Tải bản đầy đủ (.doc) (103 trang)

Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào ngành công nghiệp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.31 MB, 103 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài nghiên cứu
Thực tế đã chứng tỏ đối với mỗi quốc gia, sự phát triển kinh tế- xã hội
gắn liền và phụ thuộc vào đầu tư. Đặc biệt, đối với một nước chậm phát triển
như Lào, huy động vốn vốn để đầu tư phát triển kinh tế- xã hội là rất cần thiết.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài là một nguồn lực quan trọng trong chiến lược
phát triển kinh tế- xã hội của Lào.
Bắt đầu từ năm 1994, Luật về khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài
được ban hành, Lào đã thu hút được lượng vốn FDI ngày một tăng lên, góp
phần đáng kể vào việc phát triển kinh tế- xã hội của Lào, góp phần tăng thu
nhập của người dân, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần thúc đẩy nền kinh
tế đất nước đi theo xu hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đa dạng hóa các
ngành nghề kinh doanh, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động,
giảm thất nghiệp…
Công nghiệp là một ngành sản xuất quan trọng trong nền kinh tế quốc
dân và thu hút vốn FDI vào phát triển ngành Công nghiệp là một vấn đề cấp
bách. Trong thời gian qua, việc thu hút vốn FDI vào phát triển công nghiệp
Lào vẫn còn nhiều hạn chế và chưa đạt yêu cầu. Số lượng dự án, lượng vốn
đầu tư vào ngành công nghiệp còn hạn chế. Để nghiên cứu và khắc phục
những hạn chế trong việc thu hút vốn FDI vào phát triển ngành công nghiệp,
tác giả lựa chọn đề tài: “Thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào
ngành công nghiệp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào” làm đề tài
luận văn thạc sỹ của mình.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Hệ thống những vấn đề lý luận chung về FDI, thu hút FDI, vài trò của
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia.


2


Đánh giá thực trạng đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công
nghiệp nước CHDCND Lào trong thời gian qua. Đánh giá những kết quả đạt
được cũng như những hạn chế và nguyên nhân của chung trong thu hút vốn
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp nước CHDCND Lào.
Đề xuất những giải pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
ngành công nghiệp nước CHDCND Lào.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vấn đề thu hút vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài vào ngành công nghiệp nước CHDCND Lào.
Phạm vi nghiên cứu chủ yếu tập trung vào nghiên cứu tác động của đầu
tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển của ngành công nghiệp nước
CHDCND Lào.
4. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
trong quá trình nghiên cứu. Đồng thời các phương pháp phân tích, tổng hợp,
thống kê, nghiên cứu tình huống…được sử dụng
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn được trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI) và sự cần thiết phải thu hút FDI vào ngành công
nghiệp nước CHDCND Lào.
Chương 2: Thực trạng thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ngành
công nghiệp nước CHDCND Lào.
Chương 3: Một số giải pháp tăng cường thu hút đầu tư trực tiếp nước
ngoài vào ngành công nghiệp nước CHDCND Lào trong
thời gian tới.


3


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ THU HÚT ĐẦU TƯ
TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI (FDI) VÀ SỰ CẦN THIẾT
PHẢI THU HÚT FDI VÀO NGÀNH CÔNG NGHIỆP
NƯỚC CHDCND LÀO
1.1. KHÁI NIỆM, ĐẶC ĐIỂM, HÌNH THỨC VÀ VAI TRÒ CỦA ĐẦU TƯ TRỰC
TIẾP NƯỚC NGOÀI

1.1.1. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài
Chúng ta có thể thấy rằng có nhiều khái niệm khác nhau về đầu tư trực
tiếp nước ngoài . Mỗi khái niệm đều cố gắng khái quát hoá bản chất và nhấn
mạnh đến một khía cạnh nào đó của đầu tư trực tiếp nước ngoài. Có thể thấy
rõ đầu tư trực tiếp nước ngoài qua các khái niệm sau:
Trên thế giới có nhiều cách diễn giải khái niệm về FDI, tuỳ theo góc độ
tiếp cận của nhà kinh tế. Tuy nhiên, cách định nghĩa được sử dụng rộng rãi
nhất là do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) đưa ra. Theo IMF: “FDI là số vốn đầu tư
được thực hiện để thu được lợi ích lâu dài trong một doanh nghiệp hoạt động
ở một nền kinh tế khác với nền kinh tế của nhà đầu tư” [11,tr150]. Ngoài mục
đích lợi nhuận, nhà đầu tư mong muốn tìm được chỗ đứng trong việc quản lý
doanh nghiệp và mở rộng thị trường
Theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ngày 29-11-2005: “Đầu tư
trực tiếp nước ngoài là hoạt động đầu tư do các tổ chức kinh tế và các nhân
nước ngoài tự mình hoặc cùng các tổ chức kinh tế của nước sở tại bỏ vốn vào
một đối tượng nhất định, trực tiếp quản lý và điều hành để thu lợi trong kinh
doanh. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được tiến hành để thu
lợi trong kinh doanh. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài thường được tiến
hành thông qua các dự án- gọi là dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài quốc tế”



4
[7,tr150]. Khái niệm này nhấn mạnh chủ đầu tư là người nước ngoài, nhằm
xác định được tư bản, được chuyển dịch trong FDI nhất thiết phải vượt ra
khỏi phạm vi một quốc gia.
Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại nước CHDCND Lào sửa đổi năm
2004, số 11/QH Thủ đô Viêng Chăn ngày 22/10/2004, ĐTNN tại CHDCND Lào
quy định như sau: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài có nghĩa là thu hút vốn gồm
có tài sản, công nghệ và nhân lực của nước ngoài vào CHDCND Lào với
mục đích kinh doanh” [19,tr3].
Các quan điểm và định nghĩa về đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) được
đưa ra tuỳ theo góc độ nhìn nhận của các nhà kinh tế, rất phong phú và đa
dạng. Qua đó, chúng ta có thể rút ra một định nghĩa chung nhất như sau:
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hình thức mà nhà đầu tư bỏ vốn để
tạo lập cơ sở sản xuất kinh doanh ở nước nhận đầu tư. Trong đó nhà ĐTNN
có thể thiết lập quyền sở hữu từng phần hay toàn bộ vốn đầu tư và giữ quyền
quản lý, điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn nhằm mục đích thu được
lợi nhuận từ các hoạt động đầu tư đó trên cơ sở tuân theo quy định của luật
ĐTNN của nước đó.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được hình thành từ mọi thành
phần kinh tế: chính phủ, doanh nghiệp và tư nhân. Nguồn vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài có đặc điểm cơ bản khác với các nguồn vốn nước ngoài
khác là việc tiếp nhận nguồn vốn này không phát sinh nợ cho nước tiếp
nhận vốn, nguồn vốn đầu tư này mang khoa học, kỹ thuật, bí quyết công
nghệ hiện đại và kinh nghiệm quản lý cho nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu
tư trực tiếp sở hữu, sử dụng và quản lý vốn của mình, vì thế không có quan
hệ vay mượn giữa nhà đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư. Nhà đầu tư sẽ nhận
được phần lợi nhuận thích đáng khi dự án đầu tư hoạt động có hiệu quả.


