Tải bản đầy đủ (.doc) (114 trang)

Phát triển thị trường sức lao động ở tỉnh Đồng Nai trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (584.24 KB, 114 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngày nay, tất cả các quốc gia, một khi đã chấp nhận nền kinh tế thò trường
thì vấn đề tạo lập một hệ thống thò trường đồng bộ là vấn đề có tính tất yếu
khách quan. Quá trình xây dựng nền kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ
nghóa và hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta cũng đòi hỏi phải xây dựng và vận
hành đồng bộ các loại thò trường, trong đó có thò trường sức lao động – một thò
trường được xem như là đầu tầu, rộng lớn và quan trọng nhất. Đó là nhiệm vụ rất
cần thiết và cấp bách. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ trong thời
gian tới, cần phải: “ Thúc đẩy sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện
các loại thò trường theo đònh hướng xã hội chủ nghóa, đặc biệt quan tâm các thò
trường quan trọng nhưng hiện chưa có hoặc còn sơ khai như: Thò trường lao động,
thò trường bất động sản, thò trường khoa học – công nghệ ”. Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ X tiếp tục khẳng đònh: “ Phát triển đồng bộ các loại thò trường và
tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa ”.
Nằm trong bối cảnh chung của cả nước, trước giai đoạn đổi mới, thò trường
sức lao động và quan hệ cung - cầu sức lao động ở tỉnh Đồng Nai chưa được thừa
nhận. Do đó không phát huy được tối đa tiềm năng nguồn nhân lực. Là một tỉnh
thuộc miền Đông Nam bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có
tiềm lực mạnh về công nghiệp; Với thế mạnh của một đòa bàn có sự giao lưu
Nam – Bắc thuận tiện, là cửa ngõ vào Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh miền
Tây Nam bộ, có vò trí quan trọng trong sự phát triển của vùng kinh tế trọng điểm
phía Nam gắn kết vùng Đông Nam bộ với Tây Nguyên. Đồng Nai có nhiều tiềm
năng phát triển kinh tế – xã hội. Tỉnh Đồng Nai có hệ thống giao thông thủy, bộ,


2

đường sắt nối liền các đòa phương khác trong cả nước, có sân bay quân sự Biên


Hòa, là đòa bàn trọng yếu về kinh tế – chính trò, về quốc phòng và an ninh. Đồng
Nai hiện có dân số trên 2 triệu người, dân số tương đối trẻ và tỷ lệ lao động cao.
Với thế mạnh của một tỉnh có tiềm năng lớn về công nghiệp, lại nằm trong
vùng kinh tế trọng điểm, Đồng Nai có ưu thế trong việc đón nhận nguồn nhân
lực, trí tuệ của mọi miền đất nước hội tụ về cùng với nhân dân đòa phương xây
dựng và phát triển kinh tế – xã hội.
Cùng với quá trình đổi mới, thò trường sức lao động ở Đồng Nai từng bước
được hình thành, đi vào hoạt động, góp phần giải quyết việc làm, bước đầu mang
lại những hiệu quả tích cực. Song thò trường sức lao động ở Đồng Nai vẫn còn ở
tình trạng sơ khai, mang tính tự phát, chưa có sự kiểm tra, hướng dẫn và quản lý
của Nhà nước một cách chặt chẽ và hiệu quả. Nó đang phải đối mặt với nhiều
vấn đề như: giữa cung – cầu lao động còn mất cân đối, phân bố lực lượng lao
động cho các ngành, vùng còn bất cập; giá cả sức lao động chưa phản ánh đúng
mức độ đóng góp và thành tích của người lao động; hệ thống công cụ của thò
trường sức lao động hiệu quả hoạt động chưa cao; nhiều khu công nghiệp đang
thiếu lao động một cách trầm trọng …..
Hiện nay, trước yêu cầu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước, phát triển kinh tế thò trường đònh hướng xã hội chủ nghóa và
chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, thò trường sức lao động càng cần được hoàn
thiện và phát triển. Do đó việc tiếp tục làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, phân
tích đánh giá thực trạng của vấn đề thò trường sức lao động và đề ra những giải
pháp phù hợp nhằm phát triển loại hình thò trường đặc biệt này ở tỉnh Đồng Nai
là một vấn đề cấp thiết. Vì vậy “Phát triển thò trường sức lao động ở tỉnh Đồng
Nai trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ” được chọn làm đề tài luận


3

văn này.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài:

Vấn đề thò trường sức lao động ở nước ta nói chung và ở các tỉnh nói riêng
đã được quan tâm nghiên cứu, phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau và đã trở
thành chủ trương của Đảng trong đường lối, chiến lược phát triển kinh tế – xã
hội trong công cuộc đổi mới.
Đến nay, đã có nhiều công trình được công bố trên sách, tạp chí, luận văn
thạc só, luận án tiến só, kỷ yếu đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ ….. Trong đó
có:
- Đỗ Thò Xuân Phương: “ Phát triển thò trường lao động, giải quyết việc làm
” (qua thực tế ở Hà Nội), Luận án Tiến só kinh tế, Hà Nội 2000.
- PGS. TS Phạm Quý Thọ: “ Thò trường lao động Việt Nam, thực trạng và
các giải pháp phát triển ”, Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà Nội 2003.
- Lê Xuân Bá, Nguyễn Thò Kim Dung, Trần Hữu Huân: “ Một số vấn đề về
phát triển thò trường lao động ở Việt Nam ”, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội 2003.
- Tiến só Nguyễn Thò Thơm và nhiều tác giả khác: “ Thò trường lao động
Việt Nam, thực trạng và giải pháp “, Tổng quan khoa học đề tài nghiên cứu cấp
Bộ, 2003 – 2004.
- Thạc só Nguyễn Thò Lan Hương (chủ biên): “ Thò trường lao động Việt Nam,
đònh hướng và phát triển “ Nhà xuất bản Lao động – Xã hội, Hà nội. 2000.
- Một số bài viết của các tác giả: GS, TS Đỗ Thế Tùng; TS Vũ Hoàng
Ngân; TS Phạm Đức chính …..
Nhìn chung các công trình nói trên đã tập trung phân tích các vấn đề:
- Lý luận về thò trường sức lao động
- Sự hình thành và phát triển của thò trường sức lao động Việt Nam


4

- Các quan điểm, phương hướng và giải pháp phát triển thò trường sức lao
động ở Việt Nam.

Tuy nhiên cho đến nay chưa có đề tài nào đi sâu tìm hiểu thò trường sức lao
động ở tỉnh Đồng Nai dưới góc độ kinh tế chính trò.
3. Mục đích nghiên cứu của luận văn
- Luận văn vận dụng lý luận về thò trường sức lao động vào việc phân tích, đánh giá
thực trạng của thò trường sức lao động trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai – Trên cơ sở đó, tìm ra
phương hướng giải pháp có hiệu quả để đẩy mạnh phát triển thò trường sức lao động
trên đòa bàn tỉnh Đồng Nai trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển thò trường sức lao
động ở tỉnh Đồng Nai. Khẳng đònh tính tất yếu phải phát triển thò trường sức lao
động ở tỉnh Đồng Nai trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Phân tích, đánh giá thò trường sức lao động ở tỉnh Đồng Nai.
- Đề ra phương hướng giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển thò trường sức
lao động ở tỉnh Đồng Nai trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu.
- Phát triển thò trường sức lao động ở Đồng Nai.
- Thời gian: Từ sau đổi mới đến nay.
5. Phương pháp nghiên cứu của luận văn:
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở các nguyên lý của chủ nghóa Mác –
Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam, những chủ trương chính sách của Nhà nước về thò trường sức lao động.
Ngoài ra, luận văn kế thừa có chọn lọc kết quả nghiên cứu của các công trình
khoa học liên quan đến đề tài.
- Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của kinh tế chính trò như:
Phương pháp phân tích và tổng hợp; Phương pháp trừu tượng hóa khoa học;


5

Phương pháp kết hợp logic với lòch sử; Phương pháp điều tra, khảo sát thực tiễn,
thống kê, so sánh ….. để rút ra kết luận đúng đắn.

