến sâu vào khu vực Đông Nam Á, Đông
Dương trở thành đối tượng xâm lược của chủ nghĩa đế quốc.


Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, từng bước thiết
lập bộ máy thống trị thực dân ở Việt Nam và ở Đơng Dương nói chung, thực
hiện chính sách thống trị chun chế về chính trị, bóc lột một cách nặng nề về
kinh tế, nô dịch về văn hóa. Thực hiện chính sách "chia để trị", đế quốc Pháp
đã chia Việt Nam thành 3 xứ (Nam Kỳ, Trung Kỳ, Bắc Kỳ) cùng với Cao
Miên (Campuchia) lập thành Liên bang Đông Dương theo sắc lệnh ký ngày
17 tháng 10 năm 1887 của Tổng thống Pháp và tiếp đến là sắc lệnh ký ngày
19 tháng 4 năm 1899, có thêm Lào. Do cùng chung kẻ thù xâm lược và chung
một số phân nơ lệ và áp bức bóc lột nặng nề, nhân dân hai nước Việt Nam và
Lào đã liên kết với nhau, đoàn kết chặt chẽ trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù
chung là thực dân Pháp xâm lược, hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc.
Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, phong trào yêu nước ở Việt
Nam với sự tham gia của nhân dân các bộ tộc Lào đã diễn ra theo nhiều
khuynh hướng khác nhau: khuynh hướng phong kiến và tư sản,
Tiêu biểu cho khuynh hướng phong kiến là phong trào Cần Vương do
vua Hàm Nghi và Tôn Thất Thuyết phát động có sự tham gia của một số bộ
tộc Lào ở Tây Nghệ An, khởi nghĩa nông dân Yên Thế do Hồng Hoa Thám
lãnh đạo. Bên cạnh đó, cuộc khởi nghĩa của ông Kẹo và ông Commađăm ở
Hạ Lào (1901 – 1937) có sự tham gia của một số bộ tộc người Tây Nguyên;
phong trào đấu tranh của Chậu PhaPátChay (1918 – 1922) của dân tộc
H’Mơng Lào có sự tham gia của dân tộc H’Mông Việt Nam…
Thất bại của các phong trào trên đã chứng tỏ sự bất lực của hệ tư tưởng
phong kiến trước nhiệm vụ cách mạng Việt Nam.
Tiếp đó đầu thế kỷ XX phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân
chủ tư sản diễn ra mạnh mẽ, sôi nổi dưới sự lãnh đạo của các bậc sĩ phu yêu

nước tiến bộ phải kể đến các phong trào do Phan Bội Châu và Phan Châu
Trinh lãnh đạo. Phan Bội Châu chủ trương dùng biện pháp bạo động để đánh


đuổi thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc. Trong khi đó Phan Châu Trinh chủ
trương dùng những cải cách văn hóa, khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh,
buộc thực dân Pháp phải trao trả độc lập cho nước Việt Nam.
Có thể thấy rằng sự thất bại của phong trào yêu nước Việt Nam và Lào
cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX theo khuynh hướng phong kiến và tư sản đặt
cách mạng Việt Nam cách mạng Lào vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về
đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo.
Năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, đánh dấu một bước ngoặt
lịch sử trong phong trào cách mạng và liên minh giữa hai ba nước Đông
Dương, chấm dứt thời kỳ khủng hoảng về đường lối và lực lượng lãnh đạo
cách mạng. Với hoàn cảnh lịch sử tương đồng, cùng chung mục tiêu và khát
vọng độc lập tự do, con đường giải phóng dân tộc Việt Nam theo con đường
Nguyễn Ái Quốc đã chọn cũng là phù hợp để giải phóng nhân dân các bộ tộc
Lào khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa thực dân.
Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam thành lập, nhiều chi bộ cộng sản đã
được xây dựng không chỉ ở Việt Nam mà cịn ở Lào: Viêng Chăn, Phơn Tịu,
Thà Khẹt, Xavănnakhẹt…, qua đó những chủ trương, đường lối đấu tranh giải
phóng dân tộc Việt Nam bắt đầu lan truyền vào bộ phận người Việt sống ở Lào.
Trong cao trào cách mạng dân chủ 1936 – 1939, phong trào đấu tranh
diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam đã ảnh hưởng đến Lào, thúc đẩy các Đảng viên
ở Lào khôi phục tổ chức và lãnh đạo một số cuộc đấu tranh của nhân dân Lào.
Giai đoạn 1939 – 1945, quan hệ Việt Nam – Lào có sự chuyển biến
mới. Đứng trước thực tiễn nhân dân Đông Dương đang chịu ách thống trị của
cả thực dân Pháp và phát xít Nhật, Đảng Cộng sản Đông Dương chuyển
hướng chỉ đạo chiến lược cách mạng, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
trên hết. Hội nghị Trung ương lần thứ 8 (5/1941), chủ trương thành lập ở mỗi



