Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Mở rộng hoạt động cho vay của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (424.61 KB, 92 trang )

MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...................................................................................2
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU...................................................................................2
KẾT LUẬN........................................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................89


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHCSXH
NHTM
NHNN
NSNN
TCTD
HĐQT
UBND
TK&VV

Ngân hàng chính sách xã hội
Ngân hàng thương mại
Ngân hàng Nhà nứớc
Ngân sách Nhà nước
Tổ chức tín dụng
Hội đồng quản trị
Uỷ ban nhân dân
Tiết kiệm và vay vốn

DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT...................................................................................2
DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU...................................................................................2



KẾT LUẬN........................................................................................................................87
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................89


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Giải quyết các vấn đề chính sách - xã hội luôn là một trong những việc
được đặc biệt quan tâm trong quá trình phát triển của mọi quốc gia. Mỗi quốc
gia, tuỳ thuộc vào mỗi giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể của mình, vào khả
năng kinh tế và mức độ cần giải quyết đối với các vấn đề xã hội, Chính phủ sẽ
có những chương trình, áp dụng những biện pháp cụ thể thích hợp.
Việt Nam là một quốc gia mà nền kinh tế được xếp vào nhóm các nước
chậm phát triển nhất trên thế giới với cơ sở nền tảng của sự phát triển kinh tế
nghèo nàn, lạc hậu và sự phát triển không đồng đều giữa các vùng, các khu
vực, giữa các tầng lớp dân cư còn khá lớn; đã và đang đặt ra hàng loạt các vấn
đề chính sách - xã hội mà Đảng và Nhà nước cần quan tâm giải quyết.
Từ kinh nghiệm của các quốc gia có hoàn cảnh “tương đồng” với
chúng ta trên thế giới, từ thực tiễn của chính chúng ta về việc giải quyết các
vấn đề chính sách xã hội thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính đối với các đối
tượng chính sách xã hội trong những năm qua, Thủ tướng Chính phủ đã ký
Quyết định số 131/2002/QĐ-TTg ngày 4/10/2002 về việc thành lập NHCSXH
nhằm thống nhất các nguồn lực tài chính, thiết lập một cơ chế tài trợ phù hợp,
góp phần thực hiện tốt nhất mục tiêu hỗ trợ của Nhà nước đối với các đối
tượng chính sách xã hội mà Đảng và Nhà nước đã đề ra.
Việc ra đời NHCSXH đã tạo ra cơ hội cho người nghèo và các đối
tượng chính sách khác tiếp cận với dịch vụ Ngân hàng, giúp các hộ nghèo và
các đối tượng chính sách khác tạo việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống
và từng bước quen dần với nền sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên, hiện nay tỷ lệ

hộ nghèo của nước ta vẫn còn cao (chiếm 19% tổng số hộ gia đình); tỷ lệ hộ


2
thoát nghèo hàng năm tăng nhưng không bền vững, nguy cơ tái nghèo lớn;
đối tượng cho vay còn hạn chế trong khi nhu cầu ngày một tăng. Những điều
này làm chậm tiến độ thực hiện chương trình mục tiêu xóa đói, giảm ngèo của
Đảng và Nhà nước.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên, đề tài “Mở rộng hoạt động cho vay
của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam” được chọn làm đề tài nghiên
cứu. Đây là một lĩnh vực còn nhiều vấn đề cần được nghiên cứu làm rõ thêm
nhằm góp phần nâng cao vai trò của NHCSXH Việt Nam trong công cuộc xóa
đói giảm nghèo.
2. Mục đích nghiên cứu
- Nghiên cứu những lý luận cơ bản về hoạt động cho vay đối với hộ
nghèo và các đối tượng chính sách.
- Đánh giá thực trạng hoạt động cho vay của NHCSXH Việt Nam.
- Đề xuất các giải pháp mở rộng hoạt động cho vay của NHCSXH Việt
Nam, góp phần đẩy nhanh việc thực hiện chương trình mục tiêu xóa đói giảm
nghèo.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng: Đề tài tập trung nghiên cứu một số hoạt động cho vay và
quản lý hoạt động cho vay của NHCSXH Việt Nam.
- Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu một số hoạt động cho vay của
NHCSXH Việt Nam giai đoạn 2003 – 2007.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu trong đó chủ
yếu sử dụng phương pháp thống kê, khảo sát thực tế và phân tích đánh giá có
gắn với các điều kiện lịch sử nhất định.



3
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm những nội dung chính sau:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay của Ngân hàng
Chính sách xã hội.
Chương 2: Thực trạng hoạt động cho vay của NHCSXH Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay của NHCSXH Việt Nam.


4

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA
NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI

1.1 TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH XÃ HỘI
1.1.1 Sự cần thiết của Ngân hàng Chính sách xã hội
Trong qúa trình phát triển của nền kinh tế, dù đạt đến trình độ phát triển
rất cao thì trong xã hội vẫn luôn tồn tại những khu vực, đối tượng khách hàng
có sức cạnh tranh kém, không đủ các điều kiện cơ bản để tiếp cận với dịch vụ
tín dụng của các ngân hàng thương mại (NHTM) như các khu vực miền núi,
vùng sâu, vùng xa do vị trí địa lý hiểm trở, điều kiện thời tiết khí hậu khắc
nghiệt; các lĩnh vực đầu tư mang tính lợi ích công cộng, các lĩnh vực cho mục
tiêu xoá đói giảm nghèo, ổn định xã hội…. Mặt khác, việc đầu tư vốn vào
những vùng và đối tượng khách hàng này rất lớn với chi phí hoạt động cao,
rủi ro lại nhiều, lợi nhuận thấp hoặc không có lợi nhuận. Nên các nhà đầu tư
gần như không có sự đầu tư vào những khu vực này dẫn đến tình trạng những