6. Đóng góp của luận văn:
- Làm rõ những vấn đề lý luận chung và thực tiễn về phát triển thò trường
sức lao động ở tỉnh Đồng Nai.
- Đánh giá thực trạng thò trường sức lao động ở tỉnh Đồng Nai, trên cơ sở
tìm ra phương hướng giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển thò trường sức lao động
ở tỉnh Đồng Nai trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
- Góp phần cung cấp thêm những cơ sở khoa học cho các cơ quan, ban
ngành trong tỉnh tham khảo, hoạch đònh chính sách nhằm phát triển thò trường
sức lao động phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và chủ động
hội nhập kinh tế quốc tế của tỉnh nhà.
7. Kết cấu của luận văn: Ngoài phần mở đầu, kết luận và những danh mục
tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phát triển thò trường sức lao động ở
tỉnh Đồng Nai.
Chương 2: Thực trạng thò trường sức lao động ở tỉnh Đồng Nai.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh phát triển thò
trường sức lao động ở tỉnh Đồng Nai trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa.


6

CHƯƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG
SỨC LAO ĐỘNG Ở TỈNH ĐỒNG NAI TRONG QUÁ TRÌNH
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
1.1. Một số vấn đề cơ bản về thị trường sức lao động và tính tất yếu
khách quan phát triển thị trường sức lao động ở tỉnh Đồng Nai
1.1.1. Một số vấn đề cơ bản về thị trường sức lao động

1.1.1.1. Khái niệm thị trường sức lao động:
Trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường, cho đến nay, có nhiều quan niệm
về thị trường sức lao động:
Theo tổ chức lao động quốc tế (ILO), thì: “ Thị trường lao động là thị trường
trong đó các dịch vụ lao động được thông qua quá trình mua và bán để xác định
mức độ có việc làm của lao động, cũng như mức độ tiền công ” [ 24, tr 35 ]. Quan
niệm này nhấn mạnh đến các dịch vụ lao động được xác định thông qua việc làm
được trả công. Cách tiếp cận này phù hợp với nhiệm vụ của ILO và ảnh hưởng lớn
đến hoạt động của nó, đặc biệt trong việc khảo sát thực trạng vận động của thị
trường sức lao động các nước đang phát triển nhằm cung cấp dữ liệu cho việc hoạch
định chính sách phát triển kinh tế - xã hội.
Các nhà kinh tế Mỹ cho rằng: “ Thị trường sức lao động, đó là một cơ chế mà
với sự trợ giúp của nó, hệ số giữa người lao động và số lượng chỗ việc làm được
điều tiết ” [ 24, tr 35 ]; Hay theo K.I.Mikylskovo, nhà kinh tế học người Nga thì: “
Thị trường sức lao động được hiểu như là một hệ thống quan hệ xã hội, những định
mức và thể chế xã hội (trong đó có cả pháp luật), đảm bảo cho việc tái sản xuất, trao
đổi và sử dụng lao động ” [ 24, tr 35 ]. Các quan điểm này, nhấn mạnh đến mối
quan hệ xã hội của việc trao đổi và sử dụng lao động.
Ở nước ta, quan niệm về thị trường sức lao động cũng rất đa dạng và phong
phú. Ví dụ: “ Thị trường sức lao động biểu hiện mối quan hệ giữa một bên là người
có sức lao động và bên kia là người sử dụng sức lao động nhằm xác định số lượng
và chất lượng lao động sẽ đem ra trao đổi và mức thù lao tương ứng ” [ 25, tr 7 ].


7

Hay theo đề tài cấp nhà nước KX 04-04 thì: “ Thị trường sức lao động là toàn bộ
các quan hệ lao động được xác lập trong lĩnh vực thuê mướn lao động (bao gồm các
quan hệ lao động cơ bản nhất như: tiền lương, tiền công, bảo hiểm xã hội, tranh
chấp lao động ….), ở đó diễn ra sự trao đổi, thoả thuận giữa một bên là người lao

động tự do và một bên là người sử dụng lao động ” [ 32, tr2 ]. Các quan niệm này,
không chỉ nhấn mạnh đến không gian, địa điểm, nơi diễn ra hoạt động trao đổi, mua
bán sức lao động, mà còn nhấn mạnh đến mối quan hệ xã hội giữa người lao động
và người sử dụng lao động, đến những mối quan hệ kinh tế được hình thành trong
lĩnh vực thuê mướn lao động.
Mặc dù, có nhiều quan điểm khác nhau về thị trường sức lao động, do cách
tiếp cận từ các khía cạnh khác nhau song các quan niệm trên đều thống nhất với
nhau về các nội dung cơ bản, để tạo nên thị trường sức lao động, đó là: không gian,
địa điểm, người bán sức lao động, người mua sức lao động, giá cả sức lao động và
những ràng buộc giữa các bên tham gia thị trường này.
Sự phong phú và đa dạng trong quan niệm về thị trường sức lao động cũng là
điều dễ hiểu, bởi lẽ, trong quá trình phát triển của kinh tế thị trường thì nhận thức về
thị trường sức lao động cũng dần thay đổi và hoàn thiện.
Thực tế cho thấy, các quốc gia phát triển nền kinh tế theo mô hình kinh tế thị
trường có những xuất phát điểm khác nhau, có những đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã
hội khác nhau, do đó, khác nhau về trình độ phát triển thị trường sức lao động.
Ngoài ra, mỗi nhà kinh tế có thể nghiên cứu thị trường sức lao động dưới những
góc độ riêng, nên nhận thức về thị trường sức lao động là không thể đồng nhất, bất
biến. Do đó, việc tồn tại những quan niệm khác nhau trong quá trình khám phá các quy
luật vận động của thị trường sức lao động là điều dĩ nhiên.
Nhưng, để hiểu thị trường sức lao động dưới giác độ phổ quát nhất, cần phải xuất
phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác. Theo C. Mác: “ …. Tư bản chỉ phát sinh ở nơi
nào mà người chủ tư liệu sản xuất và tư liệu sinh hoạt tìm thấy được người lao động tự
do với tư cách là người bán sức lao động của mình trên thị trường ” [18, tr 255]
“ Anh ta và những chủ tiền gặp nhau trên thị trường và quan hệ với nhau với
tư cách là những người chủ hàng hóa bình đẳng với nhau, chỉ khác nhau ở chỗ một