5

Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh tế vào
nước tiếp nhận đầu tư do vậy nó có thể thúc đẩy phát triển ngành nghề mới,
đặc biệt là ngành đòi hỏi cao về kỹ thuật, công nghệ hay cần nhiều vốn. Do
vậy, nguồn vốn này có tác dụng cực kỳ quan trọng đối với quá trình công
nghiệp hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tốc độ tăng trưởng nhanh ở nước
nhận vốn.
1.1.2. Đặc điểm đầu tư trực tiếp nước ngoài
- Chủ đầu tư phải thực hiện nghiêm túc những quy định của pháp luật
mà nước sở tại đề ra đối với hoạt động đầu tư của mình.
- FDI không để lại gánh nặng nợ nần cho chính phủ nước tiếp nhận đầu
tư như hỗ trợ phát triển chính thức hoặc các hình thức đầu tư nước ngoài khác
như vay thương mại, phát hành cổ phiếu ra nước ngoài…
- FDI là hình thức đầu tư mà nhà đầu tư không dễ dàng rút vốn ra khỏi
nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI không đơn thuần chỉ là vốn mà kèm theo đó là công nghệ, kỹ
thuật, phương thức quản lý tiên tiến, cho phép tạo ra những sản phẩm mới, thị
trường mới…cho nước tiếp nhận đầu tư.
- FDI thường tập trung vào những lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận cao vì
mục tiêu của nhà đầu tư là kiếm lợi nhuận.
1.1.3. Hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài
Các hình thức đầu tư trực tiếp nước ngoài rất đa dạng như: doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài, hình thức liên doanh, công ty cổ phần, công ty quản lý
vốn, chi nhánh công ty nước ngoài…Ở Việt Nam, theo quy định Luật đầu tư
nước ngoài các hình thức cơ bản của đầu tư trực tiếp nước ngoài bao gồm:
1.1.3.1. Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh
Đây là một loại hình đầu tư, trong đó các bên tham gia hợp đồng ký kết
thoả thuận để tiến hành một hoặc nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh ở nước


6

nhận đầu tư trên cơ sở quy định rõ đối tượng, nội dung kinh doanh, nghĩa vụ,
trách nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho các bên tham gia.
Theo Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại nước CHDCND Lào,
hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh là hợp tác kinh
doanh giữa pháp nhân trong nước với pháp nhân nước ngoài mà không thành
lập một pháp nhân mới tại nước CHCDND Lào.
Mục đích, hình thức hợp tác, điều khoản kinh doanh, quyền , nghĩa vụ,
trách nhiệm và lợi ích của mỗi bên phải được quy định trong hợp đồng.
Ưu điểm:
- Đây là hình thức phổ biến trong đầu tư nước ngoài.
- Trên cơ sở cùng sở hữu về vốn góp, cùng quản lý, cùng phân phối lợi
nhuận, cùng gánh chịu rủi ro. Do đó các bên tận dụng được lợi thế của nhau.
Nước tiếp nhận đầu tư có điều kiện tiếp thu các công nghệ tiên tiến hiện đại,
học hỏi kinh nghiệm quản lý, trình độ quản lý kinh tế, kỹ thuật của nước
ngoài để nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật
của nước mình nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành sản
phẩm, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế đất nước, hội nhập vào kinh
tế khu vực và thế giới.
- Đối với nước nhận đầu tư, hình thức này đảm bảo được vai trò kinh tế
của nhà nước đó là quản lý, kiểm soát đối với hoạt động đầu tư.
Nhược điểm:
- Thông thường thì đối tác nước ngoài có công nghệ hiện đại, kỹ thuật
tiên tiến và kinh nghiệm quản lý hơn nước sở tại. Tuy nhiên, quá trình hoạt
động được tiến hành giữa các bên có sự bất đồng về ngôn ngữ, khác nhau về
văn hoá, về chế độ chính trị, về hệ thống luật pháp….Nên nếu không có sự
thống nhất sẽ dễ xảy ra mâu thuẫn trong quá trình điều hành sản xuất kinh
doanh, tranh chấp quyền lợi và nước sở tại dễ bị thua thiệt do trình độ cán bộ
tham gia liên doanh, năng lực cán bộ quản lý.



7
1.1.3.2. Doanh nghiệp có vốn hỗn hợp (công ty cổ phần, công ty liên doanh)
Đây là hình thức doanh nghiệp có các bên nước ngoài và nước chủ nhà
cùng góp vốn, cùng kinh doanh, cùng thưởng lợi và chia sẻ rủi ro theo tỷ lệ
vốn góp. Thông thường nhà đầu tư không được góp ít hơn một tỷ lệ đã được
quy định trong luật của nước nhận đầu tư.
Theo Luật khuyến khích đầu tư nước ngoài tại CHDCND Lào, doanh
nghiệp có vốn hỗn hợp là liên doanh đã thành lập và lập biên bản đăng ký
theo luật của nước CHDCND Lào có sự hoạt động kinh doanh và uỷ quyền
chung giữa nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư trong nước. Tổ chức, quản
lý, hoạt động và hợp tác giữa nhà đầu tư trong liên doanh có giới hạn hợp
đồng giữa hai bên và nội quy của liên doanh đó.
Riêng nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trong liên doanh cần góp vốn tối
thiểu 30% của tổng vốn đăng ký.
Góp vốn ngoại tệ phải thanh toán bằng tiền Kíp theo tỷ giá ngân hàng
CHDCND Lào trong ngày góp vốn.
* Ưu điểm:
- Vì đây là hình thức liên kết kinh doanh giữa đối tác trong nước với nhà
đầu tư nước ngoài, trong đó các bên giữ nguyên tư cách pháp nhân nên hình thức
này có tính khả năng độc lập cao giữa các bên, phát huy thế mạnh của mỗi bên,
các bên không phải chịu trách nhiệm liên đới, nâng cao trình độ chuyên môn và
trình độ quản lý cho cán bộ, tạo thêm việc làm cho người lao động.
* Nhược điểm:
- Do có tính độc lập giữa các bên nên khó quản lý, điều phối công việc,
máy móc thường được đầu tư ở mức lạc hậu.
1.1.3.3. Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài
Đây là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (tổ chức hoặc
cá nhân nước ngoài) do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại nước chủ nhà, tự quản
lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh.