vùng không phát triển lại càng bị thụt lùi hơn so với các vùng khác; làm cho
sự phân bố kinh tế trong một nước là không cân đối, ảnh hưởng đến sự phát
triển chung của một quốc gia. Vì vậy, để khắc phục tình trạng này nhẵm hỗ
trợ, khuyến khích sự phát triển cho các đối tượng và khu vực có điều kiện,
hoàn cảnh khó khăn trên, tùy điều kiện và nhu cầu của mỗi quốc gia, Chính
phủ thiết lập nên các tổ chức, các kênh tín dụng hoạt động chuyên biệt để cho
vay ưu đãi đối với các khu vực và đối tượng đặc biệt này. Trong hoạt động
của mình thì sinh lời không phải là mục tiêu hàng đầu cần đạt tới của các tổ
chức này và ngân hàng chính sách (NHCS) là một tổ chức trong số những
tổ chức đó.


5
Như vậy, Ngân hàng chính sách là một tổ chức tín dụng mà hoạt
động chủ yếu là thực hiện tín dụng theo chính sách và kế hoạch của Nhà
nước.
Ngân hàng chính sách có thể phân thành 2 loại theo đối tượng phục vụ
như sau:
+ Ngân hàng chính sách phục vụ các chính sách phát triển còn gọi là
Ngân hàng phát triển.
+ Ngân hàng chính sách phục vụ các chính sách xã hội còn gọi là Ngân
hàng chính sách xã hội.
Khác với hệ thống NHTM với mục tiêu hoạt động chung là nhằm tối đa
hóa giá trị vốn chủ sở hữu, là cơ sở để đảm bảo sự an toàn cho quá trình hoạt
động của mình. NHCSXH là công cụ để các cơ quan quản lý trực tiếp thực
hiện các chính sách của mình nhằm mục tiêu đạt được sự tăng trưởng bền
vững cho đất nước. Nếu như phần lớn hoạt động cho vay của các NHTM là
tài trợ với số tiền lớn cho các doanh nghiệp, cá nhân khi có phương án sản
xuất hiệu quả, đạt lợi nhuận cao và có tài sản đảm bảo tương ứng với giá trị
của khoản tiền vay nên tỷ lệ rủi ro của các khoản vay thấp và luôn mang lại

một tỷ lệ lợi nhuận nhất định cho ngân hàng. Trong khi đó các món vay chính
sách thường nhỏ, lẻ, thời gian dài, lãi suất ưu đãi cho các đối tượng và đầu tư
vào các lĩnh vực nhiều rủi ro, lại không có tài sản thế chấp, chi phí quản lý
vốn vay cao, thường không hoặc đem lại rất ít giá trị gia tăng về mặt giá trị
cho ngân hàng so với vốn cho vay ban đầu, tuy nhiên vẫn phải đảm bảo cho
vay có hoàn trả cả gốc lẫn lãi; nhưng nó lại có tác dụng quan trọng đối với
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn việc làm, cải thiện điều kiện sống của
dân cư, phân phối lại thu nhập trong xã hội đảm bảo sự phát triển đồng đều
của quốc gia.


6
Một điểm khác biệt nữa với NHTM là: vốn của các NHTM chỉ một
phần nhỏ là do nguồn ngân sách Nhà nước (NSNN) cấp ban đầu khi mới
thành lập, còn phần lớn là huy động nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường cũng
như việc bổ sung lợi nhuận hàng năm vào nguồn vốn; trong khi đó vốn của
NHCSXH lại có nguồn gốc từ NSNN là chủ yếu ( không chỉ được cấp ban
đầu mà còn được bổ sung hàng năm tuỳ theo kế hoạch phát triển của Nhà
nước), tỷ trọng vốn huy động trên thị trường thường nhỏ.
Như vậy, NHCSXH với những hoạt động mang tính chuyên biệt của
mình đã đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế, xã hội:
Thứ nhất, trong điều kiện nền kinh tế thị trường ngày càng hoàn chỉnh
thì khoảng cách giàu nghèo càng lớn, do đó mỗi quốc gia cần phải có chính
sách hợp lý để quan tâm và bảo đảm cho vấn đề con người, an sinh xã hội cho
người nghèo, vùng nghèo... Là công cụ để Nhà nước thực hiện các chương
trình tín dụng chính sách, NHCSXH đã góp phần thực hiện mục tiêu: từng
bước nâng cao điều kiện sống của dân cư, phân phối lại thu nhập trong xã hội
đảm bảo sự phát triển cân đối của quốc gia vì một xã hội ổn định, dân giàu,
nước mạnh, được thể hiện qua việc:
- Đối với các đối tượng chính sách: Đã tạo ra một kênh tín dụng được

sử dụng một cách hiệu quả cho những đối tượng, khu vực chính sách hơn các
loại hình cấp phát vốn hỗ trợ khác do: (i) việc chuyển tải vốn được thực hiện
theo phương thức cho vay có hoàn trả nên nguồn vốn được người sử dụng vốn
tính toán hiệu quả; vốn được sử dụng quay vòng nhiều lần, giúp nhiều người
được hưởng lợi từ nguồn tín dụng ưu đãi này. Mặt khác, người vay vốn tìm
cách sử dụng vốn vào mục đích sản xuất kinh doanh, tạo ra thu nhập để cải
thiện đời sống và trả được nợ; (ii) vốn cho vay giúp người vay vốn khắc phục
tư tưởng tự ti, ỷ lại, tự nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh của mình tạo


