Tải bản đầy đủ (.pdf) (14 trang)

ĐÁNH GIÁ NHỮNG KẾT QUẢ TRONG QUÁ TRÌNH THựC HIỆN CỔ pHầN HóA, ĐỔI MớI VÀ THựC HIỆN ĐỀ ÁN TÁI CƠ CẤU CÁC DNNN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.93 KB, 14 trang )

ĐÁNH GIÁ NHỮNG KẾT QUẢ TRONG QUÁ TRÌNH
THỰC HIỆN CỔ PHẦN HÓA, ĐỔI MỚI VÀ THỰC HIỆN
ĐỀ ÁN TÁI CƠ CẤU CÁC DNNN
Bộ Xây Dựng

I. KẾT QUẢ THỰC HIỆN CỔ PHẦN HÓA CÁC DNNN
THUỘC BỘ XÂY DỰNG TRƯỚC NĂM 2011 - MỘT SỐ BÀI
HỌC KINH NGHIỆM
Ngay từ năm 1997, Bộ Xây dựng đã quan tâm đến công tác sắp
xếp, đổi mới DNNN với việc thực hiện thí điểm cổ phần hóa theo Quyết
định số 202/CT ngày 08/6/1992 của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay
là Thủ tướng Chính phủ) tại một số đơn vị. Mặc dù vậy, trong suốt 3
năm từ 1997 đến hết năm 2000, Bộ Xây dựng cũng chỉ cổ phần hóa
được 19 doanh nghiệp và bộ phận DNNN có quy mô nhỏ, hoạt động
chủ yếu trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh vật liệu xây dựng và cơ khí
xây dựng.
Sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương 3, Nghị quyết Hội
nghị Trung ương 9 - Khóa IX của Đảng về sắp xếp, đổi mới, phát triển
và nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN; căn cứ vào Chương trình
hành động của Chính phủ thực hiện các Nghị quyết trên (Quyết định
số 183/2001/QĐ-TTg ngày 20/11/2001 và Quyết định số 51/2004/QĐTTg ngày 31/3/2004 của Thủ tướng Chính phủ), công tác sắp xếp, đổi
mới DNNN của Bộ Xây dựng có nhiều chuyển biến và rõ nét nhất vào
những năm 2003 - 2006. Được xác định là nhiệm vụ trọng tâm, thường
xuyên và lâu dài, Bộ Xây dựng đã chỉ đạo các Tổng công ty, Công ty
trực thuộc căn cứ vào mục tiêu, yêu cầu sắp xếp, đổi mới DNNN ở từng
thời kỳ, căn cứ vào điều kiện cụ thể của đơn vị để tiến hành rà soát, lập
485


phương án sắp xếp, đổi mới DNNN thuộc phạm vi quản lý của mình,
báo cáo Bộ để trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thực hiện qua nhiều


giai đoạn. Có thể đánh giá khái quát kết quả cổ phần hóa các DNNN
thuộc Bộ Xây dựng giai đoạn 1997- 2010 như sau :
1. Kết quả cổ phần hóa
Tính đến hết năm 2010, Bộ Xây dựng đã hoàn thành cổ phần hóa
339 đơn vị gồm 219 DN và 120 bộ phận doanh nghiệp, trong đó có 05
Tổng công ty và 11 Công ty độc lập trực thuộc Bộ. Với kết quả này,
các doanh nghiệp có quy mô nhỏ, hoạt động trong những lĩnh vực Nhà
nước không cần nắm giữ đã tích cực được sắp xếp, chuyển đổi sở hữu
theo hướng cổ phần hóa. Đến cuối năm 2010, những DNNN trực thuộc
Bộ Xây dựng chủ yếu là các doanh nghiệp có quy mô lớn, hoạt động
trong những lĩnh vực then chốt để tham gia điều tiết nền kinh tế, thực
hiện các mục tiêu chính trị, xã hội của Đảng, của Nhà nước như: tổng
thầu EPC, cơ khí xây dựng, đầu tư phát triển sản xuất công nghiệp năng
lượng (thủy điện, nhiệt điện, v.v…); nguyên liệu cơ bản (xi măng, vật
liệu xây dựng, v.v…); cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp (đường xá, cấp
thoát nước, khu công nghiệp, v.v…); phát triển khu đô thị (nhà ở, khu
dân cư, v.v…) và tư vấn xây dựng.
Thông qua cổ phần hóa DNNN đã đa dạng hóa sở hữu vốn nhà
nước, xác định được rõ phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp và vốn của
các nhà đầu tư khác, từ đó gắn được quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm
của nhà đầu tư với hiệu quả hoạt động kinh doanh của DN. Đồng thời
vốn, tài sản nhà nước trong các DN cổ phần hóa đã được đánh giá lại
theo quy định, làm minh bạch được tài chính DN, làm rõ được công nợ,
xử lý được nhiều tồn đọng về vốn, tài sản, đất đai để từ đó có phương
án sử dụng hợp lý hơn. Theo kết quả xác định giá trị doanh nghiệp tại
339 đơn vị cho thấy, phần vốn nhà nước được xác định lại tăng lên so
với sổ sách là 5.576,756 tỷ đồng, nâng tổng số vốn nhà nước tại các DN
này từ 4.785,498 tỷ đồng lên 10.485,307 tỷ đồng, bằng 2,19 lần so với
giá trị vốn nhà nước theo sổ sách.
486



