Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại - những vấn đề lý luận và thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.58 KB, 102 trang )


1
Đại học quốc gia Hà Nội
Khoa luật
==========

Nguyễn Thanh Huy


Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại
- những vấn đề lý luận và thực tiễn


Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50






Luận văn thạc sĩ luật học

`


Hà Nội - 2009


2
Đại học quốc gia Hà Nội


Khoa luật
==========

Nguyễn Thanh Huy


Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại
- những vấn đề lý luận và thực tiễn


Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số : 60 38 50



HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Phan Chí Hiếu


Luận văn thạc sĩ luật học

`


Hà Nội - 2009


3
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cảm đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Được viết

trên cơ sở những hiểu biết cá nhân, có tham khảo các tài liệu đã được công
bố. Kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.


TÁC GIẢ LUẬN VĂN


Nguyễn Thanh Huy














4
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƢƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ THI HÀNH
QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI 11
1.1. Khái quát về trọng tài và quyết định của trọng tài thƣơng mại 11
1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển của trọng tài thương mại 11

1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển của trọng tài thương mại các nước trên
thế giới 11
1.1.1.2. Sự hình thành và phát triển của trọng tài thương mại ở Việt Nam 14
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quyết định của trọng tài thương mại 16
1.1.2.1. Khái niệm quyết định trọng tài 16
1.1.2.2. Đặc điểm quyết định của trọng tài. 19
1.1.3. Phân loại quyết định trọng tài thương mại 20
1.2. Thi hành quyết định của trọng tài thƣơng mại 22
1.2.1. Vai trò của việc thi hành quyết định trọng tài thương mại 22
1.2.2. Các hình thức thi hành quyết định của trọng tài: 27
1.2.2.1. Tự nguyện thi hành 27
1.2.4. Cơ chế thi hành quyết định của trọng tài thương mại 38
1.2.4.1. Các dấu hiệu pháp lý của cơ chế thi hành quyết định trọng tài
thương mại 38
1.2.4.2. Các yếu tố cấu thành cơ chế thi hành quyết định của trọng tài
thương mại 40
CHƢƠNG 2 - THỰC TIỄN VẬN HÀNH CƠ CHẾ THI HÀNH 46
QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 46
2.1. Thực trạng pháp luật về thi hành quyết định trọng tài thƣơng mại 46
2.1.1. Điều kiện để các quyết định của trọng tài được đưa ra thi hành 60
2.1.2 Thẩm quyền thi hành quyết định của trọng tài 62


5
2.1.3. Thủ tục thi hành quyết định của trọng tài thương mại 63
2.2. Các thiết chế liên quan đến việc thi hành quyết định trọng tài
thƣơng mại 70
2.2.1. Cơ quan thi hành án dân sự 70
2.2.2. Toà án nhân dân 71
2.2.3. Viện kiểm sát nhân dân 71

2.3. Các điều kiện đảm bảo vận hành cơ chế thi hành quyết định trọng tài 73
2.3.1. Về đội ngũ cán bộ:. 73
2.3.2. Về quan hệ giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan
hữu quan khác. 74
2.3.3. Về kinh phí, cơ sở vật chất 75
CHƢƠNG 3 - HOÀN THIỆN CƠ CHẾ THI HÀNH QUYẾT ĐỊNH
TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM 77
3.1. Sự cần thiết phải hoàn thiện cơ chế thi hành quyết định trọng tài
thƣơng mại tại Việt nam 77
3.2. Yêu cầu và phƣơng hƣớng hoàn thiện 79
3.2.1. Yêu cầu hoàn thiện 79
3.2.2. Phương hướng hoàn thiện 79
3.3. Giải pháp hoàn thiện 80
3.3.1. Đối với thi hành quyết định của trọng tài thương mại nước ngoài 80
3.3.2. Đối với thi hành quyết định của trọng tài thương mại việt nam 81
3.3.3. Các giải pháp chung 86
KẾT LUẬN 99


6
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Công cuộc đổi mới và mở cửa nền kinh tế do Đảng cộng sản Việt Nam
khởi xướng và lãnh đạo từ Đại hội VI (12/1986) đã đem lại những thành quả to
lớn về kinh tế và xã hội. Nền kinh tế nước ta sau hơn hai mươi hai năm đổi mới
và mở cửa đã có những chuyển biến tích cực, hợp tác và giao lưu thương mại
ngày càng phát triển. Song cũng trong bối cảnh đó, các quan hệ thương mại ngày
càng trở nên đa dạng và phức tạp, các tranh chấp thương mại là điều không thể
tránh khỏi và cần được quan tâm giải quyết kịp thời.

Pháp luật Việt Nam nói chung cũng như pháp luật thương mại Việt
Nam nói riêng đã quy định nhiều hình thức giải quyết tranh chấp như: thương
lượng, hòa giải, tòa án, trọng tài, trong đó trọng tài là phương thức giải quyết
có nhiều ưu việt. Trọng tài thương mại là phương thức giải quyết tranh chấp
khá phổ biến trên thế giới, nhất là tại những nước có nền kinh tế thị trường
phát triển. Thống kê cho thấy, kể từ năm 2001 đến nay, trung bình Toà án
Trọng tài quốc tế của Phòng Thương mại quốc tế (ICC) đã thụ lý hơn 500 vụ
việc mỗi năm. Các tổ chức trọng tài quốc tế khác cũng tiếp nhận và giải quyết
một số lượng vụ việc tương đối lớn.
Có rất nhiều ưu điểm, song trên thực tế ở Việt Nam, con đường giải
quyết bằng trọng tài vẫn chưa được các bên tranh chấp hướng tới. Theo báo
cáo của Ủy Ban Tư Pháp Quốc Hội năm 2008, trong các trung tâm trọng tài ở
Việt Nam, chỉ có Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam là tổ chức có số vụ
tranh chấp thụ lý, giải quyết nhiều nhất. Tuy nhiên, tính bình quân 3 năm
2004, 2005, 2006 cũng chỉ có khoảng 20 – 25 vụ/năm. Trong khi đó, năm
2007, Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thụ lý giải quyết khoảng 300 vụ án
kinh tế; năm 2008 Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh thụ lý giải quyết


