MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT, SƠ ĐỒ VÀ BẢNG BIỂU
..........................................................................................................................................................
2
LỜI MỞ ĐẦU
..........................................................................................................................................................
3
CHƯƠNG 1: MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO CỦA NGÂN HÀNG
CHÍNH SÁCH
..........................................................................................................................................................
5..........................................................................................................................................................
1.1. Tổng quan về Ngân hàng Chính sách
.......................................................................................................................................
5
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Chính sách
............................................................................................................................
5
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Chính sách
............................................................................................................................
6
1.2. Hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của Ngân hàng Chính sách
.......................................................................................................................................
10
1.2.1. Đặc điểm của hộ nghèo
.......................................................................................................................................
10
1.2.2. Các quan điểm về cho vay đối với người nghèo
.......................................................................................................................................
12
1.2.3. Hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của NHCS
.......................................................................................................................................
17
- 1 -
1.3. Mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của NHCS
.......................................................................................................................................
24
1.3.1. Các chỉ tiêu đo lường mức độ mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của NHCS
.......................................................................................................................................
24
1.3. 2. Các nhân tố ảnh hưởng đến mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của NHCS
.......................................................................................................................................
27
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO Ở NHCSXH
VIỆT NAM
..........................................................................................................................................................
35
2.1. Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam ..........................................................
.....................................................................................................................................
35
2.1.1. Quá trình hình thành NHCSXH Việt Nam
.......................................................................................................................................
35
2.1.2. Các hoạt động cơ bản của NHCSXH Việt Nam
.......................................................................................................................................
39
2.2. Thực trạng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam
.......................................................................................................................................
46
2.2.1.Các đặc điểm của hộ nghèo ở Việt Nam
.......................................................................................................................................
46
2.2.2. Nhu cầu về vốn của các hộ nghèo ở Việt Nam
.......................................................................................................................................
48
.......................................................................................................................................
2.2.3.Hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH Việt nam
- 2 -
.......................................................................................................................................
51
2.3. Đánh giá quá trình mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam
.......................................................................................................................................
56
2.3.1. Kết quả đạt được trong mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH
Việt nam
.......................................................................................................................................
56
2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân trong mở rộng cho vay đối với hộ nghèo
ở NHCSXH Việt nam
.......................................................................................................................................
59
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO
Ở NHCSXH VIỆT NAM
..........................................................................................................................................................
68
3.1. Chiến lược xoá đói giảm nghèo của NHCSXH Việt nam trong thời gian tới
.......................................................................................................................................
68
3.2. Giải pháp nhằm mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt nam
.......................................................................................................................................
71
3.3. Kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với hộ nghèo tại NHCSXH Việt nam
.......................................................................................................................................
81
KẾT LUẬN
..........................................................................................................................................................
88
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
..........................................................................................................................................................
89
- 3 -
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHCSXH Ngân hàng Chính sách xã hội
NHCS Ngân hàng Chính sách
NHNo Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Việt nam
NHNg Ngân hàng Phục vụ Người nghèo
QTDND Quỹ Tín dụng Nhân dân
Bộ LĐ, TB&XH Bộ Lao động, thương binh và xã hội
UBND Ủy ban nhân dân
DNNN Doanh nghiệp Nhà nước
ODA Vốn hỗ trợ phát triển chính thức
WB Ngân hàng Thế giới
ADB Ngân hàng Phát triển Châu á
HĐQT Hội đồng quản trị
NGO Tổ chức phi Chính phủ
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
Sơ đồ 1: Vòng luẩn quẩn của đói nghèo.
.......................................................................................................................................
12
Sơ đồ 2: Mô hình tổ chức của Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam
.......................................................................................................................................
39
Bảng 1: Cơ cấu vốn của NHNg và NHCSXH
.......................................................................................................................................
42
Bảng 2: Dư nợ cho vay các đối tượng chính sách của NHNg và NHCSXH
- 4 -
.......................................................................................................................................
45
Bảng 3: Các chỉ tiêu đo lường mức độ mở rộng cho vay đối với hộ nghèo tại NHCSXH
.......................................................................................................................................
56
Bảng 4: Dự tính tình trạng nghèo đói của Việt nam tới năm 2010
.......................................................................................................................................
67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Nghèo đói là tình trạng chung của nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia
đang phát triển, trong đó có Việt nam. Theo tính toán, trong thời gian tới, tỷ lệ
nghèo đói của Việt nam theo chuẩn nghèo quốc tế vẫn đạt ở mức khoảng 30%,
đây được đánh giá là bộ phận rất khó thoát nghèo, chủ yếu là các hộ nông dân từ
nông thôn di cư ra thành thị và các nhóm dân tộc thiểu số.
Nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo được xác định là nhiệm vụ mang tính chất xã
hội hóa ở Việt nam, song hiện nay đã được giao cho một tổ chức trực tiếp chịu
trách nhiệm, đó là Ngân hàng Chính sách xã hội Việt nam. Sự ra đời của
NHCSXH có ý nghĩa to lớn, lần đầu tiên trong lịch sử, nước ta đã thiết lập được
một kênh tín dụng chính thức hỗ trợ cho hộ nghèo có vốn sản xuất, tạo công ăn
việc làm, tăng thu nhập, từng bước giúp hộ nghèo làm quen với nền sản xuất hàng
hóa, để hộ nghèo có một “địa chỉ” tin cậy khi cần vốn.
Là ngân hàng mới ra đời trên cơ sở tổ chức lại Ngân hàng Phục vụ Người
nghèo và tách ra khỏi Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam,
NHCSXH có rất nhiều việc phải làm trong thời gian tới. Trong điều kiện số hộ
nghèo vẫn ngày càng gia tăng, khả năng hộ nghèo cần vốn được vay vốn ngân
hàng còn hạn chế, nhiệm vụ trước mắt của NHCSXH là cung ứng vốn đến tay
càng nhiều hộ nghèo càng tốt. Vốn xóa đói giảm nghèo đã được tập trung vào một
kênh duy nhất để phân phối đến các đối tượng chính sách, trong đó chủ yếu là hộ
nghèo, theo nguyên tắc tín dụng kết hợp với một số ưu đãi nhằm đưa vốn đến
- 5 -
đúng đối tượng là hộ nghèo cần vốn, bảo toàn và quay vòng vốn, đảm bảo sự bền
vững của ngân hàng…là một trách nhiệm không đơn giản đối với NHCSXH Việt
nam.
Với mục đích phân tích thực trạng cho vay hộ nghèo của NHCSXH từ khi
là Ngân hàng Phục vụ người nghèo, đánh giá những thành tựu và hạn chế của
quá trình cho vay này, trên cơ sở đó đưa ra giải pháp và đề xuất kiến nghị nhằm
mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng trong thời gian tới, tác giả
chọn đề tài: “ Mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của Ngân hàng Chính sách
xã hội Việt nam”.