7
tiền đề hòa nhập sản xuất hàng hóa. Từng bước giúp người dân nghèo tự vươn
lên, nâng cao chất lượng cuộc sống của mình, giảm sự phân hóa giàu nghèo
trong xã hội.
- Đối với các khu vực khó khăn, những ngành nghề, những doanh
nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực công cộng mà bản thân hoạt động đó không
có lãi nhưng lại rất cần cho sự phát triển chung của xã hội, đòi hỏi Nhà nước
phải có sự trợ giúp thông qua việc cho vay vốn với điều kiện ưu đãi. Từ đó,
tạo tiền đề cho các vùng kinh tế kém phát triển do môi trường và điều kiện tự
nhiên khắc nghiệt có điều kiện tiếp cận với nền kinh tế thị trường, rút ngắn
khoảng cách lạc hậu so với các ngành, vùng kinh tế phát triển khác.
Thứ hai, việc ra đời NHCSXH làm lành mạnh hoá hệ thống tài
chính – ngân hàng khi tách rời tín dụng chính sách ra khỏi tín dụng
thương mại. Với xu thế cải tổ hệ thống NHTM thuộc sở hữu Nhà nước
theo hướng cổ phần hoá thì việc tách bạch tín dụng chính sách ra khỏi tín
dụng thương mại là một việc làm tất yếu vì bản thân các NHTM không
thể gánh nổi chi phí để cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính
sách khác. Việc tách bạch này sẽ trao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm
cho các ngân hàng, giúp các NHTM không còn phải chịu áp lực từ những
khoản cho vay theo chỉ định có rủi ro cao và chi phí lớn. Từ đó giúp các

NHTM phát triển cả về chất lượng cũng như quy mô, đồng thời việc sử
dụng nguồn vốn của Nhà nước cho tín dụng chính sách ngày càng có tính
chuyên biệt, minh bạch và hiệu quả hơn.
1.1.2 Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng chính sách xã hội
NHCSXH là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ nên các hoạt
động cơ bản của ngân hàng bao gồm: huy động vốn, cho vay và các hoạt động
dịch vụ khác.


8
1.1.2.1 Huy động vốn
Xuất phát từ tính chất các món cho vay mà ngân hàng cung ứng có tỷ lệ sinh
lời thấp (cho vay xóa đói giảm nghèo, tạo việc làm, phát triển vùng khó khăn…),
thời gian dài, rủi ro cao nên để đảm bảo cho hoạt động bền vững của ngân hàng,
nguồn vốn huy động của NHCSXH có những đặc điểm riêng biệt, bao gồm:
Vốn do ngân sách Nhà nước cấp:
Trong khi hoạt động đặc trưng của các NHTM là “đi vay” để cho vay,
hay nói cách khác là đi huy động các nguồn vốn nhàn rỗi trên thị trường để
cho vay đáp ứng nhu cầu vốn cho sự phát triển kinh tế thì nguồn vốn của
NHCSXH lại được tạo lập chủ yếu từ nguồn ngân sách Nhà nước dưới các
hình thức như:
- Cấp vốn điều lệ: Nhà nước thể hiện vai trò chủ sở hữu bằng việc cấp
vốn điều lệ cho NHCSXH. Vốn điều lệ được cấp lần đầu khi ngân hàng mới
đi vào hoạt động và có kế hoạch cấp bổ sung vào các năm tiếp theo. Nguồn
vốn này, một phần được sử dụng để hình thành nên các tài sản cố định của
ngân hàng (trụ sở, phương tiện làm viêc, đi lại, thiết bị…), một phần hoà cùng
các nguồn vốn khác để thực hiện hoạt động cho vay.
- Vốn cấp hàng năm để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách:
Hàng năm NHCSXH được tiếp nhận một lượng tiền được trích ra từ Ngân
sách Nhà nước để thực hiện các chương trình tín dụng cho các đối tượng

chính sách xã hội. Nguồn vốn này ổn định nhưng số lượng còn phụ thuộc vào
việc phân bổ ngân sách cho việc thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia
hàng năm của Nhà nước.
Nguồn trái phiếu Chính phủ:


9
Nguồn vốn của Chính phủ huy động dưới các hình thức phát hành phát
hành trái phiếu Chính phủ trong và ngoài nước để chỉ định thực hiện chương
trình tín dụng chính sách: Đây là nguồn vốn rẻ, có thời gian sử dụng dài. Tuy
nhiên lượng vốn huy động được không nhiều và không phải lúc nào cũng có
thể huy động được, lại phải phân chia cho nhiều mục tiêu phát triển của đất
nước nên NHCSXH chỉ dựa vào nguồn vốn này khi mới đi vào hoạt động
hoặc khi gặp khó khăn trong thanh toán.
Vốn do Ngân sách các địa phương hỗ trợ:
Hàng năm các địa phương đều trích từ ngân sách của mình một lượng
vốn nhất định chuyển cho NHCSXH để thực hiện các chương trình tín dụng
chính sách trên địa bàn. Tuy nhiên nguồn vốn này thường rất ít và phụ thuộc
vào điều kiện riêng của từng địa phương.
Vốn vay lãi suất thấp:
- Vốn vay ODA: Là nguồn vốn của các tổ chức Chính phủ và phi
Chính phủ trong và ngoài nước dành cho chương trình tín dụng chính sách
của Chính phủ. Vốn từ nguồn này có khối lượng lớn, lãi suất tương đối
thấp, thời gian sử dụng dài, có thời gian ân hạn, kèm theo chuyển giao công
nghệ, chuyên gia, cung cấp thông tin và đào tạo. Tuy vậy, nguồn vốn này
thường kèm theo các điều kiện kinh tế, chính trị mà ngân hàng không dễ
thực hiện, nhiều khi những điều kiện này làm cho vốn đắt lên, hiệu quả sử
dụng thấp đi.
- Vốn vay Ngân hàng Nhà nước, Kho bạc Nhà nước: NHCSXH tận
dụng nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các tổ chức này để vay với lãi suất ưu

đãi (thường là không phải chịu lãi suất, hoặc lãi suất rất thấp so với thị
trường) phục vụ cho các chương trình cho vay của mình.