8
Theo luật về khuyến khích ĐTNN tại CHDCND Lào doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp của người nước ngoài đầu tư tại
CHDCND Lào. Sự thành lập doanh nghiệp có thể thành lập pháp nhân mới
hoặc thành lập chi nhánh của doanh nghiệp nước ngoài.
* Ưu điểm:
- Hình thức này đảm bảo tính độc lập tự chủ của nhà đầu tư. Họ không
bị lệ thuộc, chia sẻ quyền lợi với một bên nào khác, do đó dự án được triển
khai nhanh, hoạt động có hiệu quả, nhanh thu hồi vốn và có lãi.
- Đây là hình thức mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ 100% vốn, nước sở tại
không phải bỏ vốn, không tham gia trực tiếp quản lý mà NSNN vẫn có được
nguồn thu từ hoạt động của doanh nghiệp này đồng thời giải quyết được việc
làm cho người lao động.
* Nhược điểm:
- Đối với nước đầu tư thì lĩnh vực kinh doanh bị hạn chế hơn do nước
sở tại không cho phép và nếu nhà đầu tư không hiểu rõ về chính sách – pháp
luật, văn hoá, chính trị, nguồn lao động, thị trường của nước sở tại thì rất dễ bị
thiệt hại, gặp nhiều trắc trở trong kinh doanh.
- Đối với nước nhận đầu tư: Sẽ phải đối phó với một trong những hiện
tượng tiêu cực do nhà đầu tư nước ngoài mang lại, một số ngành nghề, lĩnh
vực bị chi phối vì mục tiêu của nhà đầu tư là lợi nhuận tối đa. Do nước sở tại
không được tham gia hoạt động kinh doanh nên các nhà quản lý rất khó kiểm
tra, kiểm soát mọi hoạt động của doanh nghiệp này. Nếu hình thức này được
thực hiện tràn lan nó sẽ kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp trong nước vì
các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài có tiềm lực vốn lớn, có nhiều kinh
nghiệm trong chiến lược kinh doanh.


9

1.1.4. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới và vai trò
trong ngành công nghiệp nước CHDCND Lào
1.1.4.1. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có vai trò hết sức quan trọng đối với phát
triển kinh tế - xã hội của một quốc gia, nó tác động trực tiếp đến mọi mặt của đời
sống, kinh tế - xã hội và chính trị của nước tiếp nhận đầu tư. Về mặt kinh tế, vốn
FDI tác động đến tốc độ tăng của GDP, cán cân thanh toán, phúc lợi xã hội, thu
nhập người lao động và các chỉ tiêu kinh tế khác. Về mặt xã hội, vốn FDI có tác
động đến văn hoá, đạo đức của nước nhận vốn.
a. Đối với nước đi đầu tư
- Thông qua FDI, chủ đầu tư có thể khai thác lợi thế so sánh của nước
tiếp nhận đầu tư, nhờ việc giảm giá nhân công, chi phí vận chuyển, chi phí
sản xuất khác và thuế… chủ đầu tư có thể giảm được giá thành sản phẩm,
nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cũng như lợi
nhuận của vốn đầu tư, đồng thời giảm bớt rủi ro đã đầu tư so với chỉ tập trung
vào sản xuất trong nước.
- Thông qua FDI, chủ đầu tư có thể kéo dài chu kỳ sống của máy móc,
thiết bị trong nước, bằng cách di chuyển những máy móc thiết bị đã lạc hậu,
đã khấu hao sang các quốc gia khác để tiếp tục sử dụng.
- FDI giúp bên đầu tư tạo lập nguồn nguyên liệu dồi dào, ổn định, đáp
ứng nhu cầu đầu vào của sản xuất và giá cả phải chăng.
- FDI giúp các nước chủ đầu tư tăng thêm sức mạnh về kinh tế và nâng
cao uy tín chính trị trên trường quốc tế. Thông qua xây dựng nhà máy sản
xuất vào thị trường tiêu thụ ở nước ngoài, thâm nhập vào các quốc gia tiếp
nhận đầu tư, tránh được hàng rào thuế quan và phi thuế quan.
Tuy nhiên, nhà đầu tư cần phải nắm vững chính sách- luật pháp, điều
kiện kinh tế - xã hội, nhạy bén với tình hình chính trị và văn hoá của nước


10

nhận vốn nếu không muốn gặp trắc trở trong hoạt động đầu tư và để có thể
thu được lợi ích tối đa trong kinh doanh..
b. Đối với nước nhận đầu tư
- Xét về nhu cầu vốn, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là một
nguồn vốn bổ sung quan trọng cho vốn đầu tư trong nước, nhằm đáp ứng nhu
cầu đầu tư cho phát triển.
Tình trạng thiếu hụt vốn đầu tư là phổ biến và ở nhiều lĩnh vực, là một
vấn đề nan giải trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi quốc gia nghèo và
đang phát triển. Trong khi đó, vốn là cơ sở để tạo ra việc làm trong nước, đổi
mới công nghệ, kỹ thuật, tăng năng suất lao động…từ đó là tiền đề tăng thu
nhập, tăng tích luỹ cho sự phát triển của xã hội.
Bên cạnh việc bổ sung vốn, đầu tư trực tiếp nước ngoài còn tác động
tích cực đến thị trường tài chính của nước nhận đầu tư, thúc đẩy sự hình thành
các thể chế tài chính mới như ngân hàng, thị trường chứng khoán…để tạo
nguồn cho hoạt động đầu tư.
- Việc tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại một lợi ích
lâu dài cho nước sở tại như các công nghệ kỹ thuật hiện đại, kỹ xảo chuyên
môn và học tập kinh nghiệm quản lý tiên tiến.
Các nước đang phát triển do điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, khoa
học, kỹ thuật và công nghệ vẫn chưa phát triển dẫn đến năng suất lao động
thấp, chất lượng sản phẩm kém. Phần lớn công nghệ mới, hiện đại có được ở
các nước này đều bắt nguồn từ nước ngoài bằng các con đường khác nhau.
Trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài được coi là một kênh quan trọng để có
được công nghệ cao từ bên ngoài. Nhà đầu tư nước ngoài còn đưa chuyên gia
hoặc đào tạo cán bộ bản xứ về các lĩnh vực cần thiết phục vụ cho hoạt động
của dự án. Điều đó giúp nước nhận vốn vừa nhận được vốn bằng tiền vừa
nhận được cả máy móc, công nghệ và kinh nghiệm quản lý tiên tiến của nước