2. Mục đích nghiên cứu:
- Đề tài làm rõ các vần đề lý thuyết về hộ nghèo, hoạt động cho vay đối với hộ
nghèo của NHCS và các chỉ tiêu đánh giá mức độ mở rộng cho vay hộ nghèo của
NHCS.
- Đánh giá thực trạng mở rộng cho vay hộ nghèo của NHCSXH Việt nam thông
qua các chỉ tiêu lý thuyết và phân tích các hạn chế và nguyên nhân trong mở rộng
cho vay hộ nghèo của ngân hàng.
- Đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở
NHCSXH Việt nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động cho vay hộ
nghèo của NHCS.
- Phạm vi nghiên cứu: Họat động cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH Việt
nam. Đánh giá hoạt động cho vay hộ nghèo đến thời điểm 31/12/2003.
4. Kết cấu của đề tài:
Đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận được kết cấu bao gồm ba chương chính:
Chương 1: Cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng chính sách
Chương 2: Thực trạng mở rộng cho vay đối với hộ nghèo ở NHCSXH Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp mở rộng cho vay đối với hộ nghèo của NHCSXH Việt nam.
- 6 -
- 7 -
CHƯƠNG 1
MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO CỦA
NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH
1.1. TỔNG QUAN VỀ NGÂN HÀNG CHÍNH SÁCH
1.1.1. Khái niệm Ngân hàng Chính sách:
Quá trình phát triển của các trung gian tài chính gắn liền với quá trình phát
triển kinh tế. Các ngân hàng như ngân hàng thương mại (NHTM), ngân hàng đầu
tư (NHĐT), các tố chức tài chính phi ngân hàng (Quỹ đầu tư, Công ty tài chính…)
đóng vai trò ngày càng quan trọng trong thu hút tiết kiệm từ dân cư và tài trợ cho
phát triển, hạn chế rủi ro và tăng khả năng sinh lời cho các hoạt động kinh tế. Mục
tiêu chung của các tổ chức này là an toàn và sinh lời. Nhưng bên cạnh đó cũng có
một số tổ chức hoạt động với mục tiêu và đối tượng phục vụ đặc biệt, sinh lời
không phải là mục tiêu hàng đầu cần đạt tới, ngân hàng Chính sách (NHCS) là
một tổ chức trong số này.
Ngân hàng Chính sách là một tổ chức tín dụng mà hoạt động chủ yếu là
cho vay theo chính sách và kế hoạch của Nhà nước (cho vay chính sách).
Là ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước, NHCS là công cụ để các cơ quan
quản lý trực tiếp thực hiện các chính sách của mình. Các kế hoạch và chính sách
của Nhà nước nhằm mục tiêu đạt được sự tăng trưởng bền vững cho đất nước như
phát triển cao và ổn định, nhiều công ăn việc làm, phân phối thu nhập công bằng,
bảo vệ môi trường sinh thái…hoàn toàn không phù hợp với mục tiêu chung của
các NHTM. Các NHTM được định tính bằng: (i) hoạt động nhằm mục tiêu tối đa
hoá giá trị vốn chủ sở hữu, đây là cơ sở để ngân hàng đạt được sự an toàn trong
suốt quá trình hoạt động, (ii) phần lớn hoạt động cho vay là cho vay thương mại
tức là tài trợ ngắn hạn cho doanh nghiệp (phân biệt với cho vay phi thương mại là
tài trợ cho bất động sản và cho vay tiêu dùng). Trong khi đó, các món cho vay
chính sách thường với số tiền lớn, thời gian dài (chủ yếu trong cho vay đầu tư phát
triển), lãi suất ưu đãi, cho các đối tượng và lĩnh vực nhiều rủi ro (hộ nghèo, nông
dân…), không có tài sản thế chấp, chi phí quản lý vốn vay cao, thường không
- 8 -
hoặc đem lại rất ít giá trị gia tăng cho ngân hàng so với vốn cho vay ban đầu
nhưng lại có tác dụng quan trọng đối với chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tạo công ăn
việc làm, phân phối lại thu nhập của quốc gia. Mặt khác, vốn của ngân hàng
thường có nguồn gốc từ NSNN, tỷ trọng vốn huy động trên thị trường nhỏ.
NHCS là tổ chức tài chính thực hiện tài trợ ưu tiên có hạn chế của Nhà
nước nhằm thực hiện các công cuộc đầu tư đặc biệt, các hoạt động nhằm mục tiêu
phi lợi nhuận càng nhiều thì tính hỗ trợ càng lớn. Để đảm bảo sự tồn tại bền vững
của mình, NHCS được sự hỗ trợ lớn từ phía Nhà nước (cung cấp vốn ưu đãi, cấp
bù lãi suất, bảo lãnh cho các khoản đi vay và cho vay của ngân hàng, không phải
trích dự trữ bặt buộc, miễn thuế thu nhập doanh nghiệp…) và được đặt dưới sự
kiểm soát của các cơ quan quản lý có thẩm quyền. Các hỗ trợ này rất quan trọng,
cho phép ngân hàng đạt được các mục tiêu sinh lời cùng với các mục tiêu kinh tế,
xã hội khác, hỗ trợ càng lớn thì phạm vi hoạt động và ảnh hưởng của ngân hàng
càng rộng và ngược lại. Hoạt động của ngân hàng có sự kiểm soát chặt chẽ của
Nhà nước, trong nhiều trường hợp các cơ quan quản lý đã can thiệp trực tiếp vào
mọi quyết định cho vay của ngân hàng, gây tâm lý ỷ lại, không chịu trách nhiệm
của cán bộ ngân hàng. Các khoản trợ giúp của Nhà nước nếu không có cơ chế sử
dụng và kiểm soát tốt thường là đối tượng của các hoạt động tham nhũng và lãng
phí. Các NHCS thành công đều dựa trên xây dựng mối quan hệ giữa các cơ quan
quản lý Nhà nước và ngân hàng sao cho đảm bảo Nhà nước có hỗ trợ cho ngân
hàng, đồng thời các quyết định cho vay của ngân hàng phải dựa trên tính hiệu quả
của các món vay.
Là công cụ để Nhà nước thực hiện các chính sách và kế hoạch của mình,
NHCS cũng thực hiện các hoạt động cơ bản như các NHTM.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng Chính sách:
NHCS là tổ chức kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ thực hiện các hoạt động
cơ bản là huy động vốn, cho vay và các hoạt động khác.
