A.PHẦN MỞ ĐẦU
Từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin,
công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu…nền kinh tế thế giới đang biến đổi
sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu, chức năng và phương thức hoạt động. đây là
một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc biệt: lực lượng sản xuất( LLSX) xã hội
đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức ( KTTT), nền văn
minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ. Vào
thời điểm này, một cơ hội lớn cho nước ta để làm một cuộc cách mạng phát
triển, đi tắt, đón đầu tiến thẳng sang nền kinh tế tri thức, liệu chúng ta có bỏ lỡ
cơ hội?
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X cũnh nhấn mạnh:”Tranh thủ cơ hội
thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút
ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa gắn với phát triển KTTT. Coi KTTT là yếu tố quan trọng của nền
kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Vì thế nên em viết đề tài “Xây
dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam. Lý luận, nhận thức và giải pháp
thực hiện.”
1
B.NỘI DUNG
I. SƠ LƯỢC VỀ NỀN KTTT.
1. Sự hình thành nền KTTT
Sự tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại tất
yếu dẫn đến sự hình thành nền KTTT. Kinh tế tri thức, lúc đầu thường gọi là
kinh tế thông tin, đã ra đời lúc đầu ở Mỹ vào đầu những năm 1970 và rồi ở
nhiều nước công nghiệp phát triển và ngày nay cả các nước công nghiệp mới
(Nics).
2.Tên gọi
"Kinh tế thông tin - infomation economy"(nói lên tài nguyên quan trọng
nhất không phải là tài nguyên vât thể mà là thông tin-tri thức)
"Kinh tế mạng - network economy", "kinh tế số - digital economy" (nói
lên vai trò quyết định của công nghệ thông tin trong phát triển kinh tế).
"Kinh tế học hỏi - learning economy" (nói lên động lực chủ yếu của nền
kinh tế là sự tự học hỏi suốt đời, tự đổi mới liên tục của từng cá nhân, tổ chức
và từng quốc gia)
"Kinh tế dựa vào tri thức - knowledge based economy", "kinh tế tri thức -
knowledge economy" (nói lên vai trò quyết định của tri thức và công nghệ đối
với phát triển kinh tế).
3. Khái niệm nền KTTT
Tổ chức Hợp tác và Phát triển kinh tế(OECD)đưa ra khái niệm năm
1995:”KTTT là nền kinh tế trong đó sự sản sinh ra, phổ cập và sử dụng tri
2
thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, tạo ra của cải,
nâng cao chất lượng cuộc sống”.
Thực chất KTTT là trình độ phát triển cao của LLSX xã hội.Kinh tế tri
thức là một giai đoạn phát triển mới của các nền kinh tế với vai trò của sản
xuất, phân phối và sử dụng kiến thức trong tăng trưởng kinh tế ngày càng trở
nên quan trọng; đặc biệt tri thức đã trở thành nhân tố hàng đầu của sản xuất,
vượt lên trên các nhân tố sản xuất cổ truyền vốn và lao động.
Tiêu chí để nhận diện ngành KTTT là khi giá trị do tri thức tạo ra
chiếm tỉ lệ áp đảo, khoảng 70% trong tổng giá trị sản xuất của ngành đó. Một
nền kinh tế được coi là đã phát triển đến trình độ KTTT khi tổng sản phẩm
các ngành KTTT chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước(GDP).
4. Những đặc điểm chủ yếu của nền KTTT.
Tri thức khoa học và công nghệ, trí tuệ con người cùng với lao động kỹ
năng cao là LLSX trực tiếp, là vốn quý nhất, là nguồn lực quan trọng hàng
đầu, quyết định sự tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Cơ cấu tổ chức và phương thức hoạt động kinh tế có những biến đổi
sâu sắc và tốc độ biến đổi cực kỳ nhanh chóng. Các ngành kinh tế dựa vào tri
thức và những thành tựu khoa học công nghệ ngày càng tăng và chiếm đa số.
Vai trò quan trọng của công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin.
Công nghệ thông tin được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực; thiết
lậpđược cấu trúc mạng toàn cầu. thông tin trở thành tài nguyên quan trọng
nhất của nền kinh tế.
3
Nguồn nhân lực nhanh chóng được tri thức hóa; sự sáng tạo, đổi mới,
học hỏi suốt đời trở thành yêu cầu thường xuyên của mỗi người, phát triển
con người trở thành nhiệm vụ trung tâm của xã hội.
