Tải bản đầy đủ (.docx) (63 trang)

Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự Những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (303.97 KB, 63 trang )

NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Đề tài: Hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá

1


MỤC LỤC
Lời mở đầu
A. Tổng quan về đề tài nghiên cứu
1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu trong nước……………………………5

1.1. Tính cấp thiết của đề tài………………………………………….…………...….5
1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước………………………………………….…….6
2.
3.
4.
5.
6.

Nội dung đề tài nghiên cứu………………………………………………………..…7
Đối tượng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu……………………………………..7
Phạm vi nghiên cứu…………………………………………………………………..8
Phương pháp nghiên cứu……………………………………………………...……..8
Kết cấu bài báo cáo nghiên cứu…………………………………….……………….8
B. Nội dung bài nghiên cứu

Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa và pháp luật về
hợp đồng mua bán hàng hóa……………………………………………………...……..9
1.1. Một số vấn đề lý luận chung………………………………………………………..9
1.1.1. Khái niệm về hợp đồng mua bán hàng hoá……………………………………….9
1.1.2. Lịch sử hình thành hợp đồng mua bán hàng hoá………………………...………..12


1.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá……………………...……..16
1.2.1. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa…………………..…………………..16
1.2.2. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa………………………………………..17
1.2.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, hợp đồng vô hiệu, huỷ bỏ hợp đồng, chấm dứt
hợp đồng……………………………………………………………………………….21
1.2.4. Giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa…………………………………………….26
1.2.5. Thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa……………………………….…………..29
1.2.6. Trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ và giải quyết tranh chấp trong thương mại…...32
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa……………….....37
2.1. Thực trạng pháp luật về nội dung và hình thức của hợp đồng mua bán hàng
hoá……………………………………………………………………………………….40
2.1.1. Quy định về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá………………………..40
2.1.2. Nội dung hợp đồng mua bán hàng hoá……………………………………………41
2


2.2. Thực trạng pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa….42
2.2.1. Thực trạng giao kết………………………………………………………….…….43
2.2.2. Thực trạng thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa………………………………..45
2.3. Thực trạng về trách nhiệm do vi phạm hợp đồng mua bán hàng hóa……...…..49
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng
hóa……………………………………………………………………………………….53
3.1. Nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá……….…….53
3.1.1. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của văn bản quy phạm pháp
luật trong hệ thống pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa…………………..………53
3.1.2. Xuất phát từ các bất cập tồn tại thực tế trong quy định pháp luật về hợp đồng mua
bán hàng hóa………………………………………………………….………………….54
3.1.3. Phải phù hợp với xu hướng chung của pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán
hàng hóa của khu vực cũng như thế giới…………………………………….…………..55
3.2. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa..56

3.2.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật cụ thể………………………..56
3.2.2. Kiến nghị xây dựng Luật hợp đồng thống nhất…………………...………………58
C. Kết luận

Tài liệu tham khảo
Lời cảm ơn

LỜI MỞ ĐẦU

3


A.

Tổng quan về đề tài nghiên cứu

1. Tính cấp thiết của đề tài và tình hình nghiên cứu trong nước:
4


1.1. Tính cấp thiết của đề tài:
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam, các giao dịch kinh
doanh diễn ra ngày càng sôi động đặc biệt việc giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa giữa
các thương nhân, giữa các doanh nghiệp với nhau ngày càng tăng về số lượng. Thực tiễn
trên đòi hỏi Nhà nước phải ban hành các quy định điều chỉnh chi tiết và phù hợp cho quá
trình thiết lập và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Mặt khác, hợp đồng mua bán
hàng hóa có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của hoạt động thương mại
hàng hóa nói riêng cũng như trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước nói chung.
Không chỉ giữ vai trò là cơ sở thực để các bên thực hiện việc mua bán hàng hóa, hợp
đồng mua bán hàng hóa còn là căn cứ pháp lý để giải quyết các tranh chấp phát sinh từ

hoạt động này. Hợp đồng mua bán hàng hóa còn thúc đẩy hoạt động thương mại hàng
hóa diễn ra thuận lợi, quy củ và ngày càng mang tính chuyên môn hóa cao.
Với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trong những năm qua Nhà nước ta đã có những
thay đổi lớn về chính sách và pháp luật, đặc biệt là pháp luật liên quan tới hoạt động
thương mại trong đó có pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hoá. Ngày 14 tháng
11 năm 2005 Quốc hội đã ban hành Luật Thương mại số 36/2005 - QH11 quy định về
hoạt động thương mại (chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006, thay thế
Luật thương mại 1997) nhằm tạo thành một hành lang pháp lý hoàn chỉnh cho các thương
nhân trong hoạt động thương mại. Cũng giống như Luật thương mại 1997, Luật thương
mại 2005 cũng quy định khá đầy đủ và chi tiết về mua bán hàng hoá, hợp đồng mua bán
hàng hoá.
Sự thay đổi trên đã mang lại cho nền kinh tế đất nước nhiều thành quả đáng kể, tuy
nhiên, chế định về hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của pháp luật hiện hành
của Việt Nam còn có nhiều điểm chưa rõ ràng cụ thể; một số văn bản pháp luật hướng
dẫn thi hành đôi khi còn chồng chéo, thiếu rõ ràng và đồng bộ, điều này gây khó khăn
cho các tổ chức, cá nhân trong quá trình giao kết, thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa
mà còn là vướng mắc không nhỏ của các cơ quan nhà nước trong việc quản lý hoạt động
này. Vậy nên pháp luật điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa của Việt Nam vẫn cần
được nghiên cứu để hoàn thiện thêm.
5


1.2. Tình hình nghiên cứu trong nước:
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa là bộ phận pháp luật có vị trí quan trọng
trong pháp luật về hợp đồng ở Việt Nam. Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa được
hình thành và phát triển với các quy định tại Pháp lệnh Hợp đồng kinh tế năm 1989 (đã
hết hiệu lực) và đặc biệt sau đó là Bộ luật Dân sự năm 1995 (đã hết hiệu lực), Luật
Thương mại 1997 (đã hết hiệu lực), và hai văn bản pháp luật hiện hành là Luật Thương
mại 2005 (LTM 2005) và Bộ luật Dân sự 2005 (BLDS 2005).
Vấn đề pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa được nhiều nhà