10
Nguồn vốn huy động và vay lãi suất thị trường:
Để bổ sung nguồn phục vụ cho hoạt động của mình, NHCSXH còn tiến
hành huy động nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi của các cá nhân và các tổ chức
trong và ngoài nước dưới các hình thức như:
- Nhận tiền gửi từ các TCTD Nhà nước: NHCSXH tập trung vận động
các TCTD Nhà nước như: Bảo hiểm Tiền gửi, Bảo hiểm xã hội, các dự án,
các NHTMQD, các công ty tài chính Nhà nước… gửi tiền vào ngân hàng
dưới hình thức tiền gửi thanh toán, tiền gửi không hưởng lãi hoặc hưởng lãi
suất hợp lý.
- Vốn huy động của Tổ chức, cá nhân trên thị trường. Bao gồm: tiền
gửi, tiết kiệm, đi vay các tổ chức, nhận vốn ủy thác của các tổ chức, cá nhân
trong và ngoài nước, phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng có bảo lãnh của
Chính phủ…Tuy nhiên, khối lượng nguồn vốn huy động trên thị trường của
NHCSXH phụ thuộc vào khối lượng và kế hoạch cấp bù phần chênh lệch lãi
suất từ NSNN.
Do đặc điểm cơ cấu nguồn vốn phần lớn phụ thuộc vào nguồn NSNN
nên khối lượng cũng như tỷ trọng các nguồn vốn của NHCSXH tăng trưởng
phải xác định dựa trên kế hoạch được Chính phủ phê duyệt hàng năm.
1.1.2.2 Hoạt động cho vay:
Hoạt động cho vay chủ yếu của NHCSXH là cho vay theo các
chương trình chính sách của Nhà nước với những điều kiện ưu đãi nhất
định về thủ tục, tài sản đảm bảo, thế chấp cũng như về lãi suất thấp hơn
so với các NHTM; bao gồm các khoản cho vay để hỗ trợ chính sách phát
triển kinh tế của Chính phủ như cho vay: các hộ gia đình nghèo để duy
trì sản xuất và ổn định đời sống, cho vay hỗ trợ các chính sách xã hội,



11
giáo dục, y tế, giúp những đối tượng chính sách có cơ hội học tập, học
nghề, tạo công ăn việc làm nhằm mục tiêu xóa đói giảm nghèo, tạo điều
kiện tiền đề phát triển các vùng kinh tế khó khăn… đảm bảo cho nền
kinh tế phát triển cân đối, xã hội ổn định, giảm khoảng cách giàu nghèo
trong xã hội. Vì vậy, tuy các hoạt động cho vay này không đáp ứng được
các tiêu chí thương mại ( thường là các khoản cho vay chỉ định của Nhà
nước, mang lại rất ít hoặc không mang lại lợi nhuận cho ngân hàng)
nhưng lại có tác dụng chính trị, xã hội rất quan trọng trong sự phát triển
của một quốc gia .
Bên cạnh hai hoạt động cơ bản trên, giống như các NHTM khác, cùng
với hoạt động huy động vốn và sử dụng vốn, NHCSXH cũng thực hiện một
số hoạt động khác như: trung gian thanh toán, bảo lãnh …
1.2 ĐẶC THÙ HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NHCSXH:
Khách hàng của NHCSXH phần lớn là những đối tượng hầu như
không đủ điều kiện để có thể tiếp cận được với vốn tín dụng thông
thường của các NHTM với các tiêu chuẩn khắt khe về thủ tục, tài sản
đảm bảo thế chấp…. Do đó khả năng sinh lời từ hoạt động cho vay
những đối tượng khách hàng này của NHCSXH là rất thấp, thậm chí
không thể có được. Chính vì lẽ đó, NHCSXH thường hoạt động không
vì mục tiêu lợi nhuận mà mục tiêu hoạt động của nó là nhằm thực hiện
các chương trình mục tiêu quốc gia trong kế hoạch phát triển kinh tế
của Nhà nước .


12
Đây là điểm khác biệt rõ nét giữa hoạt động của NHCSXH với các
NHTM. Hoạt động của NHTM là kinh doanh tiền tệ; ngân hàng tồn tại và