11

ngoài. Điều đó sẽ giúp cho người lao động bản địa học tập được kỹ năng, tích
luỹ được kinh nghiệm, nâng cao kiến thức thực hành trong quá trình sản xuất,
vận hành công nghệ và các hoạt động quản lý, tiếp cận thị trường. Thu hút FDI
từ các công ty đa quốc gia sẽ giúp một nước có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí
quyết quản lý kinh doanh mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua
nhiều năm và bằng những khoản chi phí lớn. Tuy nhiên, việc phổ biến các công
nghệ và bí quyết quản lý đó ra cả nước thu hút đầu tư còn phụ thuộc rất nhiều
vào năng lực tiếp thu của đất nước.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần không ít vào việc thúc đẩy quá
trình tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước tiếp nhận đầu tư,
đặc biệt là đối với nước đang phát triển: tăng năng lực sản xuất, thúc đẩy xuất
khẩu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, tránh được nợ nước ngoài so với
các loại hình đầu tư từ các nguồn vốn khác như tín dụng quốc tế, hỗ trợ chính
thức (ODA)…, nhiều ngành nghề mới được xuất hiện, tỷ trọng vốn đầu tư vào
tài sản cố định ngày càng tăng
- FDI tạo cơ hội cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng trong nước
có thể tiếp cận được với thị trường quốc tế thông qua các liên doanh với nước
ngoài và thị trường rộng lớn của họ.
- Đầu tư trực tiếp nước ngoài tác động đến lĩnh vực giáo dục, đào tạo
của đội ngũ lao động, góp phần tạo công ăn việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp,
tăng thu nhập cho người lao động, qua đó nâng cao đời sống nhân dân. Vì một
trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt được chi phí
sản xuất thấp, nên xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê mướn nhiều lao
động địa phương. Thu nhập của một bộ phận dân cư địa phương được cải thiện
sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế của địa phương. Trong quá trình
thuê mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là
mới mẻ và tiến bộ ở các nước đang phát triển thu hút FDI, sẽ được xí nghiệp


12

cung cấp. Điều này tạo ra một đội ngũ lao động có kỹ năng cho nước thu hút
FDI. Không chỉ có lao động thông thường, mà cả các nhà chuyên môn địa
phương cũng có cơ hội làm việc và được bồi dưỡng nghiệp vụ ở các xí nghiệp
có vốn đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, ngoài những vai trò tích cực mà FDI mang lại, nước tiếp
nhận đầu tư cũng gặp phải không ít khó khăn, đó là:
- Chi phí của việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài thường cao hơn so với
các nguồn vốn đầu tư khác từ nước ngoài.
- Nếu không có quy hoạch cụ thể và khoa học, sẽ có thể dẫn tới đầu tư tràn
lan, khai thác không có hiệu quả nguồn tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường.
- Với mong muốn thu hút được nhiều vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
hơn, nước tiếp nhận đầu tư thường áp dụng nhũng ưu đãi với các nhà đầu tư
như giảm hoặc miễn một số loại thuế, phí trong nước. Điều này dẫn tới lợi ích
của nước tiếp nhận đầu tư đôi khi bị thất thoát, lợi ích của nhà đầu tư đôi khi
vượt quá lợi ích của nước tiếp nhận đầu tư.
- Nhà đầu tư, với xu hướng đưa công nghệ lạc hậu vào các nước tiếp
nhận đầu tư với đơn giá cao là một trong những nguyên nhân chi phí sản xuất
cao, chất lượng sản phẩm không đạt tiêu chuẩn mục tiêu, làm mất đi khả năng
cạnh tranh, giảm hiệu quả sản xuất, kìm hãm phát triển nền kinh tế và nguy cơ
biến nước tiếp nhận đầu tư trở thành bãi thải công nghệ của quốc gia khác.
- Nước tiếp nhận đầu tư còn thiếu đội ngũ cán bộ có kinh nghiệm quản
lý dẫn đến thua thiệt trong dự án liên doanh, hợp tác. Điều đó có thể gây sức
ép về kinh tế thậm chí về chính trị cho nước tiếp nhận đầu tư.
1.1.4.2. Vai trò của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ngành công nghiệp
nước CHDCND Lào
Đầu tư trực tiếp nước ngoài là một trong dòng vốn chảy vào công nghiệp
Lào và ngày càng thể hiện rõ vai trò quan trọng trong tiến trình CNH, HĐH.


13

Trong điều kiện của Lào hiện nay, những công trình lớn và quan trọng cho tiến
trình CNH, HĐH như nhà máy thuỷ điện, nhà máy sản xuất xi măng, nhà máy
khai thác khoáng sản…nếu không có FDI thì chúng ta không thể làm được.
Thu hút FDI vào phát triển ngành công nghiệp là biện pháp huy động
vốn nhanh và có hiệu quả, vì phần lớn nguồn vốn FDI là nguồn vốn được đầu
tư trực tiếp từ nước ngoài và được chính những người chủ đầu tư này tham
gia trực tiếp vào quá trình quản lý và điều hành sản xuất do đó nó mang lại
hiệu quả cáo trong hoạt động đầu tư. Mặt khác, FDI luôn gắn liền với công
nghệ hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến và thị trường mở rộng. Do đó,
mà FDI luôn có khả năng đạt hiệu quả cao. Còn vốn ODA thuộc loại hình
đầu tư gián tiếp, nó phụ thuộc vào quan hệ chính trị giữa các chính phủ. Nước
nhận vốn ODA được toàn quyền quản lý và sử dụng vốn đó dựa trên những
điều kiện và nguyên tắc mà bên cung cấp ODA đưa ra, nên thường hiệu quả
không cao và dẫn tới nợ nước ngoài. Tuy nhiên với bản chất ODA là viện trợ
không hoàn lại nên nó tạo điều kiện trong việc đầu tư vào những ngành nghề
mà không thu hút được FDI.
- Thu hút vốn FDI cho phép khai thác nhanh và có hiệu quả các nguồn
lực của công nghiệp và lợi thế so sánh quốc gia, các nguồn lực để phát triển
công nghiệp là vốn, công nghệ, nhân lực và tài nguyên. Chúng ta có thể khai
thác các nguồn lực đó nếu chúng ta có đủ lượng vốn. Hiện nay, xu thế kinh tế
thời kỳ mở cửa đã cho phép các quốc gia có thể khai thác các nguồn lực trên ở
khắp thế giới chứ không chỉ bó hẹp ở trong nước. Thu hút vốn FDI đã trở
thành giải pháp quan trọng để khai thác các nguồn lực của công nghiệp và lợi
thế so sánh ở nhiều quốc gia (kể cả nước đi đầu tư và nước tiếp nhận đầu tư).
Thông qua đó, tạo thêm công ăn việc làm, tăng thu nhập cho người lao động,
mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm và kích thích tăng trưởng kinh tế xã hội
nói chung và công nghiệp nói riêng.