7
khoảng 1.100 vụ. Điều đó cho thấy việc giải quyết các tranh chấp thương mại
tại các trung tâm trọng tài "chưa hấp dẫn" đối với các doanh nghiệp và cá
nhân hoạt động trong lĩnh vực thương mại. Có rất nhiều nguyên nhân để giải
thích vấn đề này, nhưng một trong những nguyên nhân cơ bản đó là cơ chế thi
hành quyết định của trọng tài hiện nay chưa hợp lý dẫn đến việc hiệu quả thi
hành chưa cao.
Về nguyên tắc, các phán quyết của trọng tài có hiệu lực thi hành như
các phán quyết của tòa án. Trình tự, thủ tục thi hành quyết định trọng tài được
quy định khá cụ thể và rõ ràng trong Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004
(BLTTDS), Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn.

Do vậy, để giải quyết tranh chấp trong kinh doanh thương mại bằng con
đường trọng tài thực sự trở thành phương thức giải quyết tối ưu cho các bên
tranh chấp đòi hỏi các phán quyết của trọng tài phải được thực thi một cách
nghiêm túc, đầy đủ, kịp thời. Điều đó cũng có nghĩa cần phải có một cơ chế
thi hành hợp lý và có hiệu quả.
Cơ chế thi hành các quyết định của trọng tài thương mại được hiểu là
các yếu tố cần thiết để thi hành, cơ chế đó bao gồm: Các văn bản pháp luật
điều chỉnh; các chủ trương, chính sách của nhà nước về thi hành các quyết
định của trọng tài; quyết định trọng tài; hệ thống cơ quan thi hành án, tòa án,
Viện Kiểm sát, đương sự…và mối tương quan giữa các yếu tố này.
Hiện nay, cơ chế thi hành các quyết định của trọng tài thương mại chưa
có được sự gắn kết cần thiết và đồng bộ, chưa thực sự có mối quan hệ hữu cơ,
đặt biệt là hệ thống pháp luật điều chỉnh và hệ thống cơ quan thi hành các
quyết định trọng tài thương mại.
Luận văn này với mong muốn sẽ làm sáng tỏ vấn đề lý luận cũng như
thực tiễn thi hành các quyết định của trọng tài thương mại tại Việt Nam, qua

8
đó có những đề xuất xây dựng một cơ chế thi hành quyết định trọng tài
thương mại phù hợp với lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu
Thi hành quyết định của trọng tài là vấn đề khá phức tạp và được nhiều
nhà nghiên cứu, luật gia trong và ngoài nước quan tâm, đặc biệt là các chuyên
gia và những người làm công tác thực tiễn. Trong nước đã có nhiều công trình
nghiên cứu về trọng tài và giải quyết tranh chấp trọng tài, trong đó phải kể
đến: “Trọng tài kinh tế - một hình thức giải quyết tranh chấp kinh tế ở nước
ta” (Đề tài khoa học cấp trường của Bộ môn Luật kinh tế Trường Đại học luật
Hà Nội), Pháp luật giải quyết tranh chấp ở Việt Nam (đề tài nghiên cứu khoa
học trong khuôn khổ dự án VIE/94/003), Chuyên đề thông tin pháp lý về thực
trạng công tác thi hành án (Bộ Tư pháp năm 2000), các báo cáo tại Hội thảo

Việt Pháp năm 1999 về giải quyết tranh chấp kinh tế có yếu tố nước ngoài,
Nguyễn Đình Thơ (2007), Hoàn thiện pháp luật về trọng tài thương mại của
Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế, Luận án Tiến sĩ Luật học, Trường
ĐH Luật Hà Nội…và một số đề tài luận văn tiến sĩ, cao học và cử nhân trong
nước cũng đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của đề tài này. Tuy nhiên,
các công trình này cũng chủ yếu tập trung vào nghiên cứu cơ cấu tổ chức và
hoạt động của trọng tài, còn vấn đề thi hành quyết định của trọng tài ít được
đề cập tới, hoặc có nhưng đã không còn phù hợp với tình hình thực tế có
nhiều thay đổi hiện nay, về cơ bản nó vẫn bị bỏ ngỏ và như vậy cho đến nay
chưa có một công trình nào nghiên cứu cơ sở lý luận một cách cơ bản và toàn
diện về vấn đề thi hành quyết định của trọng tài ở Việt Nam.

3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của đề tài là:

9
Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc thi hành quyết định trọng tài như là
một biện pháp để đảm bảo quyền tự do kinh doanh, quyền và lợi ích hợp pháp
của chủ thể kinh doanh; đồng thời phân tích thực trạng pháp luật, thực trạng
tổ chức và hoạt động của cơ quan thi hành quyết định của trọng tài ở Việt
Nam; làm rõ những nguyên nhân của thực trạng nói trên.
Từ mục đích này, Luận văn đặt ra các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây:
- Làm rõ khái niệm và các đặc điểm của quyết định trọng tài;
- Cơ chế thi hành quyết định trọng tài và các bộ phận hợp thành cơ chế;
- Thực trạng thi hành quyết định trọng tài, tổng hợp, phân tích pháp luật
thực định về thi hành quyết định của trọng tài, tìm hiểu các quy định thi hành
quyết định thi hành quyết định trọng tài ở các nước trên thế giới.
Qua đó, đưa ra những kiến nghị về phương hướng hoàn thiện các quy
định đó trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đề tài tập trung nghiên cứu cơ sở lý luận, pháp luật thực định và thực tế
việc thi hành quyết định trọng tài ở Việt Nam và quyết định trọng tài nước
ngoài tại Việt Nam.
Tromg quá trình nghiên cứu, việc phân tích các vấn đề khác về trọng tài
chỉ với mục đích làm sáng tỏ và có cái nhìn toàn diện hơn về đối tượng
nghiên cứu nói trên.
5. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu vấn đề thi hành quyết định của trọng tài
chúng tôi lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử là cơ
sở phương pháp luận để xem xét. Đồng thời sử dụng các phương pháp cụ thể