khoa học quan tâm nghiên cứu, dưới những góc độ khác nhau. Trên thực tế đã có nhiều
luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ… nghiên cứu các đề tài liên quan đến hợp đồng mua bán
hàng hóa, như đề tài: “Chế độ hợp đồng trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam trong
giai đoạn hiện nay” - luận án phó tiến sỹ khoa học luật học năm 1996 của TS.Phạm Hữu
Nghị; “Pháp luật về giao kết hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài
-Kinh nghiệm so sánh với luật Trung Quốc và những định hướng hoàn thiện cho pháp
luật Việt Nam” - luận văn Thạc sỹ năm 2012 của Trương Thị Bích; “Hiệu lực của hợp
đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam” - luận án tiến sỹ luật học năm 2010 của Lê
Minh Hùng; “Tự do giao kết hợp đồng - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” - luận văn
Thạc sỹ năm 2010 của Nguyễn Thị Hường.
Ngoài ra còn có sách chuyên khảo, công trình nghiên cứu, các giáo trình có đề cập
đến các khía cạnh pháp lý của hợp đồng như: Giáo trình Luật kinh tế Việt Namm(2001),
Giáo trình Luật Thương Mại (năm 2002) của khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; Giáo
trình pháp luật kinh tế (2005) của khoa Luật kinh tế, Đại học kinh tế quốc dân; Giáo trình
Luật kinh tế của đại học Luật Hà Nội; “Chế định về hợp đồng trong Bộ luật Dân sự Việt
Nam” của TS.Nguyễn Ngọc Khánh (2007); “Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình
luận bản án” của TS. Đỗ Văn Đại (2010); “Chế độ hợp đồng kinh tế - Tồn tại hay không
tồn tại” của GS.TS Lê Hồng Hạnh (2005); Thống nhất Luật hợp đồng ở Việt Nam, Đinh
Thị Mai Phương, NXB Tư Pháp (2005).
Cùng với các công trình nghiên cứu và các sách, giáo trình nêu trên, đã có nhiều bài
báo khoa học đăng trên các tạp trí, như: “Một số bất cập của chế định hợp đồng trong Bộ
6


luật dân sự 2005” của tác giả Trần Thị Huệ, tạp chí dân chủ và pháp luật số định kỳ tháng
6 (255) năm 2013. “Chế định bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng những vấn đề đặt ra
khi sửa đổi Bộ luật Dân sự năm 2005” của tác giả Phạm Văn Bằng, tạp chí dân chủ và
pháp luật Số định kỳ tháng 4 năm 2013…
Tất cả các công trình nghiên cứu, các bài báo khoa học, sách chuyên khảo, các luận
án, luận văn nêu trên đều có những thành công nhất định về một số khía cạnh pháp lý của

hợp đồng.
2. Nội dung đề tài nghiên cứu:

Bài nghiên cứu của nhóm tập trung khái quát tổng hợp các vấn đề pháp lý cơ bản của
hợp đồng mua bán hàng hóa. Đó là các vấn đề liên quan đến khái niệm, lịch sử hình
thành pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa, nội dung và hình thức của hợp đồng,
điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, vấn đề giao kết, thực hiện hợp đồng.
Từ việc khái quát phát luật, nhóm sẽ làm rõ các bất cập đồng thời đưa ra các kiến nghị
và giải pháp để góp phần hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa. Cụ thể đó
là các nguyên tắc hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hoá (HĐMBHH),
hướng sửa đổi cụ thể pháp luật cũng như các giải pháp kiến nghị cụ thể cho các bên giao
kết hợp đồng và các cơ quan quản lý.
3. Đối tượng nghiên cứu và mục tiêu nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.
- Mục tiêu nghiên cứu:
 Tìm ra được những bất cập còn tồn tại trong pháp luật về hợp đồng mua bán hàng

hóa.
 Đưa ra những giải pháp, kiến nghị để hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán

hàng hóa.
4. Phạm vi nghiên cứu:

Bài nghiên cứu tập trung phân tích và làm rõ những bất cập của pháp luật Viêt Nam về
hợp đồng mua bán hàng hóa kể từ khi Luật thương mại 2005 có hiệu lực đến nay. Tính
đến nay, trải qua 10 năm phát triển, nền kinh tế có nhiều thay đổi, hợp đồng mua bán
7


hàng hóa do Luật thương mại 2005 điều chỉnh đã khắc phục được những điểm còn thiếu

sót của Luật thương mại 1997 và ngày càng tiếp cận được với pháp luật quốc tế về mua
bán hàng hóa nói chung, đồng thời trong quá trình thực hiện cũng đã phát hiện ra những
bất cập gì cần được sửa chữa, bổ sung… Tuy nhiên, do hạn chế về thời gian nghiên cứu
và kiến thức còn hạn hẹp, bài nghiên cứu chỉ tập trung vào nghiên cứu về hợp đồng mua
bán hàng hóa cũng như việc thực hiện hợp đồng trong lãnh thổ nước Việt Nam, không có
yếu tố nước ngoài.
5.
-

Phương pháp nghiên cứu:
Chương 1:
Chương 2:
Chương 3:Phương pháp mô tả, tổng hợp, so sánh, phân tích.

6. Kết cấu bài báo cáo nghiên cứu:

Ngoài phần mở đầu, kết luận và mục lục, kết cấu của luận văn được chia làm 3
chương.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng mua bán hàng hóa và pháp luật về hợp
đồng mua bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa.

CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ VÀ
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ
1.1. Một số vấn đề lý luận chung:
1.1.1. Khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa:
a. Khái niệm:


8


Theo Luật mua bán hàng hóa của Anh năm 1979: Hợp đồng mua bán hàng hóa là hợp
đồng theo đó người bán chuyển giao hay cam kết chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho
người mua còn người mua có nghĩa vụ thanh toán tiền hàng (Điều 2).
Theo Bộ luật dân sự 1807 của Pháp: Hợp đồng mua bán là sự thỏa thuận theo đó một
bên có nghĩa vụ giao hàng còn bên kia có nghĩa vụ trả tiền hàng (khoản 1, Điều 1582).
Pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu do hai nguồn luật điều chỉnh là Bộ
luật Dân sự năm 2005 (BLDS 2005) và Luật Thương mại năm 2005 (LTM 2005).
Tại khoản 8, Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định: “Mua bán hàng hóa là hoạt
động thương mại, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng
hóa cho bên mua và nhận thanh toán, bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận
hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận”.
Luật thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa trong
thương mại, nhưng có thể dựa vào khái niệm hợp đồng mua bán tài sản trong Bộ luật dân
sự để xác định bản chất của hợp đồng mua bán hàng hóa. Theo Điều 428 BLDS 2005,
hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán có nghĩa vụ giao
tài sản cho bên mua và nhận tiền, còn bên mua có nghĩa vụ nhận tài sản và trả tiền cho
bên bán. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự thỏa
thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua
bán.
Xét về bản chất, hàng hóa cũng là một loại tài sản. Hàng hóa là đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hóa trong thương mại bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động
sản hình thành trong tương lại và những vật gắn liền với đất đai (khoản 2 Điều 3 Luật
thương mại 2005) còn đối tượng của hợp đồng mua bán tài sản lại bao gồm tất cả các tài
sản được phép giao dịch bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Từ đó cho thấy hợp đồng mua bán tài sản trong thương mại là một dạng cụ thể của
hợp đồng mua bán tài sản. Như vậy ta có thể đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán
hàng hóa như sau: Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó

bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận

9


thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu
hàng hóa theo thỏa thuận.
b. Đặc điểm:

Hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại trước hết mang những đặc điểm của
hợp đồng mua bán tài sản nói chung. Đó là:
Thứ nhất, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là sự thỏa thuận nhằm xác
lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong mua bán hàng hóa.
Thứ hai, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là hợp đồng song vụ, bên mua
và bên bán có quyền và nghĩa vụ. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược
lại. Bên bán có nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua và có quyền yêu cầu bên mua trả
tiền mua hàng hóa, ngược lại bên mua có quyền yêu cầu bên bán chuyển giao hàng hóa
và có nghĩa vụ trả tiền mua hàng hóa cho bên bán.
Thứ ba, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là hợp đồng ưng thuận - tức là
nó được coi là giao kết tại thời điểm các bên thỏa thuận xong các điều khoản cơ bản, thời
điểm có hiệu lực của hợp đồng không phụ thuộc vào thời điểm bàn giao hàng hóa, việc
bàn giao hàng hóa chỉ được coi là hành động của bên bán nhắm thực hiện nghĩa vụ của
hợp đồng mua bán đã có hiệu lực.
Thứ tư, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại có tính đền bù - bên bán khi
thực hiện nghĩa vụ giao hàng hóa cho bên mua thì sẽ nhận từ bên mua một lợi ích tương
đương với giá trị hàng hóa theo thỏa thuận dưới dạng khoản tiền thanh toán.
Thứ năm, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại là hợp đồng song vụ - mỗi
bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa đều bị ràng buộc bởi nghĩa vụ đối với bên kia,
đồng thời lại cũng là bên có quyền đòi hỏi bên kia thực hiện nghĩa vụ đối với mình.
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa tồn tại hai nghĩa vụ chính mang tính chất qua lại và

liên quan mật thiết với nhau: nghĩa vụ của bên bán phải bàn giao hàng hóa cho bên mua
và nghĩa vụ của bên mua phải thanh toán cho bên bán.
Tuy nhiên, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại còn được nhận diện qua
những dấu hiệu riêng sau:

10


Thứ nhất, chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa chủ yếu là thương nhân. Ngoài thương
nhân, chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa có thể không phải là thương nhân. Điều đó có
nghĩa thương nhân phải là môt bên của chủ thể mua bán hàng hóa. Chủ thể của hợp đồng
mua bán hàng hóa là thương nhân hoặc không phải là thương nhân.
Thứ hai, đối tượng của loại hợp đồng này là hàng hóa. Theo quy định tại khoản 2
Điều 3 LTM 2005, hàng hóa bao gồm: “Tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình
thành trong tương lai; những vật gắn liền với đất đai”. Qua đó cho thấy hợp đồng mua
bán hàng hóa trong thương mại có thể hướng tới việc giao nhận hàng hóa ở một thời
điểm trong tương lai.
Thứ ba, mục đích chủ yếu của các bên trong hợp đồng mua bán hàng hóa là sinh lợi.
Đặc điểm này xuất phát và gắn liền với đặc điểm chủ thể chủ yếu của hợp đồng mua bán
hàng hóa là thương nhân. Tuy nhiên, một số trường hợp một bên của hợp đồng mua bán
hàng hóa không có mục đích sinh lợi, loại hợp đồng này, về nguyên tắc không chịu sự
điều chỉnh của LTM trừ khi bên không nhằm mục đích sinh lợi lựa chọn áp dụng LTM.
c. Phân loại:
-

Căn cứ vào phạm vi của hợp đồng có thể chia ra hai loại đó là: Hợp đồng mua bán hàng
hoá trong nước và Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá trong nước thì đương nhiên sẽ chịu sự điều chỉnh
của pháp luật Việt Nam, cụ thể là Luật Thương mại 2005 và các luật chuyên ngành khác.
Còn đối với hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế thì các bên có thể thoả thuận áp dụng,

có thể là luật của Việt Nam hay luật của phía đối tác hay cũng có thể là luật của một nước
thứ ba…

-

Căn cứ vào cách thức thực hiện hợp đồng có thể chia ra hai loại: Hợp đồng mua bán hàng
hoá qua sở giao dịch hàng hoá và Hợp đồng mua bán hàng hoá không qua sở giao dịch
hàng hoá.
1.1.2. Lịch sử hình thành hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hợp đồng mua bán hàng hóa là một dạng của hợp đồng kinh tế. Do đó, lịch sử của
hợp đồng mua bán hàng hóa phải xuất phát từ lịch sử ra đời của pháp luật hợp đồng kinh
tế.
a. Hợp đồng kinh tế (HĐKT) trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung (KHHTT):
11


HĐKT trong nền KHHTT: Theo điều lệ tạm thời về chế độ HĐKT theo Nghị định
04/TTG ngày 4/6/1960 thì HĐKT là hợp đồng về sản xuất, vận tải và xây dựng bao thầu.
Từ đó rút ra bằng điều lệ tạm thời mới khái quát được một vài lĩnh vực cụ thể của hợp
đồng kinh tế mà chưa nêu ra được khái niệm chung về HĐKT. Sau đó điều lệ về chế độ
HĐKT được ban hành theo Nghị định 54/CP ngày 10/3/1975 mới đưa ra định nghĩa về
HĐKT: HĐKT là công cụ kinh tế pháp lý của nhà nước trong việc xây dựng và phát triển
kinh tế quốc dân XHCN. Nghị định này đã xây dựng khá rõ mối quan hệ XHCN giữa các
bên có liên quan dấn đến việc kí kết và thực hiện HĐKT đã kí kết đồng thời cũng quy
định nghĩa vụ và chịu trách nhiệm của từng bên đối với nhau, bảo vệ lợi ích của các bên
tham gia kí kết, định hướng cho các bên bằng những kế hoạch cụ thể giúp các thành viên
thực hiện được mục tiêu ban đầu đặt ra. Từ những đặc điểm kinh tế và những quy tắc,
những quy định về HĐKT trên rút ra được kết luận sau: HĐKT trong nền kinh tế
KHHTT có những đặc điểm sau: HĐKT là hình thức pháp lý của các quan hệ mang tính
chất kế hoạch - Mục đích của HĐKT là việc thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước

- chủ thể của các HĐKT là các đơn vị, tổ chức được giao chỉ tiêu kế hoạch của nhà nước.
b. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989 (PLHĐKT):

Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 19989 (PLHĐKT): Khi đất nước chuyển sang nền kinh tế
thị trường các quan hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế mang một nội dung mới về chất.
Trong điều kiện đó, điều lệ về chế độ HĐKT ban hành kèm theo nghị định 54/CP ngày
10/3/1975 không còn phù hợp nữa. Nhà nước ban hành PLHĐKT ngày 25/9/1989 và
nhiều văn bản khác để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng theo quan điểm mới. PLHĐKT
1989 ra đời đánh dấu một bước tiến quan trọng trong lĩnh vực pháp lý về HĐKT nói
chung bao gồm cả hợp đồng mua bán hàng hóa.
Chủ thể của HĐKT: Tại Điều 2 PLHĐKT quy định hợp đồng được kí giữa pháp nhân
với pháp nhân (một tổ chức có tư cách pháp nhân cần có những điều kiện quy định tại
Điều 1 Nghị định số 17/HĐBT ngày 16/1/1990 quy định chi tiết thi hành PL HĐKT;
pháp nhân với cá nhân có đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật (cá nhân có
đăng kí kinh doanh là người được cấp giấy phép kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đăng
kí kinh doanh). Tuy cá nhân có đăng kí kinh doanh hay pháp nhân đều là chủ thể của
12


