Tải bản đầy đủ (.doc) (118 trang)

Những xu thế phát triển của cách mạng khoa học công nghệ mới và thực trạng của hoạt động chuyển giao công nghệ ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (437.73 KB, 118 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Ngày nay, khi nhân loại bớc vào Kỷ nguyên của tri thức và công
nghệ, thì vai trò của khoa học và công nghệ trong đời sống kinh tế thế
giới càng đợc phát huy mạnh mẽ. Dới tác động không ngừng của yêu
cầu đổi mới, sự phát triển của công nghệ thực sự lan rộng thành cuộc
Cách mạng công nghệ mới trên toàn cầu. Đặc điểm nổi bật của Cách
mạng công nghệ mới này chính là sự phát triển của công nghệ đa
ngành đan xen và hỗ trợ nhau nh Công nghệ thông tin, Công nghệ sinh
học, Công nghệ vật liệu mới và Công nghệ Nanô. Trớc bối cảnh đó, xu
thế phát triển của khoa học và công nghệ mới sẽ phát triển theo chiều
hớng nào, với ngành nghề nào, và có ảnh hởng tiêu cực gì đến đời
sống xã hội.
Có thể nói, trong xu thế toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế,
cuộc Cách mạng khoa học công nghệ lần thứ ba này đã tác động không
nhỏ đến đời sống kinh tế các nớc, nhất là làm cho hoạt động Chuyển
giao công nghệ diễn ra sôi động.
Nổi bật nhất vào thập niên cuối của thế kỷ XX, thông qua việc
tiếp nhận một cách hiệu quả Công nghệ của nớc ngoài, nhiều nớc Châu
á đã đạt những thành công đáng kể trong công cuộc Công nghiệp hoá
đất nớc. Các nớc đã tạo ra những bớc đi thần kỳ trong phát triển kinh
tế, thu hẹp khoảng cách lạc hậu so với các nớc đi trớc. Do đó, đối với
Việt Nam, chúng ta phải xác định hớng đi phát triển công nghệ gắn với
đổi mới thì mới tạo ra nền tảng công nghệ vững chắc, công nghệ từ đó
mới trở thành nguồn năng lực nội sinh của đất nớc. Trong đó, hoạt
1


động Chuyển giao công nghệ đợc khẳng định là con đờng ngắn nhất để
đổi mới nền công nghệ trong nớc, để Việt Nam vơn lên đuổi kịp với
trình độ của các nớc trong khu vực và trên thế giới. Điều quan trọng là
để thực hiện việc chuyển giao công nghệ có hiệu quả thì Việt Nam cần


có biện pháp gì, có phơng hớng nh thế nào?
Để đạt mục tiêu giải đáp những vấn đề trên, tác giả chọn vấn đề
“Những xu thế phát triển của Cách mạng khoa học công nghệ mới
và thực trạng của hoạt động chuyển giao công nghệ ở Việt Nam
hiện nay” làm đề tài cho khoá luận của mình.
Ngoài lời mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, khoá luận tốt
nghiệp gồm có 3 chơng:
- Chơng I: Những đặc điểm và xu thế phát triển của Cách
mạng khoa học công nghệ mới hiện nay.
- Chơng II: Thực trạng hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài ở Việt Nam hiện nay.
- Chơng III: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động chuyển giao công nghệ nước ngoài vào Việt
Nam.
Mặc dù đã rất cố gắng nhng do khả năng còn hạn chế, thời gian
lại có hạn, nên khoá luận chắc chắn không tránh khỏi có những thiếu
sót. Vì vậy, ngời viết rất mong nhận đợc sự đóng góp ý kiến và sự chỉ
bảo của các thầy cô cùng những ngời quan tâm để bài viết này đợc
hoàn thiện hơn.

2


CHƯƠNG I:
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM VÀ XU THẾ PHÁT TRIỂN CỦA CÁCH
MẠNG KHOA HỌC CÔNG NGHỆ MỚI HIỆN NAY.
1.1. Lịch sử phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ từ
trước tới nay.
Ngay từ thế kỷ XV-XVI, nhân loại đã có nhiều tiến bộ kỹ thuật
về năng lượng và luyện kim. Tiếp đó, cùng với giai đoạn hình thành và
phát triển hệ thống công xưởng thay thế công trường thủ công, những

sáng tạo mới về kỹ thuật không ngừng xuất hiện. Nổi bật lên là quá
trình Công nghiệp hoá ở các nước tư bản chủ nghĩa với các cuộc Cách
mạng công nghiệp ở Anh, Pháp, Mỹ...
Mở đầu là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất trong lĩnh
vực nông nghiệp ( từ cuối thế kỷ XVII đến đầu thế kỷ XIX), mà trước
tiên phải kể đến Cách mạng công nghiệp ở Anh diễn ra vào năm 1733.
Đó là cuộc cách mạng công nghiệp đầu tiên trên thế giới, đã mở ra con
đường phát triển của khoa học kỹ thuật. Nó bắt đầu từ công nghiệp nhẹ
rồi đến ngành công nghiệp nặng như luyện kim, cơ khí. Từ các máy
công cụ đến các máy động lực, đỉnh cao nhất là chế tạo máy hơi nước.
Như vậy, kỹ thuật phục vụ sản xuất tuân theo trình tự từ thấp tới cao,
từ thủ công lên nửa cơ khí và cơ khí. Giai đoạn này, các phát minh kỹ
thuật hầu hết tác động đến sự phát triển nông nghiệp của Anh, tiếp đó
đến các nước tư bản Pháp, Mỹ. Những tiến bộ về kỹ thuật phát triển và
gắn liền với sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa trong các lĩnh
vực sản xuất, vận tải và đời sống. Trước hết phải kể đến những phát
3


minh về năng lượng. Tiếp đó, sự phát minh ra điện và hơi đốt được các
nhà khoa học ứng dụng trong các ngành kinh tế như máy phát điện,
máy biến thế, tàu chạy bằng điện,...rồi phát minh ra động cơ đốt trong
dẫn đến sự ra đời loại phương tiện vận tải mới là ô tô(1883-1885), đầu
máy điêden(1891). Trong lĩnh vực hoá học, đã khám phá ra những
nguyên tắc phân tích và tổng hợp các chất, là cơ sở tạo ra các loại
thuốc nhuộm, thuốc chữa bệnh, nước hoa...
Như vậy, với sự phát triển của kỹ thuật mới phục vụ đời sống và
sản xuất, làm xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới như ngành điện,
ngành khai thác và chế biến dầu lửa, ngành hoá chất, cơ khí và chế tạo
ô tô, nhất là làm thay đổi cơ cấu sản xuất ở các nước tư bản. Từ cách