10
như: phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lịch sử,… làm sáng tỏ các
khía cạnh của vấn đề thi hành quyết định trọng tài ở Việt Nam
6. Những đóng góp mới của luận văn
Trong Luận văn, tác giả nghiên cứu một cách tổng thể và có hệ thống
cơ sở lý luận về thi hành quyết định trọng tài, phân tích thực trạng pháp luật
và cơ chế thi hành quyết định trọng tài ở nước ta hiện nay. Trên cơ sở những
phân tích đánh giá này, kết hợp tham khảo quy định của một số nước trên thế
giới về thi hành quyết định trọng tài, Luận văn chỉ ra một số đặc thù trong thi
hành quyết định trọng tài để qua đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp
luật về thi hành quyết định trọng tài, nâng cao hiệu quả cơ chế thi hành quyết
định trọng tài tại Việt Nam, đảm bảo các quyết định của trọng tài thương mại
được thực thi một cách nghiêm túc trên thực tế.
Với kết quả như trên, luận văn có thể được sử dụng như một tài liệu
phục vụ việc học tập và giảng dạy, cũng như tham khảo để hoàn thiện pháp
luật về thi hành quyết định trọng tài.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, Luận văn có nội dung được chia thành
3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về cơ chế thi hành quyết định trọng tài
thương mại.
Chương 2: Thực tiễn vận hành cơ chế thi hành quyết định trọng tài
thương mại tại Việt Nam.
Chương 3: Hoàn thiện cơ chế thi hành quyết định trọng tài thương mại
tại Việt Nam.


11
CHƢƠNG 1 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CƠ CHẾ THI HÀNH
QUYẾT ĐỊNH TRỌNG TÀI THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát về trọng tài và quyết định của trọng tài thƣơng mại
1.1.1. Lược sử hình thành và phát triển của trọng tài thương mại
1.1.1.1. Sự hình thành và phát triển của trọng tài thương mại các nước trên thế giới
Từ thế kỷ thứ VII trước Công nguyên, người Hy Lạp cổ đại đã biết sử
dụng trọng tài như là một phương thức giải quyết tranh chấp phát sinh, theo
đó: Nếu hai bên có tranh chấp và định chọn người xét xử thì họ có quyền chỉ
định người mà họ ưa thích để làm việc này, họ phải tôn trọng ý kiến người đó
và không được thưa kiện trước toà án.
Đối với trọng tài thương mại, phải đến khi kinh tế hàng hoá phát triển
hình thành nền kinh tế thị trường thúc đẩy các hoạt động thương mại phát
triển thì trọng tài thương mại mới thật sự ra đời.
Thời kỳ đầu, trọng tài thương mại chủ yếu tồn tại dưới hình thức trọng
tài vụ việc, về sau, khi thương mại phát triển mạnh mẽ thì trọng tài thường
trực mới xuất hiện.
Trọng tài vụ việc (trọng tài ad-hoc) là trọng tài do các bên lập ra để giải
quyết một vụ tranh chấp cụ thể và tự giải tán khi vụ tranh chấp đó được giải
quyết xong.
Trong tài thường trực (trọng tài quy chế) là hình thức trọng tài được tổ
chức chặt chẽ, có bộ máy quản lý, có trụ sở làm việc thường xuyên, có quy

tắc tố tụng riêng và danh sách trọng tài viên cụ thể.
Quá trình đi từ trọng tài vụ việc đến trọng tài thường trực là quá trình
bổ sung, hoàn thiện các hình thức tổ chức của trọng tài. Các Trung tâm trọng
tài, với tính chất là một tổ chức thường trực xuất hiện đầu tiên phải kể đến là
Toà án Trọng tài Quốc tế London (LCIA) thành lập năm 1892, Toà án trọng

12
tài thường trực quốc tế (PCA) thành lập năm 1899, Toà án trọng tài quốc tế
của Phòng Thương mại quốc tế (ICC) thành lập năm 1923…Ở khu vực Châu
Á, các trung tâm trọng tài xuất hiện muộn hơn: Trung tâm trọng tài Kuala
lumpur thành lập năm 1978, Trung tâm trọng tài quốc tế Hồng Kông
(HKIAC) thành lập năm 1985, Trung tâm trọng tài quốc tế Singapore thành
lập năm 1990…
Sự ra đời và phát triển của Trung tâm trọng tài thương mại diễn ra hết
sức đa dạng, phong phú phụ thuộc vào điều kiện phát trển kinh tế, xã hội nói
chung cũng như hoàn cảnh cụ thể của từng nước, từng khu vực.
Tổ chức trọng tài ở một số nước trên thế giới:
* Trọng tài Cộng hòa Liên bang Đức
Là một tổ chức phi Chính phủ, hoạt động trên nguyên tắc tự do thỏa
thuận của các bên về trọng tài.
Hình thức trọng tài: Có hai hình thức trọng tài đó là: trọng tài thường
xuyên (trọng tài quy chế) và trọng tài ad – hoc. Nước Đức có 6 tổ chức trọng
tài thường xuyên hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau với tổ chức gọn nhẹ
gồm Ban Thư ký điều hành và một danh sách trọng tài viên.
Thủ tục tố tụng trọng tài được quy định trong Bộ luật tố tụng dân sự và
các Điều lệ hoạt động của từng tổ chức trọng tài. Ngoài ra, các bên cũng có
quyền thỏa thuận riêng.
* Cộng hòa Pháp
Bên cạnh tòa thương mại, hình thức trọng tài thương mại cũng là hình
thức giải quyết phổ biến các tranh chấp kinh doanh. Mô hình trọng tài giống

như mô hình trọng tài ở Đức.