phát triển vì tạo ra một mức chênh lệch dương giữa lãi suất cho vay và lãi
suất huy động. Lợi nhuận được hình thành từ nghiệp vụ này. Trong hoạt
động của mình, các NHTM luôn quan tâm tới lợi nhuận, tạo sức cạnh
tranh để chiếm lĩnh thị trường đối với tất cả các dịch vụ mà NHTM cung
ứng. Trong khi đó, NHCSXH ngoài nguồn vốn đựợc chính phủ cấp thực
hiện các dự án thì NHCSXH phải đi huy động vốn với lãi suất thị trường
để cho vay với lãi suất ưu đãi (thường là thấp hơn so với lãi suất huy
động) đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác theo chỉ định
của Chính phủ.
1.2.1 Đặc thù về đối tượng cho vay:
NHCSXH thực hiện cho vay các đối tượng khách hàng, các dự án phát
triển, các đối tượng đầu tư theo chỉ định của Chính phủ.
Đối tượng khách hàng của NHCSXH có thể là:
- Đối với khu vực kinh tế nông thôn: hỗ trợ phát triển kinh tế hộ gia
đình, tạo điều kiện được học nghề hoặc đi lao động xuất khẩu nhằm từng
bước cải thiện và ổn định cuộc sống.
- Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, các cơ sở
sản xuất kinh doanh của người tàn tật…: cho vay để tạo việc làm nhằm
giải quyết nguồn lao động dư thừa trong xã hội, tăng thu nhập cho
người dân.
- Đối với các tổ chức kinh tế, hộ sản xuất kinh doanh thuộc những khu
vực kinh tế kém phát triển, vùng sâu, vùng xa: cho vay nhằm đáp ứng nhu cầu
vốn sản xuất kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và nâng cao đời sống ở


13
những khu vực này, từ đó tạo cân đối trong phát triển kinh tế giữa các vùng
trong đất nước.
- Đối với học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn: cho vay trang trải
các chi phí học tập trong suốt thời gian đào tạo đối với những gia đình không

đủ chi phí cho con em mình đi học.
Ngoài ra còn một số các đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội khác
tùy theo quy định của Nhà nước trong từng thời kỳ phát triển khác nhau.
Đây là những khách hàng rất ít có các điều kiện để tiếp cận với dịch vụ
tín dụng của các NHTM; là các khách hàng dễ bị tổn thương, cần có sự hỗ
trợ tài chính từ Chính phủ và cộng đồng để vươn lên tự cải thiện điều kiện
sống của chính họ cũng như giúp cho sự phát triển của đất nước được ổn
định, bền vững.
1.2.2 Đặc thù về hoạt động cho vay:
Xuất phát từ đặc thù về đối tượng khách hàng vay vốn thường là
những đối tượng dễ bị tổn thương, gặp khó khăn, sống ở vùng sâu, vùng xa,
vùng kinh tế kém phát triển, ít có điều kiện tiếp cận với dịch vụ tín dụng
của các NHTM… nên hoạt động cho vay của NHCSXH cũng có những đặc
thù riêng như sau:
- Món cho vay nhỏ, chi phí quản lý cao, đồng thời việc hoàn trả tiền
vay có thể thực hiện làm nhiều lần (theo tuần, tháng hoặc quí) hoặc trả một
lần vào cuối kỳ hạn vay. Tuy nhiên, hình thức hoàn trả được đánh giá cao là
trả nhiều lần theo định kỳ thường xuyên (tuần, tháng). Tần số trả tiền vay phụ
thuộc vào nhu cầu của khách hàng vay, khả năng quản lý của ngân hàng. Ưu
điểm của hình thức này là: giúp khách hàng dễ kiếm những món nhỏ để trả
nợ; khi kết thúc thời hạn vay còn tài sản mua sắm được từ vốn vay; kích thích


14
khách hàng năng động trong việc sử dụng vốn, biết tính toán làm ăn; hạn chế
rủi ro mất vốn cho ngân hàng; vốn quay vòng nhanh nên nhiều người sẽ
được vay hơn; và đảm bảo mối quan hệ thường xuyên giữa ngân hàng và
khách hàng.
- Vốn tín dụng đầu tư mang tính rủi ro cao, chẳng hạn các hộ gia đình
nghèo thiếu vốn sản xuất, chủ yếu sống ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa,

nơi môi trường thiên nhiên bị tàn phá, thường xuyên xảy ra bão lụt, hạn hán
gây thiệt hại lớn cho người dân về vật chất. Mặt khác, bản thân họ dân trí
thấp, thiếu kiến thức làm ăn nên trong sản xuất kinh doanh dễ bị thua lỗ hoặc
mất trắng. Vì vậy, việc sử dụng vốn tín dụng của những khách hàng này rất dễ
gặp rủi ro.
- Các quy định về đảm bảo tiền vay, các quy trình về thẩm định dự án,
các thủ tục và quy trình vay vốn, quy định mức đầu tư tối đa, thời hạn vay
vốn, quy định về trích lập và xử lý rủi ro, quy trình xử lý nghiệp vụ có những
khác biệt so với các quy định của NHTM như: do các đối tượng vay là những
những có rất ít tài sản, nên yêu cầu về tài sản thế chấp cho món vay là không
thích hợp, vì vậy ngân hàng có thể sử dụng một số hình thức thay cho tài sản
thế chấp như: Nhóm liên đới (cho vay theo nhóm, thông qua việc sử dụng
nhóm là công cụ bảo lãnh cho vốn vay của các thành viên trong nhóm đó),
cho vay dựa trên uy tín và tính cách khách hàng, bảo lãnh của bên thứ ba…
trường hợp phải thế chấp chỉ áp dụng đối với một số trường hợp cho vay nhất
định; Về thời hạn cho vay cũng được xác định dựa trên chu kỳ sản xuất kinh
doanh của người vay, khi có những rủi ro do điều kiện khách quan gây ra
phần lớn ngân hàng sẽ trình Chính phủ để xử lý theo hướng xoá, khoanh,
giãn nợ tuỳ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của những rủi ro và nguồn
NSNN có thể cấp bù.