1.1.2.1. Huy động vốn:
Hoạt động huy động vốn của NHCS xuất phát từ tính chất của các món cho
vay mà ngân hàng cung ứng. Đó là các món vay có tỷ lệ sinh lời thấp (cho vay xoá
- 9 -
đói giảm nghèo, tạo việc làm…), thời gian dài (cho vay đối với đầu tư phát triển),
rủi ro cao nên yêu cầu đối với ngân hàng là phải huy động vốn có lãi suất tương
đối thấp, thời gian sử dụng dài và chịu đựng rủi ro. Vốn cho hoạt động của ngân
hàng bao gồm:
Vốn có nguồn gốc từ Nhà nước:
Nhà nước hỗ trợ vốn cho NHCS thể hiện vai trò chủ sở hữu của Nhà nước
đối với ngân hàng, cung ứng vốn khi ngân hàng mới đi vào hoạt động (vốn ban
đầu) và bổ sung trong quá trình hoạt động khi cần thiết (vốn chủ sở hữu). Nguồn
này một phần được ngân hàng sử dụng để hình thành nên các tài sản cố định của
ngân hàng (trụ sở, phương tiện làm việc và đi lại, thiết bị…), một phần hòa cùng
các nguồn khác để cho vay.
Một phần từ chi NSNN hàng năm cho đầu tư phát triển, từ phát hành trái
phiếu Chính phủ trong và ngoài nước …được chuyển sang thành vốn của ngân
hàng. Tuy vậy, đây là nguồn eo hẹp, phải phân chia cho nhiều mục tiêu của đất
nước nên NHCS chi nên dựa vào nguồn này khi mới đi vào hoạt động hoặc khi
gặp khó khăn trong thanh toán. Vốn từ nguồn này kết hợp với vốn huy động trên
thị trường tạo ra vốn hỗn hợp có lãi suất phù hợp với các món cho vay chính sách
của ngân hàng. Trong một số trường hợp, vốn hỗ trợ của Nhà nước có thể thực
hiện bởi NHTW thông qua các nghiệp vụ mua lại các khoản nợ, bảo lãnh của ngân
hàng, cấp vốn…
Việc gia tăng nhuồn vốn này tùy thuộc vào nhiều yếu tố như: chính sách đối
với các đối tượng chính sách, năng lực tài chính của bản thân NHCS, nhu cầu về
vốn của khách hàng…
Nguồn vốn từ các tổ chức chính trị, xã hội: Đây là một nguồn quan trọng của
ngân hàng. Mục tiêu kinh tế xã hội mà NHCS theo đuổi có thể phù hợp với mục
tiêu hoạt động của nhiều tổ chức chính trị, xã hội, tổ chức Chính phủ và phi Chính
phủ trong và ngoài nước: phát triển ngành, phát triển vùng và khu vực, xoá đói
giảm nghèo…thông qua xây dựng cơ sở hạ tầng, khu công nghiệp…Vốn từ nguồn
này có khối lượng lớn, lãi suất tương đối thấp, thời hạn sử dụng thường là dài hạn,
có thời gian ân hạn, kèm theo chuyển giao công nghệ, chuyên gia, cung cấp thông
- 10 -
tin và đào tạo. Tuy vậy, nguồn vốn này thường kèm theo các điều kiện kinh tế,
chính trị mà ngân hàng không dễ thực hiện và nhiều khi những điều kiện này làm
cho vốn đắt lên và hiệu quả sử dụng thấp đi.
- 11 -
Huy động trên thị trường trong và ngoài nước:
Vốn NHCS huy động trên thị trường bao gồm huy động tiền gửi, tiết kiệm
của dân cư và đi vay. Ngân hàng khuyến khích mở tài khoản tiền gửi và tiết kiệm
đối với các tổ chức và cá nhân có vốn tạm thời nhàn rỗi chưa sử dụng. Đặc biệt,
các NHCS thường tập trung vận động các tổ chức lớn như bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm tiền gửi, các dự án, NHTM, công ty tài chính gửi tiền vào ngân hàng dưới
hình thức tiền gửi thanh toán, tiền gửi không hưởng lãi hoặc hưởng lãi suất thấp.
Ngân hàng phát hành trái phiếu, kỳ phiếu ngân hàng có bảo lãnh của Chính phủ để
huy động vốn trong và ngoài nước. Một số NHCS hiện nay phụ thuộc rất lớn vào
vốn vay từ NHTW, từ các tổ chức tín dụng…Đây là nguồn vốn có vai trò quan
trọng đối với ngân hàng, đánh giá vị thế của ngân hàng trên thị trường tài chính.
Để huy động được nguồn này, chính sách huy động của ngân hàng phải tính
đến khả năng cạnh tranh với các NHTM khác liên quan đến các vấn đề về lãi suất
huy động, hình thức huy động, uy tín của ngân hàng…Một số NHCS được Chính
phủ đảm bảo khả năng thanh toán đối với các nguồn mà ngân hàng huy động vì
ngân hàng hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận nên nếu không được Chính phủ
đảm bảo khả năng thanh toán thì việc huy động vốn của những ngân hàng này sẽ
rất khó khăn.
1.1.2.2. Hoạt động cho vay:
Cho vay theo các chương trình, chính sách (cho vay chính sách) của Nhà
nước là hoạt động chủ yếu của NHCS, bao gồm các khoản cho vay bắt buộc để hỗ
trợ chính sách kinh tế của Chính phủ và cho vay các hoạt động không đáp ứng các
tiêu chí thương mại nhưng lại có tác dụng chính trị, xã hội quan trọng.
Đối với loại thứ nhất thường bao gồm các khoản cho vay như: (1) Cho vay
các ngành công nghiệp có tầm chiến lược quốc gia quan trọng; (2) Cho vay các
công trình tuy khả thi về tài chính nhưng vì quá lớn hoặc thời gian hoàn vốn quá
dài (các công trình đường cao tốc, đường dây tải điện…); (3) Cho vay các doanh
nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ nhưng chưa thể ra quyết định giải thể vì chưa trả
hết nợ…
- 12 -
Loại thứ hai gồm các khoản cho vay (1) Cho vay các hộ gia đình nghèo để
duy trì sản xuất và ổn định đời sống; (2) Cho vay các hộ nông dân là nạn nhân của
thiên tai, bão lụt nhằm khôi phục sản xuất; (3) Cho vay học sinh, sinh viên có
hoàn cảnh khó khăn để đảm bảo điều kiện học tập và tốt nghiệp…
Những khoản cho vay trên tuy khác nhau về đối tượng, thể loại nhưng đều
có đặc điểm chung nhất là không đáp ứng tiêu chí thương mại trong hoạt động của
ngân hàng. Cụ thể, khi thực hiện các khoản cho vay này, ngân hàng có thể không
có lợi nhuận tức là doanh thu từ cho vay không đủ bù đắp các chi phí bỏ ra.
Như vậy, cho vay chính sách là hoạt động của ngân hàng không đáp ứng
các tiêu chí kinh doanh thương mại, mang lại ít hoặc không mang lại lợi nhuận
cho ngân hàng, nhưng các ngân hàng được chỉ định bắt buộc phải thực hiện nhằm
hỗ trợ các chính sách kinh tế, chính trị và xã hội của bộ máy quản lý Nhà nước.