14

- Thu hút vốn FDI là biện pháp hữu hiệu nhất để vượt qua hàng rào thế
quan và phi thuế quan của nước bảo hộ sản xuất chặt chẽ nhằm thâm nhập các
thị trường mới mở rộng thị trường công nghiệp.
- Thông qua thu hút vốn FDI mà các công ty trong nước có thể mở rộng
các hoạt động liên kết theo chiều dọc và chiều ngang với các công ty khác để phát
triển sản xuất các mặt hàng mới, nội địa hoá các sản phẩm, đa dạng hoá các mặt
hàng, phát triển xuất khẩu, cải thiện cán cân thanh toán, tạo điều kiện và cơ hội
cho công nghiệp Lào chúng tôi tham gia vào phân công lao động quốc tế, hội
nhập vào nền công nghiệp trong và ngoài khu vực.
Thông qua việc thực hiện chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất
khẩu tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy các cơ sở công nghiệp sản xuất các mặt
hàng phục vụ xuất khẩu và phát triển thành các ngành công nghiệp xuất khẩu.
Đó là những sản phẩm, những ngành có lợi thế và có khả năng cạnh tranh trên
thị trường trong và ngoài khu vực.
Như vậy, FDI đóng vai trò hết sức đặc biệt quan trọng trong việc phát
triển công nghiệp theo hướng hiện đại hoá một cách có hiệu quả. Thu hút vốn
FDI không chỉ có ý nghĩa đối với quốc gia tiếp nhận đầu tư mà còn có ý nghĩa
đối với cả quốc gia chủ đầu tư trong việc khai thác các nguồn lực của công
nghiệp và lợi thế so sánh của các quốc gia. Thông qua đó giải quyết tình trạng
thất nghiệp, tăng thu nhập, mở rộng thị trường và kích thích tăng trưởng, từng
bước hội nhập vào nền kinh tế trong và ngoài khu vực. Thu hút vốn FDI vào
phát triển ngành công nghiệp có ý nghĩa hết sức to lớn và là xu hướng có tính
quy luật của nền kinh tế thế giới. Mặt khác, nhu cầu về vốn đối với công
nghiệp Lào là rất lớn. Vì thế, thu hút FDI vào ngành công nghiệp Lào là đòi
hỏi rất bức thiết.


15
1.2. MỘT SỐ LÝ THUYẾT VỀ ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI


Trong mấy thập kỷ qua, dòng FDI trên thế giới đã không ngừng tăng
lên nhanh chóng, là một trong những vấn đề trung tâm thu hút sự chú ý và tập
trung nghiên cứu của các nhà học giả kinh tế. Với các phương pháp tiếp cận
và mục tiêu nghiên cứu khác nhau, các tác giả đã đưa ra nhiều lý thuyết về
nguyên nhân hình thành và ảnh hưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đến
nền kinh tế thế giới, nhất là các nước đang phát triển. Những lý thuyết này đã
ảnh hưởng quan trọng đến việc hoạch định chính sách đầu từ trực tiếp nước
ngoài của các nước đầu tư cũng như các nước nhận đầu tư. Có nhiều lý thuyết
khác nhau nêu lên những quan điểm, lý luận về di chuyển vốn quốc tế, trong
đó các lý thuyết tiêu biểu được kể đến là: Lý thuyết lợi ích cận biên, lý thuyết
về chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm, lý thuyết về quyền lực thị trường, lý
thuyết chiết trung, lý thuyết về phân tán rủi ro, lợi thế so sánh….nhưng chúng
ta có thể chia làm 2 nhóm lý thuyết chủ yếu.
1.2.1. Các lý thuyết kinh tế vĩ mô
Các lý thuyết này giảu thích và dự đoán hiện tượng đầu tư nước ngoài
dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh của các yếu tố đầu tư: vốn, lao động, công
nghệ giữa các nước trong đó đặc biệt là giữa các nước phát triển và các nước
đang phát triển.
Richard S.EcKaus đã dựa trên mô hình lý thuyết thương mại quốc tế
của Heckcher – Ohlin – Sammuelson (HOS) để đưa ra các nhận định về
nguyên nhân làm xuất hiện di chuyển dòng vốn đầu tư quốc tế là do có sự
chênh lệch hiệu quả sử dụng vốn giữa các nước.
Cùng với lý thuyết trên, mô hình lý thuyết của Mocdougall – Kemp
cũng đã khẳng định nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài là do có sự
chênh lệch về năng suất cận biên của vốn giữa các nước. Thông thường, năng
suất cận biên của vốn ở những nước phát triển (nơi dư thừa vốn đầu tư) có


16
năng suất cận biên của vốn thấp hơn năng suất cận biên của vốn ở những

nước đang phát triển (nơi thiếu vốn), do đó xuất hiện của dòng vốn di chuyển
từ nơi có năng suất cận biên thấp đến nơi có năng suất cận cao.
K.kojima, trên cơ sở nguyên tắc lợi thế so sánh của mô hình HOS để
phát triển lên và cho rằng nguyên nhân hình thành đầu tư nước ngoài là do sự
chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận giữa các nước và sự chênh lệch này bắt nguồn
từ sự khác biệt về lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế.
Như vậy, các lý thuyết trên đây đã giải thích sự xuất hiện của đầu tư
nước ngoài về thực chất đều dựa trên nguyên tắc lợi thế so sánh trong phân
công lao động quốc tế. Song các lý thuyết này cũng chỉ mới giải thích được
điều kiện cần để xuất hiện dòng di chuyển vốn đầu tư giữa các nước. Trên
thực tế, còn có các nguyên nhân rất quan trọng khác nữa được coi như điều
kiện đủ nhưng các lý thuyết này chưa đề cập đến, đó là môi trường đầu tư của
nước nhận đầu tư, một vấn đề mà hiện nay các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm.
1.2.2. Các lý thuyết kinh tế vi mô
Nhóm lý thuyết này hầu hết đều tìm cách giải thích câu hỏi: Tại sao các
công ty lại đầu tư ra nước ngoài? Nguyên nhân hình thành các công ty xuyên
quốc gia và tác động của chúng đối với những nước nhận đầu tư, đặc biệt là
các nước đang phát triển?
1.2.2.1. Lý thuyết về chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm
Lý thuyết này được xây dựng dựa trên cơ sở lý thuyết về chu kỳ sống của sản
phẩm, đề cập tới quy luật phát triển của chu kỳ tuổi thọ sản phẩm. Lý thuyết
giả định rằng, đầu tiên các nhà sản xuất đặt được lợi thế độc quyền xuất khẩu
nhờ việc cho ra đời những sản phẩm mới hoặc cải tiến những sản phẩm đang
được dành riêng cho thị trường nước ngoài. Trong giai đoạn đầu của vòng đời
sản phẩm mới, giai đoạn thử nghiệm sản xuất được tiến hành tập trung tại
chính quốc ngay cả khi chi phí sản xuất ở nước ngoài có thể thấp hơn. Ở giai


