Tải bản đầy đủ (.doc) (111 trang)

Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước cho các đơn vị y tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (751.3 KB, 111 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
TÓM TẮT LUẬN VĂN
- Loại hình ngân sách cho hoạt động y tế.....................................................................15
- Loại hình bảo hiểm y tế xã hội...................................................................................16
- Loại hình hệ thống y tế theo thị trường......................................................................17
1.4.1. Trung Quốc.........................................................................................................27
1.4.2. Mỹ......................................................................................................................32
1.4.3. Thái Lan.............................................................................................................36
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO..............................................................110


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BHXH
BHYT
CNH
CNVC
CSSK
DVYT
GDP
HĐH
HĐND
KCB
KHHGĐ
KT-XH
NSNN
ODA
UBND
TTYT


YHDT
YHCT
WB
WHO
XDCB
XHCN

Bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm y tế
Công nghiệp hoá
Công nhân viên chức
Chăm sóc sức khoẻ
Dịch vụ y tế
Tổng sản phẩm quốc nội
Hiện đại hoá
Hội đồng nhân dân
Khám chữa bệnh
Kế hoạch hoá gia đình
Kinh tế - Xã hội
Ngân sách nhà nước
Viện trợ phát triển chính thức
Uỷ ban nhân dân
Trung tâm y tế
Y học dân tộc
Y học cổ truyền
Ngân hàng thế giới
Tổ chức y tế thế giới
Xây dựng cơ bản
Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
DANH MỤC BẢNG

- Loại hình ngân sách cho hoạt động y tế.....................................................................15
- Loại hình ngân sách cho hoạt động y tế.....................................................................15
- Loại hình bảo hiểm y tế xã hội...................................................................................16
- Loại hình bảo hiểm y tế xã hội...................................................................................16
- Loại hình hệ thống y tế theo thị trường......................................................................17
- Loại hình hệ thống y tế theo thị trường......................................................................17
1.4.1. Trung Quốc.........................................................................................................27
1.4.2. Mỹ......................................................................................................................32
1.4.3. Thái Lan.............................................................................................................36
DANH MỤC BIỂU ĐỒ

Biểu đồ 2.1: Vốn cho y tế tỉnh qua các năm.....................................................
Biểu đồ 2.2: Sử dụng chi theo nội dung chuyên môn.......................................


1

PHẦN MỞ ĐẦU
Trong quá trình tiến hành cải cách hệ thống y tế Việt Nam từ năm 1989
cho đến nay, hệ thống y tế là nơi thực hiện nhiều chính sách cải cách quan
trọng, có ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống y tế như viện phí, BHYT, xã hội hoá
y tế, tự chủ tài chính… Tuy nhiên trong suốt quá trình cải cách đó, Đảng và
Nhà nước vẫn giữ quan điểm và định hướng nhất quán về ưu tiên đầu tư từ
ngân sách nhà nước cho y tế. Nghị quyết Đại hội Đảng các khoá VII, VIII, IX
và mới đây nhất là Đại hội X, 2006 đã chỉ rõ: Tăng đầu tư của Nhà nước và
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong việc nâng cấp mạng lưới y tế cơ sở và hệ

thống y tế, có chính sách trợ giúp các đối tượng chính sách, người nghèo,
người có thu nhập thấp được tiếp cận dịch vụ y tế; phát triển hệ thống y tế dự
phòng, trang bị kiến thức và kỹ năng để mỗi người dân có khả năng chủ động
phòng bệnh và rèn luyện sức khoẻ. Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số
46-NQ/TW ngày 23.2.2005 về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khoẻ nhân dân trong tình hình mới với năm quan điểm chỉ đạo hết sức cụ thể,
trong đó nêu rõ “Bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân là một
trong những chính sách ưu tiên hàng đầu của Đảng và Nhà nước. Đầu tư cho
lĩnh vực này là đầu tư phát triển, thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ”.
Chiến lược chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ nhân dân giai đoạn 2001-2010 cũng
chỉ rõ: Đầu tư của nhà nước cho y tế vẫn phải giữ vai trò chủ đạo trong các
nguồn chi tiêu. Phấn đấu tăng mức chi thường xuyên cho y tế trong tổng chi
ngân sách nhà nước. Ưu tiên đầu tư cho vùng nghèo, vùng núi vùng sâu, vùng
xa về hoạt động y tế dự phòng, y học cổ truyền, chăm sóc sức khoẻ ban đầu
tại y tế cơ sở, khám chữa bệnh cho người nghèo và các đối tượng chính sách,
bảo vệ sức khoẻ bà mẹ, trẻ em.


2
Bắc Ninh là tỉnh được tái lập từ năm 1997 đến nay, với quy mô về
diện tích tự nhiên và dân số nhỏ, nhưng có tốc độ tăng trưởng bình quân của
9 năm (1997-2005) là 14,2%. Những năm qua, cùng với những thành tích về
phát triển kinh tế-xã hội ngành y tế đã có nhiều chuyển biến tích cực. Công
tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong tỉnh đã được các cấp uỷ Đảng, chính
quyền quan tâm sâu sắc. Công tác khám, chữa bệnh và các hoạt động y tế dự
phòng, cung ứng thuốc được đẩy mạnh và đa dạng hoá. Y tế cơ sở từng bước
được củng cố và hoàn thiện. Đặc biệt, vấn đề sử dụng vốn NSNN đã góp
phần chăm sóc sức khoẻ nhân dân và phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh nhà.
Tuy nhiên so với yêu cầu phát triển và trong điều kiện hội nhập hiện nay thì
hệ thống y tế của tỉnh Bắc Ninh còn nhiều bất cập như: Cơ sở vật chất còn

lạc hậu, xuống cấp, phương tiện trang thiết bị phục vụ còn thiếu thốn chưa
đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của nhân dân, cơ chế quản lý và cơ chế
giao quyền tự chủ còn nhiều lúng túng, mạng lưới khám, chữa bệnh chuyên
sâu có kỹ thuật cao còn hạn chế. Nguồn vốn NSNN chi cho lĩnh vực này
chưa đáp ứng được với nhu cầu thực tế, phần thu viện phí, BHYT và xã hội
hoá không ổn định và thấp, điều này ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển
ngành y tế của tỉnh.
1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đề tài
Công cuộc đổi mới kinh tế diễn ra trên đất nước ta đã và đang đặt ra
những yêu cầu cấp thiết về trí và lực trong mỗi cá nhân con người, trong đó sức
khoẻ là vốn quí nhất của mỗi con người và toàn xã hội, là nguồn tài nguyên quí
báu nhất, quyết định đến sự phát triển của đất nước. Mục tiêu của phát triển y
tế là phải xây dựng một nguồn nhân lực mạnh mẽ có đủ sức khoẻ để làm việc
có hiệu quả, góp phần thúc đẩy mạnh mẽ tiến trình phát triển của đất nước.
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước luôn quan tâm đến việc chăm lo phát
triển toàn diện cho lĩnh vực y tế, đặc biệt xác định công tác trọng tâm là chăm
sóc và bảo vệ sức khoẻ của nhân dân được đặt lên hàng đầu.