Theo tính chất của đối tượng vay, cho vay chính sách có thể chia làm ba loại:
- Cho vay xoá đói giảm nghèo, đặc biệt là các hộ nông dân nghèo, đây là một
chương trình kinh tế, xã hội rộng lớn ở nhiều nước đang phát triển, nhất là các
nước ở Châu á, Châu phi.
- Cho vay hỗ trợ các chính sách xã hội, giáo dục, y tế, tạo công ăn việc làm.
Chính phủ hỗ trợ các đối tượng thuộc chính sách xã hội thông qua cho vay với các
điều kiện ưu đãi giúp họ có cơ hội học tập, chữa bệnh, học nghề hoặc xuất khẩu
lao động, loại cho vay này khác với cho vay tiêu dùng ở điều kiện và lãi suất cho
vay ưu đãi.
- Cho vay DNNN thua lỗ hoặc không đủ điều kiện vay thông thường hoặc với các
điều kiện ưu đãi. Đây là những khoản cho vay không có tính thương mại, thực hiện
theo chiến lược phát triển của quốc gia nhằm trợ giúp các doanh nghiệp Nhà nước
khó khăn hoặc những khu vực kinh tế Nhà nước bắt buộc phải duy trì vì lợi ích
quốc gia. Ngay cả các nước phát triển như Nhật, Mỹ vẫn tồn tại loại hình cho vay
này.
Mặc dù không mang lại lợi nhuận, nhưng ngân hàng chính sách và cho vay
chính sách vẫn tồn tại không chỉ ở nền kinh tế tập trung bao cấp mà cả trong kinh
- 13 -
tế thị trường, không chỉ ở các nước đang phát triển mà ở cả các nước tư bản phát
triển. Đó là do:
Thứ nhất, do yêu cầu của chính sách kinh tế, xã hội. Với vai trò quản lý xã
hội về mọi mặt, bộ máy các cơ quan quản lý Nhà nước phải hoạch định các chính
sách kinh tế, xã hội hợp lý nhằm đảm bảo cho nền kinh tế phát triển cân đối, đảm
bảo sự tồn tại cho một số ngành, lĩnh vực cần thiết cho xã hội nhưng bản thân nó
lai không mang lại lợi nhuận; bảo đảm cho xã hội ổn định, không có chênh lệch
giàu nghèo quá đáng tức là phải đầu tư phát triển những ngành kinh tế then chốt
đồng thời có chiến lược xoá đói giảm nghèo hợp lý. Trong phạm vi chức năng,
nghiệp vụ của mình, các tổ chức kinh tế xã hội của Nhà nước, trong đó có NHTM
quốc doanh phải có trách nhiệm thực hiện chính sách, yêu cầu của Chính phủ.
Thứ hai, do tính chất nguồn vốn và yêu cầu quay vòng vốn. Trong nhiều
trường hợp, Nhà nước không thể dùng quỹ NSNN để cấp phát trực tiếp cho doanh
nghiệp, hộ gia đình. Với các nguồn vốn được cấp và tự huy động, các NHTM có
thể cho vay cho các đối tượng theo các nguyên tắc tín dụng và qua đó sẽ bù đắp
một phần chi phí của ngân hàng. Qua đó, vốn sẽ được quay vòng, tạo điều kiện
mở rộng đối tượng được hưởng lợi, góp phần cho các chính sách của đất nước
được thực hiện trong giai đoạn dài.
Bên cạnh hai hoạt động cơ bản trên, giống như các NHTM khác, cùng với
hoạt động huy động và sử dụng vốn, NHCS cũng thực hiện một số hoạt động khác
như: bảo lãnh, trung gian thanh toán, tư vấn…
1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI HỘ NGHÈO CỦA NHCS
1.2.1. Đặc điểm của hộ nghèo:
Theo định nghĩa của WB, nghèo là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương
diện: thu nhập hạn chế, hoặc thiếu cơ hội tạo ra thu nhập, thiếu tài sản để đảm bảo
tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất
lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và khó khăn tới những người có khả năng
giải quyết, cảm giác bị xỉ nhục, không được người khác tôn trọng
- 14 -
Thứ nhất, hộ nghèo chủ yếu là các hộ nông dân. Hộ nông dân nghèo với
trình độ học vấn thấp và khả năng tiếp cận đến các thông tin và kỹ năng chuyên
môn bị hạn chế, có ít đất canh tác hoặc không có đất nhưng có rất ít cơ hội có thể
tạo ra thu nhập ổn định từ các hoạt động phi nông nghiệp. Những người sống dưới
ngưỡng nghèo thường là thành viên của những hộ có chủ hộ là nông dân tự do.
Thứ hai, hộ nghèo là những hộ không có khả năng có được một dạng thu
nhập ổn định nào đó từ công ăn việc làm hay từ các khoản chuyển nhượng của
phúc lợi xã hội. Tại nhiều quốc gia, nhiều vùng, chỉ tiêu “có một công việc tốt”
hay “có lương hưu” là những tiêu chuẩn để xếp các hộ vào các nhóm sung túc hơn
mặc dù thu nhập từ những nguồn này thường không cao song ý nghĩa chủ yếu của
chúng là sự ổn định và đảm bảo.
Thứ ba, hộ nghèo là những hộ có trình độ học vấn thấp. Do vậy, bản thân
các hộ nghèo đều hiểu được rằng trình độ học vấn là chìa khoá quan trọng để thoát
nghèo. Ở thành thị, các thành viên trong hộ cần phải có trình độ cao hơn mức phổ
thông cơ sở thì mới có cơ hội kiếm được một công việc ổn định; ở nông thôn, các
hộ thường gắn tầm quan trọng của học hành với khả năng nhận biết những cơ hội
mới và nắm bắt được các kỹ thuật mới, khả năng biết đọc, biết viết, khả năng về
tính toán, ngôn ngữ, kỹ thuật là chỉ tiêu được đánh giá cao. Việc tiếp xúc với cán
bộ khuyến nông, quan hệ với những người ở ngoài cộng đồng, tiếp cận với thông
tin và các phương tiện thông tin đại chúng đã trở thành những lĩnh vực ưu tiên
quan trọng đối với các hộ nghèo.
Thứ tư, các hộ có nhiều trẻ em và phụ nữ sống độc thân thường được các
hộ khác coi là nghèo. Các hộ này không chỉ có ít lao động hơn so với số miệng ăn
trong gia đình mà còn phải trả các chi phí giáo dục lớn hơn cũng như hay phải
chịu thêm các chi phí khám chữa bệnh gây mất ổn định cho kinh tế gia đình. Do
vậy, khi chi phí cho y tế và giáo dục tăng lên thì các hộ này thường cho con thôi
học là điều hiển nhiên. Những hộ bị mất đi lao động trưởng thành do bị chết, bỏ
gia đình đi hoặc tách ra khỏi hộ thường được cộng đồng xếp vào nhóm hộ nghèo
nhất, đây thường là hộ do phụ nữ làm chủ hộ. Theo thống kê, phụ nữ sống độc
thân phần lớn là nghèo hơn so với nam giới sống độc thân.