HĐKT nhưng Pháp lệnh chỉ coi HĐKT là hợp đồng có ít nhất một bên là pháp nhân, còn
bên kia là pháp nhân hoặc cá nhân có đăng kí kinh doanh mà các bên đều nhằm mục đích
kinh doanh. Ngoài ra những người tham gia công tác kĩ thuật, nghệ nhân, hộ gia đình, hộ
ngư dân, nông dân, cá thể, tổ chức và cá nhân nước ngoài tại Viêt Nam kí kết HĐKT với
một pháp nhân Việt Nam cũng chịu sự điều chỉnh PLHĐKT (Điều 42,43). Khi tiến hành
kí kết, mỗi bên tham gia quan hệ HĐKT chỉ cần cử một đại diện kí vào HĐKT. Người
đại diện đương nhiên có thể ủy quyền cho người khác thay mình kí kết, thực hiện HĐKT
cũng như trong tố tụng khi có tranh chấp hợp đồng.
Nội dung của HĐKT là toàn bộ điều khoản mà các bên kí kết thỏa thuận, được hình
thành nên sau khi đã bàn bạc thương lượng trên cơ sở tự nguyện ý chí. Về phương diện
pháp lý, căn cứ vào tính chất của các bên, vai trò của các điều khoản, nội dung của

HĐKT bao gồm 3 loại điều khoản chủ yếu sau:
-

Điều khoản thường lệ là những điều khoản mà nội dung của nó được quy định trong các
văn bản quy phạm pháp luật, nếu các bên không ghi nhận trong hợp đồng thì coi như mặc

-

nhiên thừa nhận và phải có trách nhiệm thực hiện các thỏa thuận đó.
Điều khoản chủ yếu là những điều khoản căn bản bắt buộc phải có trong HĐKT.
Điều khoản tùy nghi là những điều khoản được đưa vào hợp đồng căn cứ và khả năng,
nhu cầu và sự thỏa thuận của mỗi bên khi quy định của Nhà nước chưa có hoặc đã có quy
định của Nhà nước nhưng các bên được vận dụng linh hoạt trong hoàn cảnh thực tế của
mình và không trái pháp luật.
HĐKT vô hiệu khi HĐKT đó kí kết trái với quy định của pháp luật. Có hai loại hợp
đồng vô hiệu là HĐKT vô hiệu từng phần và HĐKT vô hiệu toàn bộ. Tòa án là cơ quan
có thẩm quyền quyết định HĐKT vô hiệu. Trong những văn bản được pháp luật ban hành
và xây dựng sau khi Đảng và Nhà nước ta khởi xướng chính sách đổi mới thì PLHĐKT
được coi là một trong những bước đi lập pháp tiên phong, một trong những phản ứng
nhanh chóng trước đòi hỏi của kinh tế. Điểm thành công nhất trong số những thành công
ít ỏi của Pháp lệnh là khẳng định nguyên tắc tự do hơp đồng bằng quy định kí kết HĐKT
là quyền của các đơn vị kinh tế, không cơ quan, cá nhân, tổ chức nào được áp đặt ý chí
của mình cho các tổ chức, cá nhân khi kí kết các HĐKT. Pháp lệnh đặt dấu chấm hết cho
sự tồn tại của cơ chế KHHTT trong lĩnh vực hợp đồng nơi mà các chủ thể phải được tự
13


do tự nguyện thể hiện ý chí của mình. Tuy nhiên, PLHĐKT còn tồn tại một số bất cập
sau:
-


Xét từ góc độ lý luận, điểm đầu tiên là sự mâu thuẫn giữa tư tưởng xuyên suốt của cơ
quan soạn thảo pháp lệnh này đó là quyền tự do hợp đồng được thể hiện trên một số
nguyên tắc chung về kí kết và thưc hiện hợp đồng với những quy định của nó trong việc
xử lý các khía cạnh cụ thể của đời sống sản xuất kinh doanh. Khi xem xét các quy định
cụ thể trong PL thì quyền tự do có đăng kí kinh doanh tham gia các quan hệ hợp đồng,
trong khi đó tự do HĐKT đòi hỏi trước hết là tự do lựa chọn đối tác. Điểm thứ hai, các
chủ thể tham gia kí kết còn bị hạn chế bởi nguyên tắc chịu trách nhiệm trực tiếp về tài sản
đồng nghĩa với việc không cho các chủ thể tham gia kí kết HĐKT dưới sự bảo lãnh của

-

chủ thể khác.
Xét từ góc độ thực tiễn áp dụng: sự giới hạn chủ thể tham gia kí kết HĐKT ngay từ đầu
đa tỏ ra bất công và trong thực tiễn ngày càng trở nên đậm nét hơn. Sự giới hạn này của
PL đã không tính đến sự đa dạng của các chủ thể tham gia hợp đồng lại bị ràng buộc và
bị triệt tiêu một cách khó giải thích. PLHĐKT chỉ cho phép pháp nhân và cá nhân khi đất
nước chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong khi đó hệ thống
XHCN của nước ta đã xuất hiện nhiều chủ thể kinh doanh tham gia rộng rãi các quan hệ
kinh tế như công ty hợp danh - là loại hình doanh nghiệp có số lượng tăng dần nhưng
không được xếp là pháp nhân theo Pháp lệnh.
c. Hệ thống pháp luật hợp đồng với sự ra đời của BLDS 1995 là Luật thương mai
1997 (LTM 1997):
Trong hai năm 1995 và 1997, Quốc hội đã lần lượt ban hành ra hai văn bản pháp luât
mới là Bộ luật dân sự (BLDS) và Luật thương mại (LTM). Đây chính là một bước đột
phá mới trong những quy định về hợp đồng và quyền tự do hợp đồng. Nhìn chung, nội
dung hai văn bản này đều dựa trên cơ sở nền tảng của PLHĐKT 1989 nhưng BLDS 1995
và LTM 1997 đều có những quy định thoáng hơn về hợp đồng.
Thứ nhất, chủ thể tham gia kí kết hợp đồng không chỉ giới hạn ở pháp nhân và cá
nhân có đăng kí kinh doanh mà tùy thuộc vào từng loại hợp đồng, phạm vi chủ thể có

quyền giao kết có những sự khác nhau nhất định. Theo BLDS 1995, các chủ thể của hợp
đồng dân sự gồm: cá nhân (có năng lực cá nhân và năng lực hành vi dân sự), pháp nhân,
14