8


người thì mua, còn người kia thì bán và vì thế cả hai đều là những người bình đẳng
về pháp lý ” [ 18, tr 251 ]; “ Lĩnh vực lưu thông hàng hóa hay trao đổi hàng hoá,
trong đó việc mua và bán sức lao động được thực hiện, là các địa đàng thực sự của
những quyền tự nhiên của con người. Ngự trị ở đây chỉ có quyền tự do bình đẳng,
quyền sở hữu …. ” [ 18, tr 263 ]
Như vậy, từ sự chỉ dẫn của C. Mác có thể rút ra một số luận điểm quan trọng
về thị trường sức lao động như sau:
Một là: Thị trường sức lao động là thị trường đặc biệt của thị trường hàng hóa
vì hàng hoá đem ra trao đổi không phải là hàng hóa thông thường mà là hàng hóa
sức lao động.
Hai là: Quan hệ trao đổi không phải là quan hệ “ mua bán đứt đoạn ” mà được thực
hiện thông qua ký kết một bản hợp đồng. “ Hợp đồng chính là các sản phẩm cuối cùng
trong đó ý chí của họ tìm được biểu hiện pháp lý chung của nó ” [ 18, tr 263 ]
Ba là: Nguyên tắc trao đổi và những quy luật chi phối trên thị trường sức lao
động không khác gì thị trường hàng hóa thông thường, đó là, tự do, bình đẳng và
ngang giá. Tự do vì cả người mua và người bán chỉ phục tùng ý chí của mình; bình
đẳng là họ quan hệ với nhau như “ những chủ sở hữu hàng hóa và trao đổi vật
ngang giá lấy vật ngang giá ” [ 18, tr 263 ].
Từ đó, có thể rút ra: Thị trường sức lao động là một thị trường hàng hóa, là nơi
diễn ra việc trao đổi mua bán hàng hóa sức lao động, người sử dụng và người sở
hữu sức lao động trao đổi với nhau thông qua một bản hợp đồng, trong đó xác định
quyền tự do, bình đẳng của các chủ thể sở hữu và theo nguyên tắc trao đổi ngang
giá. Ở đây, giá cả của hàng hóa sức lao động được biểu hiện dưới hình thái tiền
công và tiền công chịu sự điều tiết của các quy luật thị trường, trong đó quan hệ
cung và cầu lao động là cơ chế tác động trực tiếp tới sự thay đổi của tiền công.
Như vậy, trên thị trường sẽ hình thành những quan hệ về việc làm, nó xác định
nội dung đích thực của thị trường sức lao động như thị trường việc làm.
Thị trường sức lao động không hoàn toàn đồng nghĩa với quan hệ lao động.
Quan hệ lao động chỉ tồn tại trong quá trình thuê mướn lao động, còn thị trường sức
lao động tồn tại từ khi những đối tượng thuê và đi làm thuê có những cố gắng tham

gia vào quá trình thuê mướn.


9

Vì vậy, thị trường sức lao động bao hàm những mối quan hệ trước, trong và
sau quá trình thuê mướn lao động bắt đầu.
Nói tóm lại, có thể quan niệm một cách chung nhất về thị trường sức lao động như
sau: “ Thị trường sức lao động là một bộ phận của hệ thống thị trường, trong đó
diễn ra quá trình trao đổi giữa một bên là người lao động tự do (người bán sức lao
động) và một bên là người có nhu cầu sử dụng sức lao động (người mua sức lao
động). Sự trao đổi này được thỏa thuận trên cơ sở các mối quan hệ lao động như:
tiền công, tiền lương, điều kiện làm việc, bảo hiểm xã hội …. Thông qua một hợp
đồng lao động bằng văn bản hoặc bằng miệng ” [ 43, tr 40 ].
1.1.1.2. Tính quy luật hình thành thị trường sức lao động
Thị trường sức lao động ra đời là một tất yếu của nền kinh tế thị trường khi
mà sản xuất hàng hóa đạt đến trình độ phát triển cao. Hàng hóa cần mua và bán trên thị
trường này là sức lao động, là cái sản sinh ra công năng để sản xuất kinh doanh. Do đó,
không thể có thị trường sức lao động nếu không có hàng hóa sức lao động.
Theo C. Mác: “ Sức lao động hay năng lực lao động là toàn bộ những năng lực thể
chất và tinh thần tồn tại trong một cơ thể, trong một con người sống và được người đó
đem ra vận dụng mỗi khi sản xuất ra một giá trị sử dụng nào đó ” [ 18, tr 251 ]
Sức lao động luôn có sắn trong bất kỳ xã hội nào, nó không phụ thuộc vào
hình thái xã hội, nó luôn là điều kiện cơ bản của sản xuất. Tuy nhiên, sức lao động
không phải bao giờ cũng là hàng hóa, nó chỉ trở thành hàng hóa trong những điều
kiện lịch sử nhất định. Tức là chỉ trong một trình độ phát triển nhất định thì sức lao
động mới trở thành hàng hóa. Về lịch sử, thị trường sức lao động ra đời muộn hơn
so với thị trường hàng tiêu dùng cà một số thị trường các yếu tố sản xuất khác. Thị
trường sức lao động mới xuất hiện cùng với sự xuất hiện cùa phương thức sản xuất
tư bản chủ nghĩa - khoảng thế kỷ XVII.

Theo C. Mác, yếu tố quan trọng nhất làm ra đời thị trường sức lao động đó là
phải có hàng hóa sức lao động, phải có người bán, người mua sức lao động trên thị
trường. Hàng hóa chỉ xuất hiện khi có hai điều kiện cơ bản.
Một là: Người lao động phải được tự do về thân thể. Điều kiện này cho họ
quyền quyết định đối với sức lao động của bản thân mình, nghĩa là sức lao động chỉ


10

xuất hiện trên thị trường với tư cách là hàng hóa, nếu nó do bản thân người có sức lao
động đưa ra bán. C. Mác viết: “ Muốn cho người chủ sức lao động ấy có thể bán được
nó với tư cách là hàng hóa, thì người đó phải có khả năng chi phối được sức lao động
ấy, do đó, người ấy phải là kẻ tự do sở hữu năng lực của mình, thân thế của mình ”
[ 18, tr 251 ]. Vì vậy, người lao động phải được tự do về thân thể, có quyền sở hữu sức
lao động của mình, thì mới đem ra bán sức lao động được.
Hai là: Người lao động bị tước đoạt hết tư liệu sản xuất. Tức là người lao
động không có vốn liếng hay tư liệu sản xuất, tài sản duy nhất đảm bảo sự sống của
họ chỉ là sức lao động. C. Mác cũng chỉ rõ: “ …. người chủ sức lao động phải
không có những khả năng bán những hàng hóa trong đó lao động của anh ta được
vật hóa, mà trái lại, anh ta phải đem bán, với tư cách là hàng hóa, chính ngay cái sức
lao động chỉ tồn tại ở trong cơ thể sống của anh ta thôi ” [ 18, tr 252 – 253 ]
Như vậy, sức lao động chỉ trở thành hàng hóa khi có đủ hai điều kiện trên.
Nếu chỉ có điều kiện thứ nhất (người lao động được tự do về thân thể) thì chưa đủ
để biến sức lao động thành hàng hóa, vì nếu người lao động được tự do về thân thể
mà lại có tư liệu sản xuất thì họ sẽ sản xuất ra hàng hóa và đem bán hàng hóa do
mình sản xuất ra chứ không bán sức lao động. Do đó, muốn biến sức lao động thành
hàng hóa phải có thêm điều kiện thứ hai (người lao động phải là người không có tư
liệu sản xuất), chỉ trong điều kiện ấy, người lao động mới bán sức lao động của
mình, vì họ không còn cách nào khác để sinh sống.
Tuy nhiên, đó mới chỉ là điều kiện để biến sức lao động thành hàng hóa - một

loại hàng hóa đặc biệt trên thị trường sức lao động.
Hai điều kiện này chỉ xuất hiện khi nền kinh tế hàng hóa đã đạt được trình độ
phát triển tương đối cao, khi cạnh tranh trên thị trường đã làm phân hóa người sản
xuất, xuất hiện các doanh nghiệp quy mô lớn, vượt quá giới hạn sử dụng lao động
của bản thân và gia đình chủ doanh nghiệp. Họ cần phải thuê lao động để duy trì và
phát triển doanh nghiệp. Trong khi đó, có những người bị thua lỗ phá sản, họ phải
đi làm thuê (bán sức lao động của mình cho chủ sử dụng lao động) để duy trì cuộc
sống của bản thân và gia đình. Nghĩa là, trong nền kinh tế xuất hiện mâu thuẫn giữa
cung và cầu sức lao động. Sự ra đời của thị trường sức lao động chính là kết quả tất