nước một mặt trận dân tộc thống nhất, có ý nghĩa cho từng dân tộc trong việc
phát huy tính chủ động của cách mạng mỗi nước.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, nhân dân Việt Nam
đã tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi vào tháng 8 năm 1945, nhân dân Lào
với sự tham gia của Việt kiều yêu nước sống tại Lào cũng đã tiến hành khởi
nghĩa thành công. Liên minh chiến đấu giữa hai nước đã xác lập chính thức về
mặt nhà nước.
Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa và Chính phủ Lào Ítxala ra đời
khơng lâu thì nhân dân hai nước lại cùng nhau bước vào cuộc trường kỳ
kháng chiến kéo dài (1945 – 1954). Nhu cầu hợp tác, giúp đỡ nhau trong
kháng chiến chống Pháp xuất phát từ hai bên. Lào cần có sự giúp đỡ của Việt
Nam và Việt Nam cũng cần có sự hỗ trợ của Lào vì mục tiêu chung đánh đổ
ách thống trị của thực dân Pháp, giành độc lập dân tộc.
Với đường lối kháng chiến, kiến quốc, nhân dân Việt Nam vừa chiến
đấu vừa xây dựng lực lượng mọi mặt. Đồng thời với tinh thần “kháng chiến
của Việt, Miên, Lào là nhiệm vụ chung của chúng ta, là bổn phận của chúng
ta”, “giúp bạn là tự giúp mình”, Việt Nam đã cử cán bộ và chiến sĩ tình
nguyện sang giúp đỡ cách mạng Lào xây dựng lực lượng. Liên minh chiến
đấu Việt Nam – Lào trong giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến đã thu được
nhiều thắng lợi quan trọng, chiến dịch Biên giới năm 1950 của quân dân Việt
Nam đã phá vỡ vòng vây của đế quốc Pháp, mở thông con đường liên lạc trực
tiếp giữa ba nước Việt Nam, Lào và Campuchia.
Từ năm 1951, thực tiễn phong trào cách mạng ở mỗi nước đã phát triển
rõ rệt địi hỏi Đảng phải có đường lối, chính sách và tổ chức phù hợp với đặc
điểm của mỗi nước, tạo điều kiện thúc đẩy hơn nữa liên minh chiến đấu
chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ.



Đại hội lần thứ II Đảng Cộng sản Đông Dương (2/1951) được triệu
tập, quyết định thành lập ở mỗi nước một đảng cách mạng riêng, phù hợp với
hoàn cảnh từng nước để lãnh đạo cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi cuối cùng
và tăng cường hơn nữa sự phối hợp chiến đấu giữa ba dân tộc Việt Nam – Lào
– Campuchia để chống kẻ thù chung. Trong Báo cáo chính trị thơng qua tại
Đại hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chúng ta kháng chiến, dân tộc
bạn Miên, Lào cũng kháng chiến. Bọn thực dân Pháp và bọn can thiệp Mỹ là
kẻ thù của ta và của dân tộc Miên, Lào. Vì vậy, ta phải ra sức giúp đỡ anh em
Miên, Lào, giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào; và tiến đến thành lập Mặt trận
thống nhất các dân tộc Việt – Miên – Lào” [43; tr.174].
Ngày 11 tháng 3 năm 1951, Hội nghị liên minh nhân dân ba nước
Đông Dương được tổ chức tại Chiêm Hóa, Tuyên Quang, nhất trí thành lập
khối liên minh Việt Nam – Lào – Campuchia, đây là sự kiện có ý nghĩa quan
trọng, góp phần tạo ra bước phát triển mới cho cuộc kháng chiến của nhân
dân ba nước Đông Dương.
Đầu năm 1953, chiến trường Lào có điều kiện thuận lợi cho sự phối
hợp liên minh ba nước. Ngày 3/2/1953, Chính phủ kháng chiến Lào và Chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa quyết định mở chiến dịch Thượng Lào giải
phóng Sầm Nưa, từ đó tiến tới giải phóng một phần tỉnh Xiêng Khoảng, tỉnh
Phong Sa Lỳ. Thắng lợi của chiến dịch Thượng Lào đã nối liền vùng tự do
Việt Nam và hậu phương kháng chiến của Lào.
Thắng lợi của liên minh Việt Nam – Lào trên chiến trường Đơng
Dương đã góp phần làm thất bại kế hoạch Nava, giành thắng lợi to lớn trong
chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ 1954 được ký kết, buộc thực
dân Pháp, đế quốc Mỹ phải thừa nhận nền độc lập, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ của ba nước Việt Nam, Lào, Campuchia.