- 15 -
Thứ năm, các hộ nghèo thường là nạn nhân của tình trạng nợ nần. Rất
nhiều hộ nghèo rơi vào tình trạng nợ nần do phải đi vay để trang trải các khoản chi
tiêu khẩn cấp như chi phí cho y tế, hoặc đi vay để đầu tư vào một vụ kinh doanh bị
thất bại. Nợ nần gây ra áp lực kinh tế và tâm lý nặng nề cho các thành viên trong
hộ.
Cuối cùng, hộ nghèo là hộ rất dễ bị tổn thương. Nguy cơ dễ bị tổn thương
bởi những khó khăn theo thời vụ, bởi những đột biến xảy ra với hộ gia đình và
những cuộc khủng hoảng xảy ra với cộng đồng là một khía cạnh quan trọng của
nghèo đói. Những hộ nghèo ít vốn hoặc ít đất đai (hoặc cả hai) và những hộ chỉ có
khả năng trang trải được các chi tiêu lương thực và phi lương thực thiết yếu khác
đều rất dễ bị tổn thương trước mọi biến cố khiến họ hoặc phải bỏ thêm chi phí
hoặc phải giảm thu nhập. Tuy vậy, tình trạng không an toàn không chỉ đơn thuần
là vấn đề kinh tế. Do thiếu thông tin về các quy hoạch phát triển đô thị và giải
phóng mặt bằng nên nhiều hộ không thể biết được thời gian họ còn được phép
sống ở khu vực cư trú hiện tại, các tệ nạn xã hội như nghiện hút, trộm cắp làm cho
các thành viên trong hộ cảm thấy không an toàn…
Cơ hội là một trong những kênh quan trọng nhất để giảm nghèo. Cơ hội có
thể được xem là sự kết hợp giữa hai yếu tố: sở hữu tài sản (hoặc ít nhất được tiếp
cận với tài sản) và tạo ra lợi nhuận từ tài sản đó. Nhiều khi tài sản chính của người
nghèo chỉ là sức lao động, nhưng nếu không có những hoạt động sử dụng sức lao
động đó để tạo ra thu nhập tốt thì một mình tài sản này không đủ để đảm bảo cho
sự tồn tại của hộ. Đó là các hoạt động sản xuất kinh doanh dù ở bất kỳ quy mô
nào, nhưng để tiến hành các hoạt động này phải có vốn. Thiếu vốn kết hợp với
thiếu cách làm ăn hiệu quả sẽ dẫn đến nghèo đói.
Sơ đồ 1: VÒNG LUẨN QUẨN CỦA ĐÓI NGHÈO.
- 16 -
Thiếu vốn
Thiếu khả
năng đầu tư
Năng suất lao
động thấp
Tiết kiệm
thấp
Thu nhập
thấp
Tăng vốn là một cách hữu hiệu để tăng khả năng đầu tư, từ đó năng suất lao động
được tăng lên, khi đó thu nhập tăng lên là điều kiện tiên quyết để vòng đói nghèo
được xoá bỏ và cũng là mục tiêu chính của xoá đói giảm nghèo.
1.2.2. Các quan điểm về cho vay đối với người nghèo:
Vốn có mối liên hệ mật thiết với phát triển kinh tế, tuy nhiên, mức độ tác
động của phương thức cung ứng vốn đến quá trình phát triển và giảm nghèo đói
lại chủ yếu dựa vào các chính sách mà Chính phủ ở các nước áp dụng. Các chính
sách khác nhau xuất phát từ các quan điểm khác nhau về hoạt động cho vay đối
với người nghèo. Có rất nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, mỗi quan điểm
có quá trình lịch sử ra đời và phát triển khác nhau và thích ứng với một hoàn cảnh
riêng biệt và do vậy lựa chọn theo quan điểm nào là tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể
của từng quốc gia.
1.2.2.1. Quan điểm cổ điển:
Vốn được coi là một đầu vào quan trọng bậc nhất đối với quá trình sản
xuất. Tăng vốn sẽ cho phép mở rộng sản xuất, đặc biệt trong khu vực nông nghiệp,
áp dụng kỹ thuật mới, điều này có nghĩa là sản lượng sẽ tăng mạnh. Như vậy,
thiếu vốn đã trở thành trở ngại chính trong áp dụng kỹ thuật tiên tiến và mua các
khoản đầu vào cho sản xuất. Do đó, một chính sách cho vay lãi suất thấp và
chương trình cho vay trợ giá đã được đề xuất. Nguồn vốn chủ yếu từ các nhà tài
trợ nước ngoài và các tổ chức tài chính chính thức do Chính phủ tài trợ, trong khi
đó tiết kiệm tự nguyện của người nghèo lại đóng vai trò rất thấp. Chính sách cho
vay trợ giá đã được sử dụng một cách triệt để. Quan điểm này cho rằng người
nghèo và người sản xuất nhỏ chỉ được lợi từ các chính sách và chương trình bao
cấp.
Chính phủ các nước đang phát triển sử dụng phương pháp này như là công
cụ hữu hiệu phục vụ phát triển kinh tế và giảm nghèo đói. Tuy vậy, kinh nghiệm
thực tế cũng như lý thuyết đều chứng minh rằng đề xuất chính sách theo quan
điểm này rất ít có khả năng thành công. Từ giữa thập kỷ 70, một khối lượng lớn ấn
phẩm bình luận về chính sách cho vay ở các nước đang phát triển đã xuất hiện.
- 17 -
Thứ nhất, nhận định rằng người nghèo không có khả năng tiết kiệm, và
không hưởng ứng những khuyến khích hoặc cơ hội để tiết kiệm là không đúng.
Trên thực tế, người nghèo vẫn có thể tiết kiệm và đầu tư mặc dù hình thức tiết
kiệm và đầu tư của họ không cần thiết dưới dạng có tính lỏng cao (bằng tiền mặt),
mà bằng hình thức tài sản có thể tạo được thu nhập khá hơn và chống được rủi ro
lạm phát. Nhiều cuộc nghiên cứu thực tế đã tiến hành ở Đài Loan, Hàn Quốc,
Nhật Bản, Malaysia, Ấn Độ chứng minh rằng người nghèo có khả năng tiết kiệm
lớn với mức lãi suất thực tế dương.