11

yếu để giải quyết mâu thuẫn này. Đây là hiện tượng có tính quy luật của quá trình
phát triển kinh tế hàng hóa.
Vận dụng quan điểm trên của C. Mác, trong điều kiện hiện nay thì thị trường
sức lao động chỉ có thể hình thành khi có đủ các yếu tố sau:
Một là, có nền kinh tế hàng hóa vận hành theo cơ chế thị trường.
Hai là, người lao động không có đủ tư liệu cần thiết, họ phải bán sức lao động
của mình để đảm bảo cuộc sống của bản thân và gia đình.
Ba là, có định chế pháp luật cho phép mua và bán sức lao động.
Bốn là, có hệ thống tổ chức và công cụ để giải quyết các nhu cầu và các quan
hệ phát sinh trong quá trình thuê mướn lao động như: hệ thống tổ chức thị trường
sức lao động, hệ thống dịch vụ việc làm, hệ thống thông tin thống kê thị trường sức
lao động, hệ thống dạy nghề, hệ thống bảo hiểm xã hội ….
Năm là, thị trường sức lao động chỉ hình thành và phát triển trong mối quan
hệ hữu cơ với các loại thị trường khác và chịu sự tác động chi phối của hệ thống các
quy luật của kinh tế thị trường và quản lý của nhà nước.
1.1.1.3. Các yếu tố cấu thành và sự hoạt động của thị trường sức lao động
Nói đến thị trường sức lao động là nói đến mối quan hệ giữa người có sức

lao động có thể tìm được việc làm để có thu nhập và người sử dụng sức lao động có
thể thuê được nhân công bằng cách trả công để tiến hành sản xuất – kinh doanh.
Trên thị trường sức lao động mức cung, cầu về sức lao động ảnh hưởng tới tiền
công lao động và sự thay đổi mức tiền công cũng ảnh hưởng tới cung, cầu về sức
lao động. Đối tượng tham gia thị trường sức lao động bao gồm: những người chủ sở
hữu tư liệu sản xuất, có nhu cầu sử dụng sức lao động và những người có nhu cầu
bán sức lao động thể có việc làm và thu nhập.
Từ đó cho thấy: Thị trường sức lao động được cấu thành bởi 3 yếu tố cơ bản:
cung, cầu và giá cả sức lao động. Ba yếu tố này có mối quan hệ ảnh hưởng lẫn
nhau. Nói tới sự vận động, phát triển của thị trường sức lao động cũng tức là nói tới
sự vận động, phát triển của các yếu tố cung, cầu, giá cả sức lao động và quan hệ
giữa chúng cả về quy mô, trình độ, cơ cấu và tính chất họat động ….


12

*. Cung về sức lao động:
Sức lao động chỉ tồn tại thực sự trong cơ thể sống của người lao động. Như vậy,
cung về sức lao động cũng chính là lực lượng lao động xã hội, là toàn bộ những
người có khả năng lao động và có nhu cầu về việc làm, bao gồm cả những người
trong và ngoài độ tuổi lao động.
Khi nói đến cung sức lao động, cần phải xem xét cả về mặt số lượng, chất lượng và
cơ cấu.
- Về số lượng: Cung sức lao động thường được phân biệt thành 2 phạm trù:
+ Cung thực tế về sức lao động: Gồm tất cả những người đủ 15 tuổi trở lên
đang làm việc và những người thất nghiệp. Cung thực tế về sức lao động chính là
lực lượng lao động xã hội hay dân số hoạt động kinh tế [ 5, tr 40 ]
+ Cung tiềm năng về sức lao động: Bao gồm tất cả những người đủ từ 15 tuổi trở
lên đang làm việc và những người đang thất nghiệp, những người trong độ tuổi lao
động, có khả năng lao động nhưng đang đi học, đang làm công việc nội trợ trong gia

đình mình hoặc không có nhu cầu lao động và tình trạng khác. [ 5, tr 40 ]
- Về chất lượng: Cung sức lao động được thể hiện ở tình trạng sức khỏe, trình
độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, ý thức kỷ luật, phẩm chất đạo đức của
người cung sức lao động trên thị trường.
- Về cơ cấu: Cung sức lao động thể hiện ở cơ cấu của người cung sức lao
động trên thị trường sức lao động xét theo độ tuổi, giới tính, trình độ nghề nghiệp,
khu vực ngành, nghề, thành phần kinh tế.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến cung sức lao động bao gồm:
+ Một là, quy mô và tốc độ tăng dân số: Quy mô dân số là lượng tuyệt đối về
dân số trong phạm vi một quốc gia hay một vùng lãnh thổ. Khi quy mô dân số lớn,
tốc độ tăng dân số cao thì cung sức lao động sẽ tăng và ngược lại. Nghĩa là yếu tố
này tỉ lệ thuận với cung sức lao động.
+ Hai là, tỷ lệ dân số tham gia thị trường sức lao động, tức tỷ lệ dân số đủ từ
15 tuổi trở lên tham gia thị trường sức lao động. Khi tỷ lệ này tăng thì cung sức lao
động sẽ tăng và ngược lại.


13

+ Ba là, sự di cư lao động, đây là yếu tố có tác động tức thì đến cung sức lao
động. Nó có thể làm tăng hoặc giảm đột ngột đối với cung sức lao động ở vùng
nhập cư và vùng xuất cư.
*. Cầu về sức lao động:
Cầu về sức lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa
phương, một ngành hay một doanh nghiệp với những mức tiền công khác nhau
trong một khoảng thời gian nhất định. Nhu cầu này thể hiện qua khả năng thuê
mướn lao động trên thị trường sức lao động.
Cầu về sức lao động được chia làm hai loại:
+ Cầu thực tế về sức lao động: Là nhu cầu thực tế cần sử dụng lao động tại một thời
điểm nhất định [5, tr 41].