Mọi hoạt động đều có liên quan đến vấn đề toàn cầu hóa kinh tế, có tác
động tích cực hoặc tiêu cực sâu rộng tới nhiều mặt của đời sống xã hội trong
mỗi quốc gia và trên toàn thế giới.
II. XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN KTTT Ở VIỆT NAM.
1. Lý luận về việc xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam.
a. Khái quát về lộ trình phát triển KTTT ở Việt Nam.
Phát triển kinh tế thị trường chính là chặng đường quyết định đầu tiên
để tiến lên KTTT. So với các hình thái kinh tế trước đó, cấu trúc thị trường là
phù hợp hơn để tạo lập và phát triển nền kinh tế tri thức. Do vậy, phát triển
kinh tế thị trường, cả các điều kiện vật chất - kỹ thuật lẫn các cấu trúc thể chế
của nó chính là cách thức tạo điều kiện tốt nhất, hợp logic nhất để thúc đẩy
quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế tri thức.
Phối hợp nguyên lý tuần tự và nguyên lý nhảy vọt chính là logic bước
đi tất yếu để đạt tới nền KTTT của tất cả các nước đi sau. Trong chiến lược
phát triển theo mô hình CNH, HĐH rút ngắn, nhiệm vụ giải quyết các vấn đề
xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức đã trở thành một nhiệm vụ ưu tiên
hàng đầu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Trong bối cảnh hiện đại,
tốc độ cao đã trở thành thuộc tính số một của tiến trình vận động và phát triển
thì đó chỉ mới là "cần" mà chưa "đủ". Để sự ưu tiên này trở thành một lựa
chọn có nội dung thực tiễn,phải thiết kế toàn bộ chiến lược phát triển dài hạn
của mình xoay xung quanh trục phát triển kinh tế tri thức. Để đạt được cần có
4
sự nghiên cứu hệ thống và cẩn thận các vấn đề đặt ra. Tính phức tạp của quá
trình phát triển, thực chất của thời cơ hay thách thức nằm trong sự giao thoa -
hỗn hợp của các hình thái, các thể chế có trình độ khác nhau, cùng với sự níu
kéo của các lực lượng đại diện cho các làn sóng trước gây ra các “cú sốc” và
xung đột lợi ích, xung đột văn hoá - xã hội giữa các lực lượng, làm hạn chế
khả năng tiếp cận đến các nguyên lý phát triển mới của cả xã hội, v.v. Trong
khung cảnh đó, phối hợp nguyên lý tuần tự và nguyên lý nhảy vọt chính là
logic bước đi tất yếu để đạt tới nền kinh tế tri thức của tất cả các nước đi sau.
Cấu trúc logic của nền KTTT bắt buộc phải đưa ra 1 quan niệm hoàn
toàn mới về kết cấu hạ tầng của nền kinh tế. Trong nền kinh tế nông nghiệp
và công nghiệp - đại cơ khí, các kết cấu hạ tầng chủ yếu và quan trọng nhất là
hệ thống giao thông vận tải, hệ thống thuỷ lợi, cung cấp điện, nước, v.v. thì
trong kinh tế tri thức, bên cạnh những thứ đó, vai trò của các yếu tố kết cấu hạ
tầng kỹ thuật mới như dịch vụ tài chính - ngân hàng dựa trên công nghệ hiện
đại, thông tin viễn thông, mạng internet, v.v. - những yếu tố cấu thành kết cấu
hạ tầng “mềm” ngày càng gia tăng và đóng vai trò quyết định không kém kết
cấu hạ tầng truyền thống.
b. Mục tiêu phát triển KTTT.
Đạt tới nền kinh tế theo nghĩa hoàn chỉnh của nó hay thậm chí, chỉ theo
tiêu chuẩn “nhập cuộc” của các nước OECD hiện tại, từ điểm xuất phát rất
thấp của nước ta chắc chắn là một quá trình lâu dài. Chí ít, nó cũng phải vượt
qua mốc 2020 - thời điểm mà mục tiêu phát triển của nền kinh tế nước ta mới
là “nước công nghiệp phát triển”.Xét trên tổng thể, mục tiêu phát triển của
nền kinh tế trong 10 năm tới trước hết phải là nền kinh tế thị trường có hệ
thống thể chế hoàn chỉnh về cấu trúc và đạt trình độ phát triển cao. Cốt lõi vật
5
chất của hệ thống thể chế đó là hệ thống công nghiệp và dịch vụ phát triển, có
năng lực hội nhập và cạnh tranh quốc tế cao.Về thực chất, những nội dung
mục tiêu này chứa đựng các yếu tố hạt nhân xuất phát của nền kinh tế tri thức.