Thứ hai, kết quả không mong đợi của lãi suất thấp. Tỷ lệ lãi suất thấp tạo ra
những hậu quả tiêu cực và đôi khi nó còn làm cho tình hình trở nên tồi tệ hơn
trước. Tỷ lệ lãi suất cho vay thấp không thể tạo được mức lãi suất hấp dẫn đối với
người tiết kiệm, ít nhất, tỷ lệ lãi suất cho vay phải tương đương với lãi suất tiết
kiệm cộng với các chi phí giao dịch. Chi phí giao dịch ở các nước đang phát triển
rất cao. Tỷ lệ lãi suất thấp cũng gây ra cầu về vốn vay tăng vượt quá cung, kéo
theo các hoạt động tiêu cực để được vay vốn, có xu hướng khuyến khích hỗ trợ
những người giàu và sản xuất lớn hơn là người nghèo, do mối quan hệ cá nhân,
khả năng hối lộ quan chức, ưu tiên cấp vốn và hoàn trả...
Thứ ba, tỷ lệ hoàn trả thấp. Tín dụng trợ giá thường có tỷ lệ hoàn trả rất
thấp, nghiên cứu thực tế cho thấy trừ một vài trường hợp cá biệt, tỷ lệ không trả
được của các chương trình cho vay trợ giá ở các nước đang phát triển dao động từ
40% đến 95%. Nguyên nhân của tình trạng này là (i) không có khả năng trả được
nợ (ví dụ như mất mùa); (ii) không muốn trả (do nhận thức rằng tiền vay là một
khoản trợ cấp hoặc được hưởng chính sách). Trong đó nguyên nhân thứ hai phổ
biến ở các nước đang phát triển hơn là nguyên nhân đầu.
Quan điểm này khá phổ biến và được áp dụng rộng rãi tại các nước đang
phát triển trong những năm 60 – 70 và vẫn còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến ngày nay
trong các chính sách cho vay đối với người nghèo ở một số nước.
1.2.2.2. Các quan điểm tiếp cận mới:
Nội dung chủ yếu của các quan điểm này:
- 18 -
Thứ nhất, tài chính như một quá trình trung gian. Nếu quan điểm cổ điển
coi vốn là một đầu vào quan trọng của sản xuất thì quan điểm mới lại nhấn mạnh
vốn là yếu tố trung gian của quá trình sản xuất. Vai trò của thị trường tài chính là
trung gian chuyển các nguồn lực từ người và khu vực “dư thừa” sang người và
khu vực có nhu cầu về các nguồn lực đó. Quan điểm này ủng hộ chính sách lãi
suất cao, cho rằng lãi suất có chức năng quan trọng trong việc bù đắp cho những
người tiết kiệm cũng như trong việc phân bổ vốn. Lãi suất là giá cả của vốn, cũng
giống như giá cả của các hàng hoá khác trên thị trường, lãi suất cần giữ ở mức
phản ánh được các chi phí thực chứ không phải là công cụ cho mục tiêu chính trị
và các tiêu chuẩn phi kinh tế khác. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh huy động tiết kiệm
của các trung gian tài chính. Từ thất bại trong hoạt động tiết kiệm của những chính
sách tài chính trước kia ở các nước đang phát triển, các trung gian tài chính cần
phải “xem xét lại phương pháp hoạt động, sự cân bằng và tính bền vững của
mình”. Giải pháp cho tính bền vững là mô hình tự lực về tài chính. Từ những chỉ
tiêu đánh giá tổ chức tài chính hoạt động tốt ở phần trên cho thấy tính cân bằng tài
chính là một yếu tố quan trọng. Hoạt động tạo vốn là hoạt động then chốt nhất của
các trung gian tài chính tự lập.
Thứ hai, tính thay thế của tín dụng. Quan điểm này cho rằng tính thay thế
của tín dụng đã làm triệt tiêu những cố gắng của các chương trình cho vay theo
mục tiêu của Chính phủ. Một đồng tiền mà một người đi vay được giống như bất
cứ một đồng tiền khác mà người đó đang giữ hoặc sử dụng. Đồng tiền này có thể
được sử dụng với những cách khác nhau, bất kể những thoả thuận trước đây giữa
người đi vay và cho vay trong Hợp đồng tín dụng. Đây là tính thay thế của tín
dụng. Về phía người nghèo được vay vốn, họ có thể sử dụng món vay trái ngược
so với cách mà họ dự định sử dụng hoặc họ được quyền sử dụng, chẳng hạn, thay
vì mua gia súc họ đem gửi tiết kiệm hoặc tiêu dùng. Điều này gây ra khó khăn cho
việc đạt được các mục tiêu cụ thể của Chính phủ. Khắc phục tình trạng này bằng
cung cấp hiện vật thay cho tiền cũng không giải quyết được vấn đề một cách triệt
để vì hàng hoá có thể được đổi lấy tiền và sau đó tiền được sử dụng cho các mục
tiêu khác.
- 19 -
Thứ ba, đảm bảo lãi suất thực dương. Tỷ lệ lãi suất cho vay cao sẽ đảm bảo
cho các tổ chức tài chính có khả năng chi trả được mọi khoản chi phí phát sinh. Hệ
thống tài chính tự lập yêu cầu tỷ lệ lãi suất cho vay phải đủ để trang trải 3 yếu tố
sau: (i) lãi suất trả cho người gửi tiết kiệm (ii) chi phí giao dịch bình quân (iii) và
chi phí rủi ro dự phòng trang trải cho khả năng không trả được nợ. Vì vậy, giảm
chi phí giao dịch là vấn đề nan giải bậc nhất. Một yếu tố quan trọng khác trong chi
phí giao dịch đó là chi phí hành chính. Về phía cho vay, lãi suất thấp làm méo mó
tương quan về giá giữa các cơ hội đầu tư thông qua dánh giá thấp chi phí thực của
vốn trong các khu vực khác nhau. Điều này dẫn đến xu hướng thiên về kỹ thuật sử
dụng ít lao động, do đó ảnh hưởng tiêu cực đến tình trạng dư thừa lao động ở các
nước đang phát triển, đồng thời dẫn đến việc quyết định đầu tư vào các dự án có
mức sinh lời thấp mà đáng lẽ ra đã bị bác bỏ. Cuối cùng, lãi suất dưới mức cân
bằng tạo ra dư cầu vốn vay kéo theo cần thiết có sự cung cấp hạn chế vốn cho vay,
điều này đến lượt nó lại mở lối cho những cân nhắc phi kinh tế hoặc mang tính
chính trị trong việc phân bổ số vốn khan hiếm. Kết cục là những người nghèo,
những người vốn là mục tiêu của các chương trình tài trợ lãi suất thấp lại bị thay
thế bằng nhữngngươì giàu có quan hệ chính trị tốt hơn.
Thứ tư, người nghèo vẫn có thể gửi tiền tiết kiệm. Hiện nay người ta đã
công nhận rằng ngay cả những người nghèo nhất cũng có cái gì đó để tiết kiệm.