Lao động tại các DN cổ phần hóa cũng được sắp xếp lại để thích
ứng với nhu cầu sản xuất kinh doanh. Qua cổ phần hóa đã có 188.790
lao động được sắp xếp lại, trong đó có 30.968 lao động không có nhu
cầu sử dụng được hỗ trợ kinh phí với tổng số tiền là 818,656 tỷ đồng,
trong đó kinh phí đề nghị Nhà nước cấp là 758,819 tỷ đồng và khả năng
thanh toán từ Quỹ mất việc làm của doanh nghiệp là 59,836 tỷ đồng.
Các công ty cổ phần hóa đã chủ động huy động được nhiều vốn
ngoài xã hội để đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới công nghệ thiết bị,
nâng cao trình độ cho người lao động. Theo báo cáo của Công ty cổ
phần đến năm 2010 cho thấy, vốn ngoài xã hội (trừ phần vốn nhà nước)
được huy động vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là 10.298,47
tỷ đồng (chưa tính đến phần thặng dư vốn khi phát hành thêm cổ phiếu
và bán bớt phần vốn nhà nước). Việc huy động vốn của các Công ty cổ
phần thông qua tăng vốn điều lệ phát hành thêm cổ phiếu và thông qua
việc bán bớt phần vốn nhà nước tại doanh nghiệp đã dẫn đến thay đổi
cơ cấu vốn đầu tư của các Tổng công ty. Theo báo cáo của các Công ty
cổ phần cho thấy tại thời điểm phê duyệt phương án cổ phần hóa : Tỷ
lệ DN Nhà nước giữ chi phối là 71,62%, không chi phối là 27,36% và
không nắm giữ 1%. Đến năm 2010, tỷ lệ DN Nhà nước giữ chi phối
giảm xuống còn 51,03%, tỷ lệ DN Nhà nước không chi phối tăng lên
và là 38,27% và tỷ lệ DN Nhà nước không nắm giữ tăng lên chiếm
10,68%.
Trên cơ sở xác định rõ chủ sở hữu, công tác quản trị doanh nghiệp
đã được đổi mới để đáp ứng nhu cầu quản lý của doanh nghiệp theo
mô hình mới, nhất là đối với các Công ty cổ phần đã niêm yết, công tác
quản lý tài chính đòi hỏi phải được đổi mới để đáp ứng nhu cầu về tính
minh bạch của tình hình tài chính doanh nghiệp đối với các cổ đông và
các cơ quan quản lý nhà nước.

Sau khi chuyển sang Công ty cổ phần, hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp có chuyển biến tích cực so với trước khi cổ phần hóa. Kết
quả kinh doanh năm 2010 so với năm trước khi cổ phần hóa của các
487


Công ty cổ phần đạt được như doanh thu tăng 2,10 lần, nộp ngân sách
tăng 3,87 lần, lợi nhuận sau thuế tăng 5,87 lần, thu nhập bình quân tăng
2,17 lần, tỷ suất lợi nhuận sau thuế/Vốn chủ sở hữu 27,54%, cổ tức bình
quân 12,29%. Do hoạt động kinh doanh có hiệu quả, nhiều DN đã tạo
được uy tín cho các nhà đầu tư ngoài xã hội nên huy động được nhiều
vốn ngoài xã hội để phục vụ nhu cầu mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới
công nghệ thiết bị và quản lý thông qua phát hành thêm cổ phiếu tăng
vốn điều lệ hoặc bán bớt phần vốn nhà nước.
Tuy nhiên, bên cạnh nhiều Công ty cổ phần hoạt động đạt hiệu quả
cao cũng còn không ít doanh nghiệp hoạt động còn khó khăn do còn
phải gánh những khoản lỗ từ DNNN chuyển sang, năng lực cạnh tranh
thấp, thiếu vốn sản xuất, trình độ quản trị doanh nghiệp còn yếu, từ đó
dẫn đến kinh doanh khó khăn, mất cân đối tài chính, làm ăn hiệu quả
thấp hoặc bị thua lỗ, ảnh hưởng đến việc làm và thu nhập của người lao
động, thiệt hại cho các nhà đầu tư.
2. Một số bài học kinh nghiệm
Về công tác chỉ đạo, điều hành: Ngay sau khi có các Nghị quyết
của Đảng về sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt
động của DNNN, Ban Cán sự Đảng Bộ Xây dựng đã có Chỉ thị gửi đến
Thủ trưởng, cấp ủy Đảng các đơn vị trực thuộc để quán triệt quan điểm,
mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp lớn về định hướng sắp xếp, phát triển
DNNN đến toàn thể Đảng viên, CBCNV các đơn vị trực thuộc; đồng
thời Bộ cũng kiện toàn ngay Ban Đổi mới và phát triển doanh nghiệp
do 01 Đồng chí Thứ trưởng làm trưởng ban để chỉ đạo công tác này để