3
Nguồn vốn ngân sách nhà nước được sử dụng như một công cụ tài
chính quan trọng nhất, tập trung nhất để xây dựng và phát triển nền kinh tế
nước ta. Vì lý do không thể cho phép nguồn vốn từ ngân sách nhà nước dàn
trải và tiếp tục bao cấp cho ngành y tế như những thời kỳ quản lý nền kinh tế
theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung trước đây. Bài toán đặt ra cho ngành y tế
là muốn tồn tại và phát triển phải có cơ chế biện pháp tổ chức thực hiện để
huy động các nguồn vốn đầu tư đồng thời phải biết sử dụng nó một cách
hiệu quả.
Lý giải vấn đề huy động và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả để phát
triển y tế trong điều kiện nước ta hiện nay sẽ gặp những khó khăn về mặt thực

tiễn, ngành y tế ở nước ta đang đứng trước thực trạng giảm sút về chất lượng
khám chữa bệnh, cơ sở vật chất của ngành y tế lạc hậu so với các nước Đông
Nam Á xung quanh ta… Cơ chế sử dụng vốn trong ngành y tế còn chưa được
hợp lý. Tình trạng sử dụng vốn còn lãng phí, không tiết kiệm vẫn phát sinh ở
nhiều cơ sở khám, chữa bệnh trong phạm vi cả nước…
Những vấn đề đặt ra để nghiên cứu trong luận văn này sẽ cố gắng đóng
góp một lời giải làm sáng tỏ phần nào những vấn đề lý luận và thực tiễn về
huy động và sử dụng vốn phát triển ngành y tế Bắc Ninh nhằm giải quyết các
yêu cầu bức súc trên từ đó làm rõ vai trò tài chính trong việc thực hiện chính
sách huy động và sử dụng vốn để phát triển ngành y tế Bắc Ninh nhằm thực
hiện tốt chiến lược chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong tỉnh.
2. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, đánh giá khách quan, khoa học về thực trạng huy động và sử
dụng vốn cho ngành y tế tỉnh Bắc Ninh. Phân tích thuận lợi, khó khăn, nguyên
nhân chủ quan, khách quan của tình hình trên. Thông qua đó kết hợp quan điểm
của Đảng và ngành về vấn đề trên để đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng
nguồn vốn phát triển ngành y tế nói chung và y tế Bắc Ninh nói riêng.


4
Một là: Luận giải về các phương diện lí luận và thực tiễn các vấn đề có
liên quan đến việc huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho
y tế, trọng tâm là nguồn vốn NSNN
Hai là: Đánh giá phân tích thực trạng, tồn tại, các nguyên nhân về huy
động và sử dụng các nguồn vốn đầu tư cho y tế Bắc Ninh trong những năm
vừa qua, những kinh nghiệm huy động và sử dụng vốn ở một số nước trên thế
giới. Trên cơ sở đó để làm rõ sự cần thiết phải đổi mới và hoàn thiện việc sử
dụng có hiệu quả các nguồn vốn cho y tế Bắc Ninh trong giai đoạn hiện nay.
Ba là: Đề xuất những kiến nghị và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao
hiệu quả sử dụng các nguồn vốn đầu tư cho y tế Bắc Ninh trong thời gian tới.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vấn đề sử dụng vốn NSNN, cũng như hiệu
quả sử dụng vốn NSNN tại các đơn vị y tế Bắc Ninh.
Phạm vi nghiên cứu: Ngành y tế với phạm vi rộng như chăm sóc, bảo
vệ sức khoẻ, dự phòng, các bệnh viện trực tiếp khám, chữa bệnh. Luận văn
chỉ tập trung nghiên cứu hiệu quả sử dụng vốn NSNN của các bệnh viện
tuyến tỉnh, tuyến huyện, trung tâm y tế dự phòng trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh
từ năm 2003 đến nay.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
để lý giải các vấn đề nghiên cứu
Luận văn cũng sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, thống kê,
tổng hợp trong các phần trình bày về lý luận cũng như thực tiễn để làm rõ các
đánh giá nhận định. Từ đó luận văn đề ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện
công tác nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong thời gian tới.
5. Các kết quả đã nghiên cứu đến nay
- Nguyễn Văn Châu (1995), Đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách
huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho y tế trong bước
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường ở nước ta, Luận án tiến sĩ kinh tế, Đại
học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.


5
- Phan Thị Thanh Hương (2006), Phương hướng và giải pháp thu hút
vốn đầu tư phát triển y tế Việt Nam giai đoạn 2001-2005, Luận văn thạc sĩ
kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
- Hoàng Thị Ngọc Bích (2004), Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý
chi NSNN đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp ngành y tế, Luận văn thạc
sĩ kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
- Hoàng Thị Thuý Nguyệt (2006), Các giải pháp tài chính thúc đẩy phát

triển sự nghiệp y tế Việt Nam, Luận án tiến sĩ Kinh tế, Học viện Tài chính, Hà
Nội. Luận án đã nghiên cứu hệ thống lý luận về y tế và vai trò của tài chính
thúc đẩy phát triển sự nghiệp y tế trong nền kinh tế thị trường, đồng thời phân
tích, đánh giá thực trạng sử dụng tài chính ở Việt Nam từ năm 1990-2006
- Trần Quang Lâm (2006), Bảo hiểm y tế trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, Luận văn thạc sĩ kinh tế, Học viện chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận về đổi mới cơ
chế hoạt động BHYT nhằm giải quyết những vấn đề đặt ra đối với người có
thẻ BHYT đi khám, chữa bệnh.
Mặc dù đã có công trình nghiên cứu liên quan đến tình hình sử dụng
vốn của các đơn vị y tế nhưng dưới góc độ và phạm vi nghiên cứu khác nhau.
Các đánh giá về thực trạng và những đề xuất giải pháp là khách quan, khoa
học, song phạm vi nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề đó đã có những thay
đổi. Vì vậy, đề tài “Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách
nhà nước cho các đơn vị y tế trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh” được nghiên cứu
là không trùng lắp với các công trình khoa học đã được công bố.
6. Đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn góp phần hệ thống những vấn đề lí luận chung về hoạt động y
tế và các nguồn vốn NSNN cho hoạt động y tế
Đánh giá khách quan, khoa học hiệu quả sử dụng vốn đối với sự nghiệp
y tế Bắc Ninh dưới góc độ thành công, hạn chế và nguyên nhân.