tổ hợp tác, hộ gia đình. Trong Điều 5 LTM 1997 cũng quy định chủ thể của hợp đồng
trong lĩnh vực thương mại là cá nhân, pháp nhân, tổ hợp tác, hộ gia đình có đăng kí kinh
doanh hoạt động thương mại.
Thứ hai, về hình thức hợp đồng BLDS 1995 là LTM 1997 đều quy định hình thức hợp
đồng có thể bằng văn bản, lời nói, hành vi cụ thể. Các chủ thể khi giao kết hợp đồng
được tự do lựa chọn hình thức cả kể fax, email… mà vẫn đảm bảo chặt chẽ về mặt pháp
luật. Như vậy, với những quy định mở rộng về chủ thể giao kết và hình thức hợp đồng
mà BLDS 1995 và LTM 1997 đã phần nào giải quyết mâu thuẫn giữa tư tưởng xuyên
suốt của PL HĐKT 1997 về tự do hợp đồng với các quy định của nó.
Tuy nhiện hệ thống pháp luật đang tồn tại đó ngày càng nổi lên nhiều bất cập. Đó là,
trong hệ thống văn bản pháp luật quy định về hợp đồng, chúng ta thấy có ba khái niệm
cùng tồn tại: hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế và hợp đồng thương mại. Một mặt các
hợp đồng này có những điểm đặc trưng của hợp đồng nhưng nó lại có điểm thiếu sót như:
sự trùng lặp, thiếu nhất quán và không đồng bộ gây ra không ít sự vướng mắc, sự lúng
túng trong việc áp dụng pháp luật để tiến hành giao kết hợp đồng và giải quyết tranh
chấp. Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, pháp luật hợp đồng Việt Nam
chưa tương thích với pháp luật và tập quán thương mại.
Với thực trạng pháp luật về hợp đồng như vậy thì việc duy trì khái niệm hợp đồng
kinh tế và hệ thống các văn bản pháp luật quy định riêng về nó là không cần thiết trong
khi có nguy cơ nảy sinh những vấn đề phức tạp trong việc xây dựng và áp dụng BLDS
1995 và các văn bản về hợp đồng chưa giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật hợp đồng
với điều lệ, quy chế của doanh nghiệp cũng như các điều kiện giao dịch mà các doanh
nghiệp tự ban hành. Các tiêu chí phân định hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng
thương mại không rõ ràng, vì vậy thường xuyên xuất hiện những quan hệ “giáp ranh”
không biế thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS 1995 hay LTM 1997. Một yêu cầu cấp

thết đặt ra là cần sớm ban hành văn bản quy pham pháp luật mới để thống nhất sự điều
chỉnh pháp luật về hợp đồng.
1.2. Nội dung pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa:
15


1.2.1. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa:
Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa: Điều 24 Luật Thương mại 2005 quy định
về hình thức hợp đồng mua bán hàng hóa:
“1. Hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được
xác lập bằng hành vi cụ thể.
2. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hóa mà pháp luật quy định phải được lập
thành văn bản thì phải tuân theo các quy định đó”.
Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa có thể được kí kết dưới mọi hình thức, trừ
những hợp đồng có quy định chuyên ngành như: hợp đồng mua bán quốc tế, hợp đồng
mua bán điện,… thì bắt buộc phải bằng văn bản. Nói cách khác, điều kiện về hình thức
của hợp đồng chỉ áp dụng cho một số loại hợp đồng mà pháp luật quy định cụ thể về hình
thức chứ không phải áp dụng cho tất cả các hợp đồng mua bán hàng hóa.
Ngoài ra, Luật thương mại còn có một số quy định riêng về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng mua bán hàng hóa với thương nhân nước ngoài như chủ thể bên Việt Nam phải
là thương nhân được phép hoạt động thương mại trực tiếp với người nước ngoài; hàng
hóa phải là hàng hóa được phép mua bán theo quy định của pháp luật nước bên mua và
nước bên bán; hoạt động mua bán phải được lập thành văn bản…
1.2.2. Nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa:
Nội dung của hợp đồng là tất cả những gì các bên thỏa thuận với nhau và theo quy
định của pháp luật, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Như
chúng ta biết, hợp đồng mua bán hàng hóa cũng là một loại hợp đồng, nên cũng là sự
thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập quyền và nghĩa vụ của họ trong việc mua bán
hàng hóa. Do đó, nội dung của hợp đồng trước hết là sự thỏa thuận giữa các bên trong
hợp đồng không trái với pháp luật. Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp

đồng phát sinh chủ yếu từ những điều khoản mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng, các
bên thỏa thuận càng rõ rang bao nhiêu thì càng thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng bấy
nhiêu. Pháp luật không hạn chế điều khoản thỏa thuận của các bên. Điều 402 BLDS 2005
cũng chỉ quy định các bên “có thể thỏa thuận” mà không đòi hỏi bắt buộc phải thỏa thuận
những nội dung nào. Luật thương mại 2005 cũng không quy định bắt buộc phải có những
16


nội dung gì trong hợp đồng mua bán. Theo đó, các bên tự do thỏa thuận với nhau. Khi
thực hiện hợp đồng tiến hành theo những thỏa thuận đó cũng như khi xảy ra tranh chấp
dựa vào những thỏa thuận đó để giải quyết. Tuy nhiên, luật cũng dự liệu trước trường
hợp các bên không thỏa thuận đối với những nội dung cơ bản, do đó khi thực hiện hợp
đồng cũng như khi xảy ra tranh chấp, đối với những nội dung không được các bên thỏa
thuận trước sẽ dựa vào quy định của pháp luật để thực hiện và giải quyết.
Trên cơ sở các thỏa thuận trong thực tế, các quy định trong BLDS 2005 và LTM
2005, xuất phát từ tính chất của quan hệ hợp đồng mua bán trong thương mại, có thể thấy
những nội dung quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm: đối tượng, chất
lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn, địa điểm giao nhận hàng, bảo hành hàng
hóa, thời điểm chuyển rủi ro, thời điểm chuyển quyền sở hữu…
a. Đối tượng hợp đồng mua bán hàng hóa:

Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại trong đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng,
chuyển giao quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán, còn bên mua có
nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận.
Từ định nghĩa đó, ta có thể thấy rằng trong mua bán hàng hóa, đối tượng của hợp đồng là
một hàng hóa nhất định là điều khoản không thể thiếu được. Hàng hóa là sản phẩm lao
động của con người, được tạo ra nhằm mục đích trao đổi để thỏa mãn nhu cầu của con
người. Hàng hóa có thể là vật hoặc là sức lao động của con người, là quyền tài sản.Trong
hợp đồng phải nêu rõ tên hàng bằng những danh từ thông dụng nhất (tiếng phổ biến) để
các bên trong hợp đồng và cơ quan hữu quan đều có thể hiểu được.

Theo pháp luật thương mại của đa số nước và điều ước quốc tế, hàng hóa là đối tượng
có thể mua bán trong thương mại bao gồm những loại tài sản có hai thuộc tính cơ bản là
có thể đưa vào lưu thông và có tính trao đổi, mua bán. Pháp luật Việt Nam cũng quy định
tương tự đối với đối tượng hàng hóa. Theo khoản 1 Điều 429 BLDS 2005: “Đối tượng
của hợp đồng mua bán là tài sản được phép giao dịch”. Như vậy đối tượng của hàng hóa
chỉ hợp pháp khi nó là hàng hóa được phép lưu thông; nếu đối tượng của hợp đồng này là
hàng quốc cấm thì hợp đồng vô hiệu. Nếu đối tượng của hợp đồng là hàng hóa hạn chế
lưu thông thì loại hợp đồng mua bán này thường được cơ quan nhà nước quản lý chặt chẽ
17


số lượng và địa chỉ tiêu thụ, các chủ thể không được áp dụng nguyên tắc tự nguyện và
phải tuân theo quy định của hợp đồng theo chỉ tiêu pháp lệnh. Theo khoản 2 Điều 3 Luật
thương mại 2005 quy định cụ thể hơn về đối tượng hàng hóa của hợp đồng mua bán hàng
hóa, bao gồm tất cả các loại động sản, kể cả động sản hình thành trong tương lai; và
những vật gắn liền với đất đai. Như vậy, hợp đồng mua bán hàng hóa có đối tượng là
hàng hóa, có thể là hàng hóa đang tồn tại hoặc sẽ có trong tương lai, hàng hóa có thể là
động sản hoặc bất động sản được phép lưu thông thương mại và phải loại trừ một số hàng
hóa đặc biệt chịu sự điều chỉnh riêng như cổ phiếu, trái phiếu…
b. Số lượng hàng hóa:

Điều khoản số lượng xác định về mặt lượng đối với đối tượng của hợp đồng. Số
lượng vật tư, hàng hóa phải được ghi chính xác, rõ ràng theo thỏa thuận của các bên chủ
thể và tính theo đơn vị đo lường hợp pháp của nhà nước đối với từng loại hàng hóa như
kg, tấn tạ, cái, chiếc, mét… Nếu tính trọng lượng thì phải ghi cả trọng lượng tịnh và trọng
lượng bao bì.
Đối với những hợp đồng có nhiều loại hàng hóa khác nhau thì phải ghi riêng số
lượng, trọng lượng của từng loại, sau đó ghi tổng giá trị vật tư, hàng hóa mua bán.
Đối với những hợp đồng có đối tượng là hàng hóa hạn chế lưu thông, hàng hóa đặc
biệt thì số lượng hàng hóa phải tuân theo chỉ tiêu pháp lệnh của nhà nươc giao đối với số

lượng hàng hóa đó.
c. Chất lượng hàng hóa:
Trong Luật thương mại không quy định rõ ràng về chất lượng hàng hóa. Tuy nhiên
chất lượng hàng hóa cũng là một điều khoản vô cùng quan trọng. Chất lượng hàng hóa
giúp xác định chính xác đối tượng của hợp đồng, cái mà người mua biết tường tận với
những yêu cầu được tính năng, tác dụng, quy cách, kích thước, công suất,hiệu quả… xác
định chất lượng cụ thể của hàng hóa cũng là một tiêu chí để định giá hàng hóa đó. Do đó
mà các bên trong hợp đồng cần phải ghi rõ chất lượng của hàng hóa, tùy từng loại hàng
hóa mà các bên có thể thỏa thuận về các điều kiện phẩm chất, quy cách cho phù hợp.
Bởi luật chuyên ngành là Luật thương mại 2005 không quy định rõ về chất lượng
hàng hóa do đó chúng ta sẽ quay về quy định của luật chung là BLDS 2005. Theo Điều
18


430 BLDS 2005, trước hết cũng tôn trọng thỏa thuận của các bên, sau đó là đối với các
đối tượng đặc biệt được quản lý chặt chẽ bởi nhà nước thì chất lượng của hàng hóa được
xác định theo các tiêu chuẩn đã công bố hoặc theo quy định của cơ quan nhà nươc có
thẩm quyền. Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận và pháp luật không có quy
định về chất lượng thì chất lượng của vật mua bán được xác định theo mục đích sử dụng
và chất lượng trung bình của vật cùng loại.
d. Giao và nhận hàng hóa:
Giao hàng là điều khoản về nghĩa vụ của bên bán, bên bán có nghĩa vụ giao hàng cho
bên mua; nhận hàng là điều khoản về nghĩa vụ của bên mua, bên mua có nghĩa vụ nhận
hàng khi bên bán giao hàng. Trong các điều khoản này phải xác định trách nhiệm của
người bán phải thông báo cho người mua về việc hàng đã chuẩn bị xong để giao hàng,
ngoài ra bên bán còn phải những chứng từ giao hàng mà người bán phải giao khi nhận
hàng. Theo Điều 34 Luật thương mại 2005 quy định nghĩa vụ của bên bán, bên bán phải
giao hàng, chứng từ theo thỏa thuận trong hợp đồng, trường hợp không có thỏa thuận cụ
thể, bên bán có nghĩa vụ giao hàng và chứng từ liên quan theo quy định của Luật này.
Điều 37 Luật thương mại 2005, bên bán cũng phải giao hàng đúng thời điểm giao hàng

đã thỏa thuận trong hợp đồng. Đồng thời với việc giao hàng của bên bán là nghĩa vụ nhận
hàng của bên mua, Điều 56 quy định rõ ràng bên mua có nghĩa vụ nhận hàng theo thỏa
thuận và thực hiện những công việc hợp lý để giúp bên bán giao hàng.
Vì thời điểm giao, nhận hàng là rất quan trọng, vì vậy mà các bên cần phải ghi vào
hợp đồng thời gian giao nhận cụ thể, có thể chia theo đợt, theo ngày, tháng…, cũng có
thể lập phụ lục hợp đồng với lịch giao nhận phù hợp với tình hình thực tế hai bên có thể
chấp nhận được. Luật thương mại 2005 còn dự liệu trong cả những trường hợp hai bên
không có thỏa thuận rõ ràng hoặc không thỏa thuận về thời điểm giao nhận hàng hóa tại
khoản 2 và 3 Điều 37.
Địa điểm giao nhận: hai bên cần thỏa thuận cụ thể địa chỉ nơi giao nhận, phải đảm
bảo nguyên tắc phù hợp với khả năng đi lại của phương tiện vận chuyển, đảm bảo an toàn
cho phương tiện, cố gắng thẳng từ nơi sản xuất đến nơi tiêu dùng, bỏ bớt các khâu trung
gian không cần thiết. Theo khoản 1 Điều 35 Luật thương mại 2005, bên bán có nghĩa vụ
19


giao hàng đúng địa điểm đã thỏa thuận, như vậy bên bán có trách nhiệm kí hợp đồng vận
chuyển đưa vật tư hàng hóa đến địa điểm đã thỏa thuận, mọi phí tổn sẽ do bên mua thanh
toán. Bên mua có thể tự lo liệu phương tiện để đến nhận hàng hóa tại kho của bên bán,
trong trường hợp này bên mua sẽ được hưởng toàn bộ chi phí vận chuyển do bên bán
thanh toán. Ngoài ra, Luật thương mại cũng quy định địa điểm cụ thể cho từng đối tượng
hàng hóa trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về địa điểm giao hàng được quy
định rõ tại khoản 2 Điều 35 Luật thương mại 2005.
e. Giá cả và phương thức thanh toán:
Giá cả cũng là một điều khoản vô cùng quan trọng, các bên có quyền thỏa thuận giá
cả và phải được ghi cụ thể trong hợp đồng hoặc nếu không ghi cụ thể thì phải xác định rõ
phương hướng định giá. Các bên trong hợp đồng cần lưu ý đồng tiền thanh tóa là Việt
Nam đồng, trừ một số trường hợp được nhà nước cho phép sử dụng ngoại hối trên lãnh
thổ Việt Nam theo thông tư 32/2013/TT - NHNN. Ngoài ra một điều khoản mà các bên
thường hay bỏ qua đó là cách xác định giá khi có biến động, khi có sự kiện bất khả