hướng dẫn, kiểm tra, tổng hợp, đánh giá tình hình quán triệt, triển khai
thực hiện Nghị quyết. Theo đó, nhiều công việc được thực hiện như Bộ
đã tổ chức xây dựng chương trình hành động, trong đó nêu nội dung
công việc cụ thể, chi tiết về tiến độ và phân công trách nhiệm cho từng
đơn vị thực hiện; tổ chức xây dựng Đề án tổng thể sắp xếp DNNN của
Bộ trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt qua nhiều giai đoạn; xây dựng
và ban hành theo thẩm quyền các văn bản quy phạm pháp luật dưới hình
488


thức các Chỉ thị, Quyết định, Công văn hướng dẫn; tổ chức đối thoại
trực tiếp giữa Bộ với Lãnh đạo chủ chốt của doanh nghiệp dưới hình
thức các cuộc họp chuyên đề để nhằm cụ thể hóa các nội dung của Nghị
quyết cho phù hợp với điều kiện thực tế của doanh nghiệp, phát hiện và
tìm giải pháp xử lý kịp thời các vướng mắc trong quá trình thực hiện,
đồng thời tổ chức rút kinh nghiệm, nhân điển hình tiên tiến để các đơn
vị cùng học tập.
Tại các Tổng công ty và Công ty trực thuộc Bộ, việc tổ chức quán
triệt và triển khai thực hiện Nghị quyết và Chương trình hành động của
Chính phủ, của Bộ cũng được thực hiện nghiêm túc với nhiều hình thức
linh hoạt như ban hành Nghị quyết, Chương trình hành động của Tổng
công ty; tổ chức các buổi tập huấn cho Đảng viên, CBCNV trong các
đơn vị thành viên nghiên cứu, quán triệt, học tập; đồng thời phân công
Đảng ủy theo dõi, đôn đốc, kiểm tra việc tổ chức thực hiện của các đơn
vị cấp dưới.
Với việc tổ chức thực hiện như trên, đã tạo được sự chuyển biến
tích cực trong nhận thức của Lãnh đạo, CBCNV trong các doanh nghiệp
và vì vậy, Nghị quyết của Đảng về sắp xếp, đổi mới DNNN đã dần đi
vào cuộc sống và thực sự là chủ trương đúng đắn, đem lại hiệu quả thiết
thực không chỉ cho doanh nghiệp mà còn góp phần thực hiện nhiệm vụ

đổi mới nền kinh tế theo đúng mục tiêu đề ra. Do đó, Bộ Xây dựng đã
hoàn thành tốt nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới DNNN đã được Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt theo các Quyết định ở từng thời kỳ.
Về triển khai cổ phần hóa: Việc tổ chức thực hiện cổ phần hóa
DNNN luôn bám sát các Nghị định về chuyển doanh nghiệp 100% vốn
nhà nước thành công ty cổ phần của Chính phủ, các văn bản hướng dẫn
của Bộ Tài chính; xây dựng kế hoạch cổ phần hóa hàng năm, quy định và
hướng dẫn quy trình cụ thể để các đơn vị căn cứ tổ chức thực hiện. Kết
quả là hầu hết các DN thực hiện đảm bảo tiến độ được phê duyệt. Tính
đến hết năm 2010, Bộ Xây dựng đã hoàn thành cổ phần hóa 339 DN.
489


Việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần đã xác định được cơ
cấu sở hữu vốn tại DN (Nhà nước, người lao động trong DN, cổ đông
chiến lược và cổ đông khác), đã xác định được rõ quyền, nghĩa vụ, trách
nhiệm của các nhà đầu tư trong sản xuất kinh doanh, nhất là đối với các
cán bộ quản lý, điều hành chủ chốt của DN. Đồng thời, thông qua cổ
phần hóa, vốn nhà nước được xác định lại phù hợp với giá thị trường,
từ đó nâng được giá trị phần vốn nhà nước so với sổ sách. Thông qua
đấu giá bán cổ phần nhiều lần trên thị trường, đã huy động được nhanh,
nhiều vốn ngoài xã hội để tái đầu tư mở rộng, đáp ứng kịp thời nhu cầu
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Theo đó, đòi hỏi DN phải nâng
cao trình độ quản trị doanh nghiệp, nhất là đối với các Công ty cổ phần
đã niêm yết vì nhu cầu DN phải minh bạch về tài chính, hoạt động có
hiệu quả.
Sau cổ phần hóa, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
thực sự phát triển, đạt hiệu quả cao, góp phần tăng trưởng kinh tế cho
đất nước, giải quyết được nhiều việc làm cho người lao động trong xã
hội. Qua đó, giảm được gánh nặng cho ngân sách nhà nước, tạo điều

kiện cho cơ quan quản lý nhà nước tập trung hơn vào chức năng quản
lý nhà nước, dần tách bạch rõ chức năng quản lý hành chính nhà nước
và chức năng quản lý của chủ sở hữu vốn nhà nước của Bộ.
Về phương thức cổ phần hóa: Qua nhiều năm cổ phần hóa DNNN
của Bộ Xây dựng cho thấy, cổ phần hóa chủ yếu thực hiện theo các
phương thức: cổ phần hóa bộ phận DN, cổ phần hóa doanh nghiệp
thành viên và cổ phần hóa Công ty mẹ - Tổng công ty. Việc cổ phần
hóa theo các phương thức như trên đã tạo sự bất cập trong quản lý, điều
hành của Công ty mẹ - Tổng công ty đối với các đơn vị thành viên khi
triển khai các dự án quy mô lớn; đồng thời hạn chế việc thu hút cổ đông
chiến lược tham gia, nhất là cổ đông chiến lược nước ngoài; đặc biệt,
đối với các DNNN quy mô nhỏ, nhiều đơn vị không có cổ đông chiến
lược, do đó không khai thác huy động được thế mạnh của cổ đông chiến
lược vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, hạn chế hiệu quả
kinh doanh.
490


Các cổ đông thiểu số trong Công ty cổ phần chưa thực sự phát huy
vai trò làm chủ của mình. Cổ đông thiểu số như người lao động còn có
tư tưởng “làm công, ăn lương” là chính; còn cổ đông thiểu số bên ngoài
chỉ quan tâm đến cổ tức và giá cả cổ phiếu trên thị trường. Vì vậy, chưa
phát huy được tác động tích cực của những nhân tố mới đối với hoạt
động quản trị doanh nghiệp.
Nhà nước mặc dù có chính sách bán cổ phần ưu đãi cho Công đoàn
trong DN cổ phần hóa, nhưng do Công đoàn doanh nghiệp không có
Quỹ hợp pháp nên chính sách này hầu hết không thực hiện được đối với
các DNNN của Bộ Xây dựng khi cổ phần hóa, vì vậy vai trò của Công
đoàn tham gia quản lý doanh nghiệp rất hạn chế.
II. KẾT QUẢ CỔ PHẦN HÓA, TÁI CƠ CẤU DOANH

NGHIỆP NHÀ NƯỚC GIAI ĐOẠN TỪ NĂM 2011 ĐẾN THÁNG
9/2014
1. Bối cảnh
Giai đoạn 2011-2014 là giai đoạn thực sự khó khăn trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp ngành xây dựng do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ khủng hoảng kinh
tế toàn cầu và những khó khăn nội tại của nền kinh tế trong nước. Đầu
tư công cắt giảm, thị trường xây dựng bị thu hẹp, nhiều công trình, dự
án phải giãn tiến độ hoặc đình hoãn; thị trường bất động sản đóng băng
và phục hồi chậm, tồn kho bất động sản lớn, nợ đọng trong xây dựng cơ
bản lớn và kéo dài v.v… đã làm suy giảm đà tăng trưởng, hiệu quả sản
xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Cùng với việc giải quyết các khó khăn trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp, Bộ Xây dựng xác định tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước, trong đó thực hiện cổ phần hóa theo đúng kế
hoạch đã được phê duyệt là nhiệm vụ trọng tâm. Thực hiện chỉ đạo của
Thủ tướng Chính phủ tại các Chỉ thị: số 1568/CT-TTg ngày 19/8/2010
về việc tiếp tục đẩy mạnh sắp xếp, cổ phần hóa, đổi mới doanh nghiệp
nhà nước, số 03/2012/CT-TTg ngày 17/01/2012 về việc đẩy mạnh
491


tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước; Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày
17/7/2012 về việc phê duyệt Đề án Tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước,
trọng tâm là các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước và các Quyết
định phê duyệt Phương án sắp xếp doanh nghiệp 100% vốn nhà nước
thuộc Bộ Xây dựng. Ngay từ năm 2011, Bộ Xây dựng đã ban hành các
chỉ thị, văn bản gửi các Tổng công ty chỉ đạo, đôn đốc việc xây dựng
và triển khai kế hoạch cổ phần hóa, đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước giai đoạn 2011-2015. Tính đến tháng 9/2014, Bộ Xây dựng đã