6
Đề xuất một số giải pháp thiết thực, khả thi để sử dụng có hiệu quả
nguồn vốn NSNN cho sự phát triển y tế trên địa bàn tỉnh trong điều kiện hiện
nay cũng như trong chiến lược phát triển toàn tỉnh đến năm 2015 Bắc Ninh
trở thành một tỉnh công nghiệp
7. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của Luận văn
Luận văn hệ thống hoá làm rõ những vấn đề lí luận về vốn NSNN và

vốn NSNN cho hoạt động y tế, cùng với việc phân tích tình hình thực trạng sử
dụng vốn NSNN của ngành y tế Bắc Ninh và đưa ra một số giải pháp nhằm
huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn vốn NSNN nhằm mục tiêu thực hiện tốt
công tác chăm sóc sức khoẻ nhân dân trong tỉnh.
8. Nội dung nghiên cứu
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Vốn và hiệu quả sử dụng vốn NSNN của hoạt động y tế
Chương 2: Thực trạng hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước
tại các đơn vị y tế Bắc Ninh
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà
nước cho các đơn vị y tế Bắc Ninh trong thời gian tới


7

Chương 1
VỐN VÀ HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN NGÂN SÁCH
NHÀ NƯỚC CỦA HOẠT ĐỘNG Y TẾ
1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ HOẠT ĐỘNG Y TẾ

1.1.1. Hoạt động y tế Việt Nam
Hoạt động y tế là một hoạt động mang tính xã hội có nhiệm vụ chủ yếu
là trực tiếp chăm sóc sức khỏe nhân dân bao gồm các lĩnh vực y tế dự phòng;
khám, chữa bệnh; phục hồi chức năng; y học cổ truyền; thuốc phòng chữa
bệnh cho người; chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em; mỹ phẩm ảnh hưởng đến
sức khoẻ con người; an toàn vệ sinh thực phẩm và trang thiết bị y tế,…
Hoạt động y tế công lập thuộc sở hữu nhà nước, đóng vai trò quan
trọng chủ đạo, chi phối hầu hết các hoạt động y tế cả nước. Các hoạt động
phòng chống dịch, phòng chống các bệnh xã hội, y tế cộng đồng và các dịch

vụ y tế đòi hỏi kỹ thuật cao, vốn đầu tư phần lớn do các cơ sở y tế nhà nước
cung cấp.
Hoạt động y tế tư nhân có quan hệ nghiệp vụ với cơ quan quản lý về y
tế nhưng không có các quan hệ tài chính. Tuy nhiên quy mô của nó tuỳ thuộc
vào từng Quốc gia có nền kinh tế khác nhau.
1.1.2. Đặc trưng của hoạt động y tế
Một là, y tế là một hoạt động mang tính nhân đạo cao
Đây là một hoạt động trực tiếp khám và chữa bệnh cho con người, sử
dụng các phương tiện kỹ thuật cao để can thiệp vào việc khám và điều trị trên
cơ thể người bệnh, mà con người là vốn quí chính vì vậy hoạt động y tế luôn
đề cao, đặt lên hàng đầu tinh thần và trách nhiệm người thầy thuốc, nếu không
sẽ rất dễ gây tử vong cho người bệnh. Con người trong cả cuộc đời của mình
ít nhất có một đôi lần ốm đau phải chịu sự chăm sóc của ngành y tế. Ở các


8
nước có nền kinh tế phát triển thì sự can thiệp bằng các phương tiện kĩ thuật
vào con người ngày càng nhiều hơn. Nếu ngành y tế không mang tính nhân
đạo, không có tinh thần trách nhiệm cao thì gây ảnh hưởng xấu tới sức khoẻ,
cũng như tính mạng người bệnh.
Hai là, tính phúc lợi xã hội và xã hội hóa trong hoạt động y tế
Hoạt động y tế nói chung không vì mục đích lợi nhuận. Các nguồn vốn
cho hoạt động y tế luôn được nhiều quốc gia đảm bảo phần cơ bản từ ngân
sách nhà nước. Người bệnh vào khám chữa bệnh miễn phí hoàn toàn như: Các
chương trình mục tiêu bệnh nhân đạo, HIV/AIDS, một số dịch vụ tiêm chủng
mở rộng, trẻ em dưới 6 tuổi, người nghèo và người cao tuổi, vùng dân tộc
thiểu số,... Các lĩnh vực này mang tính phúc lợi xã hội, không lấy lợi nhuận
làm mục đích.
Ở các nước phát triển đã triển khai nhiều chương trình đảm bảo bảo
hiểm y tế toàn dân. Các quy định pháp luật đảm bảo hoạt động bảo hiểm là

hoạt động mà khoẻ giúp yếu, trẻ giúp già,… đảm bảo tính cạnh tranh tự do
của hoạt động bảo hiểm và hoạt động khám chữa bệnh.
Trong những năm gần đây, công tác xã hội hóa trong lĩnh vực y tế được
một số quốc gia đang phát triển đẩy mạnh như các chính sách: Thành lập
bệnh viện tư, công ty sản xuất kinh doanh thiết bị dụng cụ y tế, công ty dược,
phòng khám, quầy thuốc tư nhân, liên doanh liên kết đặt máy móc trang thiết
bị hiện đại,... nhằm thực hiện tốt công tác chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân
dân. Xã hội hóa còn được thực hiện bằng sự tham gia rộng rãi của nhân dân
vào công tác vệ sinh môi trường, phòng chống các tệ nạn xã hội, công tác
phòng chống dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm, vận động kế hoạch hóa
gia đình,...
Ba là, tính tập thể và cộng đồng
Là hoạt động có tính tập thể, tính cộng đồng trong việc thực hiện nhiệm
vụ với ý thức trách nhiệm cá nhân cao, đòi hỏi sự phối hợp chuẩn xác, nhịp