13
* Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
Hình thức giải quyết tranh chấp bằng trọng tài rất được ưu chuộng ở
Mỹ. Nước này có nhiều tổ chức trọng tài khác nhau.
Ở cấp Liên bang, tổ chức trọng tài hoạt động theo Đạo luật năm 1925,
đến năm 1970 được mở rộng và bổ sung các điều khoản của Công ước New
York năm 1958.
Do có sự khác nhau về luật tố tụng giữa các bang, nên năm 1926, Hiệp
hội trọng tài Mỹ được thành lập (gọi tắt là AAA). Hiệp hội ban hành Điều lệ
trọng tài thương mại có ý nghĩa lớn trong tố tụng trọng tài nói chung của toàn
liên bang.
Tổ chức AAA có trụ sở ở New York, gồm Ban Điều hành, Thư viện quốc
tế, các phòng họp. Hiệp hội có chi nhánh tại 42 trung tâm kinh tế lớn ở Mỹ.
Hiệp hội trọng tài Mỹ giải quyết mọi tranh chấp trong kinh doanh nói chung.
* Vương quốc Anh
Ở Anh, do trọng tài là đối tượng điều chỉnh của luật pháp quốc gia cho
nên mọi thỏa thuận trọng tài nhằm loại trừ thẩm quyền của tòa án đều vô hiệu.
Thế nhưng, trên thực tế giải quyết tranh chấp bằng con đường trọng tài lại khá
phổ biến do tính ưu việt của trọng tài so với các hình thức giải quyết tranh
chấp khác.
Có hai hình thức tổ chức trọng tài ở Anh: Trọng tài thường trực và hình
thức trọng tài vụ việc lâm thời.
* Nhật Bản
Ngoài hoạt động của tòa án, các tranh chấp thương mại còn có thể được
đưa ra giải quyết tại Hiệp hội trọng tài thương mại Nhật Bản theo Quy tắc của
Hiệp hội.


14
Hiệp hội trọng tài Nhật Bản là tổ chức xã hội được lập ra để giải quyết
tranh chấp thương mại. Hiệp hội có nhiều chi nhánh; đứng đầu là Chủ tịch và
đứng đầu chi nhánh là các Giám đốc. Hiệp hội còn có Ban Thư ký. Hiệp hội
có bản quy tắc trọng tài từ năm 1963 và được sửa đổi vào năm 1971.
Hiệp hội đứng ra lập danh sách trọng tài viên và niêm yết công khai tại
Văn phòng chi nhánh để tạo điều kiện cho các bên tranh chấp tham khảo chọn
trọng tài viên. Hiệp hội có trách nhiệm chỉ định trọng tài viên hay chủ tịch
trọng tài khi các bên không chỉ định được.
* Nước Malaysia
Năm 1978, Malaysia thành lập trung tâm trọng tài quốc tế khu vực. Đây
là tổ chức trọng tài quốc tế phi chính phủ. Mặc dù, trung tâm này là tổ chức
phi chính phủ, nhưng chính phủ Malaysia giúp đỡ rất nhiều về tài chính và
không can thiệp vào hoạt động của trung tâm. Hiện nay, trung tâm này giải
quyết khá nhiều tranh chấp giữa các doanh nghiệp Malaysia.
1.1.1.2. Sự hình thành và phát triển của trọng tài thương mại ở Việt Nam
Ở Việt Nam, trọng tài ra đời khá muộn. Vào đầu những năm sáu mươi
của thế kỷ trước, trọng tài ở Việt Nam ra đời và được chia thành hai loại:
Trọng tài giải quyết tranh chấp trong nước và trọng tài giải quyết tranh chấp
quốc tế.
Cả hai loại trọng tài này đều hoàn toàn không phải là tổ chức phi chính
phủ mà là cơ quan nhà nước được giao nhiệm vụ giải quyết các tranh chấp
kinh tế. Bởi vậy, về bản chất không phải là trọng tài thương mại theo đúng
nghĩa của nó.
Quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế hành chính quan liêu sang nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dẫn đến nhiều loại hình chủ thể
kinh doanh và quan hệ kinh tế mới được hình thành, các hoạt động kinh tế

15
phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. Thực tế này kéo theo hệ quả tranh

chấp trong kinh doanh phát sinh ngày càng nhiều với tính chất phức tạp, nội
dung đa dạng đòi hỏi phải có tổ chức chuyên giải quyết các tranh chấp. Mặt
khác, quyền tự do kinh doanh – nguyên tắc cơ bản của kinh tế thị trường bao
gồm quyền quyết định việc lựa chọn mô hình tổ chức kinh doanh; lựa chọn
ngành nghề, mặt hàng kinh doanh; tự do giao kết hợp đồng; tự do quyết định
tất cả các vấn đề phát sinh trong quá trình quản lý, điều hành sản xuất kinh
doanh và tự do lựa chọn cơ quan tài phán giải quyết các tranh chấp phát sinh.
Nhà nước đã thừa nhận quyền tự do kinh doanh thì đồng thời có trách nhiệm
bảo đảm thực hiện các quyền đó. Do vậy, phải có cơ quan tài phán khác ngoài
Toà án để các chủ thể kinh doanh thực hiện quyền lựa chọn cơ quan tài phán
khi giải quyết tranh chấp. Đây là lý do hệ thống Trọng tài kinh tế Nhà nước bị
giải thể và Trọng tài kinh tế phi chính phủ theo Nghị định 116/CP ngày 05
tháng 09 năm 1994 ra đời.
Theo quy định tại Điều 1 Nghị định 116/CP thì Trọng tài kinh tế là tổ chức
xã hội - nghề nghiệp có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp về hợp đồng kinh
tế; các tranh chấp giữa công ty với các thành viên của công ty; giữa các thành
viên của công ty với nhau liên quan đến việc thành lập, hoạt động, giải thể công
ty; các tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu.
Tuy nhiên, nếu như Toà kinh tế giải quyết các tranh chấp kinh tế theo
thẩm quyền Nhà nước quy định thì các Trung tâm Trọng tài kinh tế thành lập
theo Nghị định 116/CP chỉ được giải quyết những vụ tranh chấp do các bên tự
nguyện lựa chọn. Đây chính là sự khác nhau mang tính bản chất giữa hai hệ
thống cơ quan cùng có thẩm quyền giải quyết các tranh chấp kinh tế cùng tồn
tại song song ở nước ta.
Tính đến trước khi Pháp lệnh Trọng tài thương mại được ban hành năm
2003, trên toàn quốc đã có 05 Trung tâm Trọng tài kinh tế được thành lập