hoàn thành những công việc chủ yếu như sau :
2. Kết quả cổ phần hóa, tái cơ cấu DNNN
2.1. Kết quả cổ phần hóa
Tháng 10/2012, Thủ tướng Chính phủ có Quyết định số 1428/QĐTTg về việc kết thúc thí điểm Tập đoàn Sông Đà, Tập đoàn Phát triển
nhà và đô thị, theo đó đã chuyển 07 Tổng công ty là doanh nghiệp 100%
vốn nhà nước và 02 Tổng công ty cổ phần về trực thuộc Bộ Xây dựng.
Do việc ổn định lại công tác tổ chức, hoạt động sản xuất kinh doanh của
các Tổng công ty nên tiến độ cổ phần hóa còn chậm so với kế hoạch cổ
phần hóa đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Tính đến hết năm
2012, Bộ Xây dựng chỉ hoàn thành cổ phần hóa 01 doanh nghiệp thuộc
Tổng công ty Lắp máy Việt Nam.
Tính đến đầu năm 2013, Bộ Xây dựng còn 14 Công ty mẹ - Tổng
công ty và 17 công ty con trực thuộc các Tổng công ty phải cổ phần
hóa. Trong năm 2013, Bộ Xây dựng đã thực hiện cổ phần hóa được 12
DN gồm: 05 Công ty mẹ Tổng công ty (Viglacera, Viwaseen, Xây dựng
Hà Nội, Xây dựng Bạch Đằng và LICOGI) và 07 Công ty con (03 DN
thuộc LICOGI, 02 DN thuộc HUD và 02 DN thuộc VNCC).
Trong 09 tháng đầu năm 2014, Bộ Xây dựng đã rà soát, đẩy mạnh
công tác cổ phần, đồng loạt triển khai tại 19 DN gồm 09 Công ty mẹ
- Tổng công ty và 10 công ty con cổ phần hóa cùng Công ty mẹ. Đến
nay, Bộ Xây dựng đã thành lập Ban chỉ đạo và phê duyệt kế hoạch cổ
phần hóa của 09/09 Tổng công ty; hoàn thành phê duyệt giá trị doanh
492


nghiệp và đang thẩm định phương án cổ phần hóa của 01 Tổng công ty
và 02 công ty con. Đang xác định giá trị doanh nghiệp tại 05 Tổng công
ty (gồm: FiCO, CC1, COMA, SÔNG ĐÀ, LILAMA) và tiến hành xử
lý tài chính trước khi xác định giá trị doanh nghiệp tại 04 Tổng công ty
(gồm: VICEM, IDICO, HUD, VNCC).

Nhìn chung giai đoạn 2011-2015, số lượng doanh nghiệp của Bộ
Xây dựng phải thực hiện cổ phần hóa không nhiều nhưng đều có qui mô
lớn với giá trị doanh nghiệp từ 1.000 tỷ đồng đến gần 20.000 tỷ đồng,
trong đó có 14 Công ty mẹ - Tổng công ty. Dự kiến đến cuối năm 2015,
về cơ bản Bộ Xây dựng sẽ hoàn thành công tác cổ phần hóa và không
còn DNNN.
2.2. Kết quả thực hiện Đề án tái cơ cấu
Ngay sau khi Thủ tướng Chính phủ có Chỉ thị số 03/2012/CTTTg ngày 17/01/2012 về việc đẩy mạnh tái cơ cấu doanh nghiệp nhà
nước, Quyết định số 929/QĐ-TTg ngày 17/7/2012 về việc tái cơ cấu
các doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là tập đoàn kinh tế, tổng công ty
nhà nước, Bộ Xây dựng đã tích cực triển khai và chỉ đạo các Tổng công
ty xây dựng, trình Bộ phê duyệt các đề án tái cơ cấu Tổng công ty. Đến
nay, Bộ đã hoàn thành thẩm định, trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt
Đề án tái cơ cấu Tổng công ty Công nghiệp xi măng Việt Nam và phê
duyệt 13/13 đề án tái cơ cấu của các Tổng công ty trực thuộc Bộ.
Việc tái cơ cấu các Tổng công ty thuộc Bộ tập trung vào 4 nội dung
chính gồm: tái cơ cấu ngành nghề kinh doanh, tái cơ cấu tổ chức, tái cơ
cấu tài chính và tái cơ cấu quản trị doanh nghiệp, trong đó tái cơ cấu
ngành nghề kinh doanh tập trung vào các ngành chính như: xây lắp,
tổng thầu EPC, đầu tư bất động sản, vật liệu xây dựng, đầu tư và kinh
doanh thủy điện, cơ khí xây dựng v.v... Kiên quyết thoái vốn tại các
ngành không thuộc ngành nghề kinh doanh chính như khách sạn, du
lịch, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán v.v... trước năm 2015. Đến hết
năm 2015, 14 Tổng công ty sẽ tập trung thoái toàn bộ vốn góp tại 158
doanh nghiệp với tổng giá trị 5.052,78 tỷ đồng (bằng 18% tổng số tiền
493