9
nhàng giữa các bộ phận cán bộ, các bộ phận chuyên môn y tế và các ngành các
cấp có liên quan nhằm mục đích phòng bệnh cho người khoẻ, chữa bệnh cho
người bị ốm đau để họ nhanh chóng phục hồi sức lực tiếp tục làm việc và
cống hiến sức lực, trí lực cho xã hội.
1.1.3. Vai trò của hoạt động y tế
1.1.3.1. Vai trò của hoạt động y tế trong việc phát triển nguồn nhân lực
Nguồn nhân lực phải được hiểu là nguồn lực con người. Đây là một bộ
phận của các nguồn lực cần được huy động, quản lý để thực hiện những mục
tiêu nhất định cũng như các nguồn lực vật chất, nguồn lực tài chính, tiền tệ,…
Nguồn nhân lực phải được khai thác phát triển và quản lý có hiệu quả.
Việc phát triển nguồn nhân lực sẽ tạo nguồn “năng lượng“ lâu dài mỗi
quốc gia. Trong thời đại tiến bộ khoa học kỹ thuật phát triển ở trình độ cao
như ngày nay, thì yếu tố giáo dục - đào tạo có tính chất quyết định to lớn

nhằm tạo nên tri thức, kỹ năng kỹ xảo của người lao động, những yếu tố chăm
sóc sức khoẻ, bảo đảm dinh dưỡng tạo cho con người có sức lực để làm việc.
Nếu con người trong tình trạng thể chất ốm yếu, kém phát triển thì dù trí lực
có phát triển đến đâu cũng không đủ sức làm việc và sẽ từng bước làm giảm
sút và huỷ hoại dần trí lực.
Nuôi dưỡng phát triển nguồn nhân lực trong thời đại hiện nay có giá trị
kinh tế - xã hội hết sức quan trọng vì nó là nguồn lực năng động nhất, bởi lẽ
con người hiện nay đã đặt đúng vị trí đích thực của nó, thể hiện ở hàm giá trị:
Con người hình thành và phát triển với tư cách vừa là chủ thể, đồng thời cũng
là khách thể của nền sản xuất xã hội. Con người phụ thuộc vào xã hội sản sinh
ra nó, nhưng lại tác động trở lại có tính chất quyết định đối với xã hội đó.
Để con người đặt đúng vị trí trên và đảm bảo cho có trở thành nguồn
nhân lực năng động nhất trong các nguồn lực thì không thể thiếu được vai trò
của ngành y tế trong việc bảo vệ, duy trì, tái tạo và phát triển nguồn lực đó.


10
1.1.3.2. Chi cho hoạt động y tế
Chi tiêu y tế để phát triển nguồn nhân lực là một bộ phận chi đầu tư cho
tiêu dùng xã hội. Chi cho y tế là một nội dung quan trọng trong cơ cấu chi tiêu
dùng xã hội, có mối quan hệ chặt chẽ với các khoản chi tiêu dùng xã hội khác.
Trong cơ cấu chi tiêu dùng xã hội bao gồm các khoản chi cho phúc lợi
công cộng như giao thông, vệ sinh cấp thoát nước, nhà ở, giáo dục và đào tạo, văn
hoá, y tế,… và các khoản chi để giữ gìn an ninh và bảo vệ biên giới quốc gia, chi
cho bộ máy quản lý nhà nước, chi cho bảo vệ môi trường và kế hoạch hoá gia
đình.
Chi cho y tế tuy là một bộ phận trong cơ cấu chi tiêu dùng xã hội
nhưng có mối quan hệ chặt chẽ và tạo điều kiện cho các lĩnh vực nói trên để
thực hiện chức năng của mình, bởi vì:
- Chi cho y tế luôn luôn là một khoản chi riêng trong cơ cấu chi NSNN

để làm căn cứ đánh giá tình hình thực hiện ngân sách hàng năm, được bố trí
trong phần chi tiêu dùng xã hội thuộc dự toán chi NSNN. Cách bố trí này tạo
điều kiện cho hoạt động y tế chủ động trong nguồn lực – đó là nguồn lực
được phân chia rõ ràng không trong cơ cấu chi chung của những ngành khác.
- Các nước tư bản phát triển và các nước đang phát triển luôn luôn bố
trí khoản chi cho y tế là một khoản chi riêng trong cơ cấu NSNN, mặc dù
nhiều nước đã thực hiện BHYT hoặc thực hiện chính sách khám, chữa bệnh
người dân phải trả tiền. Điều đó chứng tỏ rằng sự quan tâm phát triển ngành y
tế để thực hiện việc chăm sóc sức khoẻ con người đã trở thành công việc
thường xuyên của mỗi quốc gia, với các cơ chế, chính sách khám, chữa bệnh
cho người dân khác nhau đều có mục đích chung là chăm lo đến việc phát
triển sự nghiệp y tế của mỗi quốc gia.
1.2. VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO HOẠT ĐỘNG Y TẾ

1.2.1. Vốn ngân sách nhà nước
1.2.1.1. Những quan niệm về vốn
Vốn là một trong những nhân tố quan trọng đối với quá trình tăng


11
trưởng và phát triển kinh tế của mọi quốc gia, đặc biệt là các nước đang phát
triển. Nói đến khái niệm vốn, nhiều nhà kinh tế học đã tiếp cận dưới nhiều góc
độ khác nhau nhưng đều thông qua phạm trù tư bản và có kết luận: Vốn là
phạm trù kinh tế.
Ngày nay, do yêu cầu của sự phát triển ngày càng cao, vốn không chỉ là
yếu tố cần thiết đối với quá trình sản xuất kinh doanh của các nước phát triển
mà còn là yếu tố đóng vai trò hết sức quan trọng của các quốc gia đang phát
triển. Vì vậy, phạm trù vốn vẫn được nhiều nhà kinh tế học tiếp tục nghiên
cứu và tiếp cận nó theo các bình diện khác nhau.
Để hiểu rõ bản chất của vốn, trên cơ sở đó có biện pháp khi sử dụng

vốn đúng đắn có hiệu quả cần nhận thức kỹ những vấn đề sau:
Thứ nhất, về các hình thái biểu hiện của vốn
- Xét về mặt trừu tượng, vốn là hình thái giá trị, giá trị đó được ứng ra
để chuyển hóa nó thành các yếu tố cấu thành quá trình sản xuất, trải qua quá
trình sản xuất, giá trị của nó lớn lên không ngừng.
- Xét về mặt cụ thể, trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế quốc dân vốn
được phân tích thành:
Theo mục đích sử dụng gồm có: Vốn sản xuất trực tiếp phục vụ cho
quá trình sản xuất ra sản phẩm và dịch vụ hàng hóa; và vốn tồn tại dưới dạng
hệ thống kết cấu hạ tầng, các công trình công cộng.
Theo hình thức tồn tại cụ thể gồm có: vốn tồn tại dưới dạng vật thể
(máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu, công trình kiến trúc...) và vốn phi vật thể
(các phát minh, sáng chế, các giải pháp hữu ích...)
Ngoài ra vốn còn tồn tại dưới dạng các tài sản của Chính phủ như: tiền
mặt, cổ phiếu, trái phiếu, các công nợ khác,...
Dưới hình thái giá trị - tiền tệ sự tồn tại của vốn là rất linh hoạt, biến
hóa nhất trong nền kinh tế thị trường. Thị trường không những là nơi diễn ra
các hoạt động đa dạng của vốn mà còn là nơi vốn bộc lộ khả năng sinh lời của