16
gồm: Trung tâm Trọng tài kinh tế Hà Nội, Trung tâm trọng tài kinh tế Thăng
Long, Trung tâm trọng tài kinh tế Sài Gòn, Trung tâm Trọng tài kinh tế Bắc

Giang, Trung tâm trọng tài kinh tế Cần Thơ. Dù các Trung tâm trọng tài này
chưa mang đầy đủ các tính đặc thù của tổ chức trọng tài phi chính phủ như
trọng tài ở các nước, nhưng đó là một bước thử nghiệm để chuyển hoàn toàn
trọng tài Nhà nước sang trọng tài mang tính chất tư nhân.
Từ năm 2003, với sự ra đời của Pháp lệnh Trọng tài thương mại, các
Trung tâm trọng tài thương mại có cơ sở pháp lý cao hơn để tổ chức và hoạt
động nhằm từng bước đáp ứng yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra đối
với lĩnh vực giải quyết tranh chấp thương mại.
Hiện nay, cả nước có 07 trung tâm trọng tài, trong đó 05 trung tâm có
trụ sở tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh với tổng số trọng tài viên là trên
180, riêng Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam có khoảng 118 trọng tài viên
với số lượng giải quyết vụ việc bình quân khoảng 25 - 30 vụ/năm. Đây là
trung tâm có số lượng giải quyết vụ việc lớn nhất cả nước. Trong những năm
qua hầu như các trung tâm trọng tài chủ yếu dừng lại ở việc triển khai thi
hành Pháp lệnh trọng tài thương mại về việc sửa đổi bổ sung điều lệ hoạt
động và quy tắc tố tụng. Thực tế các tranh chấp giải quyết bằng trọng tài chủ
yếu tập Trung tại trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam bên cạnh Phòng
Thương mại và công nghiệp Việt Nam.
1.1.2. Khái niệm và đặc điểm quyết định của trọng tài thương mại
1.1.2.1. Khái niệm quyết định trọng tài
Hoạt động quan trọng nhất của trọng tài là ra các quyết định giải quyết
tranh chấp. Khi các bên thông qua trọng tài để giải quyết những tranh chấp
phát sinh giữa họ thì cái mà các bên mong muốn đạt được là công bằng,
nhanh chóng, bảo vệ được quyền lợi chính đáng của mình. Kết quả này được

17
thể hiện ở giai đoạn cuối của thủ tục trọng tài bằng quyết định trọng tài. Đây
có thể là quyết định của một trọng tài viên duy nhất hoặc của Hội đồng trọng
tài (sau đây gọi tắt là trọng tài viên). Trọng tài viên có thể ra quyết định bổ
sung nếu thấy rằng một quan điểm của quyết định trọng tài đã tuyên chưa rõ

hoặc chưa được giải quyết. Quyết định của trọng tài hoặc quyết định bổ sung
được đưa ra theo nguyên tắc đa số. Nếu không đạt được đa số thì chủ tịch Hội
đồng trọng tài sẽ quyết định với tư cách là trọng tài viên duy nhất.
Quyết định trọng tài là hình thức thể hiện của phán quyết trọng tài trong
đó nó chứa đựng sự phân xử của trọng tài về vụ tranh chấp được đưa ra giải
quyết tại trọng tài.
Trong thực tế, trọng tài ra nhiều loại quyết định như: quyết định về
thẩm quyền của mình, quyết định giải quyết một phần tranh chấp, quyết định
về thủ tục trọng tài, quyết định các biện pháp khẩn cấp tạm thời…Như vậy,
trong các quyết định này, loại quyết định nào được coi là quyết định trọng tài.
Để xác đâu là quyết định trọng tài, chúng ta xem xét về mặt bản chất
của các quyết định nói trên thì thấy rằng:
- Các quyết định giải quyết một phần tranh chấp, tuy chưa thực sự giải
quyết được hoàn toàn vấn đề nhưng nó đã trực tiếp giải quyết tranh chấp của
các bên. Loại quyết định này có giá trị chung thẩm và các bên phải thi hành.
Như vậy nó là quyết định trọng tài.
- Còn đối với các loại quyết định về thủ tục trọng tài, quyết định áp
dụng của biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ đơn thuần là các thủ tục nhằm phục
vụ cho việc giải quyết tranh chấp chứ không phải là sự giải quyết tranh chấp.
Ở các quốc gia trên thế giới thì khái niệm quyết định trọng tài được hiểu
một cách khá đơn giản và có nhiều điểm khác với nước ta. Đa số các nước