đầu tư vào các doanh nghiệp khác); thực hiện phá sản 01 doanh nghiệp,
giải thể 01 doanh nghiệp, chuyển giao 01 doanh nghiệp và sáp nhập 13

doanh nghiệp.
Hiện nay, các Tổng công ty đang tích cực thực hiện theo đề án tái
cơ cấu đã được phê duyệt, trong đó trọng tâm là công tác cổ phần hóa
và thoái vốn. Đến quý II/2014, các Tổng công ty đã và đang thực hiện
thoái vốn tại 42 danh mục với giá trị 2.172,11 tỷ đồng, chiếm 43,22%
kế hoạch thoái vốn, trong đó đã thoái vốn thành công tại 19 danh mục
(tăng 03 danh mục so với năm 2013) với tổng giá trị là 497,16 tỷ đồng,
đạt 9,89% kế hoạch thoái vốn và đang thực hiện thoái vốn tại 23 danh
mục (tăng 5 DN so với năm 2013) với tổng giá trị 1.674,95 tỷ đồng,
chiếm 33,33% kế hoạch thoái vốn.
Cùng với công tác thoái vốn, Bộ Xây dựng cũng đã trình Thủ tướng
Chính phủ phương án tái cơ cấu một số doanh nghiệp xi măng đang gặp
khó khăn. Cùng với đó, các Tổng công ty thuộc Bộ đã chủ động thực
hiện sáp nhập một số công ty con, công ty liên kết; sáp nhập, giải thể chi
nhánh, văn phòng đại diện nhằm làm tinh gọn bộ máy quản lý, nâng cao
năng lực quản trị doanh nghiệp; sáp nhập các công ty cấp II vào công
ty cấp I, thực hiện giảm dần giá trị vốn góp của nhà nước tại các công
ty cổ phần mà nhà nước không cần thiết nắm giữ cổ phần chi phối theo
nội dung đề án tái cơ cấu được phê duyệt.
Đồng thời, các Tổng công ty cũng xây dựng các kế hoạch tái cơ
cấu quản trị doanh nghiệp tập trung vào việc sửa đổi, bổ sung Điều lệ
Tổ chức và hoạt động, hệ thống nội quy, quy chế, quy định quản lý
nội bộ, hoàn thiện Chiến lược phát triển đến năm 2015, tầm nhìn đến
2020. Sắp xếp, kiện toàn mô hình tổ chức, bộ máy quản lý, điều hành
theo hướng tinh gọn, chuyên môn hóa. Áp dụng các nguyên tắc quản trị
doanh nghiệp theo thông lệ quản trị doanh nghiệp quốc tế; tăng cường
công tác kiểm soát nội bộ; Tăng cường trách nhiệm, quyền hạn, kiểm
tra và giám sát của Công ty mẹ đối với người đại diện phần vốn tại các
doanh nghiệp khác.
494