15
- Thực thi các chính sách tín dụng có ưu đãi như: ưu đãi về các điều
kiện vay vốn, ưu đãi về lãi suất cho vay…thường là thấp hơn rất nhiều so với
việc đi vay của các NHTM. Tuy nhiên mức lãi suất ở đây cũng phải đảm bảo
cho ngân hàng có thể tự trang trải chi phí trong quá trình hoạt động của mình,
đảm bảo kinh doanh đạt được sự bền vững. Có như thế mới có thể tạo điều
kiện cho người nghèo và các đối tượng chính sách khác có cơ hội tiếp cận lâu
dài với các dịch vụ ngân hàng.

- Không như các NHTM thường giải ngân trực tiếp cho đối tượng được
vay vốn, NHCSXH đa phần áp dụng phương thức giải ngân uỷ thác qua các
tổ chức trung gian như: các tổ chức tín dụng, các tổ chức chính trị - xã hội…
Tuy nhiên để đảm bảo mục tiêu phát triển bền vững, hoạt động tín dụng
đối với các đối tượng chính sách cũng giống như các hoạt động cho vay khác
của các NHTM đều tuân thủ hai nguyên tắc đó là:
(i) Vốn vay phải được sử dụng đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp
đồng ký kết giữa các bên.
(ii) Các món vay phải được hoàn trả đầy đủ, đúng hạn cả gốc và lãi.
1.3 MỞ RỘNG CHO VAY CỦA NHCSXH:
1.3.1 Quan điểm mở rộng hoạt động cho vay của NHCSXH :
Mở rộng là làm cho phạm vi và quy mô trở nên rộng lớn hơn trước.
Theo định nghĩa này thì mở rộng cho vay tức là việc các ngân hàng thực hiện
việc tăng trưởng theo chiều rộng tạo ra sự gia tăng về mặt quy mô, khối
lượng, số lượng hoạt động cho vay nhằm đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của
khách hàng.
Có thể khẳng định rằng, mở rộng cho vay là một hướng đi hợp lý và tất
yếu của mọi ngân hàng trong quá trình hình thành và phát triển. NHCSXH là


16
một ngân hàng đặc thù hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên quan điểm
cũng như mục tiêu mở rộng hoạt động cho vay của ngân hàng là nhằm đến
việc thực hiện tốt công tác xoá đói giảm nghèo. Trong đó tập trung vào các
vấn đề sau:
- Tập trung các nguồn lực tài chính của Nhà nước và các tổ chức nước
ngoài để thực hiện tín dụng chính sách. Đảm bảo mọi người nghèo và các đối
tượng chính sách khác đều tiếp cận được nguồn vốn chính sách.
- Từng bước cân đối cơ cấu cho vay các đối tượng chính sách cho phù
hợp với nhu cầu và sự phát triển kinh tế của đất nước trong từng giai đoạn cụ

thể. Phấn đấu 100% vốn tín dụng chính sách của Chính phủ đến được với hộ
nghèo và các đối tượng chính sách.
- Tất cả hộ nghèo và đối tượng chính sách có nhu cầu vay vốn đều được
hỗ trợ và tư vấn cách thức sử dụng vốn sản xuất, chuyển mạnh sang đầu tư
theo các chương trình dự án, tạo điều kiện cho người dân nâng cao thu nhập,
cải thiện đời sống và thoát nghèo một cách bền vững.
Quan điểm mở rộng cho vay trên không chỉ là đòn bẩy kích cầu, góp
phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng thu nhập cho người dân
mà đi đối với đó là hàng loạt các vấn đề xã hội được giải quyết, tạo công ăn
việc làm, giúp người dân cải thiện mức sống, giảm tệ nạn xã hội… đảm bảo
nền kinh tế phát triển, xã hội ổn định.
1.3.2 Các chỉ tiêu đo lường mức độ mở rộng cho vay của NHCSXH:

 Tốc độ tăng trưởng tín dụng: Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ tăng
trưởng dư nợ tín dụng đối với các đối tượng chính sách qua các năm.
Công thức tính:
Tốc độ tăng trưởng dư nợ tín

=

Dư nợ tín dụng đối với các đối

x 100%


17
dụng đối với các đối tượng

tượng chính sách năm sau
Dư nợ tín dụng đối với các đối


chính sách

tượng chính sách năm trước
Đối với một ngân hàng, việc tăng trưởng tín dụng hàng năm phù hợp
với quy mô nguồn vốn, là một trong những chỉ tiêu quan trọng làm tăng
doanh thu của ngân hàng, giúp ngân hàng đạt được mục tiêu sinh lời. Nhưng
đối với NHCSXH chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng phản ánh nỗ lực
của ngân hàng trong việc chuyển tải vốn tới đối với hộ nghèo và các đối
tượng chính sách khác.

 Mức tăng dư nợ bình quân một khách hàng.
Chỉ tiêu này cho ta biết số tiền ngân hàng hiện đang cho vay đối
với một khách hàng bình quân năm nay tăng hay giảm so với năm trước
là bao nhiêu. Nó phản ánh khả năng huy động các nguồn lực tài chính
trong và ngoài nước của ngân hàng trong việc cho vay chính sách. Dư
nợ bình quân tăng sẽ hỗ trợ cho các đối tượng chính sách có điều kiện
để đầu tư vào các lĩnh vực khác nhau và tăng tính hiệu quả của các
khoản vay.
Công thức tính dư nợ bình quân của một khách hàng:
Dư nợ bình quân một khách

Tổng dư nợ tín dụng
Tổng khách hàng có quan hệ vay vốn
hàng
Công thức tính tốc độ tăng trưởng dư nợ bình quân của một khách hàng:
Tốc độ tăng trưởng dư nợ
bình quân một khách hàng

=


=

Dư nợ bình quân một khách hàng
năm sau
Dư nợ bình quân một khách hàng

x 100%

năm trước

 Số lượng đối tượng chính sách được vay vốn.
Chỉ tiêu số lượng đối tượng chính sách được vay vốn ngân hàng là chỉ


18
tiêu đánh giá về mặt lượng đối với công tác tín dụng. Đối với NHCSXH,
trong điều kiện còn rất nhiều đối tượng chính sách chưa được tiếp cận với
nguồn vốn chính thức của ngân hàng, nhu cầu vốn xoá đói giảm nghèo
ngày càng tăng thì chỉ tiêu số lượng đối tượng chính sách được vay vốn là
chỉ tiêu quan trọng đánh giá sự phát triển của NHCSXH trong mở rộng
hoạt động tín dụng của mình.