18
phát triển như Anh, Mỹ, Pháp… chỉ phân loại thành quyết định trọng tài
mang tính quốc tế và quyết định trọng tài không mang tính quốc tế.
Quyết định trọng tài mang tính quốc tế là quyết định trọng tài giải quyết
các vụ việc mang tính ngoài phạm vi lãnh thổ của nước đó, tức là chỉ căn cứ
vào tính chất của vụ việc tranh chấp mà không phụ thuộc vào quốc tịch trọng
tài; ngược lại, quyết định trọng tài không mang tính quốc tế là những quyết
định giải quyết tranh chấp mang tính chất nội địa, tức các vụ việc tranh chấp

trong nước.
Nhìn chung, cách hiểu về khái niệm quyết định trọng tài khó thống nhất
ở các nước và có thể khẳng định rằng quan niệm của họ về quyết định trọng
tài đều tương tự như trong các công ước quốc tế về trọng tài. Trước hết,
chúng ta tìm hiểu quy định trong văn bản có tính chất quốc tế về vấn đề này.
Trong Quy tắc trọng tài UNCITRAL quy định một cách đơn giản:
Quyết định trọng tài sẽ được lập thành văn bản, sẽ là cuối cùng và có hiệu lực
rằng buộc đối với các bên. Các bên có trách nhiệm thi hành quyết định trọng
tài một cách không chậm trễ.
Không có một định nghĩa chung của thuật ngữ “quyết định trọng tài”
được chấp nhận ở tất cả các nước. Thậm chí, không một định nghĩa nào được
tìm thấy trong các công ước quốc tế có liên quan đến trọng tài, bao gồm: các
hiệp định Giơ-ne-vơ năm 1927 và Công ước New York 1958, mặc dù Công
ước New York 1958 được dành riêng để nói về việc thừa nhận và thi hành các
phán quyết. Khái niệm gần nhất được quy định trong Công ước New York là:
“Thuật ngữ: quyết định trọng tài sẽ không chỉ bao gồm các quyết định
được đưa ra bởi các trọng tài viên được chỉ định cho mỗi vụ mà còn bao gồm
cả các quyết định được đưa ra bởi các tổ chức trọng tài thường xuyên mà các
bên đã đệ trình tranh chấp lên”. (Công ước New York 1958 điều I.2).

19
Có ý kiến cho rằng, cần có một định nghĩa của thuật ngữ “quyết định
trọng tài” trong luật mẫu của UNCITRAL, nhưng đến nay vẫn chưa có một
định nghĩa nào được chấp nhận.
Một số nước quan niệm rằng: “quyết định trọng tài” có nghĩa là một
phán quyết cuối cùng giải quyết mọi vấn đề được đệ trình lên trọng tài và bất
kỳ quyết định nào khác của trọng tài mà cuối cùng xác định bất kỳ vấn đề về
nội dung cơ bản hoặc vấn đề thẩm quyền hoặc bất kỳ vấn đề thủ tục nào khác,
nhưng trong trường hợp vấn đề thủ tục chỉ được gọi là quyết định trọng tài
nếu trọng tài gọi quyết định của mình là một quyết định trọng tài.

Trong quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài, có thể có nhiều hơn
một phán quyết được đưa ra trong quá trình trọng tài.
Tuy nhiên, đa số các nước dùng thuật ngữ quyết định trọng tài chỉ dùng
cho các quyết định của trọng tài nhằm quyết định cuối cùng các vấn đề mà họ
đưa ra xem xét. Điều này có liên quan đến việc phân biệt giữa các quyết định
(có liên quan đến các vấn đề), các lệnh và chỉ thị về thủ tục (liên quan đến
việc điều hành trọng tài). Các lệnh và chỉ thị về thủ tục nhằm giúp đẩy nhanh
quá trình xét xử trọng tài – các lệnh và chỉ thị này giải quyết các vấn đề như:
trao đổi các văn bản làm bằng chứng, việc lập các văn bản và thoả thuận
nhằm thực hiện việc tranh tụng.
Như vậy, chúng ta có thể hiểu quyết định trọng tài như sau: Quyết định
trọng tài là quyết định được trọng tài thông qua bằng biểu quyết theo đa số về
việc giải quyết chung thẩm một phần hoặc toàn bộ tranh chấp liên quan đến
kinh tế giữa các bên đương sự.
1.1.2.2. Đặc điểm quyết định của trọng tài.
Quyết định trọng tài có một số đặc điểm sau:

20
- Là phán quyết của tổ chức xã hội – nghề nghiệp, song quyết định
trọng tài mang quyền lực nhà nước, bắt buộc các bên đương sự phải nghiêm
túc thực hiện, nếu bên thi hành sẽ bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế.
- Quyết định trọng tài là chung thẩm, các bên phải thi hành, trừ trường
hợp toà án huỷ quyết định trọng tài theo quy định của Pháp lệnh trọng tài
thương mại. Điều đó có nghĩa là, quyết định trọng tài khi đã được Hội đồng
trọng tài tuyên sẽ có hiệu lực sau một khoảng thời gian luật định mà không bị
kháng cáo, kháng nghị, giám đốc thẩm, tái thẩm.
- Quyết định trọng tài không bắt buộc phải tuyên công khai.
- Là kết quả của quá trình xem xét vụ việc tranh chấp của Hội đồng
trọng tài theo Quy tắc tố tụng riêng của từng trung tâm trọng tài, không bắt
buộc theo một trình tự tố tụng thống nhất.

- Trong trường hợp tranh chấp có yếu tố nước ngoài, quyết định trọng
tài có thể được tuyên trên cơ sở pháp luật Việt Nam hoặc pháp luật do các bên
lựa nhưng đảm bảo nguyên tắc không được trái với các nguyên tắc cơ bản của
pháp luật Việt Nam.
- Hình thức của quyết định trọng tài bằng văn bản xong nội dung của nó
có tính linh hoạt tùy thuộc vào tố tụng của từng trung tâm trọng tài trên cơ sở
bảo đảm một số nội dung cơ bản theo luật định.
1.1.3. Phân loại quyết định trọng tài thương mại
- Phân loại quyết định trọng tài theo dấu hiệu lãnh thổ
Có rất nhiều cách phân loại quyết định trọng tài. Tuy nhiên, cách phân
loại chính thống ở nước ta hiện nay là phân loại theo dấu hiệu về lãnh thổ và
chủ thể. Theo cách này thì quyết định trọng tài được chia thành quyết định
trọng tài trong nước và quyết định trọng tài nước ngoài.