Quán triệt sâu sắc các Nghị quyết của Đảng, các Kết luận, văn bản
chỉ đạo của Đảng, Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ về quan điểm,
mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh tái cơ cấu, cổ phần hóa và thoái
vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Bộ Xây dựng đã thường xuyên chỉ đạo,
yêu cầu các Tổng công ty rà soát, xây dựng tiến độ kế hoạch tái cơ cấu,
đặc biệt là công tác cổ phần hóa, thoái vốn; Tiếp tục rà soát, bổ sung
những doanh nghiệp mà nhà nước không cần nắm giữ để xây dựng lộ
trình thoái vốn; đồng thời Bộ Xây dựng đã tăng cường theo dõi, kiểm tra,
và đôn đốc việc thực hiện này. Đối chiếu với nhiệm vụ Thủ tướng Chính
phủ về kế hoạch cổ phần hóa giai đoạn 2011-2015, Bộ Xây dựng đã cơ
bản hoàn thành kế hoạch sắp xếp, đổi mới doanh nghiệp giai đoạn 20112013, tạo điều kiện hoàn thành kế hoạch chung giai đoạn 2011-2015.
Bên cạnh những mặt đã đạt được như trên, trong thực hiện cổ phần
hóa và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước thuộc Bộ Xây dựng giai đoạn
vừa qua vẫn còn một số tồn tại, vướng mắc như:
Trong công tác cổ phần hóa: (i) Trong việc xác định giá trị doanh
nghiệp còn có một số bất cập như khi xử lý tài chính phải hoàn nhập
lại dự phòng các khoản phải thu khó đòi không đủ điều kiện để loại trừ
ra khỏi giá trị doanh nghiệp, dẫn tới sau khi cổ phần hóa công ty cổ
phần không có nguồn quỹ để bù đắp cho những tổn thất xảy ra đối với
các khoản nợ phải thu khó đòi tồn tại từ giai đoạn là doanh nghiệp nhà
nước; phương pháp định giá các khoản đầu tư tài chính tại các doanh
nghiệp chưa niêm yết theo phương pháp vốn chủ sở hữu chưa phản ánh
được tính thị trường của các khoản đầu tư; khoản góp vốn bằng ngoại
tệ được định giá lại theo tỷ giá hiện thời, trong khi doanh nghiệp nhận
góp vốn đã vốn hóa khoản góp vốn này theo tỷ giá tại thời điểm nhận
vốn góp dẫn tới khoản chênh lệch tăng do đánh giá lại giá trị ngoại
tệ không được đơn vị nhận góp vốn thừa nhận, tạo nguồn vốn ảo cho
doanh nghiệp sau cổ phần hóa; việc tính lợi thế kinh doanh căn cứ vào

lợi nhuận bình quân 3 năm gần nhất là chưa phản ánh đúng lợi thế kinh
doanh do khoảng thời gian quá ngắn, không phù hợp với doanh nghiệp
495


kinh doanh sản phẩm có tính chất chu kỳ; tại thời điểm bàn giao doanh
nghiệp, trong khi các tài sản khác không định giá lại thì việc phải định
giá lại các khoản đầu tư tài chính là không phù hợp về tính chất tài
chính, việc này có thể dẫn tới việc điều chỉnh lại quy mô vốn điều lệ của
công ty cổ phần và xử lý rất phức tạp; (ii) Sự khó khăn chung của nền
kinh tế, khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh và sự suy giảm
của thị trường chứng khoán tác động lớn đến việc thu hút nguồn vốn từ
bên ngoài khi thực hiện cổ phần hóa, đặc biệt là việc tìm kiếm nhà đầu
tư chiến lược rất khó khăn.
Trong công tác thoái vốn: (i) Tiến độ thực hiện thoái vốn còn chậm
do những vướng mắc như tình hình thị trường chứng khoán khó khăn
nên ít nhà đầu tư quan tâm mua cổ phần; (ii) chưa có đầy đủ văn bản
hướng dẫn Nghị quyết 15/NQ-CP ngày 06/3/2014 của Chính phủ về một
số giải pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp
nên việc triển khai còn lúng túng, rụt rè; (iii) Chưa có văn bản hướng dẫn
việc chuyển giao vốn, chuyển giao nguyên trạng doanh nghiệp.
3. Kế hoạch cổ phần hóa và tái cơ cấu DNNN đến hết năm 2015
và một số giải pháp thực hiện
Định hướng của Bộ Xây dựng đến năm 2015 là quyết tâm thực
hiện tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là cổ phần hóa, thoái
vốn đầu tư ngoài ngành và bán phần vốn mà Nhà nước không cần nắm
giữ theo nguyên tắc thị trường, bao gồm cả doanh nghiệp đang kinh
doanh có hiệu quả. Tăng cường quản lý, giám sát, kiểm tra các doanh
nghiệp trực thuộc. Chỉ đạo quyết liệt việc kiện toàn cán bộ quản lý và
nâng cao năng lực quản trị doanh nghiệp, thực hiện công khai minh

bạch kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước theo quy định của
pháp luật. Đồng thời Bộ Xây dựng kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi
vi phạm pháp luật và không nghiêm túc thực hiện Đề án tái cơ cấu đã
được phê duyệt nhằm đạt được các mục tiêu đề ra như: Nâng cao hiệu
quả và năng lực cạnh tranh, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu của các
doanh nghiệp trực thuộc; Tạo điều kiện để doanh nghiệp giải phóng
496