+ Cầu tiềm năng về sức lao động: Là nhu cầu lao động cho tổng số chỗ làm
việc có thể có sau khi đã tính đến các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm
trong tương lai như vốn, đất đai, tư liệu sản xuất, công nghệ và một số điều kiện
khác như chính trị xã hội… [ 32, tr 13 ]
Cầu tiềm năng về sức lao động = Cầu thực tế về sức lao động + Số chỗ làm
việc sẽ được tạo ra trong tương lai.
Giống như cung về sức lao động, cầu về sức lao động cũng được xem xét cả
về số lượng, chất lượng và cơ cấu:
- Về số lượng: Cầu về sức lao động xã hội tỷ lệ thuận với quy mô và tốc độ
phát triển sản xuất, nếu năng suất lao động xã hội không đổi và nó tỷ lệ nghịch với
năng suất lao động xã hội, nếu quy mô sản xuất không đổi.
- Về chất lượng: Cầu về chất lượng lao động ngày một nâng cao trước sự đòi
hỏi của việc nâng cao năng suất lao động, mở rộng quy mô sản xuất, tăng khả năng
cạnh tranh …
- Về cơ cấu: Cầu lao động cũng được xem xét theo các tiêu chí: lứa tuổi, giới
tính, ngành nghề, thành phần kinh tế…
- Các yếu tố ảnh hưởng đến cầu sức lao động:
+ Một là, phương thức tăng trưởng kinh tế được lựa chọn: Nếu chính phủ lựa
chọn phương thức tăng trưởng kinh tế nhanh, nhờ vào vốn là chủ yếu thì cầu lao


14

động sẽ giảm và vốn khi được ưu tiên đầu tư vào ngành nào, vùng nào thì ngành đó,
vùng đó sẽ thu hút nhiều lao động hơn. Nếu Chính phủ lựa chọn phương thức tăng
trưởng kinh tế dựa vào lao động là chủ yếu thì cầu lao động sẽ tăng lên.
+ Hai là, mục tiêu tạo việc làm của Chính phủ: Việc làm là một vấn đề luôn
được Chính phủ ở hầu hết các nước quan tâm (dù là nước phát triển hay kém phát
triển) vì nó liên quan trực tiếp đến vấn đề an sinh xã hội, việc làm luôn là một trong
những mục tiêu kinh tế vĩ mô của các Chính phủ. Chính vì vậy, việc làm là vấn đề

kinh tế xã hội có tính bức xúc, thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành, các tổ
chức chính trị - xã hội và mọi người lao động.
+ Ba là, kiểu và mức độ công nghiệp hoá được lựa chọn: Công nghiệp hoá,
hiện đại hoá là tất yếu khách quan đối với mỗi quốc gia. Dưới góc độ việc làm
kiểu và mức độ công nghiệp hoá được lựa chọn có ảnh hưởng không nhỏ. Nếu
Chính phủ lựa chọn kiểu công nghiệp hoá dựa trên công nghệ nhiều tầng (thấp,
trung bình, cao) thì cầu lao động sẽ tăng. Ngược lại, nếu Chính phủ lựa chọn
kiểu công nghiệp hoá nhanh, chỉ dựa trên công nghệ cao với dung lượng vốn lớn
thì cầu lao động sẽ giảm.
+ Bốn là, mục tiêu chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công
nghiệp và dịch vụ: Ở các nước đang phát triển, thị trường sức lao động có đặc
điểm là lao động trong khu vực nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn và tình trạng
người nông dân thiếu việc làm là phổ biến do thất nghiệp … Do đó, để tăng
cầu lao động ở khu vực nông thôn, Chính phủ cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ
cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, chuyển dịch lao động từ nông nghiệp
sang công nghiệp và dịch vụ.
+ Năm là, cầu về hàng hoá, dịch vụ trên thị trường và khuynh hướng tiêu dùng
của dân cư: Khi cầu về hàng hoá và dịch vụ tăng thì cầu về sức lao động để sản xuất
ra hàng hoá, dịch vụ đó cũng tăng lên và ngược lại. Nói rộng hơn là khi quy mô sản
xuất kinh doanh được mở rộng thì cầu về sức lao động cũng tăng lên.
Đồng thời nếu khuynh hướng tiêu dùng của dân cư là sử dụng sản phẩm làm
từ công nghệ nhiều lao động thì cầu về sức lao động sẽ tăng và ngược lại.


15

Ngoài ra, cầu về sức lao động còn chịu sự tác động của nhiều yếu tố khác
như: tình hình kinh tế, chính trị, xã hội (ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu hẹp
sản xuất, khuyến khích hay hạn chế đầu tư…); yếu tố tiền công lao động (khi
tiền công lao động tăng lên, cầu về sức lao động có xu hướng giảm và ngược

lại); và các yếu tố tạo ra việc làm như: đất đai, vốn, trình độ tổ chức quản lý, tôn
giáo, phong tục tập quán …
Giữa các quốc gia, các vùng lãnh thổ, các ngành, các khu vực kinh tế, các
yếu tố trên có sự khác nhau, do đó cầu về sức lao động giữa chúng cũng
không giống nhau.
*. Giá cả sức lao động:
Tiền công là giá cả sức lao động, là sự biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao
động, cũng như các loại hàng hóa khác, giá cả hàng hóa sức lao động không chỉ bị
quy định bởi giá trị của nó, mà còn chịu ảnh hưởng của quan hệ cung cầu sức lao
động. Khi cung sức lao động vượt quá cầu sức lao động thì giá cả sức lao động sẽ
thấp hơn giá trị sức lao động và “ ngược lại ”. Mối quan hệ cung - cầu trên thị trường
sức lao động sẽ dẫn đến việc xác định giá cả sức lao động.
*. Mối quan hệ giữa giá cả và cung - cầu trên thị trường sức lao động.
- Sự hoạt động của thị trường sức lao động được thể hiện thông qua mối quan
hệ giữa giá cả và cung, cầu trên thị trường sức lao động.
Cung , cầu và giá cả sức lao động có mối quan hệ qua lại với nhau trên thị trường
sức lao động. Nếu cung sức lao động phù hợp với cầu sức lao động (trong điều kiện mức
cầu có khả năng thu hút tất cả những ngưòi có khả năng lao động và mong muốn làm
việc) và cung - cầu điều chỉnh linh hoạt theo tiền công thì thị trường sức lao động vận
hành có hiệu quả, thất nghiệp không xảy ra. Nhưng điều đó chỉ thể hiện trong điều
kiện thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Bởi vì không phải lúc nào thị trường sức lao
động cũng vận hành suôn sẻ. Nếu mức cung cao hơn cầu thì lao động sẽ thừa, tiền
công giảm xuống và ngược lại. Mặt khác, quan hệ cung cầu về sức lao động cũng
được điều tiết phù hợp với quy luật giá trị. Việc hạ giá hay tăng giá hàng hoá sức
lao động cũng tác động đến cung và cầu. Giá cả của sức lao động cũng như “ cái
van ” điều chỉnh quan hệ cung, cầu sức lao động.


16


Trên thực tế, không thể có thị trường sức lao động hoàn hảo, trong đó các yếu
tố của nó hoạt động cân bằng tuyệt dối, không có tình trạng thất nghiệp, không có
bất bình đẳng về tiền công và thu nhập, nhưng đó lại là mục đích hướng tới khi phát
triển, hoàn thiện thị trường sức lao động. Đối với các nước đang phát triển, tiền
công trên thị trường sức lao động chưa hoàn toàn phản ánh giá cả của sức lao động
nên cung, cầu về sức lao động diễn ra phức tạp. Thường ở khu vực mà tiền công trả
cao hơn mức trung bình thì thất nghiệp ở đó diễn ra phổ biến hơn (đặc biệt là ở các
thành phố lớn). Do đó, Nhà nước luôn nỗ lực tìm cách kiểm soát cung cầu sức lao
động và tiền công để giữ chúng ở vị trí cân bằng, nhưng cạnh tranh với mục đích
tạo ra động lực lại phá vỡ sự cân bằng đó.
Cơ sở khách quan của những biến động trong mối quan hệ giữa cung cầu và
giá cả sức lao động là trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội và giá trị hàng hoá
sức lao động. Ngoài ra, chúng còn chịu sự tác động của Nhà nước thông qua các
chính sách kinh tế vĩ mô, như luật Lao động, luật Thuế thu nhập,
các chính sách bảo hiểm, bảo trợ xã hội, mức lương tối thiểu …
- Sự hoạt động của thị trường sức lao động tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ
trên thị trường này:. Đó là sự cạnh tranh giữa người mua (người thuê mướn sức lao
động) và người bán (người cung ứng sức lao động) ; giữa người mua với người mua
…từ đó tác động đến việc hình thành giá cả sức lao động .Bỡi vì :
Trên thị trường sức lao động cũng như các loại thị trường khác , cạnh tranh
thường diễn ra khi có nhiều người mua người bán trên thị trường đối với một loại
hàng hoá dịch vụ . Thông qua tín hiệu giá cả , cả người mua và người bán đều theo
đuổi tối đa hoá lợi ích kinh tế của mình , từ đó tác động đến giá cả , làm cho giá cả
chuyển động về vị trí cân bằng .
Cạnh tranh giữa người mua và người bán sức lao động diễn ra theo biến động
cũa cung cầu sức lao động treên thị trường . Khi cung lớn hơn cầu thì người mua trả
tiền công thấp hơn cho người lao động và họ dễ dàng thuê mướn được nhân công .
Ngược lại , khi cung nhỏ hơn cầu thì người bán được đòi hỏi được trả mức tiền
công cao hơn và điều kiện làm việc tốt hơn .