mạng kỹ thuật trong nông nghiệp dần chuyển sang công nghiệp, rồi
đến gắn liền công- nông nghiệp.
Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới thứ hai, cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ hai trong lĩnh vực công nghiệp ( từ cuối thế kỷ XIX đến
đầu thế kỷ XX) diễn ra đã tác động mạnh mẽ, trực tiếp tới xu hướng và
tốc độ phát triển của lực lượng sản xuất. Mỗi năm trên thế giới có
khoảng 1 triệu phát minh, làm xuất hiện 30 vạn mặt hàng mới. Nhờ
những ứng dụng của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật vào sản xuất,
nền kinh tế các nước tư bản thay đổi nhanh chóng diện mạo. Công
nghiệp có thể sản xuất ra những sản phẩm thay thế nguyên liệu lấy từ
nông nghiệp như cao su tổng hợp, sợi tổng hợp.. Nhiều ngành trước
kia thuộc lĩnh vực nông nghiệp nay chuyển sang sản xuất theo phương
pháp công nghiệp như ngành chế biến thức ăn gia súc...Tỉ trọng các
4


ngành công nghiệp đã thay đổi so với trước. Ngành hoá chất là ngành
có tốc độ phát triển nhanh nhất, ngành cơ khí đứng thứ hai gắn liền với
nhu cầu về hàng tiêu dùng lâu bền tăng lên ( máy giặt, máy hút bụi...),
ngành điện phát triển khá nhanh gắn với quá trình Công nghiệp hoá đất
nước. Thời kỳ này, các nước tư bản vừa đầu tư cho lĩnh vực khoa họckỹ thuật, đẩy mạnh liên kết kinh tế về khoa học- kỹ thuật, đồng thời
bắt đầu xuất khẩu kỹ thuật vào các nước đang phát triển.
Ngoài ra, chúng ta có thể thấy rõ tác động của khoa học kỹ thuật
mới đối với nước Mỹ. Đặc biệt, rất nhiều thành tựu mới nhất của khoa
học kỹ thuật đã được ứng dụng vào các ngành công nghiệp ở Mỹ.
Trong đó, Mỹ có những phát minh, sáng chế mới tạo điều kiện cho các
ngành công nghiệp mới ra đời như công nghiệp sản xuất ô tô, máy bay,
công nghiệp hoá học... Đây là bước nhảy vọt trong kỹ thuật sản xuất
công nghiệp của Mỹ nói riêng và của thế giới nói chung. Trong công
nghiệp, nhiều ngành công nghiệp mới xuất hiện như điện tử, vi điện tử,

công nghiệp vũ trụ...Điều có ý nghĩa quan trọng là Mỹ đã ứng dụng
máy tính điện tử vào công nghiệp cơ khí. Nó làm tăng trình độ tự động
hóa trong sản xuất, làm thay đổi quy trình công nghệ, tiến tới xóa bỏ
những ngành công nghiệp truyền thống dễ gây ô nhiễm môi trường và
tiêu tốn nguyên liệu. Như vậy, cuộc Cách mạng khoa học kỹ thuật đã
khởi đầu và không ngừng phát triển trong quá trình Công nghiệp hoá ở
các nước tư bản chủ nghĩa. Nhưng không dừng ở đấy, khoa học kỹ
thuật liên tục được đổi mới. Đó chính là sự phát triển của các ngành
công nghệ mới có hàm lượng khoa học kỹ thuật cao, vốn đầu tư lớn
5


như công nghệ tin học, công nghệ vũ trụ, công nghệ sinh học, công
nghệ sản xuất vật liệu mới...Đây là những ngành hứa hẹn khả năng
đem lại hiệu quả kinh tế cao và đang có ý nghĩa thúc đẩy sự phát triển
và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Chúng ta có thể thấy rõ
xu thế phát triển của cách mạng công nghệ mới ở phần sau.
1.2. Cuộc cách mạng khoa học công nghệ mới hiện nay
1.2.1.Đặc điểm, những xu thế phát triển của cuộc cách mạng công
nghệ mới
1.2.1.1. Đặc điểm của cuộc Cách mạng khoa học công nghệ mới
Tiếp sau các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp
và công nghiệp đã từng diễn ra trước đây, cuộc cách mạng công nghệ
lần này nổi lên với phạm vi rộng khắp, mang tính đa ngành, đan xen và
hỗ trợ cho nhau, nhất là nó đang tạo ra những ảnh hưởng sâu sắc đến
sự thay đổi thế giới.
Trong ba thế kỷ qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cách
mạng khoa học công nghệ, các chuyển dịch về chất trong phát triển
khoa học và công nghệ (KH&CN) đã đưa nền văn minh thế giới bước
vào nền kinh tế tri thức. Các dịch chuyển này là kết quả của quá trình

tích luỹ lâu dài các kiến thức khoa học và ứng dụng thành công kỹ
thuật mới và công nghệ mới trong sản xuất. Nói cách khác, đó là kết
quả của chu trình “Khoa học- Công nghệ- Sản xuất- Con ngườiMôi trường”. Với vai trò dẫn đường trong toàn bộ chu trình, khoa học
công nghệ đã làm cho lực lượng sản xuất của xã hội hiện đại biến đổi
tận gốc và đang dần nổi lên thành một trong những lực lượng sản xuất
6