sức sản xuất, tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động sản xuất kinh
doanh; Xây dựng, phát triển các doanh nghiệp thuộc Bộ Xây dựng trở
thành những đơn vị kinh tế vững mạnh trong ngành xây dựng, có cơ cấu
hợp lý, tập trung vào các ngành nghề kinh doanh chính, phát huy tốt các
nguồn lực và đảm bảo sự phát triển bền vững và ổn định của các đơn vị
sau cổ phần hóa.
Theo kế hoạch, đến hết năm 2015 Bộ Xây dựng sẽ hoàn thành công
tác cổ phần hóa toàn bộ các DNNN trực thuộc. Đồng thời Bộ tiếp tục
thực hiện các nội dung của đề án tái cơ cấu DNNN, xây dựng lộ trình,
giải pháp thực hiện cụ thể hoàn thành việc sắp xếp lại mô hình tổ chức
các công ty mẹ, 100% kế hoạch thoái vốn và các mục tiêu sắp xếp, đổi
mới doanh nghiệp khác đã đề ra.
Để thực hiện được kế hoạch trên, Bộ Xây dựng đã đề rà một số
giải pháp như: (i) Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức của cán bộ lãnh
đạo, người lao động trong doanh nghiệp trong công tác cổ phần hóa,
tái cơ cấu doanh nghiệp thông qua các hình thức chỉ đạo bằng văn bản,
tổ chức hội thảo, cuộc họp phổ biến v.v…; quy định việc thực hiện kế
hoạch cổ phần hóa, tái cơ cấu là một trong những tiêu chí đánh giá mức
độ hoàn thành nhiệm vụ của lãnh đạo doanh nghiệp; (ii) Thực hiện cổ
phần hóa các công ty con đồng thời với Công ty mẹ để rút ngắn thời
gian, tiết kiệm chi phí và lựa chọn được phương án cổ phần hóa phù

hợp hơn; (iii) Phê duyệt kế hoạch, tiến độ cổ phần hóa cụ thể, bao gồm
cả mốc thời gian cho từng bước công việc; Thường xuyên chỉ đạo, đôn
đốc, đánh giá mức độ hoàn thành tiến độ cổ phần hóa theo kế hoạch đề
ra; (iv) Chỉ đạo các doanh nghiệp chủ động chuẩn bị hồ sơ, tài liệu pháp
lý để cổ phần hóa; áp dụng các biện pháp xử lý linh hoạt, hữu hiệu, dứt
điểm đối với các doanh nghiệp đang gặp khó khăn lớn về tài chính, lao
động; (v) Thường xuyên chỉ đạo, phối hợp với doanh nghiệp cổ phần
hóa giải quyết các khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình cổ
phần hóa, nhất là đối với các doanh nghiệp có nhiều tài sản là đất đai,
nhà cửa, máy móc thiết bị v.v… khi xác định giá trị doanh nghiệp; (vi)
497


Chủ động phối hợp với các cơ quan có liên quan như Bộ Tài chính, Bộ
Kế hoạch đầu tư, Ủy ban nhân dân các tỉnh v.v… để giải quyết các vấn
đề vướng mắc khi cổ phần hóa như việc xác định giá trị doanh nghiệp,
phương án sử dụng đất, phương án cổ phần hóa; (vii) Tăng cường quan
tâm, hướng dẫn, chỉ đạo, giám sát đối với các doanh nghiệp nhà nước
và doanh nghiệp sau cổ phần hoá; (viii) Chỉ đạo các đơn vị chủ động rà
soát và lập kế hoạch, lộ trình bán tiếp phần vốn nhà nước tại các công ty
cổ phần xét thấy không cần thiết nắm giữ; (ix) Xây dựng kế hoạch thực
hiện đề án tái cơ cấu của các DNNN theo từng quý; thường xuyên chỉ
đạo, đôn đốc và phối hợp giải quyết các công việc phát sinh trong quá
trình tái cơ cấu, nhất là trong việc thoái vốn tại các khoản đầu tư kém
hiệu quả, ngoài ngành nghề kinh doanh chính.
III. Kiến nghị
Để đẩy mạnh công tác cổ phần hóa, thoái vốn, giải quyết những
khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp trong quá trình thực hiện, Bộ
Xây dựng kiến nghị:
(i) Đối với công tác cổ phần hóa: sửa đổi một số quy định tại Nghị

định số 59/2011/NĐ-CP ngày 18/7/2011 của Chính phủ về việc chuyển
doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ phần theo hướng
DN cổ phần hóa được giữ lại Quỹ dự phòng giảm giá các khoản nợ phải
thu khi xác định giá trị doanh nghiệp, có phương pháp định giá đối với
các khoản đầu tư vào doanh nghiệp chưa niêm yết, doanh nghiệp bị sàn
giao dịch hủy niêm yết phù hợp với thị trường; Sử dụng lợi nhuận bình
quân của 10 năm trước khi cổ phần hóa để tính lợi thế kinh doanh của
doanh nghiệp; không định giá lại các khoản đầu tư tài chính khi thực
hiện bàn giao vốn nhà nước sang công ty cổ phần.
(ii) Đối với công tác thoái vốn: sớm có văn bản hướng dẫn thực hiện
Nghị quyết 15/NQ-CP ngày 06/3/2014 của Chính phủ về một số giải
pháp đẩy mạnh cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp./.

498



×