 Tỷ lệ nợ quá hạn trong hoạt động cho vay của ngân hàng
Đây là chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng trong quá trình mở rộng
cho vay đối với bất kỳ một tổ chức tín dụng nào, bởi nó phản ánh việc sử
dụng vốn và khả năng trả nợ của khác hàng với các tổ chức tín dụng.
Tỷ lệ nợ quá hạn =

Dư nợ quá hạn đối tượng chính sách

Tổng dư nợ tín dụng đối tượng chính sách

x 100%

Tỷ lệ nợ quá hạn tỷ lệ nghịch với chất lượng tín dụng, tỷ lệ nợ quá hạn
cao đồng nghĩa với việc nhiều khoản vay bị khách hàng sử dụng sai mục đích
hoặc không mang lại hiệu quả. Nhiều khoản nợ đến hạn nhưng vì nhiều lý do
không thu hồi được. Một bộ phận của nợ quá hạn mà ngân hàng phải quan
tâm là nợ khó đòi, đó là một sự cảnh báo cho ngân hàng rằng hy vọng thu lại
tiền cho vay trở nên rất mong manh. Nợ quá hạn tăng sẽ làm suy giảm khả
năng tài chính của ngân hàng, sự phát triển bền vững trong hoạt động ngân
hàng bị ảnh hưởng.
Hiện có hai quan điểm khác nhau xác định Nợ quá hạn: (1) Nợ quá hạn
được xác định là khoản nợ do khách hàng sử dụng sai mục đích xin vay, các
khoản nợ đến hạn nhưng khách hàng cố tình không trả hoặc đến kỳ hạn cuối
cùng hộ vay không được gia hạn nợ. (2) Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần
hoặc toàn bộ nợ gốc hoặc lãi đã quá hạn. Thực tế, trước đây các NHTM thực
hiện chuyển nợ quá hạn theo quan điểm 1. Hiện nay Ngân hàng Nhà nước quy


19
định các NHTM áp dụng quan điểm 2 khi chuyển nợ quá hạn, quan điểm này
phù hợp với thông lệ quốc tế.
Đặc điểm quan trọng trong cho vay hộ nghèo và đối tượng chính sách
là đối tượng khách hàng rộng lớn, món vay nhỏ, chủ yếu sản xuất kinh doanh
trong lĩnh vực nông nghiệp, cơ sở hạ tầng yếu kém nên không tránh khỏi
những rủi ro mất vốn. Tuy nhiên, đối với các món cho vay đối tượng chính
sách, việc ngân hàng áp dụng biện pháp chuyển nợ quá hạn, lãi phạt quá hạn,
ngừng không tiếp tục cho vay nữa… thường không mang lại hiệu quả mong
muốn bằng việc đánh giá từng bước tình hình sử dụng vốn của hộ, phân tích

nguyên nhân rủi ro, tìm biện pháp giải quyết. Hộ nghèo và các đối tượng
chính sách phần lớn là rất sòng phẳng, họ không thể trả được nợ chủ yếu là
do thất bại trong làm ăn do các nguyên nhân khách quan hoặc chưa có kinh
nghiệm trong làm ăn. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số bộ phận sử
dụng vốn vay sai mục đích, cố ý chây ỳ không trả nợ.
Quan hệ tín dụng là quan hệ “vay - trả” giữa khách hàng với ngân hàng,
nên để chất lượng tín dụng tốt thì khả năng thu hồi vốn (cả gốc và lãi) của
ngân hàng phải cao. Tuy nhiên, trong quan hệ tín dụng chính sách, nhiều đối
tượng khách hàng vay xong đã không sử dụng mà cất giữ để đến hạn đem đến
trả nợ ngân hàng, điều đó cho thấy vốn của ngân hàng đã được hoàn trả đầy
đủ nhưng chất lượng về mặt hiệu quả kinh tế xã hội xét trên giác độ sử dụng
vốn là chưa đảm bảo. Do vậy, nếu chỉ dựa vào tiêu chí này cũng chưa đủ đảm
bảo chất lượng tín dụng đuợc đánh giá tốt.

 Đa dạng hoá các chương trình cho vay
Để mở rộng cho vay thì ngân hàng phải không ngừng đa dạng hoá các
chương trình cho vay sao cho phù hợp với nhu cầu vay vốn của các đối tượng
chính sách. Mục tiêu của NHCSXH là đảm bảo tất cả các đối tượng chính


20
sách đều tiếp cận được nguồn vốn chính sách vì vậy việc đa dạng hoá các
chương trình cho vay là một làm tất yếu. Đa dạng hoá các chương trình cho
vay các hộ thuộc diện chính sách là nhằm đáp ứng các nhu cầu phát sinh ngày
càng lớn của các đối tượng này được vay vốn trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đồng thời hướng người vay sử dụng vốn vào mục đích phát triển sản xuất
kinh doanh, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân…
tuỳ điều kiện và thế mạnh của từng địa phương, gia đình mà cán bộ ngân hàng
cần có những tư vấn cho hộ vay nên sử dụng vốn vào những lĩnh vực sao cho
có hiệu quả. Qua đó, vốn vay được sử dụng hiệu quả, đảm bảo khả năng quay

vòng vốn để tiếp tục cho vay của ngân hàng.
1.4 CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN MỞ RỘNG CHO VAY CỦA NHCSXH
1.4.1