mạnh mẽ. Ngày nay, với những nghiên cứu và tiến bộ không ngừng,
khoa học công nghệ đã và đang tiếp tục tạo ra cuộc cách mạng
KH&CN hiện đại trong thế kỷ XXI.
Cuộc cách mạng KH&CN hiện đại (hay còn gọi là cách mạng khoa
học và công nghệ mới) này phát triển với một tốc độ ngày càng cao
hơn, với một số đặc điểm lớn:
Một là, sự vượt lên trước của khoa học so với kỹ thuật và công
nghệ trong quá trình diễn ra đồng thời cuộc cách mạng khoa học và
cách mạng công nghệ, đã tạo điều kiện đẩy nhanh tiến bộ công nghệ.
Ngược lại, sự tiến bộ đó lại thúc đẩy khoa học phát triển nhanh hơn
nữa và đưa khoa học dần trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Hai là, các yếu tố riêng biệt của quá trình sản xuất được kết hợp
hữu cơ với nhau và kết nối thành một hệ thống liên kết mạng trên quy
mô quốc gia và quốc tế. Hệ thống liên kết chặt chẽ này (máy điều
khiển+ máy động lực+ máy công cụ+ máy vận chuyển+ liên kết mạng)
tạo điều kiện xuất hiện các hệ thống công nghệ mới về nguyên tắc. Đó
chính là nền tảng phát triển của cuộc cách mạng công nghệ mới hiện
nay.
Ba là, hầu hết các chức năng lao động dần được thay thế từ thấp
lên cao ( từ lao động chân tay sang lao động trí tuệ) trong quá trình sản
xuất dẫn đến sự thay đổi về căn bản vai trò của con người trong sản
xuất. Con người từ chỗ bị lệ thuộc, bị trói chặt (quan hệ một chiều)

vào quá trình sản xuất tiến đến làm chủ và chi phối lại quá trình sản
xuất ( quan hệ hai chiều).
7


Bốn là, cách mạng KH&CN mới tạo một bước ngoặt trong toàn bộ
hệ thống lực lượng sản xuất, góp phần nâng cao đáng kể năng suất và
hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Qua đó, nó cũng tác động một cách
sâu sắc và toàn diện tới các quan hệ kinh tế đối ngoại trên mọi lĩnh vực
đời sống xã hội, đồng thời khiến cho phân công lao động xã hội trong
phạm vi quốc gia và quốc tế ngày càng mở rộng, quan hệ sản xuất
ngày càng tiến bộ.
Như vậy, trong thiên niên kỷ thứ ba, từ vị trí đi sau kinh nghiệm ở
hai thiên niên kỷ đầu, khoa học và công nghệ đã trở thành động lực
phát triển hàng đầu ở nhiều quốc gia trên thế giới. Nền khoa học lớn
này phát triển cực kỳ mạnh mẽ và trên quy mô toàn cầu, với sự tham
gia hợp tác của đội ngũ cán bộ khoa học đông đảo và hùng hậu làm
công tác nghiên cứu và phát triển, đi đôi với sự ra đời của nhiều trung
tâm nghiên cứu lớn, các phòng thí nghiệm lớn. Quan trọng nhất là sự
góp sức của các nhà khoa học đầy uy tín ở nhiều quốc gia.
1.2.1.2. Xu thế phát triển của KH&CN mới đầu thế kỷ XXI
Trong thế kỷ XXI, theo đà phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng KH&CN hiện đại, khoa học và công nghệ đang mở đường cho
nhân loại bước vào nền kinh tế tri thức hay còn gọi là Kỷ nguyên trí
tuệ. Hội đồng tình báo Quốc gia Mỹ cho rằng trong xu thế toàn cầu
công nghệ sẽ phát triển theo hướng: Gia tăng tính đa ngành, thay đổi
nhanh tốc độ phát triển, toàn cầu hóa và cạnh tranh quốc tế ngày càng
gay gắt. Ngày nay, khoa học và công nghệ phát triển ở các nhóm
công nghệ đa ngành và ngày càng mở rộng và đan xen lẫn nhau.
8



Trong đó, công nghệ thông tin, công nghệ nanô, công nghệ vật liệu
mới và công nghệ sinh học kết hợp với nhau tạo ra nhiều khái niệm
và hệ thống mới, làm phong phú thêm công cụ nghiên cứu. Các nhà
nghiên cứu vật liệu đang cộng tác chặt chẽ với các nhà khoa học sinh
học, máy tính và các kỹ sư ứng dụng để phát triển vật liệu vi sinh, đáp
ứng nhu cầu vật liệu tạo ra các bộ cảm biến và dẫn động trong các cấu
trúc thông minh. Chính tính đa ngành của công nghệ mới làm tăng sức
mạnh của công nghệ cũng như tăng khả năng ứng dụng trong nhiều
lĩnh vực mới.
Với sự ra đời của vật liệu thông minh, nó không những đã thực
hiện được cả vai trò chức năng, mà còn xử lý khi kết hợp được những
tiến bộ về vật liệu với năng lực công nghệ thông tin và các vi hệ thống.
Đến lượt mình, hệ thống thông minh lại được dùng để tạo ra năng lực
phỏng sinh cũng như chế tạo ra bản thân các cấu trúc phân tử vật liệu
mới...
Biểu hiện rõ rệt là sản phẩm của công nghệ thông tin, cụ thể là
công nghệ máy tính đã thay đổi nhanh đến mức mà cứ sau 2-3 năm sản
phẩm tạo ra đã lỗi thời. Tốc độ thay đổi này còn mạnh hơn ở lĩnh vực
công nghệ y sinh, thậm chí, một số thiết bị đã bị lạc hậu ngay khi
nguyên mẫu mới được phát triển. Từ sự thay đổi nhanh chóng của
công nghệ, các lĩnh vực pháp lý và đạo đức khó theo kịp để xử lý
những vấn đề nảy sinh về sở hữu trí tuệ, bí mật riêng tư hay môi
trường bền vững...Chúng ta có thể thấy rõ sự phát triển nhanh chóng
của các ngành công nghệ mới trên thế giới hiện nay.
9