17
đoạn này, để thâm nhập thị trường nước ngoài, các công ty có thể thực hiện

xuất khẩu sản phẩm. Tuy nhiên, khi sản phẩm đã trở nên chuẩn hóa trong giai
đoạn phát triển, các nhà sản xuất sẽ khuyến khích việc thực hiện đầy tư ra
nước ngoài nhằm lợi dụng chi phí sản xuất thấp.
1.2.2.2. Lý thuyết chiết trung
Lý thuyết này phát biểu rằng, các công ty sẽ thực hiện đầu tư ra nước
ngoài khi hội tụ đủ ba lợi thế. Đó là lợi thế về địa điểm, lợi thế về sở hữu và
lợi thế về nội hóa. Lợi thế về địa điểm là lợi thế có được do việc hoạt động
kinh doanh tại một địa điểm nhất định với những đặc thù riêng, nó có thể gắn
liền với sự giàu có của nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự sẵn có của nguồn lao
động với giá rẻ và lành nghề … Lợi thế về sở hữu là lợi thế có được khi có cơ
hội tham gia sở hữu một số tài sản đặc biệt nhất đinh như nhãn hiệu sản
phẩm, bản quyền công nghệ hoặc cơ hội quản lý. Lợi thế nội hóa là lợi thế đạt
được do việc nội hóa hoạt động sản xuất thay vì chuyển nó đến một thị trường
kém hiệu quả hơn.
1.2.2.3. Lý thuyết về quyền lực thị trường
Theo thuyết này, đầu tư quốc tế được thực hiện do những hành vi đặc
biệt của các công ty độc quyền nhóm trên phạm vi quốc tế, trong đó bao gồm:
phản ứng của công ty độc quyền nhóm, hiệu quả kinh tế nhờ quy mô và sự liên
kết đầu tư quốc tế theo chiều dọc. Tất cả các hành vi này nhằm hạn chế cạnh
tranh, mở rộng thị trường và ngăn cản không cho đối thủ khác thâm nhập vào
ngành và thị trường của các công ty độc quyền nhóm. Đầu tư theo chiều dọc
tồn tại khi các công ty đầu tư ra nước ngoài để sản xuất sản phẩm trung gian và
xuất khẩu ngược lại để sử dụng làm đầu vào sản xuất của nước chủ nhà.
Lý thuyết này giải thích hành vi đầu tư với một số lý do sau:
+ Do nguồn cung cấp nguyên liệu ngày cành khan hiếm, trong khi
nước sở tại không đủ khả năng thăm dò và khai thác. Các công ty đầu tư tận


18
dụng lợi thế cạnh tranh trên cơ sở khai thác nguyên liệu ở nước sở tại. Điều

này cũng giải thích tại sao đầu tư theo chiều dọc thường được thực hiện ở các
nước đang phát triển.
+ Thông qua đầu tư quốc tế theo chiều dọc các công ty độc quyền thiết
lập nên các hàng rào ngăn cản không cho các công ty khác tiếp cận tới nguồn
nguyên liệu họ đang khai thác
+ Đầu tư quốc tế theo chiều dọc còn có thể tạo ra lợi thế về chi phí
thông qua việc cải tiến kỹ thuật bằng cách phối hợp sản xuất và chuyển giao
sản phẩm giữa các công đoạn khác nhau của quá trình sản xuất. Đây là lợi thế
lơn hơn hẳn lợi thế có được từ việc phối hợp giữa các nhà sản xuất độc lập
thông qua việc định giá.
Tương tự như nhóm các lý thuyết kinh tế vi mô, nhóm lý thuyết này
cũng mới chỉ giải thích nguyên nhân hình thành FDI từ phía chiến lược phát
triển của các công ty đa xuyên quốc gia qua việc phân tích về một số lợi thế
độc quyền về công nghệ, hàng hóa … trong khi thực hiện còn phải tính đến
các nguyên nhân quan trọng khác về môi trường đầu tư của nước chủ nhà, sự
phát triển mạnh mẽ của công nghệ, thương mại, dịch vụ trong bối cảnh toàn
cầu hóa, những thay đổi trong chính sách phát triển của các nước.
1.3. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP
NƯỚC NGOÀI

1.3.1. Sự ổn định về chính trị
Yếu tố hấp dẫn hàng đầu đối với các nhà đầu tư trực tiếp nước ngoài là
yếu tố môi trường chính trị ổn định. Bởi đây là điều kiện ảnh hưởng đến mức
độ rủi ro của đồng vốn mà nhà đầu tư nước ngoài bỏ ra, những bất đồng về
chính trị - xã hội sẽ ảnh hưởng lớn đến khả năng sản xuất và tiêu thụ trên thị
trường trong nước, gây tác động không nhỏ đến các nhà đầu tư, thậm chí có
thể làm cho nhà đầu tư bị phá sản. Đầu tư trực tiếp nước ngoài là hoạt động


19

kinh doanh trong môi trường xa lạ, vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài
nên các nhà đầu tư nước ngoài rất sợ tài sản của họ bị nước chủ nhà tịch thu
quốc hữu hoá. Vậy, chính trị ổn định sẽ dẫn đến nền kinh tế- xã hội ổn định
có nghĩa là vốn đầu tư cũng được đảm bảo an toàn, giảm được khả năng rủi ro
đầu tư…điều đó sẽ khuyến khích được các nhà đầu tư nước ngoài đến đầu tư
ở nước nhận đầu tư hơn.
1.3.2. Chính sách – pháp luật
Mỗi một quốc gia muốn xây dựng được môi trường đầu tư lành mạnh
thì mỗi bộ phận quan trọng mà không thể thiếu được là hệ thống luật pháp,
bao gồm các văn bản luật, các quy định liên quan đến hoạt động đầu tư,
thương mại, chính sách xuất nhập khẩu, thuế xuất, lao động…tất cả phải đảm
bảo sự nhất quán, không mâu thuẫn, chồng chéo nhau, có hiệu lực trong thực
tiễn và đảm bảo tính bình đẳng giữa doanh nghiệp trong nước và nước ngoài,
phù hợp với thông lệ quốc tế…nếu không thì sẽ dẫn đến hiện tượng gây trắc
trở trong quá trình hoạt động đầu tư, làm các nhà đầu tư cảm thấy lung túng
dễ rơi vào cảnh vi phạm pháp luật và làm ăn thua lỗ. Vì thế họ sẽ không yên
tâm làm ăn lâu dài ở nước nhận đầu tư.
Ngoài hệ thống các văn bản pháp luật, mỗi quốc gia còn phải ban hành
các chính sách ưu đãi về thương mại, thuế xuất, tiền tệ…để tăng cường thu
hút đầu tư. Các chính sách phải rõ ràng, dễ hiểu và dễ áp dụng và đảm bảo
tính bình đẳng.
1.3.3. Hệ thống cơ sở hạ tầng
Hệ thống cơ sở hạ tầng luôn được đề ra như một yêu cầu hàng đầu của
thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hệ thống cơ sở hạ tầng bao gồm hệ
thống giao thông vận tải, hệ thống thông tin liên lạc, bưu chính, viễn thông,
hệ thống điện, nước đáp ứng được nhu cầu sản xuất và hệ thống mạng lưới y
tế, giáo dục...Hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển sẽ giúp các hoạt động sản