12
chúng. Khả năng sinh lời vừa là mục đích của việc đầu tư kinh doanh đồng
vốn, vừa là phương tiện để vốn tiếp tục vận động liên tục với qui mô ngày
càng phát triển mở rộng với những chu kỳ kinh doanh tiếp. Sự vận động của
vốn tuân thủ theo các qui luật kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trường.
Song với từng xã hội, từng nước khác nhau với khả năng nhận thức, con
người có thể nắm bắt, vận dụng qui luật khách quan, tạo ra những kênh huy
động vốn có hiệu quả, đáp ứng nhu cầu của các chủ thể kinh doanh.
Thứ hai, vốn là hàng hóa
Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là một hàng hóa. Muốn sản

xuất - kinh doanh đòi hỏi phải có vốn, nhu cầu vốn được coi là cơ sở phát sinh
mối quan hệ cung - cầu về vốn trên thị trường. Như vậy hiển nhiên vốn là đối
tượng để đem trao đổi, mua bán trên thị trường vốn. Với tư cách là hàng hóa,
vốn có hai thuộc tính giá trị và giá trị sử dụng; có chủ sở hữu và là một trong
những yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất.
Thứ ba, vốn là hàng hóa đặc biệt
Thể hiện ở chỗ vốn có khả năng sinh lời. Với tư cách là hàng hóa đặc
biệt, quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn tách rời nhau. Chủ sở hữu vốn sẽ
nhận được một khoản lợi tức (giá bán hay lãi suất quyền sử dụng vốn) khi bán
quyền sử dụng vốn cho người mua (các nhà đầu tư). Nhà đầu tư quyết định
mua quyền sử dụng vốn phải bỏ ra một khoản tiền gọi là chi phí (mua quyền
sử dụng vốn) trả cho chủ sở hữu và nhận về mình quyền sử dụng vốn. Nhờ có
sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn làm cho vốn linh hoạt
hơn trong lưu thông và sinh lời, nó không bị mất đi giá trị và giá trị sử dụng
và còn được bảo toàn và phát triển.
Thứ tư, vốn có mối quan hệ với thời gian
Khi chủ sở hữu nhượng quyền sử dụng vốn cho người khác phải qui
định thời gian nhất định (một tháng, hai tháng, ba tháng, một năm...). Sự tách
rời giữa quyền sở hữu vốn và quyền sử dụng vốn, gắn với khoảng thời gian


13
xác định tất yếu dẫn đến quá trình tích tụ, tập trung vốn từ những khoản tiết
kiệm nhỏ, lẻ. Sự vận động đó đã tạo ra những kênh huy động vốn, những
dòng vốn chảy không ngừng trong nền kinh tế thị trường.
Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả là một trong những tiền đề
quan trọng đẩy mạnh phát triển nền kinh tế nói chung, y tế nói riêng. Tuy
nhiên, trong mỗi vấn đề cụ thể để tiến hành đầu tư không chỉ cần có đủ vốn
mà còn yêu cầu sử dụng nguồn vốn nào hay các nguồn vốn kết hợp với
nhau. Việc phân chia vốn thành nhiều loại nhằm mục đích hiểu rõ bản chất

của phạm trù vốn.
Có thể tóm lược lại: Vốn là hình thái giá trị, là hàng hóa đặc biệt và có
mối quan hệ với thời gian, Nhận thức được các nguồn vốn nhằm phục vụ cho
công tác huy động, sử dụng và quản lý vốn một cách có hiệu quả.
1.2.1.2. Ngân sách nhà nước
Trong tiến trình lịch sử, ngân sách nhà nước đã xuất hiện và tồn tại từ
lâu. Ngân sách nhà nước là một phạm trù kinh tế - lịch sử gắn liền với sự ra
đời của nhà nước, gắn liền với kinh tế hàng hoá - tiền tệ. Ngân sách nhà nước
là khoản tiền của nhà nước dùng để chi tiêu trong một thời gian nhất định.
Thu, chi của ngân sách nhà nước luôn luôn được thực hiện bằng luật
pháp và do luật định (về thu có các luật thuế và các văn bản luật khác; về chi
có các chế độ, chính sách, tiêu chuẩn, định mức). Về ý nghĩa kinh tế, hoạt
động thu, chi của ngân sách thể hiện quá trình phân phối và phân phối lại giá
trị tổng sản phẩm xã hội. Về bản chất xã hội, do nhà nước là đại diện của một
giai cấp, nên ngân sách nhà nước cũng mang tính giai cấp, nó phục vụ trực
tiếp cho yêu cầu thực hiện chức năng của nhà nước trong từng giai đoạn lịch
sử nhất định.
Hệ thống NSNN được hiểu là tổng thể các cấp ngân sách có mối quan hệ
hữu cơ với nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ thu, chi của mỗi cấp ngân sách.
Cấp ngân sách được hình thành trên cơ sở cấp chính quyền Nhà nước.


14
Nhưng để có một cấp ngân sách thì phải có một cấp chính quyền với những
nhiệm vụ toàn diện, đồng thời phải có khả năng nhất định về nguồn thu trên
vùng lãnh thổ mà cấp chính quyền đó quản lý.
Ngân sách nhà nước trước hết phải được lập dự toán (kế hoạch), dự
toán ngân sách là tổng thể về thu, chi tài chính của các quỹ tiền tệ do Chính
phủ và chính quyền địa phương các cấp sử dụng hàng năm. Để có hiệu lực,
hàng năm, dự toán ngân sách phải được Quốc hội và Hội đồng nhân dân các

cấp phê duyệt. [11, tr.136].
Quản lí sử dụng NSNN là một bộ phận trong công tác quản lí NSNN nói
chung. Theo nghĩa rộng quản lí sử dụng NSNN được hiểu là việc sử dụng
NSNN làm công cụ quản lí hệ thống xã hội thông qua việc sử dụng những chức
năng vốn có của nó. Còn theo nghĩa hẹp, quản lí sử dụng NSNN là quản lí phần
đầu ra của ngân sách thông qua các định mức, qui định chi tiêu hiện hành của
mỗi quốc gia.
1.2.2. Các nguồn vốn ngân sách cho hoạt động y tế
Đối với lĩnh vực y tế, Nhà nước có thể sử dụng nhiều cách thức can thiệp
khác nhau như: hành chính - luật pháp, các công cụ kinh tế tài chính, hay thông
qua các hoạt động của các cơ sở y tế công lập tác động đến chăm sóc sức khỏe
của nhân dân. Mỗi loại công cụ có những đặc trưng vai trò riêng và thể hiện sự
tác động với những cách thức khác nhau, nhưng để ngành y tế phát triển được
một cách đồng bộ cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội thì vốn giữ vai trò trọng
yếu, vừa hỗ trợ và kích thích, vừa tạo áp lực để y tế phát triển theo hướng công
bằng, hiệu quả.
Tác động của nguồn lực tài chính đến chăm sóc sức khỏe được thực hiện
thông qua sử dụng các công cụ tài chính chủ yếu như: ngân sách nhà nước, bảo
hiểm y tế, viện phí và viện trợ nước ngoài (ODA, WB, phi chính phủ...). Các
nguồn này đều là nguồn tài chính hỗ trợ cho ngành y tế của các nước nghèo và
đang phát triển. Bằng việc tạo lập và sử dụng đúng đắn các quỹ tiền tệ của Nhà