- Trong lĩnh vực Công nghệ thông tin và viễn thông

Có thể nói, công nghệ thông tin- viễn thông đã đi đầu trong làn
sóng công nghệ mới hiện nay. Với những thành tựu đáng kể như phát
triển công nghệ phần mềm, hệ thống truyền tin nhanh với băng tần
rộng và cáp sợi quang, hệ thống Internet tốc độ cao,.. công nghệ thông
tin đã làm thay đổi hoạt động của đời sống kinh tế- xã hội. Bên cạnh
đó, xu thế phát triển mới của Công nghệ thông tin trong thời gian tới
chắc chắn sẽ còn làm thay đổi thế giới nhiều hơn.
Thời gian tới, các máy tính bảng sẽ rẻ và dễ sử dụng hơn, đồng
thời công nghệ lưu trữ quang dùng tia laser xanh dương để ghi dữ liệu
với dung lượng lớn hơn và độ phân giải cao ra đời sẽ có tác dụng lớn
trong lưu trữ và kiểm tra thông tin khi cần. Một xu thế nữa là máy tính
(PC) không còn cổng và ổ đĩa: những ổ đĩa mềm được thay bởi những
ổ đĩa CD-RW với giá cả rẻ hơn, loại bỏ chiếc cổng song song lẫn cổng
nối tiếp trong các thế hệ AT76 và IT7, thay bởi Firewire, USB 2.0 và
cổng nối cho âm thanh số. Tiếp đó, Hệ điều hành Linux tiếp tục cất
cánh với các phiên bản mới đa dạng, giá cả rẻ hơn và được sử dụng
ngày càng phổ biến. Nhất là không thể không nhắc đến công nghệ
không dây, vừa nhanh và an toàn và thuận tiện cho truyền thông đường
dài ( giải pháp WIFI đường dài)…
Vì vậy, loài người sẽ được sử dụng những tiện ích mới mà họ
chưa từng nghĩ tới như: các trung tâm giải trí sử dụng tại nhà có kết
hợp truyền hình tương tác, điện thoại và máy tính được thương mại
hoá rộng rãi, sử dụng các máy liên lạc bằng hình ảnh, nhận giọng nói,
10


điều khiển người máy với trí tuệ nhân tạo...; con người cũng có thể học
tập từ xa, sử dụng máy tính dịch tự động, sách được xuất bản trực
tuyến trên mạng… chủ yếu con người sẽ giao dịch làm việc nhờ liên
lạc viễn thông từ xa.

- Công nghệ sinh học (CNSH)
Trong xu thế phát triển chung từ nay đến năm 2015, các làn sóng
phát triển của công nghệ sinh học chắc chắn sẽ liên tục nổi lên với tốc
độ phát minh nhanh chưa từng có. Làn sóng thứ nhất của CNSH là y
học biến đổi gen, làn sóng thứ hai là cây trồng biến đổi gen.Tiếp đó,
công nghệ sinh học sẽ tiếp tục tăng cường hơn nữa khả năng mô tả,
nhân bản và thao tác gen để đưa lại những cơ hội và ảnh hưởng sâu sắc
đến sinh vật với những thuộc tính mới, và nhất là sẽ còn phổ biến rộng
hơn nữa trong các lĩnh vực đời sống mà người ta không hề nghĩ đến.
Ngoài ra, sự phát triển của ngành gen học cũng đã và đang không
ngừng đưa ra những khám phá mới có ý nghĩa lớn. Nhờ có các thiết bị
ADN và phương pháp nhận dạng ADN sẽ bổ sung cho công nghệ sinh
học nhận dạng tội phạm, phát hiện và kiểm tra các tác phẩm nghệ
thuật. Việc sản xuất sinh vật thông qua nhân bản vô tính giữ vai trò
quan trọng trong cây trồng, gia súc và động vật phục vụ nghiên cứu.
Thông qua công nghệ biến đổi gen, người ta có thể tạo ra những tính
chất mong muốn, những đặc tính ưu việt cho sản phẩm của mình, từ
đó con người được sử dụng những sản phẩm tốt nhất, ưu việt nhất…
Ngoài công nghệ gen, trong liệu pháp chữa bệnh và dược phẩm,
CNSH có thể giúp hoàn thiện các biện pháp phòng ngừa, điều trị các
11


căn bệnh và sự nhiễm trùng. Nổi bật nhất trong công nghệ sinh học là
sự phát triển của kỹ thuật y sinh học, đặc biệt trong nghiên cứu chế tạo
mô và bộ phận nhân tạo của cơ thể người.
Tiếp sau đó, nổi lên công nghệ sinh học công nghiệp. Công nghệ
mới này hàm chứa sức mạnh to lớn ẩn chứa trong một số sinh vật bậc
thấp nhất và cũng là loài phong phú nhất, nhất là vi khuẩn và nấm. Các
vi khuẩn phổ biến trong công nghệ sinh học công nghiệp được nghiên

cứu và chế tạo ra các sản phẩm hết sức có ích cho người tiêu dùng.
Chắc chắn rằng tương lai của công nghệ sinh học công nghiệp sẽ mang
lại lợi ích tiềm năng lớn lao cho xã hội.
- Công nghệ nanô (CNNN) gắn với tạo ra vật liệu mới
Công nghệ Nanô hiện còn đang trong độ trưởng thành như một
ngành khoa học, còn là lĩnh vực công nghệ rất mới. Nhưng chính
CNNN đang được khẳng định là công nghệ có tiềm năng đột phá tạo
bước ngoặt, có thể giải quyết các vấn đề trong các ngành công nghiệp
chuyên biệt như viễn thông, công nghệ sinh học, vi điện tử và năng
lượng. Hiện nay, có hơn 100 hãng mới khởi sự đang phát triển sản
phẩm trên cơ sở công nghệ nanô, có thể sẽ đưa ra thị trường trong
vòng 3 năm tới. Trong đó, các hãng nghiên cứu về vật liệu nanô
thường thuộc 6 lĩnh vực: vật liệu nanô và xử lý vật liệu nanô, công
nghệ sinh học nanô, phầm mềm, quang tử nanô, điện tử nanô va dụng
cụ nanô.
Thứ nhất, trong thiết kế vật liệu, người ta mô phỏng, bắt chước
tự nhiên trong nghiên cứu sẽ tạo ra được những hệ thống và vật liệu
12


đạt độ cứng như vỏ bào ngư hay dai như tơ nhện. Bằng sử dụng máy
tính, có thể chọn lọc nhiều khả năng nhằm tối ưu hoá tính chất trong
thiết kế vật liệu, kết hợp nhằm đáp ứng yêu cầu ứng dụng cụ thể về
xúc tác, dược phẩm hay vật liệu quang học.
Tiếp đó, là sự ra đời của một loạt vật liệu nanô với tính chất khác
biệt so với vật liệu thông thường. Điểm ưu việt của nó thể hiện qua
tính chất có thể kiểm soát được ở kích thước nhỏ hơn micro (10-6) hoặc
nanô (10-9).
Ngày nay, CNNN phát triển mạnh hơn với sự sáng tạo ra vật liệu
thông minh, là vật liệu có khả năng cảm nhận và tự điều chỉnh để thích