20

xuất, kinh doanh được diễn ra thuận lợi hơn, có ảnh hưởng rất lớn đến quá
trình triển khai và thực hiện dự án của nhà đầu tư. Một nước sẽ không thể thu
hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài nếu không có kết cấu cơ sở hạ tầng đủ
tốt và đảm bảo chất lượng dịch vụ cho nhà đầu tư (như nước Lào).
1.3.4. Trình độ phát triển kinh tế
Các nhà đầu tư nước ngoài thường mong muốn được bỏ vốn đầu tư của
mình vào nước có trình độ quản lý kinh tế tốt vì những nước có trình độ quản
lý tốt sẽ không có tình trạng lạm phát cao, nợ nước ngoài lớn, tốc độ tăng
trưởng thấp, thủ tục hành chính rườm rà, tham ô tham nhũng, nguy cơ tụt
hậu…vì đây là những nguy cơ dẫn đến khủng hoảng kinh tế, không an toàn
cho vốn đầu tư của họ.
1.3.5. Đặc điểm văn hoá – xã hội
Đặc điểm văn hoá xã hội có ảnh hưởng không nhỏ đến các hoạt động
đầu tư nước ngoài. Nó bao gồm các yếu tố chủ yếu là ngôn ngữ, tôn giáo, giá
trị đạo đức và tinh thần dân tộc phong tục tập quán, thị hiếu thẩm mỹ và giáo
dục. Các yếu tố này có thể gây trắc trở, khó khăn hoặc đẩy nhanh quá trình
đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Tôn giáo phản ánh tín ngưỡng của con người vào một đấng siêu nhiên,
có tác động mạnh đến các quan niệm sống của con người về các giá trị cá
nhân và xã hội, làm ảnh hưởng đến thái độ đối với các nhà kinh doanh, tập
quán tiêu dung và thuần phong mỹ tục.
Giá trị đạo đức và tin thần dân tộc của nước sở tại cũng ảnh hưởng
tương đối lớn đến việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nếu một xã hội không
phân biệt đối xử, coi trọng lòng tin, yêu thương lẫn nhau thì sẽ giảm được tình
trạng tệ nạn xã hội.
Nói đến thị hiếu thẩm mỹ thì mỗi nước, mỗi nền văn hoá đều có các
nhìn nhận riêng biệt, có cách nhìn riêng về cái đẹp trong màu sắc, hình ảnh,


21

âm nhạc…Các đặc điểm này có ảnh hưởng tới thiết kế nhãn hiệu, quảng cáo
và kiểu dáng của sản phẩm, ảnh hưởng đến quá trình sản xuất kinh doanh của
nhà đầu tư.
Trình độ phát triển giáo dục tốt và các cơ cấu đào tạo hợp lý đóng vai
trò quan trọng đối với hoạt động đầu tư nước ngoài, là cơ sở quan trọng để
cung cấp cho các nhà đầu tư nước ngoài đội ngũ lao động có tay nghề cao.
Nhờ đó giảm được chi phí đào tạo nhân lực và đáp ứng yêu cầu sản xuất của
nhà đầu tư.
1.4. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THU HÚT FDI VÀO NGÀNH
CÔNG NGHIỆP

1.4.1. Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH
Đây có thể coi là tác động rất quan trọng của FDI, nhất là đối với nước
đang phát triển. Vì lợi thể chủ yếu của FDI là đầu tư trong các ngành công
nghiệp và dịch vụ, nên đáp ứng được nhu cầu phát triển của ngành công
nghiệp và dịch vụ. Qua đó làm tăng nhanh tỷ trọng sản lượng, việc làm, xuất
khẩu… của các ngành này. Tuy nhiên, mức độ tác động còn phụ thuộc vào
chiến lược CNH – HĐH và chính sách thu hút FDI của nước nhận đầu tư.
Ngoài ra, FDI còn thúc đẩy đầu tư nội địa thông qua các mối liên kết
với các công ty nội địa (cung cấp nguyên liệu, dịch vụ), gắn kết các công ty
này với thị trường thế giới. Điều này khiến cho tiềm năng trong nước được
khai thác có hiệu quả.
1.4.2. Bổ sung cho nguồn vốn trong nước và bù đắp sự thiếu hụt về ngoại tệ
Trong các lý luận về tăng trưởng kinh tế, nhân tố vốn luôn được đề cập.
Khi một nền kinh tế kém phát triển, nó luôn rơi vào “vòng luẩn quẩn”, đó là:
thu nhập thấp -> tích lũy thấp -> đầu tư thấp-> thu nhập thấp. Tình trạng
“luẩn quẩn” này chính là điểm “nút” khó khăn nhất mà các nước đặc biệt là
các nước đang phát triển phải vượt qua để hội nhập vào nền kinh tế thế giới.



22
Muốn đạt được tỷ lệ tăng trưởng kinh tế nhất định thì cần phải có một tỷ lệ
tích lũy nhất định. Vốn là cơ sở để tạo công ăn việc làm trong nước, đổi mới
công nghệ, kỹ thuật… từ đó tạo tiền đề tăng thu nhập, tăng tích lũy cho sự
phát triển xã hội. Tuy nhiên, để tạo vốn cho nền kinh tế nếu chỉ trông chờ vào
tích lũy nội bộ thì chưa đủ nhất là với các nước đang phát triển, hậu quả khó
tránh khỏi là sự tụt hậu trong sự phát triển chung của thế giới. Vốn nước
ngoài sẽ là cú hích hiệu quả để đột phá cái vòng luẩn quẩn đó và FDI là một
nguồn quan trọng để khắc phục tình trạng thiếu vốn mà không gây gánh nặng
nợ cho nước nhận đầu tư. Mặt khác, khi thực hiện các dự án có nguồn vốn
FDI thì trình độ kỹ thuật và quản lý được nâng cao, tỷ lệ tư bản đầu ra được
hạ thấp, khi đó nước nhận đầu tư sẽ đạt được một tỷ lệ tăng trưởng kinh tế
nhất định.
Ngoài ra do, tỷ lệ tích lũy thấp, thiếu nhiều ngoại tệ dẫn đến các nước
đang phát triển không đáp ứng được nhu cầu nhập khẩu thiết bị máy móc,
công nghệ …., vì vậy mà nguồn vốn đầu tư trực tiếp FDI đã lấp được sự thiếu
hụt này. Đồng thời, FDI còn tăng khả năng cạnh tranh và mở rộng xuất khẩu
cho nước nhận đầu tư.
1.4.3. Tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý
Trong một số trường hợp, vốn cho tăng trưởng dù thiếu vẫn có thể huy
động được phần nào bằng chính sách “thắt lưng buộc bụng”. Tuy nhiên công
nghệ và bí quyết quản lý thì không thể có được bằng chính sách đó. Thu hút
FDI từ các công ty nước ngoài, nhất là các công ty đa quốc gia sẽ giúp cho
nước nhận đầu tư có cơ hội tiếp thu công nghệ và bí quyết quản lý kinh doanh
mà các công ty này đã tích lũy và phát triển qua nhiều năm và bằng những
khoản chi phí lớn. Khi nước nhận đầu tư có năng lực tiếp thu thì những bí