21
Việc phân loại này có ý nghĩa thực tiễn khi áp dụng pháp luật điều
chỉnh chúng. Hiện nay, chưa có một định nghĩa chính thức thế nào là quyết
định trọng tài trong nước, nhưng đối với quyết định trọng tài nước ngoài, tại
phần thứ sáu: Thủ tục công nhận và cho thi hành tại Việt Nam bản án, quyết
định dân sự của Toà án nước ngoài, quyết định của Trọng tài nước ngoài,
khoản 2 Điều 342 BLTTDS ghi nhận: “Quyết định của Trọng tài nước ngoài
là quyết định được tuyên ở ngoài lãnh thổ Việt Nam hoặc trong lãnh thổ Việt
Nam của trọng tài nước ngoài do các bên thoả thuận lựa chọn để giải quyết
tranh chấp phát sinh từ các quan hệ pháp luật kinh doanh, thương mại, lao
động”. Như vậy, quyết định trọng tài nước ngoài có thể được tuyên ở ngoài
hoặc trong lãnh thổ Việt Nam.
Có thể dùng phương pháp loại trừ để đưa ra khái niệm quyết định trọng
tài trong nước. Các quyết định trọng tài không phải quyết định trọng tài nước
ngoài được coi là quyết định trọng tài trong nước. Quyết định trọng tài trong
nước bao gồm các quyết định giải quyết tranh chấp phát sinh trong hoạt động

thương mại theo sự thỏa thuận của các bên do các tổ chức trọng tài được
thành lập theo pháp luật Việt Nam và có trụ sở đóng tại Việt Nam. Theo quy
định tại điều 44 Pháp lệnh trọng tài thương mại thì quyết định trọng tài phải
có các nội dung chủ yếu sau đây: (i) Ngày, tháng, năm và địa điểm ra quyết
định trọng tài; trong trường hợp việc giải quyết vụ tranh chấp do Trung tâm
Trọng tài tổ chức thì quyết định trọng tài phải có tên Trung tâm Trọng tài; (ii)
Tên, địa chỉ của nguyên đơn và bị đơn; (iii) Họ, tên các Trọng tài viên hoặc
Trọng tài viên duy nhất; (iv) Tóm tắt đơn kiện và các vấn đề tranh chấp; (v)
Cơ sở để ra quyết định trọng tài; (vi) Quyết định về vụ tranh chấp; quyết định
về phí trọng tài và các chi phí khác; (vii) Thời hạn thi hành quyết định trọng
tài; (viii) Chữ ký của các Trọng tài viên hoặc Trọng tài viên duy nhất.

22
- Phân loại quyết định theo hình thức trọng tài: Dựa vào tiêu chí phân
loại này, quyết định trọng tài sẽ được phân thành quyết định trọng tài vụ việc
và quyết định trọng tài thường xuyên.
- Phân loại quyết định trọng tài theo tính chất của quyết định: Trong quá
trình tố tụng trọng tài, các bên có thể yêu cầu Hội đồng trọng tài tiến hành hoà
giải. Trong trường hợp hoà giải thành thì các bên có thể yêu cầu Hội đồng
trọng tài lập biên bản hoà giải thành và ra quyết định công nhận hoà giải
thành. Biên bản hoà giải thành phải được các bên và các trọng tài viên ký.
Quyết định công nhận hoà giải thành của Hội đồng trọng tài là chung thẩm.
Nếu các bên không tự thỏa thuận được, Hội đồng trọng tài sẽ ra phán
quyết giải quyết vụ việc.
Như vậy, dựa vào tiêu chí này, quyết định trọng tài được phân ra thành hai
loại: Quyết định công nhận hòa giải thành và quyết định giải quyết vụ việc.
1.2. Thi hành quyết định của trọng tài thƣơng mại
1.2.1. Vai trò của việc thi hành quyết định trọng tài thương mại
Thi hành quyết định trọng tài là một trong những hoạt động quan trọng
của Nhà nước nhằm đưa các quyết định của trọng tài đã có hiệu lực pháp luật

ra thi hành trên thực tế. Hoạt động thi hành quyết định trọng tài một mặt bảo
đảm việc thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước, mặt khác nó là công cụ hữu
hiệu để khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của xã hội và công dân
khi bị xâm hại.
“Thi hành” là đem việc đã định sẵn làm theo điều đã định. Như vậy, thi
hành quyết định trọng tài là hành vi làm cho những vấn đề được phán quyết
trong quyết định của trọng tài được thực thi trong thực tế. Thi hành quyết định
trọng tài được chia làm hai hình thức, căn cứ vào tính chất của nó:

23
- Hình thức thứ nhất là các đương sự tự thực hiện các quyền và nghĩa vụ
được ghi nhận trong quyết định trọng tài. Ở hình thức này không có một cơ
chế chung cho mọi trường hợp, mà thi hành các nghĩa vụ được phán quyết
trong quyết định của trọng tài như thế nào là do các đương sự thỏa thuận
thống nhất. Theo đó, phương pháp, cách thức…thi hành quyết định của trọng
tài cũng vô cùng đa dạng. Trên thực tế, thi hành quyết định trọng tài ở hình
thức này là phổ biến trên thế giới.
- Hình thức thứ hai là hình thức thi hành thông qua việc sử dụng quyền
lực nhà nước: Đa số các quyết định của trọng tài được tự nguyện thi hành.
Tuy nhiên, cũng cá biệt có những trường hợp vì những lý do khác nhau một
bên không chịu tự nguyện thi hành. Khi quyết định của trọng tài bị một trong
các bên không chịu tự nguyện thực hiện, thì việc thi hành quyết định của
trọng tài tương đối phức tạp. Việc giải quyết vấn đề này phụ thuộc hoàn toàn
vào quy định của pháp luật.
Đối với Việt Nam hiện nay, việc thi hành quyết định của trọng tài phụ
thuộc vào quyết định của trọng tài trong nước hay của trọng tài nước ngoài:
Nếu là quyết định của trọng tài trong nước thì được thi hành theo các
quy định của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003, BLTTDS, Luật Thi
hành án và các pháp luật có liên quan khác. Theo các quy định này, với tính
chất chung thẩm của mình, quyết định trọng tài có hiệu lực pháp lý như một