ứng với điều kiện môi trường. Nhóm vật liệu thông minh có tầm quan
trọng đáng kể là composit và các vật liệu sắt điện để tăng độ nhạy cảm
phản ứng và khả năng thay đổi tần số. Ví như polyme thông minh là
vật liệu có khả năng biến dạng tuỳ thuộc vào tác dụng của điện trường
dùng để tạo “ cơ bắp nhân tạo”, dùng trong chế tạo robot thám hiểm vũ
trụ hoặc làm việc trong môi trường độc hại…
Tính đa ngành của công nghệ cũng làm thay đổi yêu cầu kỹ năng
của nguồn nhân lực, đòi hỏi lớp cán bộ khoa học phải có hiểu biết rộng
về các ngành có liên quan, phải dành nhiều thời gian cho học hỏi, bổ
sung kiến thức có bề rộng. Vì vậy, công tác giáo dục- đào tạo đa ngành
đang trở thành yêu cầu bức thiết, nhất là đối với những người nghiên
cứu hoạch định chiến lược và chính sách. Xu thế phát triển mới này
của công nghệ, không chỉ các cán bộ khoa học cần tìm hiểu sâu rộng,

13


mà nó buộc mọi thành viên trong xã hội đều phải có nhận thức rõ hơn
về KH&CN để có những lựa chọn đúng đắn và quyết định kịp thời.
Tiến bộ không ngừng của công nghệ thông tin- truyền thông,
Internet, của vật liệu mới cùng với hiện đại hoá dây chuyền sản xuất,
sẽ đẩy nhanh hơn quá trình toàn cầu hóa. Dẫn đến, sự cạnh tranh quốc
tế trong phát triển các công nghệ mũi nhọn trở nên rất cơ động và rộng
khắp không còn ranh giới quốc gia. Tuy vậy, hướng đi của từng nước
sẽ tùy thuộc vào những yếu tố chủ quan và khách quan như thoả ước
khu vực, quyền và sự bảo hộ trí tuệ, tổ chức của các công ty đa quốc
gia. Quan trọng nhất là vai trò hỗ trợ của chính phủ, hay chính là mức
độ đầu tư cho nghiên cứu và phát triển công nghệ trong khu vực của
chính phủ mỗi nước.
1.2.2. Những tác động của các ngành công nghệ mới đến sự phát

triển kinh tế và xã hội
* Tác động của cách mạng KH&CN tới đời sống xã hội
Kể từ cuối thế kỷ XX, quá trình toàn cầu hoá KH&CN còn kéo
theo sự thay đổi căn bản về phương thức tổ chức quản lý trong nhiều
lĩnh vực đời sống xã hội. Trên thực tế, cơ cấu tổ chức quản lý nền sản
xuất xã hội từ cấu trúc hình tháp đã chuyển sang cấu trúc hình mạng.
Điều đó tạo ra tiền đề chuyển giao nhanh chóng các kết quả nghiên
cứu cơ bản vào phát triển công nghệ và hình thành nên các Hệ thống
đổi mới công nghệ quốc gia và khu vực.

14


Chúng ta có thể thấy rõ sự thay đổi này trong mọi lĩnh vực sản xuất
xã hội. Những tiến bộ mới, ứng dụng mới cứ luân phiên thay thế, thậm
chí là nhảy vọt trong nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế.
Trong ngành năng lượng, từ sử dụng năng lượng nước, cơ bắp, gió
sang than, điện, dầu lửa rồi năng lượng nguyên tử và trong thế kỷ XXI
sẽ là năng lượng nhiệt hạch...
Trong lĩnh vực sản xuất, từ hợp tác lao động giản đơn qua giai đoạn
công trường thủ công, rồi tiến lên phương thức sản xuất đại cơ khí, với
các quy trình sản xuất và công nghệ được cơ giới hóa, tiếp đó tới cơ
giới hoá tổng hợp, làm xuất hiện các hệ thống máy móc. Theo đà phát
triển, con người lại tiếp tục tạo ra các máy móc tự động, tự động hoá
đồng bộ, hệ thống sản xuất linh hoạt...
Trong giao thông vận tải, máy và động cơ hơi nước thay thế bằng
động cơ đốt trong và động cơ điêden, tuabin và động cơ phản lực, phát
triển cao hơn là tàu con thoi, tàu vũ trụ...
Trong sản xuất vật liệu, chuyển đổi từ các nguyên liệu nông
nghiệp, các vật liệu xây dựng truyền thống ( như gỗ, gạch, đá...), sử

dụng kim loại đen (như sắt, gang...) là chủ yếu sang sử dụng kim loại
màu, chất dẻo, bêtông, các vật liệu kết cấu mới( composite), vật liệu
thông minh, vật liệu siêu dẫn..
Trong công nghệ sản xuất- chế tạo, từ sản xuất thủ công tiến lên
nửa tự động, rồi bước ngoặt của công nghệ tự động hóa như tự động
hóa thiết kế- chế tạo nhờ trợ giúp của máy tính điện tử CAD/CAM,
công nghệ thông tin (như tin học, truyền thông và viễn thông vũ trụ..),
15


tiếp đến là công nghệ nanô, công nghệ hạt nhân, công nghệ không
gian, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới, công nghệ vi điện
tử...
Như vậy, cuộc cách mạng KH&CN hiện đại đã thâm nhập vào tất
cả mọi lĩnh vực của nền sản xuất xã hội, đồng thời làm cho lực lượng
sản xuất không ngừng phát triển theo hai hướng chủ yếu:
Một là, thay đổi chức năng và vị trí con người trong quy trình sản
xuất trên cơ sở chuyển dịch từ nền tảng điện- cơ khí sang nền tảng cơđiện tử và cơ - vi điện tử.
Hai là, chuyển sang sản xuất trên cơ sở ứng dụng các ngành công
nghệ cao có mối quan hệ “thân thiện” với môi trường.
Không những thế, dưới tác động như vũ bão của KH&CN, xã hội
đang thay đổi với tốc độ nhanh chưa từng thấy trong lịch sử nhân loại.
Sự tiến bộ ngoạn mục của KH&CN đang chứng tỏ sức mạnh của nó
trong nền kinh tế toàn cầu, đang làm cho lịch sử tăng tốc. Điều này
cũng khiến các quốc gia, các tổ chức và các định chế quốc tế lớn khó
có thể quản lý một cách hiệu quả.
Tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2000 đã vượt quá mức tăng
trưởng kinh tế của cả thế kỷ XIX. Sản lượng hàng hoá, dịch vụ trên
toàn cầu tăng 7 lần kể từ năm 1950, là con số kỷ lục so với bất kỳ thời
kỳ nào trước đây. Vào giai đoạn đầu của cuộc Cách mạng Công