15
nước như quỹ ngân sách giành cho y tế, quỹ bảo hiểm y tế,... nhằm chia sẻ gánh
nặng chi phí y tế giữa các nhóm tuổi, giữa các tầng lớp dân cư khác nhau trong
xã hội. Để huy động và phát huy tối đa những tác động tích cực và hạn chế tiêu
cực đến sự phát triển của sự nghiệp chăm sóc sức khỏe nhân dân, cần phải lựa
chọn đúng mục tiêu, đối tượng, đồng thời phải sử dụng đồng bộ và tổng hợp các
nguồn vốn đó nhằm khơi dậy các nguồn lực của đất nước cho phát triển sự

nghiệp y tế.
Bất cứ quốc gia nào cũng đang phải giải quyết vấn đề huy động nguồn
lực tài chính như thế nào để đáp ứng được nhu cầu sử dụng dịch vụ y tế ngày
càng tăng của người dân cũng như sự leo thang của chi phí y tế. Các chiến
lược cung cấp tài chính cho y tế là một trong những công cụ quan trọng nhất
để đạt được các mục tiêu đã đề ra về hiệu quả kinh tế, công bằng trong cung
cấp tài chính và khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khoẻ thiết yếu theo
nhu cầu. Các nguồn thu từ thuế, bảo hiểm y tế xã hội, bảo hiểm y tế tự nguyện
và chi trả từ người dân là những phương thức chủ yếu cung cấp tài chính cho
y tế. Mỗi phương thức tác động khác nhau đến khả năng tiếp cận dịch vụ y tế,
quá trình KCB và giá dịch vụ và tất nhiên, đến việc phân phối chi phí y tế cho
những người sử dụng dịch vụ y tế.
Khả năng tiếp cận tới dịch vụ chăm sóc sức khoẻ và gánh nặng tài
chính ở các nhóm đối tượng khác nhau trong xã hội bị ảnh hưởng mạnh mẽ
bởi phương pháp cung cấp tài chính cho hệ thống chăm sóc sức khoẻ. Trên
thế giới hiện có nhiều mô hình tài chính khác nhau để giải quyết vấn đề chăm
sóc sức khoẻ cho người dân nhưng nhìn chung đều từ 3 loại hình sau:
- Loại hình ngân sách cho hoạt động y tế
Đầu tiên cần chú ý rằng ngân sách được hình thành chủ yếu là từ thuế
của nhân dân. Sử dụng một bộ phận ngân sách cho hoạt động y tế chính là sử
dụng một phần thuế của người dân để tiến hành các hoạt động y tế. Loại
hình này thực hiện theo nguyên tắc: tất cả mọi loại hình rủi ro đều được bù


16
đắp, mở rộng bảo hiểm tới toàn thể dân chúng, quyền được hưởng dịch vụ
được xem là một quyền do đóng phí mà có, tất cả mọi công dân được nhận
những dịch vụ như nhau và nhà nước chịu trách nhiệm đảm bảo một phần
lớn tài chính.
Nhà nước cung cấp tiền qua kho bạc, qua nguồn thu ngân sách từ thuế

phân bổ lại cho khu vực y tế. Nước Anh là điển hình cho mô hình này. Ở Anh
vẫn có một số hãng BHYT tư nhân thực hiện bảo hiểm y tế bổ sung cho
những người có điều kiện tham gia, dù tất cả mọi người đều sử dụng dịch vụ
y tế Nhà nước. Một số nước cũng sử dụng loại hình này như các nước ở bán
đảo Scandinavia, Tây Ban Nha, Italia. Nước ta, trong giai đoạn kế hoạch hoá
tập trung cũng thực hiện các hoạt động y tế trên cơ sở sử dụng ngân sách nhà
nước. Hình ảnh ở cơ chế kế hoạch hoá tập trung nước ta cũng cho thấy nếu
nguồn ngân sách hạn chế thì việc chi cho hoạt động y tế sẽ rất eo hẹp. Đây
chính là nguyên nhân của tình trạng các cơ sở y tế phát triển không theo kịp
nhu cầu của nhân dân.
- Loại hình bảo hiểm y tế xã hội
Hình thức sơ đẳng nhất là các quỹ tương hỗ, bệnh nhân đóng tiền vào
quỹ tương hỗ theo mức thu nhập; khám chữa bệnh tại bệnh viện và được quỹ
tương hỗ thanh toán chi phí cho bệnh viện. Chính phủ hỗ trợ một phần chi phí
từ ngân sách, nhưng số tiền chủ yếu là từ nguồn đóng góp của người tham gia
theo hình thức thuế thu nhập. Năm 1883, luật BHYT xã hội đầu tiên được nhà
nước Đức ban hành. Các nước Pháp, áo, Bỉ, Hà Lan, Thụy Sĩ, Nhật Bản lần
lượt ban hành và thực hiện chính sách BHYT xã hội. Sau đó các nước Đông
Âu cũng thiết kế loại hình tương tự.
BHYT xã hội không phải là một chính sách mới trên thế giới. Hầu hết
các nước công nghiệp phát triển, trừ Mỹ đều thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân
dưới hình thức này hay hình thức khác. Ngày nay, BHYT toàn dân đã trở
thành nguồn chi trả chính cho các dịch vụ y tế của các nước đang phát triển


17
như Kenia, Israen, Brazil, Ai Cập, Bermuda, Mexico, Costa Rica.
- Loại hình hệ thống y tế theo thị trường
Nước Mỹ là điển hình của loại hình này với hệ thống chăm sóc có quản
lý, cùng với sự phát triển của loại hình bảo hiểm y tế thương mại. Hệ thống