Chúng bảo đảm cho kinh tế phát triển theo định hướng kinh tế tri thức.
Để xác định mục tiêu phát triển kinh tế tri thức cụ thể hơn, cần phải làm
rõ định hướng kinh tế tri thức thông qua việc xác định một khuôn dạng chi tiết
cho cơ cấu kinh tế tổng thể trong giai đoạn tới.Căn cứ vào điều kiện thực tiễn,
vào vị thế phát triển phải có trong một nền kinh tế hội nhập toàn cầu mạnh
mẽ, có thể đề xuất khuôn hình cơ cấu kinh tế mục tiêu tổng quát như sau: sản
xuất tri thức - dịch vụ - công nghiệp.
- Sản xuất tri thức:Ưu tiên phát triển các ngành kinh tế dựa chủ yếu vào
trí tuệ và công nghệ cao phải đóng vai trò là trục quyết định tiến trình cơ cấu
kinh tế trong giai đoạn tới. Trục này sẽ chi phối hướng phát triển của tất cả
các lĩnh vực khác: mọi ngành đều phát triển dựa trên cơ sở chủ yếu là công
nghệ hiện đại.
- Dịch vụ:Việc nâng cao trình độ, chất lượng các ngành dịch vụ cao cấp
để dịch vụ trở thành một ngành kinh tế trọng điểm trong tương lai đang là một
yêu cầu cấp thiết đặt ra
- Công nghiệp: cần đột phá vào những ngành hàng, sản phẩm sử dụng
công nghệ hiện đại, kỹ thuật tiên tiến, có hàm lượng chất xám cao. Đồng thời,
phải đẩy mạnh việc sắp xếp lại các cơ sở công nghiệp hiện có; cải tạo, chuyển
hướng sản xuất đối với các cơ sở gây ô nhiễm, kỹ thuật giản đơn.
c. Những quan điểm phát triển KTTT
Những quan điểm theo hướng đồng thuận bền vững:
6
/Quan điểm hệ thống trong vận dụng và phát triển kinh tế tri thức trực
tiếp thể hiện ở mục tiêu: Chủ trương chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
phát triển bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế không chỉ vì mục tiêu tăng
trưởng, mà còn kéo theo các vấn đề xã hội và những vấn đề môi trường ở
nông thôn và đô thị. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển bền
vững đòi hỏi chất lượng cao của công tác quy hoạch. Công tác này đòi hỏi tầm
nhìn về các quan hệ kinh tế, xã hội hình thành trong giai đoạn kinh tế tri thức,
đòi hỏi phải vận dụng trí thức liên ngành trong phân tích thực trạng địa bàn và
trong soạn thảo quy hoạch. Muốn vận dụng quan điểm trong phát triển kinh tế
tri thức phải thể hiện trực tiếp ở chất lượng quy hoạch.
/ Quan điểm cân đối mới
Trên cơ sở quy hoạch đã được thông qua, cần phải xây dựng các kế
hoạch thực hiện quy hoạch ấy. Vấn đề mới trong công tác kế hoạch thời kỳ
vận dụng kinh tế tri thức là quan điểm cân đối mới. Đó là quan điểm cân đối
dựa trên tri thức trong vận động phát triển chứ không phải cân đối chỉ dựa
trên nguồn vốn đầu tư.
/ Quan điểm tăng trưởng mới.