nghiệp, mức tăng trưởng kinh tế hiếm khi vượt quá 1-2%/năm. Đặc
biệt, hiện nay các nước đang phát triển đang tiến hành công nghiệp
hoá còn đạt mức tăng trưởng kỷ lục hơn rất nhiều so với các nước đi
16


trước. Đơn giản là vì họ không cần phải đầu tư vào nghiên cứu công
nghệ, mà có thể tiếp nhận và sử dụng công nghệ mới thông qua hoạt
động chuyển giao công nghệ. Chỉ riêng trong lĩnh vực nông nghiệp,
mức tăng sản lượng cây lương thực từ 1,1 tấn/ha (năm 1950) lên 2,8
tấn/ha(năm 2000), vượt qua con số mà loài người đã đạt được trong
suốt 11.000 năm lịch sử.
Bên cạnh những tác động tích cực, có ý nghĩa lớn lao đối với sự
phát triển kinh tế- xã hội toàn cầu, nhân loại còn phải đương đầu với
những thách thức và sự đe dọa của quá trình đổi mới công nghệ không
ngừng này. Chúng ta có thể quan sát thấy tốc độ phát triển của lịch sử
cũng đang tăng nhanh, trong khi đó, những nhu cầu tăng vọt của con
người gặp phải giới hạn tự nhiên của Trái đất. Các quốc gia đang phải
mất nhiều thời gian hơn để giải quyết những hậu quả nảy sinh từ sự
bùng nổ, tiến bộ của công nghệ. Chẳng hạn như vấn đề bùng nổ dân
số, việc khí hậu nóng lên trên toàn cầu, khả năng cạn kiệt các nguồn
năng lượng không tái tạo được, môi trường sinh thái bị ô nhiễm, cạn
kiệt các nguồn nước, nạn phá rừng, phá huỷ sự đa dạng sinh học...Rồi
cả việc những luồng cá bị đánh bắt đến mức không thể hồi phục được,
tình trạng đói nghèo, những trận bão tàn phá ngày càng dữ dội, kéo
theo sự gia tăng đều đặn của các luồng dân tỵ nạn bởi tình trạng môi
trường. Ngoài ra, còn rất nhiều tác động khác do con người trong quá
trình phát triển không ngừng xâm phạm quá mức các giới hạn tự
nhiên. Đó là còn chưa kể đến việc đại dịch AIDS vẫn đang tiếp tục
hoành hành ở nhiều nơi trên thế giới. Còn nạn đói vẫn đang là mối đe

17


doạ rất nhiều sinh mạng và là một trong những nguyên nhân gây bất
ổn xã hội ở nhiều nơi ...
*Những tác động thích ứng với xu thế đang diễn ra của cuộc
cách mạng công nghệ này:
Có thể nói, với xu hướng phát triển của các ngành công nghệ mới
trên, đặc trưng trong cách mạng công nghệ đến năm 2015 sẽ chuyển từ
các ngành song hành có sự phân cấp sang đa ngành, từ các hệ vi mô
sang hệ nanô, từ tính địa phương, khu vực chuyển sang toàn cầu và từ
xã hội thông tin chuyển sang thời đại tri thức.
Đặc điểm và xu thế của cách mạng công nghệ mới đòi hỏi lực
lượng tham gia vào quá trình này phải thay đổi. Nguồn nhân lực từ yêu
cầu chuyên môn hóa sâu phải được đào tạo lại theo hướng đa ngành.
Các sản phẩm tạo ra có nguồn gốc địa phương sẽ chuyển sang sản
phẩm được “may đo” dựa theo nguồn lực địa phương, việc đầu tư cũng
sẽ chuyển từ tự gia tăng vốn sang sử dụng các nguồn vốn hỗn hợp...
Trong xu thế chuyển đổi của cách mạng công nghệ, những nhóm
nghiên cứu và phát triển đa ngành hình thành sẽ làm thay đổi mối quan
hệ phân cấp trong các mô hình cũ. Vấn đề sử dụng tài nguyên cũng
thay đổi. Trước đây, nguồn tài nguyên sẵn có ở địa phương có ảnh
hưởng khá quyết định đến sản xuất. Ngày nay, với tiến bộ công nghệ
và các phương tiện tạo ra, các nguồn tài nguyên địa phương có thể kết
hợp rộng khắp với nguồn lực ở nhiều nơi khác. Nhờ vậy, sẽ tạo ra
được nhiều sản phẩm đặc thù phù hợp với yêu cầu đặt ra cho các thành
phẩm. Có thể nói, theo hướng phát triển này thì tới năm 2015, thành
18



phẩm sẽ được “may đo” để sẵn sàng đáp ứng những nguồn lực sẵn có
và tạo khả năng cho nhiều người cùng tham gia vào quy trình công
nghệ.
Cụ thể, chúng ta có thể nhận thấy rõ nét ở các ngành công nghệ
mới. Trong đó, ngành công nghệ sinh học công nghiệp tuy còn rất non
trẻ nhưng ẩn chứa sức mạnh to lớn: không những giúp giảm chi phí
còn thay thế được các hóa chất gây ô nhiễm. Đặc biệt, là bước đột phá
về Công nghệ Nanô, công nghệ kiến tạo vật liệu mới, nó có thể giải
quyết các vấn đề trong ngành công nghiệp chuyên biệt như viễn thông,
công nghệ sinh học, vi điện tử và năng lượng.
Tuy nhiên sự phát triển của cách mạng công nghệ mới trong đời
sống xã hội đã và đang đặt ra những vấn đề suy nghĩ:
Trong xu thế phát triển đa ngành, cách mạng công nghệ có thể đem
lại những tác động xã hội to lớn hơn nhiều so với những sản phẩm và
dịch vụ mà công nghệ tạo ra. Sản phẩm và dịch vụ mới sẽ thay đổi
phương thức, lối sống và thay đổi cả trong mối quan hệ con người.
A.Mặt tích cực:
Nhờ những tiến bộ của cách mạng công nghệ, hoạt động sản xuất
mau lẹ và việc tạo nguyên mẫu nhanh, hoạt động kinh doanh được kết
nối rộng rãi, tính toàn cầu tiếp tục phát triển mạnh hơn. Chẳng hạn như
điện thoại tế bào ra đời đã đưa những quan hệ kinh doanh và cá nhân
vào những khu vực trước đó được coi là của riêng. Vi tiểu hình hóa và
trang bị cảm biến ngày càng mở rộng trong những vật dụng thông
thường như đồ gia dụng, trang phục, tư trang, ô tô...,nó làm thay đổi
19