chăm sóc có quản lý là một loại hình tổ chức chăm sóc sức khỏe hoàn toàn tư
nhân, không liên quan tới nhà nước, bệnh nhân muốn vào viện thì phải đến
khám bệnh tại phòng khám của bác sĩ chăm sóc sức khỏe ban đầu - "người
giữ gôn” trong một mạng lưới khép kín do các công ty bảo hiểm y tế tổ chức.
Như vậy, khi xây dựng chính sách vốn cho y tế, mặc dù phải thừa nhận
nếu thiếu hình thức vốn viện phí lúc này sẽ khó khăn cho sự phát triển hệ thống
y tế, nhưng về lâu dài vốn cho y tế dựa vào viện phí không phải là mô hình có
nhiều ưu điểm. Đặc biệt viện phí chỉ có thể phát huy được những ưu điểm của
nó khi chất lượng của dịch vụ y tế phải được cải thiện cùng với sự chi trả tiền
trực tiếp đó và có những công cụ hữu hiệu để đảm bảo cho người nghèo tiếp
cận được với dịch vụ y tế kỹ thuật cao. Tuy nhiên, xét dưới nhiều khía cạnh
khác nhau, có thể thấy những tác động tích cực của viện phí đối với sự phát
triển y tế trong giai đoạn hiện nay.
Nếu xét về tính hiệu quả thì viện phí đã có tác động tích cực trong việc
đem lại các nguồn lực mới, tạo điều kiện cho việc cải thiện, nâng cấp, duy trì
chất lượng dịch vụ, cải thiện vấn đề đạo đức trong cơ sở y tế. Thu viện phí
còn có giá trị trong việc tránh tâm lý lạm dụng thường gặp trong trường hợp
có BHYT hay Nhà nước bao cấp hoàn toàn. Điều này sẽ hạn chế được tình
trạng những dịch vụ không cần thiết, tự phòng bệnh tốt hơn để tránh nguy cơ
phải bỏ tiền túi ra mua dịch vụ y tế. Đồng thời, xóa bỏ thói quen được phục
vụ vô điều kiện, mà không biết mình phải có trách nhiệm gì trong việc đóng
góp, xây dựng ngành y tế và góp phần chăm lo sức khỏe cộng đồng.
Còn nếu xét dưới góc độ công bằng thì thu viện phí tạo điều kiện thuận
lợi cho việc tiếp cận dịch vụ y tế và gián tiếp làm tăng tính công bằng cho


18
những người sẵn sàng chi trả trực tiếp. Hơn nữa, thực hiện thu viện phí sẽ
đảm bảo nguyên lý hưởng lợi "ai hưởng lợi thì người đó phải trả tiền" là hợp
lý. Và nếu có được nguồn thu viện phí tăng lên ở các vùng giàu, người giàu,

Nhà nước có thể dùng nguồn ngân sách khan hiếm để phân bổ cho vùng
nghèo, người nghèo hoặc cung cấp cho các trung tâm chăm sóc sức khỏe ban
đầu, nơi người nghèo thường sử dụng dịch vụ. Bằng việc bao cấp chéo này sẽ
cải thiện được vấn đề công bằng trong khám chữa bệnh.
Nhưng cũng có một số quan niệm cho rằng thu viện phí là một cách tài
trợ thiếu công bằng nhất, luỹ thoái nhất, vì nó đặt gánh nặng chi trả lên vai
những người kém may mắn trong xã hội (người nghèo, người già, trẻ em,
những người tàn tật...). Và khả năng tái phân bổ giữa các vùng giàu, nghèo
qua viện phí cũng rất hạn chế. Các địa phương giàu thường dễ thu hơn nên
thu nhập của người lao động ở các cơ sở y tế cũng cao hơn những địa phương
nghèo. Điều này càng làm tăng thêm tình trạng thiếu công bằng về nguồn
nhân lực, trình độ y tế giữa các vùng. Do vậy, viện phí thường không được
coi là phương án lựa chọn cung cấp tài chính lâu dài, tuy nhiên viện phí cũng
có thể phát huy được những ưu điểm của nó khi chất lượng của dịch vụ y tế
được cải thiện cùng với sự trả tiền trực tiếp đó và có những công cụ hữu hiệu
đảm bảo cho người nghèo tiếp cận được với dịch vụ y tế.
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới có nền kinh tế thị trường phát
triển không coi viện phí là một mô hình lựa chọn về mặt tài chính cho hệ
thống y tế mà xem như một công cụ quản lý, ví dụ khuyến khích bệnh nhân
tìm kiếm dịch vụ y tế tại các tuyến cho phù hợp với điều kiện của mình.
1.3. HIỆU QUẢ SỬ DỤNG VỐN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC CHO HOẠT ĐỘNG Y TẾ

1.3.1. Hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhà nước
Hiệu quả sử dụng vốn NSNN là một khái niệm rất rộng và tổng hợp
bao hàm ý nghĩa toàn diện về kinh tế, chính trị và xã hội
Hiệu quả là chỉ tiêu phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố của lao động,


19
các tiềm năng, ứng dụng khoa học công nghệ, cải tiến các biện pháp quản lý,

… để tạo ra kết quả hoạt động (sản xuất, dịch vụ, công tác,…) sao cho kết quả
đạt được tối đa, còn chi phí cho kết quả đó ở mức tối thiểu.
Hiệu quả xã hội là phạm trù phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản
xuất xã hội nhằm đạt được các mục tiêu xã hội nhất định. Các mục tiêu xã hội
thường là giải quyết công ăn, việc làm; xây dựng cơ sở hạ tầng; nâng cao phúc
lợi xã hội, mức sống và đời sống văn hoá, tinh thần cho người lao động; đảm bảo
và nâng cao sức khoẻ cho người lao động, đảm bảo vệ sinh môi trường;...
Hiệu quả kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt các
mục tiêu kinh tế của một thời kỳ nào đó. Hiệu quả kinh tế thường được
nghiên cứu ở giác độ quản lí vĩ mô.
Hiệu quả kinh tế - xã hội phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản
xuất - xã hội để đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội nhất định. Hiệu quả
kinh tế - xã hội gắn với nền kinh tế hỗn hợp và được xem xét ở góc độ quản lí
vĩ mô.
Hiệu quả kinh doanh là phạm trù phản ánh mặt chất lượng các hoạt
động kinh doanh, phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực sản xuất (lao
động, máy móc thiết bị, nguyên liệu, tiền vốn) trong quá trình tiến hành các
hoạt động kinh doanh.
Từ các khái niệm trên, tác giả đưa ra khái niệm về hiệu quả sử dụng
vốn NSNN: Hiệu quả sử dụng vốn NSNN là một phạm trù kinh tế được đo
bằng các kết quả về mặt xã hội gắn với nhiệm vụ y tế so với các chi phí mà
NSNN đã bỏ ra trong quá trình thực hiện nhiệm vụ y tế đó.
Nếu ký hiệu:

K là kết quả nhận được
C là chi phí
H là hiệu quả sử dụng vốn

Thì có: H = K/C.
Hiệu quả được tính trên cơ sở sử dụng hai chỉ tiêu là kết quả (đầu ra) và