kháng. Điều 52 Luật thương mại 2005 cũng quy định đối với trường hợp các bên không
thỏa thuận về giá, không có thỏa thuận về phương pháp xác định giá.
Phương thức thanh toán là cách thức mà bên mua và bên bán thỏa thuận, theo đó bên
mua phải thanh toán cho bên bán tiền hàng đã mua theo một phương thức nhất định. Việc
chọn phương thức thanh toán trong hợp đồng hoàn toàn phụ thuộc vào sự thỏa thuận giữa
các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng mua bán hàng hóa. Sự lựa chọn phương thức
thanh toán cũng căn cứ vào mức độ an toàn của phương thức thanh toán và phí tổn cho
việc thanh toán.
f. Nghĩa vụ bảo hành:
Bảo hành là nghĩa vụ của bên mua trong những trường hợp hàng hóa có bảo hành. Về
nguyên tắc, những hàng hóa có tính năng kĩ thuật, người sản xuất phải có trách nhiệm
bảo hành trong một thời gian nhất định, đồng thời họ phải làm giấy hướng dẫn sử dụng
cần thiết cho loại hàng đó, nhất là hàng dược liệu, mĩ phẩm và phương tiện kĩ thuật. Tuy
nhiên Luật thương mại 2005 không quy định rõ ràng về điều này, Điều 49 Luật thương

20


mại 2005 chỉ quy định bên bán có nghĩa vụ bảo hành hàng hóa theo nội dung và thời hạn
đã thỏa thuận.
1.2.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng, hợp đồng vô hiệu, huỷ bỏ hợp đồng, chấm dứt
hợp đồng:
a. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng:

Hợp đồng nói chung và hợp đồng mua bán nói riêng có hiệu lực là hợp đồng được
pháp luật thừa nhận có giá trị ràng buộc các bên trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ
đã được thoả thuận. Pháp luật hiện hành không có những quy định riêng về những điều
kiện có hiệu lực của hợp đồng thương mại. Song căn cứ vào Điều 122 Bộ luật dân sự
2005 và các quy định có liên quan cho thấy, một hợp đồng trong thương mại có hiệu lực
phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:

Thứ nhất, các chủ thể tham gia hợp đồng phải có năng lực hành vi dân sự đầy đủ.
Thứ hai, đại diện của các bên giao kết hợp đồng phải là người đại diện hợp pháp.
Thứ ba, mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội.
Thứ tư, hợp đồng được giao kết phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện.
Thứ năm, hình thức của hợp đồng phải phù hợp với các hình thức theo quy định của
pháp luật.
Một hợp đồng vi phạm một trong những điều trên sẽ bị coi là hợp đồng vô hiệu.
b. Hợp đồng vô hiệu:

Hợp đồng vô hiệu nói chung và hợp đồng mua bán hàng hóa vô hiệu nói riêng là hợp
đồng không thỏa mãn đầy đủ các điều kiện có hiệu lực theo quy định của pháp luật. Việc
quy định cụ thể các trường hợp hợp đồng vô hiệu có ý nghĩa quan trọng trong việc xử lý
một cách hợp lý và hiệu quả các hợp đồng vô hiệu trong các trường hợp khác nhau, bảo
vệ lợi ích của các bên trong hợp đồng cũng như lợi ích của các chủ thể có liên quan. Theo
quy định của Bộ luật dân sự 2005, các trường hợp hợp đồng vô hiệu được áp dụng theo
các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu nói chung, theo đó một hợp đồng mua bán hàng
hóa vô hiệu trong những trường hợp chủ yếu sau:

21


-

Vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội (Điều 128 Bộ luật
dân sự 2005): điều cấm của pháp luật là những quy định của pháp luật có nội dung không
cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực
ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và
tôn trọng. Biểu hiện cụ thể của vi phạm điều cấm trong hợp đồng là các bên thỏa thuận
với nhau để thực hiện những công việc mà pháp luật không cho phép thực hiện như: sản

xuất, tiêu thụ hàng giả; mua bán, vận chuyển hàng cấm; cung ứng dịch vụ bị cấm thực
hiện; dịch chuyển tài sản trái phép hay những thỏa thuận gây thiệt hại cho lợi ích của
người thứ ba… Theo cách hiểu thông thường, nội dung hợp đồng gồm toàn bộ cam kết
của các bên được thể hiện dưới dạng điều khoản. Nhưng khi xem xét về nội dung của hợp
đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không, cần lưu ý điều khoản đối tượng của
hợp đồng. Khi nội dung của điều khoản này vi phạm điều cấm của pháp luật làm hợp
đồng vô hiệu toàn bộ thì các điều khoản hợp pháp khác của hợp đồng cũng sẽ bị vô hiệu
theo. Để xác định nội dung của hợp đồng có vi phạm điều cấm của pháp luật hay không,

-

cần lưu ý các quy phạm cấm trong các văn bản pháp luật.
Vô hiệu do giả tạo (Điều 129 Bộ luật dân sự 2005): khi các bên giao kết hợp đồng một
cách giả tạo nhằm che giấu một hợp đồng khác thì hợp đồng giả tạo vô hiệu, còn hợp
đồng bị che dấu vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp hợp đồng bị che dấu cũng vô hiệu theo

-

quy định của pháp luật.
Vô hiệu do nhầm lẫn (Điều 131 Bộ luật dân sự 2005): một bên có lỗi vô ý làm cho bên
kia nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng mà giao kết, thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu
cầu bên kia thay đổi nội dung của hợp đồng đó, nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị

-

nhầm lẫn có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Vô hiệu do lừa dối (Điều 132 Bộ luật dân sự 2005): lừa dối là hành vi cố ý của một bên
hoặc của người thứ ba nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về chủ thể, tính chất của đối
tượng hoặc nội dung của hợp đồng nên đã giao kết hợp đồng đó. Khi một bên giao kết


-

hợp đồng do bị lừa dối thì có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng vô hiệu.
Vô hiệu do bị đe dọa (Điều 132 Bộ luật dân sự 2005): đe dọa là hành vi cố ý của một bên
hoặc người thứ ba làm cho bên kia buộc phải giao kết và thực hiện hợp đồng nhằm tránh
thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của mình hoặc của
22


cha , mẹ, vợ, chồng, con của mình. Khi một bên giao kết hợp đồng do bị đe dọa thì có
-

quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng đó vô hiệu.
Vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình (Điều 133
Bộ luật dân sự 2005): người có năng lực hành vi dân sự nhưng đã giao kết hợp đồng vào
đúng thời điểm không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì có quyền yêu cầu