Những nhân tố khách quan:

 Môi trường kinh tế, xã hội
Trong một môi trường kinh doanh lành mạnh, một xã hội ổn định sẽ là
môi trường tốt cho tất cả các hoạt động kinh doanh của các chủ thể trong xã
hội phát triển tốt. Với khách hàng đặc trưng riêng của NHCSXH thì việc sản
xuất kinh doanh có thuận lợi sẽ giúp cho vốn của ngân hàng sử dụng hiệu quả
hơn, tỷ lệ thu hồi vốn cao hơn giảm thiểu sự “xói mòn” vốn của ngân hàng.
Do đó ngân hàng sẽ đảm bảo được nguồn lực của mình để có thể mở rộng
tín dụng chính sách, giúp nhiều người dân được hưởng lợi hơn góp phần
thực hiện mục tiêu quốc gia vì sự phát triển cân đối của nền kinh tế và ổn
định xã hội.

 Môi trường pháp lý
Trong nền kinh tế, mọi thành phần kinh tế đều có quyền tự chủ về hoạt
động kinh doanh của mình nhưng phải nằm trong khuôn khổ pháp luật quy
định. Hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động tín dụng chính sách


21
của NHCSXH nói riêng cũng không nằm ngoài vòng kiểm soát đó. Nó phải
tuân theo các quy định có liên quan của Chính phủ và NHNN ban hành. Khi
các văn bản pháp luật có liên quan được quy định chặt chẽ, rõ ràng, đầy
đủ, đồng bộ sẽ giúp cho việc thực hiện chính sách tín dụng thuận lợi và
kịp thời, tránh sự chồng chéo giữa các ban ngành cũng như việc tín dụng
chính sách đến tay đúng đối tượng. Do vậy, NHCSXH không chỉ nâng cao

được chất lượng tín dụng tạo điều kiện để ngân hàng mở rộng hoạt động
này cũng như tạo được lòng tin của người dân đối với chính sách của Đảng và
Nhà nước.

 Môi trường tự nhiên:
Do đặc điểm các khoản cho vay của NHCSXH là cho vay các đối
tượng ở khu vực nông thôn có điều kiện khó khăn trong sản xuất kinh
doanh, các vùng sâu, vùng xa có điều kiện kinh tế kém phát triển... Nên
khi xảy ra thiên thiên tai, lũ lụt, hạn hán, dịch bệnh, chiến tranh,… thì đây
là các đối tượng dễ bị ảnh hưởng nhất, tác động rất lớn đến hoạt động cho
vay của ngân hàng. Vì do năng lực tài chính của người vay thấp hoặc
không có, điều kiện làm ăn không thuận lợi dẫn đến người vay gặp khó
khăn hoặc không có khả năng trả nợ, buộc ngân hàng phải sử dụng các
chính sách như giãn nợ, khoanh nợ thậm chí phải xoá nợ cho những khoản
vay này … Tất cả những điều này dẫn đến thất thoát nguồn vốn cũng như
hiệu quả hoạt động tín dụng của ngân hàng bị ảnh hưởng, làm chậm quá
trình phát triển của ngân hàng.
14.2. Những nhân tố chủ quan:


22
Việc mở rộng cho vay của NHCSXH không chỉ chịu tác động của các
nhân tố khách quan mà còn bởi các nhân tố chủ quan của chính các chủ thể
tham gia vào các hoạt động này:

 Chính sách tín dụng đối với đối tượng chính sách
Chính sách tín dụng của ngân hàng là cơ sở quan trọng để đảm
bảo cho hoạt động tín dụng đi đúng quỹ đạo, góp phần quyết định đến
sự thành công hay thất bại của một ngân hàng. Do chính sách tín dụng
áp dụng đối với đối tượng chính sách có sự khác biệt với các chính sách

tín dụng thông thường, đó có thể là một số ưu đãi về đối tượng vay vốn,
chính sách lãi suất... Vì vậy, có thể nảy sinh đối tượng vay vốn không
phải là hộ chính sách (cho vay không đúng đối tượng) và sử dụng vốn
vay sai mục đích, cụ thể là:
Cho vay bao cấp của Chính phủ đã dẫn đến tình trạng lựa chọn
người vay bị sai lệch, những hộ gia đình không thuộc đối tượng chính
sách nhưng có nhiều mối quan hệ hơn, được tin tưởng và có khả năng tài
chính hơn thường cố gắng tìm mọi cách để tiếp cận đến nguồn vốn rẻ, vì
vậy mà người nghèo thường khó chen vào các chương trình ưu đãi này.
Không những thế, cho vay theo hình thức này chính là nguyên nhân làm
cho người vay chuyển vốn vay cho các mục tiêu khác dẫn đến kết cục là
vốn được cung ứng cho các hoạt động kinh tế thứ yếu và nhiều khi
không cần thiết trong khi đó mục tiêu phát triển chính lại không được
thực hiện . Hậu quả làm xói mòn vốn của ngân hàng, không đủ để cung
cấp vốn cho các hộ chính sách khác nữa.
Chính sách lãi suất ưu đãi cũng thường nảy sinh một số mặt tiêu
cực như: Tạo cho khách hàng tâm lý ỷ lại, tính toán làm ăn không cẩn


×