17

Còn cạnh tranh giữa người mua với người mua thường diễn ra khi cung sức
lao động nhỏ hơn cầu sức lao động hoặc chất lượng cung sức lao động nhỏ hơn chất
lượng cầu sức lao động . Những người mua thường trả tiền công cao hơn cho người
lao động để thu hút , lôi kéo lao động với phía mình, nên dễ gây ra sự biến động
mạnh về di chuyển nhân công trên thị trường sức lao động . Đây cũng là một vấn đề
gay gắt đã và đang xãy ra ở thị trường sức lao động ở Đồng Nai .
Từ đó cho thấy ; Tính cạnh tranh không hoàn hảo của thị trường sức lao động
có nguồn gốc từ sự độc quyền ở phiá người bán lẫn người mua .Phía người bán , sự
độc quyền xảy ra khi sức lao động khan hiếm . Còn sự độc quyền của người mua thể
hiện rất rõ khi cng sức lao động dư thừa . Tính cạnh tranh không hoàn hảo ở thị trường
sức lao động còn thể hiện ít nhiều ở tính cá biệt là nó không đem ra mua bán theo
phương thức đấu giá tại các sở giao dịch như các hàng hoá thông thường khác .
Mặc khác, việc thuê mướn lao động thường là dài hạn với các hợp đồng đã ký
kết, nên tiền công tương đối ổn định và ít có khả năng phản ứng linh hoạt trước sự
biến động của cung ,cầu trên thị trường sức lao động . Do đó đòi hỏi nhà nước phải
có sự quản lý đặc biệt đối với loại thị trường này, bỡi vì nó không đơn thuần là vấn
đề kinh tế mà còn là vấn đề chính trị, xã hội, con người . Có như vậy mới đảm bảo
đúng định hướng XHCN, đảm bảo quyền lợi, nghĩa vụ của các bên tham gia thị
trường và phát huy vai trò của người lao động, nâng cao chất lượng cung, cầu sức
lao động trên thị trường.
1.1.1.4. Vai trò của thị trường sức lao động đối với quá trình công nghiệp
hoá, hiện đại hoá
Ở nước ta, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình khách quan, là
nhiệm vụ trung tâm, xuyên suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đảng ta xác
định: “ Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử
dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng

với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển
của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ nhằm tạo ra năng suất lao động
cao ” [20, tr 65].


18

Để thực hiện quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đạt mục tiêu tổng quát
mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X Đảng Cộng sản Việt Nam đề ra là: “ Sớm
đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, … Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành
một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 ” [23, tr 87], thì thị
trường sức lao động có vai trò đặc biệt quan trọng. Cụ thể là:
- Thị trường sức lao động là nơi đảm bảo cung - cầu về sức lao động cho quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Thực tế cho thấy, mục tiêu hàng đầu của phát triển thị trường sức lao động là
nhằm phân bổ có hiệu quả nguồn lực lao động - một yếu tố sản xuất hết sức quan
trọng hiện nay.
Cũng như các loại thị trường khác, thị trường sức lao động cũng chỉ có hai
chủ thể tham gia chính là người cung và người cầu.
Người cung (người lao động): Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta, đang có nhiều cơ
hội tìm kiếm việc làm; do phân công lao động được mở rộng, khoa học – công nghệ
phát triển mạnh mẽ, nhiều ngành nghề mới ra đời, xu thế toàn cầu hóa và hội nhập
kinh tế quốc tế phát triển mạnh …
Vì vậy, để bán được sức lao động đúng với giá trị của nó, hay nói cách khác là
muốn tìm được một việc làm tốt, giá cả phù hợp … để có thu nhập cao, đảm bảo đời
sống của bản thân và gia đình thì người lao động phải không ngừng nâng cao chất
lượng lao động (sức khỏe, kiến thức, trình độ chuyên môn, tay nghề …).
Còn người sử dụng lao động (Nhà nước, Doanh nghiệp, hợp tác xã, các công

ty …) muốn tìm được nguồn lao động có chất lượng cao phải có nhiều điều kiện
đảm bảo như tiền công, tiền lương; điều kiện về làm việc, cơ chế, chính sách, các
dịch vụ hỗ trợ lao động …
Có thể nói, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa , nguồn lao
động - lực lượng sản xuất hàng đầu, không những phải được nâng cao về trình
độ văn hóa và khoa học công nghệ mà còn phải được trang bị cả cơ sở vật chất
- kỹ thuật tiên tiến. Họ vừa là kết quả của sự phát triển lực lượng sản xuất, vừa
là người tạo ra sự phát triển đó.


19

Vì vậy, chỉ có trên thị trường sức lao động, thông qua các hình thức môi
giới, giao dịch việc làm, thông tin thị trường sức lao động … cung - cầu về sức lao
động (số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu …) cho quá trình công nghiệp hóa, hiện
đại hóa mới đáp ứng được. Bởi vì: Trong nền kinh tế thị trường, sự trao đổi của
người có sức lao động và người sử dụng lao động ở tất cả các thành phần kinh tế
được thực hiện thông qua thị trường. Nhà nước xã hội chủ nghĩa thực hiện quản lý
thị trường sức lao động, đảm bảo quyền của người có sức lao động theo pháp luật.
Do đó phát triển thị trường sức lao động ở nước ta hiện nay là nhằm tạo thêm việc
làm nâng cao thu nhập của người lao động và quản lý mối quan hệ giữa người có
sức lao động và người sử dụng lao động.
- Nguồn lực lao động trên thị trường sức lao động vừa là động lực, vừa là
mục tiêu cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Nói đến thị trường sức lao
động là nói đến nguồn lực lao động. nói đến lực lượng lao động xã hội, nói đến con
người. mà nguồn lực lao động là lực lượng sản xuất hàng đầu của quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá, quyết định năng suất, chất lượng, hiệu quả của nền kinh tế
và của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Xét đến cùng, công nghiệp hóa,
hiện đại hóa là nhằm mục tiêu phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao đời sống nhân
dân, nâng cao đời sống cho người lao động, giúp cho người lao động có điều kiện

sinh sống, tái tạo sức lao động và làm việc, học tập … tốt nhất. Vì vậy, ở nước ta,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa luôn được coi là sự nghiệp của toàn dân, của mọi
thành phần kinh tế và của mọi người; công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải lấy việc
phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững. Chính vì vậy, nguồn lực lao động (yếu tố cơ bản của thị trường sức lao động;
yếu tố “ đầu vào ” không thể thiếu của hoạt động kinh tế; một bộ phận của dân số
thục hiện quá trình tiêu dùng xã hội) trở thành mục tiêu và động lực của hoạt động
kinh tế và của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
- Thị trường sức lao động, đặc biệt là thị trường sức lao động có trình độ cao
có vai trò quan trọng đảm bảo thực hiện thắng lợi chiến lược công nghiệp hóa, hiện
đại hóa ở nước ta trong thời đại ngày nay:


20

Tại Đại hội Đảng lần thứ VIII, Đảng ta dã quyết định phải đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để đến năm 2020 đưa nước ta về cơ bản trở thành một
nước công nghiệp. Đảng ta cũng xác định, trong thời gian này, nền kinh tế thế giới
sẽ có nhiều biến động to lớn sang nền kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu với tốc
độ tăng trưởng kinh tế cao, khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo sẽ tiếp
tục gia tăng. Đó là thách thức lớn đối với các nước đang phát triển nói chung và
nước ta nói riêng. Nếu chúng ta không biết tận dụng cơ hội, nâng cao năng lực nội
sinh, đổi mới cách nghĩ cách làm, bắt kịp tri thức mới sẽ tụt hậu xa hơn. Như vậy,
kinh tế tri thức và hội nhập toàn cầu là cơ hội để nước ta đẩy nhanh công nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
Điều đó có nghĩa là, trong thời đại ngày nay, việc thực hiện chiến lược công
nghiệp hóa, hiện đại hóa không thể tách rời việc phát triển các yếu tố của kinh tế tri
thức. Vì vậy, Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ X xác định: “ Đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với việc phát triển kinh tế tri thức; coi kinh tế tri
thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá ”.

Như vậy, chiến lược công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta là chiến lược dựa vào
tri thức, nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa là vận dụng các yếu tố của kinh tế tri
thức. Chính vì vậy, việc thực hiện chiến lược và nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa
ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải có lực lượng lao động có tri thức, có trình độ cao đảm
nhận. Đó phải là những người có đức, có tài, ham học hỏi, thông minh, sáng tạo, ham
làm việc … họ phải đươc chuẩn bị tốt về mặt kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo
về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất – kinh doanh, quản trị kinh doanh … và đó
phải là những người lao động có sức khoẻ và thể lực tốt.
Nói cách khác, đó phải là một nguồn nhân lực có chất lượng cao chỉ có trên
thị trường sức lao động có trình độ cao mới có được.
1.1.2. Tính tất yếu khách quan phát triển thị trường sức lao động ở tỉnh
Đồng Nai trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Phát triển thị trường sức lao động trên địa bàn tỉnh Đồng Nai là vấn đề cần
thiết, có tính tất yếu khách quan, do những nguyên nhân sau đây:


21

- Do yêu cầu tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường trong quá trình
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam nói chung và tỉnh Đồng Nai nói riêng, việc phát triển một hệ thống thị
trường đầy đủ, đồng bộ có vai trò đặc biệt quan trọng và là một yêu cầu khách quan.
Thực tế cho thấy, hệ thống thị trường với tư cách là tổng hòa những quan hệ kinh tế
khách quan, trong một chừng mực nhất định, đang tự nó phát triển dần dần hoàn
thiện, tuân thủ những quy luật, nguyên tắc, chuẩn mực thị trường. Mặt khác, hiểu
theo nghĩa đầy đủ của từ “ thị truờng ” thì không thể tự nó thực hiện mà phải thông
qua những thể chế mang tính chủ quan do Nhà nước tạo lập và triển khai. Với góc
độ này, thị trường đang trở thành cơ chế quan trọng để huy động và sử dụng hiệu
quả nguồn lực cho phát triển, đồng thời tạo cơ sở cho nhà nước điều tiết vĩ mô nền

kinh tế. Vì vậy, việc phát triển một hệ thống thị trường đồng bộ trong quá trình phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa luôn được Đảng và Nhà nước
ta quan tâm. Những năm qua, cùng với công cuộc đổi mới đất nước và quá trình
phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hệ thống thị trường ở
nước ta nói chung và Đồng Nai nói riêng dần dần hình thành và phát triển, nhưng
nhìn chung vẫn mang tính manh mún, sơ khai, kém hiệu quả. Do đó, việc phát triển
hệ thống thị trường một cách đồng bộ có liên quan chặt chẽ với nhau tạo nên môi
trường kinh doanh mạnh mẽ, lành mạnh để phát triển kinh tế là một việc làm hết
sức quan trọng.
Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đại hội IX Đảng cộng
sản Việt Nam đã nêu rõ: “ Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trường, đổi mới và
nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước ”, trong đó nhấn mạnh: “ Thúc đẩy
sự hình thành, phát triển và từng bước hoàn thiện các loại thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm đến các thị trường quan trọng nhưng chưa có hoặc
còn sơ khai như thị trường lao động, thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản,
thị trường khoa học và công nghệ ”. [ 22, tr 100 ]


22

Ngoài việc hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường, việc tạo lập
đồng bộ các yếu tố của thị trường còn đòi hỏi phải có sự đồng bộ từ các yếu tố
của từng loại thị trường. Các loại thị trường đều có một số yếu tố cấu thành tạo
nên thị trường, đó là: hàng hóa, cung – cầu, giá cả, thể chế, các tác nhân xúc tác
như người môi giới, thời gian, địa điểm …. Tức là nó có các yếu tố khách quan và các
yếu tố chủ quan. Bên cạnh các yếu tố khách quan của thị trường (là cung – cầu, giá cả,
tính cạnh tranh, mức sinh lời, hàng hóa, chủ thể tham gia thị trường ….), việc tạo lập
đồng bộ các yếu tố thị trường cần thiết có những nỗ lực chủ quan của chủ thể có sức
mạnh can thiệp và điều tiết thị trường. Vai trò tạo lập sự đồng bộ thị trường nằm trong
tay nhà nước mà chỉ có chủ thể có sức mạnh như nhà nước mới có khả năng can thiệp,

tạo lập, định hướng và hỗ trợ sự đồng bộ này.
Ở Đồng Nai, Tỉnh ủy và Ủy ban nhân dân tỉnh đã nhận thức rõ tầm quan
trọng của việc “ tạo lập đồng bộ các yếu tố của thị trường trong quá trình phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ”, nên luôn quan tâm chỉ đạo thực
hiện việc hình thành, phát triển đồng bộ hệ thống thị trường trên địa bàn tỉnh, đặc
biệt quan tâm phát triển các thị trường mới còn manh nha, yếu kém như: thị trường
sức lao động, thị trường bất động sản, thị trường khoa học – công nghệ, thị trường
chứng khoán ….. Tỉnh luôn định hướng, hỗ trợ và tạo mọi điều kiện thuận lợi để
các loại thị trường phát triển, từng bước hoàn thiện trong mối quan hệ tương tác,
tương hỗ nhau và thúc đẩy nhau phát triển.
- Do yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh nằm trong vùng kinh
tế trọng điểm phía Nam.
Theo Quyết định số 146 / 2004/QĐ-TTg, ngày 13 tháng 08 năm 2004, vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm 7 tỉnh, thành phố (Đồng Nai, Bình Dương,
Bà Rịa – Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An, Tây Ninh và Bình
Phước). Đây là vùng kinh tế năng động, được coi là vùng có tốc độ tăng trưởng
cao nhất cả nước; Với tốc độ công nghiệp hóa và đô thị hoá nhanh; mức độ
chuyển dịch cơ cấu lao động diễn biến nhanh và theo hướng tích cực; tốc độ tăng
vốn đầu tư và khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài lớn … là tiền đề quan trọng
để tăng cầu lao động.