-

Tòa án tuyên bố hợp đồng đó là vô hiệu.
Vô hiệu do vi phạm quy định về hình thức (Điều 134 Bộ luật dân sự 2005): trong trường
hợp pháp luật quy định hình thức hợp đồng là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng mà các
bên không tuân theo thì theo yêu cầu của một bên hoặc các bên, Tòa án, cơ quan nhà
nước có thẩm quyền khác quyết định buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của
hợp đồng trong một thời hạn; quá thời hạn đó mà không thực hiện thì giao dịch vô hiệu.
Ngoài ra cần lưu ý về hai vấn đề: hợp đồng vô hiệu do chủ thể không đảm bảo điều
kiện về đăng kí kinh doanh và hợp đồng vô hiệu do người đại diện không đúng thẩm
quyền ký kết.
Mặc dù Bộ luật dân sự 2005 không quy định cụ thể về trường hợp hợp đồng mua bán
hàng hóa vô hiệu do chủ thể hợp đồng không đảm bảo điều kiện về đăng ký kinh doanh,

song có thể suy ra trường hợp vô hiệu này từ các quy định về điều kiện có hiệu lực của
hợp đồng. Một trong các bên kí kết hợp đồng không có đăng kí kinh doanh theo quy định
của pháp luật để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp đồng sẽ làm cho hợp đồng
vô hiệu. Việc không đăng ký kinh doanh để thực hiện công việc đã thỏa thuận trong hợp
đồng thể hiện chủ thể hợp đồng không có năng lực chủ thể để thực hiện các nghĩa vụ hợp
đồng trong kinh doanh. Tuy nhiên, đăng ký kinh doanh chỉ đòi hỏi bắt buộc với chủ thể
là thương nhân. Vì vậy nếu pháp luật quy định chủ thể trong một hợp đồng mua bán hàng
hóa phải có đăng ký kinh doanh mà bên đó không có đăng ký kinh doanh thì hợp đồng đó
bị coi là vô hiệu toàn bộ.
Pháp luật dân sự cũng không quy định trường hợp hợp đồng mua bán hàng hóa vô
hiệu do được kí kết bởi người đại điện không đúng thẩm quyền. Song trường hợp này có
thể áp dụng quy định về đại diện và phạm vi đại diện để xác định hiệu lực của hợp đồng.
Khi người không có quyền đại diện giao kết, thực hiện hợp đồng, sẽ không làm phát sinh
quyền, nghĩa vụ đối với bên được đại diện, trừ trường hợp được người đại diện hợp pháp
23


của bên được đại diện chấp thuận. Giao dịch do người đại diện xác lập, thực hiện vượt
quá phạm vi đại diện không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của người được đại diện đối
với phần giao dịch được thực hiện vượt quá phạm vi đại diện, trừ trường hợp người được
đại diện đồng ý hoặc biết mà không phản đối. Người đã giao dịch với người không có
quyền đại diện (hoặc vượt quá phạm vi đại diện) có quyền đơn phương chấm dứt thực
hiện hoặc hủy bỏ giao dịch (hoặc đối với phần vượt quá phạm vi được đại diện) đã xác
lập và yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp người đó biết hoặc phải biết về việc
không có quyền đại diện và việc vượt quá phạm vi đại diện mà vẫn giao dịch.
Tùy thuộc vào mức độ của sự vô hiệu hợp đồng, hợp đồng vô hiệu trong các trường
hợp nói trên được phân chia thành: Hợp đồng vô hiệu toàn bộ và hợp đồng vô hiệu từng
phần. Hợp đồng vô hiêu toàn bộ là hợp đồng mà tất cả các nội dung của hợp đồng không
có giá trị pháp lý, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ và cũng không được hưởng các
quyền theo hợp đồng. Hợp đồng vô hiệu từng phần là những hợp đồng có nội dung nào

đó vi phạm điều cấm của pháp luật và bị vô hiệu nhưng không làm ảnh hưởng đến các
nội dung còn lại của hợp đồng.
Một hợp đồng được coi là vô hiệu sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật. Căn cứ
theo Điều 137 Bộ luật dân sự 2005 thì một hợp đồng bị vô hiệu sẽ không làm phát sinh,
thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên kể từ thời điểm giao kết. Các
bên sẽ phải khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Nếu
không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền, trừ trường hợp tài sản giao
dịch, hoa lợi, lợi tức thu được bị tịch thu theo quy định của pháp luật. Bên có lỗi gây thiệt
hại phải bồi thường.
c. Huỷ bỏ hợp đồng:

Huỷ bỏ hợp đồng thương mại là sự kiện pháp lý mà hậu quả của nó làm cho nội dung
hợp đồng bị huỷ bỏ và không có hiệu lực từ thời điểm giao kết. Hủy bỏ hợp đồng có thể
được tiến hành trên cơ sở sự thỏa thuận của các bên trong quan hệ hợp đồng (Điều 425
Bộ luật dân sự 2005), theo đó, các bên cùng thống nhất hủy bỏ thực hiện nghĩa vụ khi
việc thực hiện này không còn phù hợp lợi ích của họ. Ở trường hợp khác, hủy bỏ hợp

24


đồng được tiến hành theo ý chí đơn phương của một bên khi xảy ra hành vi vi phạm hợp
đồng và đây là một loại chế tài trong thương mại (Điều 292 Luật thương mại 2005).
Điều 425 Bộ luật dân sự 2005 quy định bên huỷ bỏ hợp đồng phải thông báo ngay
cho bên kia biết về việc huỷ bỏ, nếu không thông báo mà gây thiệt hại thì phải bồi
thường. Hợp đồng bị huỷ bỏ không có hiệu lực từ thời điểm giao kết và các bên phải
hoàn trả cho nhau tài sản đã nhận, nếu không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn
trả bằng tiền. Bên có lôi trong việc hợp đồng bị huỷ bỏ phải bồi thường.
Điều 294 và Điều 312 Luật thương mại 2005 quy định về huỷ bỏ hợp đồng như một
chế tài trong thương mại như sau. Có hai trường hợp hủy bỏ hợp đồng, đó là:
-


Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng là việc bãi bỏ hoàn toàn việc thực hiện tất cả các nghĩa vụ hợp

-

đồng đối với toàn bộ hợp đồng.
Hủy bỏ một phần hợp đồng là việc bãi bỏ thực hiện một phần nghĩa vụ hợp đồng, các
phần còn lại trong hợp đồng vẫn còn hiệu lực.
Về căn cứ áp dụng, chế tài hủy bỏ hợp đồng được áp dụng khi xảy ra vi phạm hợp
đồng thuộc một trong các trường hợp: xảy ra hành vi vi phạm mà các bên đã thỏa thuận
là điều kiện để hủy bỏ hợp đồng, một bên vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.
Việc huỷ bỏ hợp đồng sẽ dẫn đến các hậu quả pháp lý, đó là:

-

Hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải tiếp tục thực hiện
các nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng, trừ thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ sau

-

khi hủy bỏ hợp đồng và về giải quyết tranh chấp.
Các bên có quyền đòi lại lợi ích do việc đã thực hiện phần nghĩa vụ của mình theo hợp
đồng. Nếu các bên đều có nghĩa vụ hoàn trả thì nghĩa vụ của họ phải được thực hiện hợp
đồng. Trường hợp không thể hoàn trả bằng chính lợi ích đã nhận thì bên có nghĩa vụ phải

-

hoàn trả bằng tiền.
Bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại đồng thời với việc áp dụng chế tài
hủy bỏ hợp đồng.

d. Chấm dứt hợp đồng
1.2.4. Giao kết hơp đồng mua bán hàng hóa:
a. Đề nghị giao kết hợp đồng:

Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, đề nghị giao kết hợp đồng chính là chào hàng.
Chào hàng là một quy định được thừa nhận trong các thông lệ quốc tế về mua bán hàng
25


×