Quan điểm tăng trưởng mới là quan điểm tăng trưởng theo hướng đồng
thuận giữa ba mặt kinh tế, xã hội, môi trường. Hơn nữa còn tạo ra tương tác
tích cực giữa ba mặt đó thúc đẩy kiểu phát triển gắn bó giữa quy mô và chất
lượng, giữa ổn định và phát triển.? thời kỳ đầu vận dụng quan điểm tăng
trưởng mới có thể tỷ lệ tăng trưởng hàng năm chưa cao. Nhưng khi ba mặt
kinh tế, xã hội, môi trường đã phát huy tác dụng tích cực trong tương tác lẫn
nhau, biến những tiến bộ xã hội và môi trường thành động lực tăng trưởng
kinh tế, thì lúc đó không những đạt được nhịp độ tăng trưởng kinh tế cao mà
7
còn đạt được sự phát triển trong ổn định xã hội và chính trị. Đó thật sự là môi
trường lý tưởng để thu hút đầu tư nước ngoài, để huy động ngày càng nhiều
các nguồn lực trong nước.
/ Quan điểm công bằng mới
Công bằng theo quan niệm duy vật lịch sử thì nó là kết quả tổng hợp của
sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hoá và chính trị. Một kết quả tổng hợp như
vậy chỉ có thể có trong thời đại kinh tế tri thức và chủ nghĩa xã hội chân
chính. Trong nấc thang phát triển công bằng ở giai đoạn hiện nay, sự phát
triển xã hội, văn hoá, chính trị phải tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế phát
triển bền vững, tạo ra cơ sở cho quá trình thực hiện công bằng trong kinh tế,
từ đó tiến tới thực hiện công bằng xã hội, dân chủ đầy đủ hơn.
Các quan điểm xây dựng tiềm lực tri thức và sử dụng lực lượng lao
động tri thức.
/. Quan điểm mới về nguồn lực chủ yếu của lực lượng sản xuất xã hội-
nguồn lực tri thức.
Sự ra đời nguồn lực tri thức ở vị trí số một trong kinh tế thị trường hiện
nay là một cuộc đảo lộn tận gốc lực lượng sản xuất xã hội. Nó đặt nhân tố sức
lao động có tri thức lên hàng đầu trong cơ cấu lực lượng sản xuất. Mặt khác,
nó nâng cao chất lượng các nguồn lực khác và sử dụng các nguồn lực ấy một
cách tiết kiệm, hiệu quả cao.
Thông qua lực lượng lao động tri thức mà khoa học trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, tạo ra những ưu thế của nền kinh tế: chất lượng sản phẩm
ngày càng cao, thời gian sản xuất ngắn lại, nhu cầu được đáp ứng tốt hơn, rẻ
hơn.
8
Sự kết hợp khoa học tự nhiên với khoa học xã hội trở thành một tất yếu
và mang tính chất nội sinh của lực lượng sản xuất. Nhờ đó tạo ra khả năng
cho quan hệ sản xuất tự giác điều chỉnh cho phù hợp với lực lượng sản xuất,
tạo ra khả năng phát triển bền vững giữa kinh tế, xã hội và môi trường. Sự kết
hợp ấy sẽ mở ra khả năng thay đổi có tính chất cách mạng về mối quan hệ
giữa con người với nhau và con người với tự nhiên.
Nét nổi bật của lao động tri thức là tính sáng tạo, đổi mới, khác hẳn lao
động máy móc, nghiệp vụ thuần tuý hay lao động giản đơn. Do tính sáng tạo
này mà con người lao động phát huy được năng khiếu, bản lĩnh, tư chất của cá
nhân. Sự hiểu biết và tầm nhìn của người lao động không bị bó hẹp trong
khuôn khổ chuyên môn hẹp, nhờ đó nhân cách con người ngày càng hoàn
thiện hơn.
/Quan điểm mới về vận dụng quan hệ sản xuất trong xây dựng tiềm lực
phát triển kinh tế tri thức.
Về sở hữu: Nét nổi bật nhất trong phát triển kinh tế tri thức là sở hữu trí
tuệ. Về cơ bản, quyền sở hữu trí tuệ là quyền kinh tế. Bởi vì tài sản trí lực sẽ
chẳng có giá trị gì nếu như không được luật pháp quy định nó có giá trị và có
những quy định để bảo vệ. Nhờ có luật về quyền sở hữu trí tuệ làm cho những
phát minh sáng tạo của con người trở thành hàng hoá có thể mua bán và thu
lợi.
Các doanh nghiệp, các cơ sở nghiên cứu phải coi việc đăng ký sở hữu trí
tuệ là việc làm trước khi đưa sản phẩm mới trung ra thị trường, nhằm tạo cơ
sở pháp lý cho hoạt động trong cạnh tranh.
9