bản án, quyết định của tòa án. Trình tự và thủ tục thi hành tuân thủ theo các
quy định của pháp luật về thi hành án dân sự.
Đối với các quyết định của trọng tài nước ngoài thì việc thi hành tại
Việt Nam buộc phải thông qua thủ tục tòa án công nhận và cho thi hành tại
Việt Nam. Nhưng không phải đối với bất cứ nước nào Việt Nam cũng công
nhận và cho thi hành các quyết định trọng tài của nước họ tại Việt Nam.

24
Chúng ta chỉ công nhận và cho thi hành đối với các trường hợp: Nước đó là
thành viên công ước New York 1958; giữa nước đó và Việt Nam đã ký các
hiệp định song phương về vấn đề này hoặc theo nguyên tắc có đi có lại. Thủ
tục công nhận và cho thi hành các quyết định của trọng tài nước ngoài tại Việt
Nam được quy định cụ thể tại chương XXVI của BLTTDS.
Như vậy, ở hai trường hợp trên, với bản chất có sự khác nhau về đặc
điểm lãnh thổ, chủ quyền quốc gia mà thủ tục thi hành cũng có sự khác nhau
nhất định. Đó là, quyết định trọng tài nước ngoài không đương nhiên có hiệu
lực tại Việt Nam mà phải thông qua việc công nhận và cho thi hành của tòa án
có thẩm quyền, còn quyết định của trọng tài thương mại trong nước sẽ đương
nhiên có hiệu lực pháp luật trên thực tế. Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là do
trước nhà nước, quyết định của trọng tài thương mại trong nước luôn bao hàm
nội dung sự thừa nhận chính thức của nhà nước do trọng tài là một thiết chế
được thành lập và hoạt động trên cơ sở pháp luật quốc gia. Ngược lại, một
quyết định của trọng tài nước ngoài do không có vị trí tài phán chính thức tại
Việt Nam nên hành vi công nhận và cho thi hành bao hàm hai nội dung:
“Chính thức hóa” và sự “công nhận công quyền, nhà nước hóa”.
Với những phân tích và nhận định trên, chúng ta có thể đưa ra một định
nghĩa về thi hành quyết định trọng tài như sau: Thi hành quyết định của trọng
tài là hành vi thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các bên tranh chấp được
ghi nhận trong quyết định giải quyết tranh chấp của trọng tài. Trong trường
hợp các quyền và nghĩa vụ đó không được các bên tự nguyện thực hiện thì có

thể bằng cách thông qua cơ quan nhà nước gắn cho quyết định trọng tài một
hình thức mang biểu tượng của công quyền một hiệu lực cưỡng chế thi hành.
Ở nhiều nước kinh tế phát triển, việc lựa chọn trọng tài để giải quyết
các tranh chấp trong kinh doanh là rất phổ biến và việc thi hành quyết định
trọng tài cũng như Việt Nam, nó được quan niệm là việc thực thi trên thực tế

25
các quyền và nghĩa vụ của các bên được trọng tài phân xử trong quyết định
trọng tài. Tuy nhiên, phạm vi tự nguyện thi hành và thi hành bằng cưỡng chế
nhà nước cũng rất khác nhau ở mỗi nước, điều này phụ thuộc vào văn hóa
pháp lý, trình độ phát triển kinh tế… của mỗi nước. Nhưng có thể nhận xét
chung là: Đối với các nước có nền kinh tế phát triển, có bề dày truyền thống
pháp luật thì đa phần quyết định trọng tài được các đương sự tự nguyện thi
hành. Ngược lại, ở các nước có nền kinh tế kém phát triển thì các trường hợp
thi hành quyết định trọng tài bằng biện pháp cưỡng chế khá phổ biến. Đối với
các trường hợp phải sử dụng quyền lực nhà nước để thi hành quyết định trọng
tài thì quan niệm về thi hành quyết định trọng tài trong trường hợp này cũng
khác nhau: Đa phần các nước (Anh, Mỹ, Đức, Trung Quốc…) cho rằng muốn
sử dụng biện pháp quyền lực nhà nước để thi hành quyết định trọng tài cần
phải thông qua cơ chế công nhận cho thi hành tại tòa án. Nhưng một số ít
quốc gia như Thụy Điển lại cho rằng không cần thông qua thủ tục công nhận
cho thi hành tại tòa án mà chuyển thẳng tới cơ quan thi hành án để thi hành.
Hoạt động thi hành quyết định trọng tài có vai trò hết sức quan trọng
trong quá trình giải quyết tranh chấp giữa các bên đương sự, hoạt đồng này
nhằm thực thi trên thực tế các quyền và nghĩa vụ của các bên, vai trò của hoạt
động này được thể hiện trên các bình diện sau:
- Thi hành quyết định trọng tài là bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức trong kinh doanh, là yếu tố tạo nên sự hấp dẫn của môi
trường đầu tư trong nước góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển
Quyết định trọng tài là sự áp dụng các quy định của pháp luật vào giải

quyết tranh chấp của trọng tài. Đối với các quyết định trọng tài đúng đắn, nó
chứa đựng các quy định về quyền và nghĩa vụ hợp pháp của các chủ thể trong
kinh doanh. Thông qua hoạt động thi hành quyết định của trọng tài, các quyền
và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức được thực hiện.

×