20
chi phí (các nguồn lực đầu vào). Như vậy, kết quả hoạt động là cơ sở để tính
hiệu quả kinh tế; kết quả và hiệu quả đều là mục tiêu cần đạt tới của hoạt
động kinh tế nhưng trong nhiều trường hợp người ta sử dụng hiệu quả như
công cụ để nhận biết khả năng tiến tới mục tiêu cần đạt là kết quả.
Hiệu quả kinh tế - xã hội và hiệu quả kinh doanh là hai phạm trù khác
nhau, giải quyết ở hai góc độ khác nhau song có quan hệ biện chứng với
nhau. Hiệu quả kinh tế - xã hội đạt mức tối đa là mức hiệu quả thoả mãn tiêu
chuẩn hiệu quả Pareto. Trong thực tế, do các doanh nghiệp cố tình giảm chi
phí kinh doanh biên cá nhân làm cho chi phí kinh doanh này thấp hơn chi
phí kinh doanh biên xã hội nên có sự tách biệt giữa hiệu quả kinh doanh và
hiệu quả xã hội.
Lấy ví dụ đơn giản: nếu nhận thức không đúng đắn, các bệnh viện đã
giảm thiểu các chi phí cần thiết cho việc đảm bảo môi trường như không xây
dựng hoặc xây dựng lò xử lý rác thải không đúng các tiêu chuẩn cần thiết.
Điều này đã dẫn đến, phía trước là hoạt động chữa bệnh, đảm bảo sức khoẻ
cho người bị bệnh; còn phía sau lại trở thành một trung tâm truyền bệnh khá
nguy hiểm cho người dân.
Hiệu quả kinh tế - xã hội của việc sử dụng vốn NSNN chính là kết quả
so sánh giữa các lợi ích xã hội mang lại với số chi phí để tạo ra lợi ích đó. Thể
hiện bằng công thức:
Các lợi ích mang lại

Hiệu quả sử dụng
=
Vốn NSNN

Tổng chi phí để tạo ra lợi ích đó


Chính vì vậy việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN là một trong những
nhiệm vụ hàng đầu của nền kinh tế, của các cấp, các ngành; là một đòi hỏi
khách quan của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước, là một biện


21
pháp tích cực để giải quyết đúng đắn mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng
kinh tế ở tốc độ cao, bền vững với khả năng tích luỹ có hạn của nền kinh tế.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN sẽ góp phần làm tăng đầu tư
tài sản cố định, tăng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng có quy mô ngày càng
lớn hơn. Nếu hiệu quả sử dụng vốn ngân sách đạt cao sẽ tạo điều kiện thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Ngược lại nó sẽ ảnh hưởng bất lợi đến nền kinh tế
như phá sản, làm tăng nợ nước ngoài,... Vì vậy việc đánh giá hiệu quả đầu tư
ngân sách là việc làm cần thiết, giúp cho các nhà hoạch định chiến lược phát
triển kinh tế xã hội, các nhà quản lý ra các quyết định chuẩn xác về chiến
lược đầu tư ngân sách trong từng thời kỳ, nhằm đem lại hiệu quả kinh tế - xã
hội cao nhất.
- Hiệu quả sử dụng vốn là công cụ quản trị nói chung, quản lý và sử dụng vốn
nói riêng:
Bản chất của phạm trù hiệu quả đã chỉ rõ trình độ sử dụng các nguồn
lực như: trình độ sử dụng các nguồn lực làm việc càng cao, đơn vị càng có
khả năng tạo ra kết quả cao trong cùng một nguồn lực đầu vào hoặc tốc độ
tăng kết quả lớn hơn so với tốc độ tăng việc sử dụng các nguồn lực đầu vào.
Do đó xét trên phương diện lí luận và thực tiễn, phạm trù hiệu quả sử dụng
vốn đóng vai trò là một công cụ quản trị rất quan trọng trong việc đánh giá,
so sánh, phân tích kinh tế nhằm tìm ra một giải pháp sử dụng vốn tối ưu
nhằm đạt mục tiêu tối đa. Do phạm trù hiệu quả nói chung và hiệu quả sử
dụng vốn nói riêng có tầm quan trọng đặc biệt nên trong nhiều trường hợp
người ta coi nó không chỉ như phương tiện để đạt kết quả cao mà còn như

chính mục tiêu cần đạt.
- Hiệu quả sử dụng vốn là chỉ tiêu dùng để phân tích, đánh giá và lựa chọn
các phương án hành động:
Theo phương pháp này, người ta so sánh các chỉ tiêu hiệu quả sử dụng
vốn của các phương án khác nhau với nhau. Phương án được coi là có hiệu


22
quả cao hơn về mặt lượng là phương án có tất cả các chỉ tiêu trội hơn hoặc
nhóm các chỉ tiêu chính trội hơn các phương án khác.
1.3.2. Sự cần thiết phải huy động và sử dụng có hiệu quả vốn ngân sách
nhà nước cho hoạt động y tế
Sức khỏe là vốn quí nhất của con người và toàn xã hội, một xã hội
muốn phát triển được trước hết con người trong xã hội đó phải có sức khỏe để
làm việc. Nhìn chung, mọi loài tồn tại được là nhờ cơ chế sinh sản nhưng
khác với loài vật, loài người không những tồn tại mà còn tìm ra các giải pháp
để tự phát triển sức khỏe (cao hơn, kéo dài tuổi thọ, giảm tỷ lệ sinh, chết,
khỏe hơn,...). Trong thực tế có một số chủng tộc người do điều kiện sống khắc
nghiệt, thiếu kiến thức và giải pháp đầu tư cho sức khỏe nên đã đứng trên bờ
tiệt chủng. Khác với các nguồn lực khác, vốn con người vừa tạo ra cung vừa
tạo ra cầu, biết điều tiết mối quan hệ cung cầu đó trong vấn đề sức khỏe. Tức
là, một mặt con người sử dụng sức khỏe để tạo ra của cải vật chất, mặt khác
sử dụng của cải tạo ra để bồi dưỡng và nâng cao sức khỏe. Sức khỏe vừa là
phương tiện thực thi phát triển kinh tế xã hội, vừa là mục tiêu của phát triển
kinh tế xã hội. Vì vậy, vốn cho y tế vừa là đầu tư cơ bản cho con người, cho
sự phát triển kinh tế xã hội nói chung.
1.3.3. Chỉ tiêu và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả sử dụng vốn ngân sách
nhà nước cho hoạt động y tế
1.3.3.1. Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cho hoạt động y tế
1.3.3.1.1. Các chỉ tiêu chủ yếu đánh giá hiệu quả đầu tư cho hoạt động y tế

Thứ nhất, chỉ tiêu đánh giá tổng hợp
Cũng như các lĩnh vực khác của nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đầu tư
cho hoạt động y tế cũng được đánh giá theo chỉ số ICOR.
Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho hoạt động y tế được thể hiện
thông qua hệ số ICOR: “Tỉ lệ sử dụng vốn để tăng một đồng GDP“
(Increasement Capital Ouput Ratio – ICOR). Vì cho biết để tăng thêm 1 đồng


×