lối sống, quan hệ tương tác giữa con người với đồ vật. Thực phẩm tạo
ra bằng công nghệ mới, y sinh học phát triển giúp cho việc chăm sóc
sức khỏe thâm nhập vào cuộc sống con người nhờ việc chẩn đoán và

giám sát hàng ngày tốt hơn.
Do tính liên ngành trong sự phát triển công nghệ ngày càng rộng
lớn, các quá trình sản xuất và dịch vụ có nhiều thay đổi. Điều này đòi
hỏi phải đổi mới giáo dục- đào tạo nhằm tăng cường có hiệu quả lực
lượng lao động tham gia vào quá trình cách mạng này. Giáo dục- đào
tạo phải hướng tới chiều rộng ở các bộ môn, để giúp mọi người nâng
cao kiến thức cơ bản của nhiều ngành. Nhất là, đối với các doanh
nghiệp, nên dành nhiều nguồn lực để tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng đội
ngữ lao động phù hợp với yêu cầu phát triển của doanh nghiệp mình.
B. Mặt tiêu cực
Bên cạnh những triển vọng tốt đẹp cho nhân loại, xu thế cách
mạng công nghệ đang diễn ra cũng làm nảy sinh một số hạn chế cần có
giải pháp khắc phục cả trước mắt và lâu dài. Đó là những vấn đề có
liên quan đến đạo đức, kinh tế, pháp luật, môi trường và an ninh xã
hội. Từ những tác động của sản phẩm và dịch vụ mới, cuộc cách mạng
công nghệ có ảnh hưởng lớn đối với văn hóa, thay đổi nhiều phương
thức tương tác xã hội. Ví như, nhân bản vô tính người và biến đổi gen
là vấn đề dấy lên những làn sóng phản ứng mạnh mẽ liên quan đến đạo
lý. Các cộng đồng xã hội phải ứng phó với nhiều trào lưu mới về văn
hóa qua mạng công nghệ thông tin. Một số nền văn minh đang mở
rộng cửa để đón nhận công nghệ mới, trong khi một số khác lại lo ngại
20


về nguy cơ nền văn hóa truyền thống bị đe doạ hay bị văn hóa phương
Tây, văn hóa Mỹ thôn tính. Tuy nhiên, với tốc độ thay đổi nhanh
chóng của công nghệ, nhờ cách mạng công nghệ làm cuộc sống được
cải thiện rõ rệt, nhờ những chính sách chia sẻ lợi ích mang lại, điều đó
càng khẳng định cách mạng công nghệ còn có thể có những kết quả lạc
quan hơn nữa.

Xu thế cách mạng công nghệ đã và đang mở ra những triển vọng
tốt đẹp cho nhân loại, song khả năng này sẽ phụ thuộc rất nhiều vào
các nhân tố thuận lợi, các rào cản và nhất là chính sách của mỗi quốc
gia về khoa học và công nghệ.
1.3. Tính tất yếu của hoạt động chuyển giao công nghệ
1.3.1.Đặc điểm, các yếu tố cấu thành công nghệ, các thuộc tính của
công nghệ, vai trò đối với sự phát triển kinh tế
1.3.1.1. Công nghệ và yếu tố cấu thành công nghệ
Công nghệ có xuất xứ từ hai từ trong tiếng Hy Lạp cổ: “techno” là
tài năng, sự khéo léo, kỹ thuật, nghệ thuật, là từ “logy” là lời lẽ, ngôn
từ, cách diễn đạt, học thuyết. Trước đây, trong giai đoạn đầu Công
nghiệp hóa, người ta thường dùng khái niệm kỹ thuật trong sản xuất,
sau đó khái niệm công nghệ xuất hiện với ý nghĩa ban đầu rất hẹp, đơn
giản chỉ là tuần tự các giải pháp kỹ thuật trong một dây chuyền sản
xuất. Ngày nay, tuỳ theo lĩnh vực nghiên cứu và đối tượng áp dụng các
khái niệm khác nhau về công nghệ.
Theo Uỷ ban kinh tế- Xã hội Châu Á Thái Bình Dương (ESCAP)
định nghĩa ” Công nghệ là hệ thống tri thức về quy trình kỹ thuật chế
21


biến vật liệu và thông tin. Nó bao gồm tất cả kỹ năng, kiến thức, thiết
bị và phương pháp sử dụng trong sản xuất, chế biến hoặc dịch vụ công
nghiệp, dịch vụ quản lý”.
Với khái niệm này, công nghệ được mở rộng và hoàn thiện hơn.
Công nghệ là tập hợp những công cụ, phương pháp dùng để biến đổi
các nguồn lực sản xuất thành những sản phẩm hàng hóa và dịch vụ
phục vụ nhu cầu con người.
Như vậy, công nghệ được phân biệt rõ với khoa học và kỹ thuật.
“Khoa học là lĩnh vực nghiên cứu nhằm đưa ra những tri thức mới

về tự nhiên, xã hội và tư duy”, còn “kỹ thuật có thể hiểu là tổng hợp
các tư liệu vật chất như công cụ lao động, năng lượng, vật liệu và
phương pháp do con người sáng tạo ra và được sử dụng trong quá trình
lao động để tạo ra của cải vật chất cho xã hội”.
Qua đó, chúng ta có thể thấy công nghệ có cái đồng nhất với kỹ
thuật, song cái khác nhau cơ bản là kỹ thuật chỉ nặng về phần cứng,
còn công nghệ thì đi sâu vào phần mềm của quy trình. Hơn nữa công
nghệ còn bao gồm cả sự năng động trong nhận thức của con người để
cải tiến quy trình sản xuất, đặc biệt là khả năng chuyển giao công
nghệ(CGCN) trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Điều này có ý
nghĩa quan trọng trong giai đoạn cách mạng Khoa học công nghệ hiện
nay. Kỷ nguyên mà công nghệ thực sự trở thành nhân tố quyết định
khả năng cạnh tranh trên thị trường và tỷ lệ”phần mềm” có vị trí ngày
càng quan trọng trong các quy trình công nghệ sản xuất.