23
quyết quản lý và công nghệ sẽ góp phần tăng năng suất, thay đổi cấu thành

sản phẩm, thúc đẩy các ngành nghề mới, đặc biệt là những ngành nghề đòi hỏi
hàm lượng công nghệ cao. Vì thế FDI có tác dụng lớn đối với quá trình
chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH – HĐH.
Thực tiễn cho thấy hầu hết các nước thu hút FDI đã cải thiện đáng kể
trình độ kỹ thuật công nghệ của mình. Chẳng hạn như đầu những năm 60,
Hàn Quốc có nhiều hạn chế trong việc lắp ráp xe hơi, nhưng nhờ tiếp cận
công nghệ của Mỹ, Nhật và một số nước khác mà năm 1993 họ đã trở thành
nước sản xuất ô tô lớn thứ 7 trên thế giới.
1.4.4. Tham gia mạng lưới sản xuất toàn cầu
Các nước tuy có khả năng sản xuất với mức chi phí có thể cạnh tranh
được những vẫn rất khó khăn trong việc thâm nhập thị trường thế giới. Thông
qua FDI, các nước này có thể tiếp cận với thị trường thế giới với tư cách là
công ty con, chi nhánh. Các công ty nước ngoài có lợi thế trong việc tiếp cận
với khách hàng bằng những hợp đồng dài hạn dựa trên cơ sở uy tín của họ về
chất lượng, kiểu dáng sản phẩm… đã có từ lâu.
Khi thu hút FDI từ các công ty đa quốc gia, không chỉ xí nghiệp có vốn
đầu tư của các công ty nước ngoài, mà ngay các các xí nghiệp khác trong
nước có quan hệ làm ăn với xí nghiệp đó cũng tham gia quá trình phân công
lao động khu vực.
1.4.5. Tăng số lượng việc làm và đào tạo nhân công
Vì một trong những mục đích của FDI là khai thác các điều kiện để đạt
được chi phí sản xuất thấp, nên công ty có vốn đầu tư nước ngoài sẽ thuê
mướn lao động địa phương. Thu nhập của bộ phận dân cư địa phương được
cải thiện sẽ đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế. Trong quá trình thuê
mướn đó, đào tạo các kỹ năng nghề nghiệp, mà trong nhiều trường hợp là đào


24
tạo để thực hiện các công nghệ tiến tiến, kỹ năng quản lý và tác phong quản lý
chuyên nghiệp đối với các lao động chuyên môn. Như vậy FDI là yếu tố quan

trọng để tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu CNH, góp phần nâng cao năng
suất lao động.
Từ sự phân tích trên, có thể kết luận rằng việc tiếp nhận FDI là lợi thế
hiển nhiên mà thời đại tạo ra cho các nước, đặc biệt là các nước đi sau. Tuy
nhiên, chúng ta cần nhớ rằng, vốn nước ngoài dù quan trọng đến đâu cũng
không thể đóng vai trò quyết định đến sự phát triển của một quốc gia. Mặt
khác, FDI cũng có những mặt trái của nó. Đây là vấn đề cần được xem xét
trong suốt quá trình thu hút FDI, nếu không lợi ích thu được sẽ không bù lại
được những thiệt hại mà nó gây ra. Tuy nhiên, những ảnh hưởng tiêu cực này
chỉ mang tính tương đối và phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng nước.
Sau đây là những tác động tiêu cực mà FDI có thể mang tới cho các nước tiếp
nhận đầu tư.
1.5. NHỮNG KINH NGHIỆM THU HÚT FDI CỦA VIỆT NAM VÀ BÀI HỌC
ĐỐI VỚI LÀO

1.5.1. Kinh nghiệm thu hút FDI vào ngành công nghiệp của Việt Nam
1.5.1.1. Thực trạng thu hút FDI vào ngành công nghiệp của Việt Nam
Kể từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài năm 1987 đến nay, đã có
3.617 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) còn hiệu lực với số vốn đăng
ký là 38,9 tỷ USD, và số vốn thực hiện đạt trên 20,7 tỷ USD. Trong tổng số
dự án đang hoạt động tại Việt Nam, số dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp là
2.381 (chiếm 65,8%), với tổng số vốn đăng ký là 21,9 tỷ USD (chiếm 56,3%)
và số vốn thực hiện đạt 13,3 tỷ USD (chiếm 64,3%).
Thực tế đã chứng minh sự đóng góp tích cực của khu vực FDI vào việc
thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội, cũng như sự thành công của công cuộc
đổi mới, cải thiện quan hệ đối ngoại, mở ra nhiều triển vọng hợp tác đa


25
phương, củng cố vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ chỗ giữ vai trò

không đáng kể trong nền kinh tế Việt Nam (tỉ lệ đóng góp của khu vực FDI
trong GDP năm 1992 mới chỉ là 2%), đến nay, các doanh nghiệp FDI đã trở
thành khu vực kinh tế quan trọng, phát triển năng động và đóng góp đến 30%
tổng vốn đầu tư xã hội. Tuy nhiều doanh nghiệp FDI đang được ưu đãi miễn
giảm thuế, nhưng nguồn thu ngân sách từ khu vực này vẫn tiếp tục tăng và
chiếm khoảng 6-7% tổng thu ngân sách hàng năm. Năm 2002, kim ngạch xuất
khẩu của khu vực FDI đạt 7.250 triệu USD (tăng 7.198 triệu USD so với năm
1991), chiếm 38% giá trị xuất khẩu trong cả nước. Các doanh nghiệp FDI đã
thu hút trên 35 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp
khác. Với nguồn vốn đầu tư đến từ 62 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới,
FDI không chỉ bổ sung nguồn vốn mà còn mang đến Việt Nam công nghệ, kỹ
thuật hiện đại, kinh nghiệp quản lý tiên tiến, tạo thêm nhiều ngành nghề, sản
phẩm mới, qua đó góp phần khai khác tốt hơn các nguồn lực trong nước, thúc
đẩy tích cực chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
Đặc biệt, trong lĩnh vực công nghiệp, giá trị sản xuất công nghiệp khu
vực FDI tăng nhanh với tốc độ bình quân 20%/ năm. Với 60,8% tỉ lệ thực
hiện vốn trong các phân ngành kinh tế, tính đến năm 2001, khu vực FDI đã
đóng góp tới 35,3% tổng giá trị sản xuất công nghiệp toàn ngành. Nguồn vốn
FDI vào lĩnh vực công nghiệp chiếm tỉ trọng ngày càng cao. Song vốn FDI
không đầu tư dàn trải đều ở các lĩnh vực, mà tập trung chủ yếu vào các lĩnh
vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân như năng lượng dầu khí, cơ khí, điện
tử, hoá chất, dệt may, chế biến thực phẩm… Đối với một số sản phẩm công
nghiệp như kết cấu thép, thép, thép cán, đèn hình, xe máy, ti vi, xà phòng, khu
vực FDI đã chiếm tới trên 50% sản lượng toàn Ngành. Nhiều sản phẩm của
doanh nghiệp FDI chiếm tỷ trọng chi phối hoặc tuyệt đối như dầu thô, bột
ngọt, ô tô, linh kiện máy tính, tổng đài điện thoại, sản phẩm điện lạnh. Trong


×