Mặc dù thu nhập của họ không đều đặn hoặc khả năng của họ chỉ giới hạn ở tiết
kiệm những khoản nho nhỏ mỗi lần, thực tế cho thấy rằng họ có thể và họ thực sự
tiết kiệm. Hầu hết các hộ nghèo đều có một vài nhu cầu dành giụm tiền, ví dụ như
để dự phòng cho thu nhập tiền mặt theo mùa, gây dựng một quỹ dự phòng tài
chính, tiết kiệm cho các khoản cho tiêu tiền mặt định kỳ (học phí cho con cái) hay
thậm chí là tiết kiệm để mua tài sản có giá trị cao và đầu tư. Việc tiết kiệm đối với
người nghèo có vai trò vô cùng quan trọng trong việc gây dựng một quỹ dự phòng
tài chính và vì vậy trong việc giảm nguy cơ dễ bị tổn thương. Kinh nghiệm cho
thấy lãi suất chỉ là một trong hàng loạt các yếu tố ảnh hưởng đến nhu cầu về các
dịch vụ tiết kiệm, các yếu tố khác bao gồm:
o An toàn: gửi tiết kiệm có an toàn không?
o Thuận tiện: gửi và rút tiền tiết kiệm có dễ dàng hay không?
- 20 -
o Khả năng chuyển đổi: tiền gửi tiết kiệm có được rút bằng tiền mặt một cách
nhanh chóng hay không?
o Bí mật: số dư tiền gửi của cá nhân có bị tiết lộ hay không?
Thứ năm, về tài sản thế chấp. Người nghèo, đặc biệt là nông dân nghèo
luôn vấp phải những khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp khi đi vay. Quan điểm
này cho rằng, vấn đề trên có thể được giải quyết bằng “tín chấp” thông qua sự đảm
bảo của hợp tác xã và các nhóm nông dân được thành lập chính thức nhằm giúp
người nghèo vượt qua tình trạng thiếu vốn. Ở các nước đang phát triển, lòng tin
chủ yếu dựa vào mối quan hệ cá nhân và nó trở thành một yếu tố quan trọng trong
vấn đề giảm chi phí.
Người nghèo có thể tiếp cận được vốn từ nhiều nguồn khác nhau. Một trong
số đó là từ chương trình xoá đói giảm nghèo của các Chính phủ, chủ yếu mang
tính chất trợ giúp, từ các NHCS, NHTM, các mô hình tiết kiệm và vay vốn với sự
hỗ trợ của các tổ chức phi Chính phủ trong và ngoài nước…Trong đó, cho vay đối
với hộ nghèo của NHCS được coi là kênh cung ứng vốn chính thức và có ưu thế
nhất định so với các kênh khác.
- 21 -
1.2.3. Hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của NHCS:
1.2.3.1. Các nguyên tắc cơ bản trong cho vay đối với hộ nghèo:
Mục tiêu bền vững (bù đắp các chi phí và phát triển) là điều vô cùng quan
trọng trong hoạt động của các trung gian tài chính nói chung và NHCS nói riêng.
Các món vay đến với người nghèo thường có quy mô nhỏ, chi phí quản lý cao nên
các NHCS phải đảm bảo duy trì những nguyên tắc nhất định thì mới có thể phát
triển bền vững.
Nguyên tắc 1: Vốn vay được sử dụng đúng mục đích đã thỏa thuận thông qua việc
ngân hàng cho vay nghiên cứu kỹ nhu cầu của hộ nghèo.
Thông thường, những khoản cho vay đầu tiên là những món tiền nhỏ được
sử dụng trong thời gian ngắn để mua tài sản lưu động, sau đó mới đến những món
vay lớn hơn để hình thành tài sản cố định với thời gian hoàn trả dài hơn. Nếu hộ
nghèo ở vùng thành thị thì chu kỳ thu nhập ngắn nên thời hạn vay ngắn hơn
(thường từ ba tới sáu tháng) để phù hợp nhu cầu về vốn hình thành tài sản lưu
động của những người bán rong trên đường và những cơ sở sản xuất tại nhà. Nếu
hộ nghèo sinh sống ở nông thôn và làm nông nghiệp thì thời hạn vay có thể dài
hơn (khoảng sáu tháng đến một năm). Có quan điểm cho rằng không bao giờ cho
vay hộ nghèo với thời hạn vay kéo dài hơn một năm, như vậy là quá mạo hiểm vì
nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo (bệnh tật, tai nạn nghề nghiệp, mất
mùa, biến động bất lợi của giá nông sản…)
Việc thanh toán đầy đủ một khoản vay sẽ tạo cơ hội cho lần vay tiếp theo
và được vay với số tiền lớn hơn. Đây được coi là biện pháp khuyến khích khách
hàng trả nợ đúng hạn vì đối với ngân hàng, việc thu hồi vốn cho vay và quay vòng
vốn là một trong những nguyên tắc cơ bản.
Các bộ tín dụng thường xuyên tiếp xúc với khách hàng, tất cả các thủ tục
của ngân hàng thể hiện sự “thân thiện” với khách hàng, thiết kế mẫu đơn xin vay
đơn giản và giới hạn thời gian từ khi đề đơn đến khi giải ngân chỉ trong vòng vài
ngày. Tạo bầu không khí thoải mái và thân mật, khi khách hàng cảm thấy thoải
mái thì cán bộ tín dụng dễ được cung cấp nhưng thông tin cần thiết. Đồng thời,
- 22 -
thân thiện với khách hàng sẽ giúp ngân hàng biết được kế hoạch sản xuất của hộ
và hộ cần giúp đỡ gì từ phía ngân hàng.
Nguyên tắc 2: Các món vay phải được hoàn trả đầy đủ cả gốc và lãi.
Thanh toán đầy đủ cả gốc và lãi hay ít nhất là gốc vay là nguyên tắc cơ bản
trong hoạt động của bất kỳ loại hình ngân hàng nào, thông qua một số phương pháp:
- Trách nhiệm liên đới: trách nhiệm này được thể hiện thông qua hình thức cho
vay theo nhóm thông qua sử dụng sức ép của những người trong cùng một nhóm
như là sự thay thế cho tài sản thế chấp. Sự chậm trả của một thành viên thường có
nghĩa là việc cho vay tiếp đối với các thành viên khác trong nhóm sẽ bị đình chỉ
đến khi nào món vay được hoàn trả. Đây là mô hình được áp dụng rộng rãi trong
cho vay đối với người nghèo, những người không thể đáp ứng các đòi hỏi về thế
chấp truyền thống của hầu hết các NHTM.
- Khuyến khích khách hàng: hứa cho vay, số tiền vay tăng dần và mức giá ưu đãi
cho những khách hàng trả tiền vay đúng hạn.