23

Nằm ở trung tâm của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, Đồng Nai là một tỉnh
có tiềm năng lớn về phát triển công nghiệp, được đánh giá là một trong những tỉnh đi
đầu cả nước trong việc phát triển các khu công nghiệp cũng như thu hút đầu tư nước
ngoài, nên Đồng Nai là một tỉnh có vị trí và vai trò rất quan trọng trong việc phát
triển kinh tế - xã hội, thúc đẩy tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao
động trong vùng kinh tế trong điểm phía Nam. Trong những năm qua, sự phát triển

của tỉnh gắn liền với sự phát triển chung của miền Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam, đã tận dụng được những lợi thế so sánh, đưa kinh tế phát triển với
tốc độ tăng trưởng khá cao so với vùng và cả nước, tạo sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Ngoài lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ, văn
hoá xã hội được quan tâm đầu tư nhiều mặt, tạo ra sự phát triển nhanh và đạt được
nhiều tiến bộ, chất lượng hoạt động được nâng lên rõ rệt. Các hoạt động xóa đói
giảm nghèo, giải quyết việc làm, chăm lo phụng dưỡng các đối tượng chính sách
… luôn được quan tâm thực hiện tốt. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội luôn
được giữ vững, hệ thống chính trị ngày càng được tăng cường, củng cố, đời sống
nhân dân được nâng lên.
Bên cạnh các thành tựu đó Đồng Nai vẫn còn những mặt hạn chế: Kinh tế
tăng trưởng cao nhưng chưa thật bền vững, chưa tương xứng với tiềm năng và
lợi thế của tỉnh. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch còn chậm, sức cạnh tranh của nhiều
sản phẩm chưa cao, trình độ công nghệ của doanh nghiệp nhà nước nhìn chung
còn thấp ….
Do đó, để Đồng Nai cùng với các địa phương khác trong vùng kinh tế trọng
điểm phía Nam giữ vững vai trò là vùng kinh tế động lực của cả nước, trong Quy
hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Đồng Nai (thời kỳ 2001 – 2010) Ủy
ban nhân dân tỉnh đã xác định mục tiêu tổng quát là: “ Khai thác có hiệu quả
những tiềm năng và lợi thế so sánh của tỉnh phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế
- xã hội thời kỳ 2001 - 2010, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, khai


24

thác những cơ hội và tiềm lực bên ngoài, hạn chế những thách thức và hậu quả về
xã hội và môi trường, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh với tốc độ cao và
bền vững … ” [ 42, tr 45 ]
Các mục tiêu cụ thể là: Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 11 – 12

%/ năm cho cả 10 năm 2001 – 2010. Tạo sự chuyển dịch mạnh mẽ và toàn diện cơ cấu
kinh tế của tỉnh theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng nhanh tỷ trọng các
ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tương ứng tỷ trọng ngành nông nghiệp. Đến 2010,
tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng đạt từ 55 – 57 %, ngành nông, lâm, ngư
nghiệp từ 11 – 13 % và các ngành dịch vụ từ 31 – 33 % (nếu có điều kiện lên 49 % và
giảm tương ứng tỷ trọng công nghiệp còn 50 % và nông nghiệp 10 %) ; Tỷ lệ tăng
dân số ở mức 1,3 – 1,4 %; quy mô dân số khoảng 2,4 triệu người, trong đó lực
lượng lao động chiếm 60 – 64 %. Đến năm 2010, về cơ bản không còn hộ nghèo,
GDP bình quân đầu người sẽ tăng lên gấp 2,5 lần so với năm 2000 và năm 2020 đạt
được 3000 USD / người … ” [ 42, tr 46 ]
Với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói trên đặt ra nhu cầu rất lớn về lực
lượng lao động (cả về số lượng, chất lượng, quy mô, cơ cấu …). Do đó, để có đủ
lực lượng lao động cho nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội trong kỳ quy hoạch và
đáp ứng nhu cầu tăng trưởng theo mục tiêu đã đề ra, đặc biệt là nhằm đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế - xã hội của một tỉnh trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
đòi hỏi tỉnh Đồng Nai phải phát triển thị trường sức lao động, chăm lo phát triển
nguồn nhân lực, chú ý lực lượng lao động trình độ cao, vì nguồn nhân lực được phát
triển tốt sẽ là nhân tố quan trọng nhất, quyết định khả năng phát triển của nền sản xuất
– xã hội, khai thác các cơ hội phát triển từ bên ngoài là yếu tố quyết định thắng lợi
mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
- Do yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước: Ở
nước ta, công nghiệp hóa là con đường duy nhất, là con đường tất yếu để thoát khỏi
tình trạng nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu
Xuất phát từ một nước có nền kinh tế kém phát triển đi lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa “ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ” của Đảng ta (NXB Sự thật, HN, 1991, tr 98)
chỉ rõ: “ Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng


25


hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung
tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của công nghiệp hóa, không
ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân ”.
Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế cùng với sự hình thành và phát triển nền kinh tế tri
thức trên thế giới, công nghiệp hóa ở nước ta được Đại hội X của đảng xác định: “ Tranh
thủ cơ hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để rút
ngắn quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa gắn liền với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của
nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa ”. [ 23, tr 87 ]
Thực hiện đường lối công nghiệp hóa của Đảng, ở cấp độ địa phương, quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Đồng Nai cũng chú trọng thực hiện tất cả
những nội dung của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy nhiên, dựa trên
đặc thù của tỉnh có tiềm năng, lợi thế về phát triển công nghiệp và nằm trong vùng
kinh tế trọng điểm phía Nam. Nội dung công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh đang
chú trọng vào các nhóm nội dung chủ yếu sau: Một là, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tiến bộ (bao gồm cả cơ cấu ngành, cơ cấu vùng lãnh thổ và cơ cấu các
thành phần kinh tế); Hai là, phát triển và chuyển dịch cơ cấu ngành công nghiệp,
xem đây là một trong những nội dung quan trọng hàng đầu của tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa; Ba là, hiện đại hóa ngành dịch vụ tạo điều kiện, tiền đề
quan trọng cho phát triển công nghiệp; Bốn là, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn và năm là, phát triển khoa học và công nghệ.
Để đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và
tỉnh nhà, Đồng Nai luôn chú trọng đến các nhân tố tác động đến công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, kể cả các nhân tố bên trong (như vốn, khoa học – công nghệ, nguồn nhân lực,
cơ chế chính sách, kết cấu hạ tầng kinh tế) và các nhân tố bên ngoài (như: vốn, công
nghệ tiên tiến, thị trường quốc tế ….). Trong tất cả các nhân tố đó, tỉnh luôn khẳng
định: nguồn nhân lực có chất lượng cao là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến kết quả và
tính bền vững của công nghiệp hóa. Nguồn lực này bao gồm: Lực lượng lao động được

đào tạo và có tay nghề; đội ngũ cán bộ công chức có trình độ, năng lực và phẩm chất;
đội ngũ cán bộ kinh doanh có trình độ, phẩm chất và sự năng động sáng tạo ….


×