22


Theo quan điểm phổ biến hiện nay thì công nghệ gồm 4 thành phần
cơ bản tác động qua lại lẫn nhau.
a.Hình thái vật chất của công nghệ
b.Thông tin: là các sơ đồ, bản vẽ, thuyết minh, dự án, mô tả sáng chế,
chỉ dẫn kỹ thuật.. Phần thông tin rất quan trọng, nó quyết định phần
lớn sự thành công hay thất bại của hoạt động chuyển giao công nghệ.
Nó thường được tìm kiếm trong khoảng thời gian dài và được hoàn
thiện trước khi kí hợp đồng chuyển giao công nghệ.
c. Thiết chế: là cơ cấu tổ chức, quản lý, gồm sự liên hệ, bố trí sắp xếp,
đào tạo đội ngũ.. cho các hoạt động như phân chia nguồn lực, tạo
mạng lưới, lập kế hoạch, kiểm tra, tiến hành.
d.Yếu tố con người: gồm kỹ năng, kỹ xảo, kinh nghiệm sản xuất làm

việc có trách nhiệm và có năng suất cao của đội ngũ nhân lực có sức
khoẻ.
1.3.1.2. Các thuộc tính của công nghệ
Công nghệ là một hàng hóa trên thị trường, với tư cách là một hệ
thống công cụ chế biến vật chất và thông tin, hàng hóa công nghệ có
thuộc tính riêng. Những thuộc tính này do 4 yếu tố cơ bản của công
nghệ tạo nên, nó quyết định và ảnh hưởng trực tiếp tới việc mua bán,
đánh giá, định giá, trao đổi và sử dụng công nghệ.
A. Tính hệ thống: thể hiện hai khía cạnh lớn. Mối quan hệ giữa bốn
yếu tố liên kết thành một chuẩn mực nhất định để thực hiện tốt một
công nghệ.

23


Trong đó, trang thiết bị là cốt lõi của bất kỳ sự chuyển đổi. Nó
được phát triển, lắp đặt, vận hành bởi con người. Yếu tố con người là
yếu tố chủ chốt của bất kỳ thao tác chuyển đổi, nó được phần thông tin
hướng dẫn. Thông tin được tạo ra và được con người sử dụng để quyết
định và vận hành trang thiết bị.
Thiết chế tiếp nhận và kiểm soát phần thông tin, phần con người và
phần trang thiết bị để tiến hành quá trình chuyển đổi.
Bốn yếu tố này liên kết trực tiếp với nhau, trong đó yếu tố con
người là phần tối quan trọng của công nghệ. Yếu tố thông tin đưa vào
một loại vốn mới- vốn trí tuệ. Tính hệ thống thể hiện trình tự, bước
thực hiện theo một chu trình nghiêm ngặt, theo quy trình, thời gian, địa
điểm.. trong từng yếu tố.
B.Tính sinh thể và tiến hoá:
Đây là thuộc tính cơ thể sống, là bảo đảm cung cấp các yếu tố đầu
vào, có môi trường tốt, được thích nghi hoá, có bảo dưỡng, duy trì và

hoàn thiện. Công nghệ chỉ có thể tồn tại và phát triển nếu được nuôi
dưỡng.
Công nghệ nào cũng có riêng vòng đời của mình. Cho dù công
nghệ nhập từ nước ngoài hay công nghệ phát sinh trong nước đều trải
qua những giai đoạn có quan hệ mật thiết lẫn nhau. Đó chính là Vòng
đời công nghệ: Nghiên cứu(Reseach), triển khai(Development), sản
xuất(Production) và thị trường(Marketing).
C. Công nghệ mang bản chất thông tin

24


Đây cũng là thuộc tính riêng của công nghệ. Do đó, việc xác định
sở hữu, bảo vệ, đánh giá, xử lý, cập nhật... trong việc mua bán công
nghệ là hết sức phức tạp. Nó đòi hỏi sự can thiệp và bảo hộ của hệ
thống luật pháp không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả quốc tế. Đồng
thời, nó cũng đòi hỏi các kỹ năng linh hoạt và các kinh nghiệm trong
quá trình thăm dò, đàm phán, ký kết và thực hiện hợp đồng chuyển
giao công nghệ.
Giữa thông tin công nghệ và thông tin khoa học có sự khác nhau.
Sự nhầm lẫn về bản chất này có thể dẫn đến những thiếu sót khi xử lý
thông tin và thất bại khi sử dụng công nghệ. Do vậy, chúng ta cần hiểu
sâu và phân biệt sự khác nhau này. Thông tin công nghệ là thông tin có
thể đem lại lợi nhuận ngay hôm nay hoặc ngày mai, còn thông tin khoa
học có thể đem lại lợi nhuận sau một thời gian dài chẳng hạn 5 năm.
Thông tin khoa học thường đề cập sâu hơn về một đối tượng, ngược lại
thông tin công nghệ lại thường tổng hợp nhiều khía cạnh. Có thể nói,
thông tin công nghệ hàm chứa rất rộng, không chỉ dừng lại ở khía cạnh
mà còn bao quát cả khía cạnh thương mại hoá, sở hữu công nghiệp và
những vấn đề xung quanh chuyển giao công nghệ. Như vậy, công nghệ

không chỉ đem lại thông tin về chi tiết kỹ thuật mà còn cung cấp cả các
chi tiết khác về mặt công nghệ như đào tạo, huấn luyện, chuyên
gia...Để sử dụng công nghệ hiệu quả cần phải có đầy đủ thông tin, từ
đó đưa ra quyết định đầu tư đúng đắn.
D. Tính đặc thù của công nghệ (đặc thù theo mục tiêu)

25


×