Kinh nghiệm của những ngân hàng thành công trong thu hồi vốn cho thấy:
các ngân hàng quản lý khách hàng hoàn trả các khoản vay thông qua thế chấp tài
sản hoặc qua nhóm liên đới thống nhất, có những chính sách khuyến khích bằng
tiền hoặc có những hình phạt đối với cả nhân viên và khách hàng nhằm khuyến
khích trả đúng hạn, có hệ thống quản lý thông tin hoàn hảo, điều này cho phép
theo dõi hoạt động của các món vay cũng như thi hành và quản lý có hiệu quả hệ
thống khuyến khích. Một điều quan trọng là mức thu nhập và việc tái tạo thu nhập
của các hộ vay vốn là yếu tố chính quyết định tính hiệu quả hay phương thức hoạt
động của bất cứ tổ chức tài chính nào.
1.2.3.2. Chính sách cho vay đối với hộ nghèo của NHCS:
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất của mọi ngân hàng. Đối
với NHCS, việc mở rộng cho vay đối với hộ nghèo để ngày càng có nhiều người
nghèo được tiếp cận tới vốn của ngân hàng càng có ý nghĩa quan trọng. Mặc dù
mục tiêu hoạt động của ngân hàng không phải vì tối đa hoá giá trị vốn chủ sở
hữu nhưng việc duy trì hoạt động của ngân hàng một cách bền vững để cung
ứng vốn lâu dài cho hộ nghèo là một mục tiêu cần đạt được của ngân hàng.
- 23 -
Mục tiêu này có đạt được hay không phụ thuộc chủ yếu và chính sách cho vay
của ngân hàng. Đây là cương lĩnh tài trợ của ngân hàng, trở thành hướng dẫn
chung cho cán bộ ngân hàng.
Về phương thức cho vay.
Để vốn vay đến tay các hộ nghèo, ngân hàng thường sử dụng hai phương
thức chủ yếu là cho vay theo nhóm và cho vay cá nhân.
o Cho vay theo nhóm:
Đặc điểm của hộ nghèo, không có các tài sản có giá trị để thế chấp khi đi
vay nên họ không thể tiếp cận được với những nguồn vốn của các NHTM khác
với những yêu cầu nghiêm ngặt về tài sản thế chấp. Để khắc phục điều này, NHCS
chấp nhận cho vay theo nhóm thông qua sử dụng nhóm là công cụ bảo lãnh cho
vốn vay của các thành viên trong nhóm đó.
Hình thức này được ngân hàng áp dụng rộng rãi ở các khu vực đô thị. Bắt
đầu và phổ biến ở Châu Mỹ La tinh và hiện đang được mở rộng ra ở Châu phi và
Châu á. Với phương pháp này, 3 đến 4 người là bạn bè hoặc đồng nghiệp đại diện
hộ có thể thành lập một nhóm để vay vốn. Mỗi thành viên được nhận một phần
của khoản vay để sử dụng theo mục đích riêng của mình và các thành viên trong
nhóm bảo lãnh lẫn cho nhau. Điều này có nghĩa họ cùng chịu trách nhiệm về
khoản vay của nhóm. Trong trường hợp nếu trong tháng có một thành viên gặp
khó khăn và không có khả năng hoàn trả vốn vay thì các thành viên khác phải chịu
trách nhiệm hoàn trả phần vốn vay, nếu không thì khoản vay của cả nhóm sẽ bị coi
là quá hạn. Sau đó, thành viên gặp khó khăn sẽ hoàn trả lại số vốn các thành viên
đã trợ giúp. Theo phương thức này, NHCS sẽ không phải theo dõi thu hồi nợ quá
hạn hàng kỳ mà nhóm vay vốn sẽ chịu trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ này. Ở một
số nước như Bangladesh (Ngân hàng Grameen), nhóm này được gọi là trung tâm.
Hàng tuần, cán bộ tín dụng của ngân hàng sẽ xuống làm việc, trao đổi với nhóm
và thực hiện giải ngân vốn cho vay.
Như đã phân tích, cho vay theo nhóm có ưu điểm quan trọng là sử dụng sức
ép của những thành viên trong nhóm thay thế cho tài sản thế chấp vì các thành
viên không muốn bỏ rơi các thành viên khác trong nhóm hoặc không muốn phả
- 24 -
chịu bất kỳ hình phạt nào vì sự chậm trả. Nếu thấy nguyên nhân chậm trả của
thành viên là hợp pháp (gia đình có người bị ốm, bị mất trộm…) thì các thành viên
khác sẽ sẵn sàng giúp đỡ cho đến khi khó khăn được giải quyết. Một lợi thế khác
của cho vay theo nhóm là giảm chi phí giao dịch của ngân hàng thông qua chuyển
việc xem xét và giám sát cho nhóm.
Nhược điểm của cho vay theo nhóm là tác động dây chuyền dẫn đến mất khả
năng hoàn trả của nhóm bởi các nguyên nhân khách quan như mất mùa, hạn hán…
o Cho vay cá nhân, từng hộ:
Đối tượng cho vay vẫn là hộ nghèo, nhưng không thực hiện cho vay theo
nhóm như trên. Do khách hàng không có tài sản thế chấp nên ngân hàng chấp
nhận tài sản thế chấp không mang tính truyền thống như các NHTM (ví dụ: cày,
bừa, máy khâu…) hoặc bảo lãnh của bên thứ ba (họ hàng, bạn bè, tổ chức xã
hội…). Vì giá trị của những tài sản này không cao và không dễ bán để thu nợ nên
ngân hàng không thu nợ từ việc bán hay thu hồi tài sản thế chấp mà chỉ sử dụng
tài sản thế chấp để tránh việc lạm dụng vốn vay. Để xác định quy mô vốn cho vay,
cán bộ tín dụng thường tiến hành lập một bản luân chuyển vốn đơn giản của hộ.
Một công cụ quan trọng mà ngân hàng sử dụng để đảm bảo an toàn cho vay là
kiểm tra uy tín của khách hàng qua hàng xóm của họ, qua chính quyền địa phương
hoặc những ngân hàng đã cho họ vay vốn. Cho vay cá thể đòi hỏi sự liên hệ
thường xuyên và gần gũi của cán bộ tín dụng với khách hàng để biết tình hình sử
dụng vốn và đánh giá khả năng hoàn trả của khách hàng.
Về thời hạn cho vay và chu kỳ hoàn trả:
Xác định thời hạn cho vay là xác định khoảng thời gian người vay được sử
dụng và hoàn trả toàn bộ món vay (trả gốc và lãi vay). Nếu ngân hàng xác định
thời hạn cho vay càng gần với nhu cầu đầu tư và kinh doanh của khách hàng thì
khách hàng càng có khả năng sử dụng món vay dễ dàng và có cơ hội hoàn trả món
vay đầy đủ và đúng hạn bấy nhiêu. Mặt khác, cho vay hộ nghèo với thời hạn ngắn
sẽ giúp đơn giản hoá trong việc lập phương án xin vay của khách hàng.
Về chu kỳ hoàn trả, việc hoàn trả tiền vay có thể thực hiện làm nhiều lần
(hàng tuần, hai tuần một lần hay hàng tháng) hoặc trả tổng cộng một khoản vào
- 25 -