Kháng chiến chống thực dân Pháp kết thúc, nhân dân ba dân tộc Việt
Nam, Lào và Campuchia lại cùng nhau bước vào cuộc trường chinh mới. Sau

Hiệp định Giơnevơ, đế quốc Mỹ nhanh chóng nhảy vào Đơng Dương thay
chân Pháp, từng bước thiết lập quyền kiểm soát ở miền Nam Việt Nam và
Lào, âm mưu biến thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ.
Với phương tiện chiến tranh hiện đại, để thực hiện âm mưu thâm độc
của mình, đế quốc Mỹ đã cùng một lúc tiến hành chiến tranh xâm lược trên
chiến trường Việt Nam và Lào, thi hành chiến lược chiến tranh đặc biệt, chiến
tranh cục bộ, Việt Nam hóa chiến tranh và chiến tranh đặc biệt tăng cường ở
Lào. Dưới sự lãnh đạo của Đảng cùng với việc phát huy truyền thống đoàn
kết, nương tựa giúp đỡ nhau, nhân dân ba nước Đông Dương đã đánh bại
mưu chiến lược của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, giành thắng lợi vĩ đại trong
năm 1975.
Tiểu kết
Xuất phát từ những nét tương đồng về địa lý, tự nhiên, văn hóa, lịch sử,
cùng có chung kẻ thù xâm lược trong các cuộc đấu tranh cách mạng, quan hệ
Việt Nam – Lào, Lào – Việt Nam hình thành từ rất sớm, được nâng lên thành
quan hệ đặc biệt từ khi Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
vào đầu năm 1930, đưa sự nghiệp cách mạng của hai nước Việt Nam và Lào
hòa quyện vào nhau, cùng hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội.
1.2. Quá trình hình thành, phát triển những quan điểm Hồ Chí
Minh về quan hệ Việt Nam - Lào
1.2.1. Trong thời kỳ vận động thành lập Đảng
Trước đòi hỏi của lịch sử, Hồ Chí Minh đã có tầm nhìn vượt lên các sĩ
phu yêu nước đương thời khi thấy rõ các dân tộc thuộc địa muốn giành được
độc lập thì phải đánh đổ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, không thể thỏa


hiệp với nó. Nhận thức đó đã hướng Người sang phương Tây, đến các nước tư
bản đế quốc và các nước thuộc địa để xem xét họ làm thế nào, học tập họ để
về giúp đồng bào khỏi xiềng xích nơ lệ "Tơi muốn đi ra nước ngồi, xem các

nước như thế nào rồi sẽ trở về giúp đồng bào mình".
Giữa lúc cách mạng Việt Nam đang trong tình trạng khủng hoảng sâu
sắc về đường lối cứu nước, Cách mạng Tháng Mười Nga 1917 nổ ra và giành
thắng lợi, Hồ Chí Minh đã hướng theo ánh sáng con đường cách mạng Nga,
con đường cách mạng vô sản. Sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lênin (7/1920), Hồ Chí
Minh đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa
quốc tế vô sản, xác định đường lối cứu nước mới cho dân tộc mang tính nhân
văn cao cả và ý nghĩa thời đại sâu sắc, đó là con đường cách mạng giải phóng
dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp, giải phóng con người; độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc
khơng có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản" [40; tr.274].
Việc xác định được con đường cách mạng đúng đắn để giải phóng dân tộc là
cơng lao to lớn đầu tiên của Hồ Chí Minh trong việc giải quyết cuộc khủng
hoảng về đường lối cứu nước, đưa cách mạng hai nước Việt Nam và Lào gắn
kết với nhau, cùng hướng tới mục tiêu chung là độc lập dân tộc và CNXH
"đối với nhân dân Lào, cống hiến to lớn đầu tiên của đồng chí Hồ Chí Minh,
trước hết là việc tìm ra con đường giải phóng dân tộc đúng đắn cho cách
mạng Lào" [73; tr.57]. Với luận điểm quan trọng khẳng định con đường giải
phóng các dân tộc Đông Dương là con đường cách mạng vơ sản, Hồ Chí
Minh đồng thời cũng đã làm rõ cơ sở bền vững của quan hệ đặc biệt Việt
Nam - Lào; Lào - Việt Nam.
Hành trình tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc đồng thời là
hành trình tìm kiếm bạn đồng minh và thiết lập mối quan hệ đoàn kết, hợp tác


×