Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

vai trò của văn hóa doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (163.34 KB, 39 trang )

Tên đề tài: “Vai trò của văn hóa doanh nghiệp đối với sự phát triển
của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm ở Việt Nam”.
(Nghiên cứu so sánh trường hợp ở hai doanh nghiệp bảo hiểm:
Prudential – Anh và Bảo Việt – Việt Nam).
A. PHẦN MỞ ĐẦU:
1. Lý do chọn đề tài:
Một cuộc điều tra xã hội học cho thấy khi được hỏi “Bạn nhớ
nhất hay tự hào điều gì nhất về quê hương bạn?” phần lớn cầu hỏi trả
lời: “Tôi tự hào vền nền văn hóa quê hương tôi”, một dân tộc có nền
văn hóa riêng và chính nền văn hóa ấy đã tạo nên bản sắc đặc trưng
để phân biệt quốc gia này với quốc gia khác. Nói như một nhà văn hóa
học: “Điều tồi tệ nhất với bất kỳ một quốc gia nào là không có nền
văn hóa của riêng mình”. Và những nét đặc trưng của mỗi nền văn
hóa quy định cách ứng xử khác nhau với các nền văn hóa đó. Văn hóa
phương Đông khác văn hóa phương Tây như: văn hóa mặc, ăn uống,
đàm thoại… có thể là lịch sự với nơi này nhưng lại bị coi là khiếm nhã
với nơi khác. Cùng trong một lĩnh vực nào đó nhưng văn hóa hoạt
động lại không hề giống nhau.
Cùng với sự phát triển không ngừng của xã hội hiện đại tính văn
hóa không chỉ được đề cập trong các giá trị tinh thần, ứng xử, giao
tiếp… mà khái niệm “văn hóa” được nói tới trong tất cả các mặt của
đời sống xã hội. Tầm quan trọng và tính thích hợp của nó đã được
mọi lĩnh vực hoạt động xã hội quan tâm tới và dường như xã hội càng
phát triển thì đồng nghĩa với việc các cấp độ văn hóa đó tồn tại.
Sự phát triển của thương nghiệp, công nghiệp, dịch vụ mạnh mẽ
hiện nay dẫn tới việc trên các phương tiện thông tin đại chúng, chúng
ta được nghe và được biết nhiều tới văn hóa kinh doanh, văn hóa du
lịch, văn hóa thương mại
1
Khái niệm “Văn hóa” đã được mở rộng ra rất nhiều, xã hội có
những hoạt động nào ở đó có nét văn hóa riêng, trình độ phát triển


của văn hóa là thước đo trình độ phát triển xã hội.
Xuất phát từ thực tế trên có thể thấy rằng: Bất kỳ một lĩnh vực
nào muốn đạt tới thành công đều phải xây dựng cho mình một nền
văn hóa cụ thể là những sinh viên khoa học quản lý, chúng tôi thấy
quan tâm tới loại hình “Văn hóa doanh nghiệp” một khái niệm khá
mới mẻ nhưng có ý nghĩa to lớn trong xã hội hiện nay. Trong sự phát
triển như vũ bão của các doanh nghiệp thuộc nhiều lĩnh vực khác
nhau những doanh nghiệp tồn tại và phát triển được là những doanh
nghiệp xây dựng được cho mình những nét độc đáo, sáng tạo,, hiệu
quả về phương thức quản lý về hình ảnh của công ty, thương hiệu,
quảng bá hình ảnh Những điều đó được gọi chung là “văn hóa doanh
nghiệp”.
Trong phạm vị nghiên cứu khoa học này, chúng tôi xin đề cập
tới văn hóa doanh nghiệp trong một loại hình doanh nghiệp cụ thể đó
là doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm với tên đề tài: “Vai trò của Văn
hóa doanh nghiệp đối với sự phát triển của doanh nghiệp kinh doanh
bảo hiểm ở Việt Nam” thông qua việc nghiên cứu so với trường hợp ở
hai doanh nghiệp bảo hiểm: Prudential – Anh và Bảo Việt – Việt
Nam.
Chúng tôi thấy rằng: đây là một loại hình doanh nghiệp khá mới
mẻ, một loại hình kinh doanh dịch vụ đã và đang phát triển ở Việt
Nam và đương nhiên văn hóa doanh nghiệp ở các doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm mang những tính cập nhật mới mẻ cần được nói
tới.
2. Lịch sử nghiên cứu.
Văn hóa doanh nghiệp là khái niệm bắt nguồn từ các nước
phương Tây vào những năm đầu thể kỷ XX. Có rất nhiều các tác giả
2
trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã có nhiều công trình viết về vấn
đề này.

Ở nước ta, trong các tác phẩm về quản lý thường hay đề cập tới
việc tạo dựng văn hóa doanh nghiệp bởi đó là nhiệm vụ của nhà quản
lý. Một số tác phẩm được nhiều người nói tới là: Bản sắc văn hóa
doanh nghiệp (tác giả), nghệ thuật kinh doanh, ứng xử văn hóa (Phạm
Mai Hương)… Nhưng có thể thấy rõ một điều đó là: hầu hết những
tác phẩm này chỉ đề cập tới những vấn đề lý luận và thực tiễn chung
về văn hóa doanh nghiệp cung cấp cho người đọc kiến thức tổng thể
về văn hóa trong kinh doanh mà rất ít trong số đó nói tới những lĩnh
vực cụ thể của đời sống xã hội, dường như không có một công thức
chung nào cho văn hóa của mọi doanh nghiệp mà mỗi công ty phải
biết đi tìm một nền văn hóa cho riêng mình.
Từ thực tế đó chúng tôi thấy rằng: hiếm có tác phẩm nào nói tới
văn hóa của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm (ở đây chỉ nói ở
nước ta). Hơn nữa, kinh doanh bảo hiểm là một lĩnh vực mới phát
triển ở Việt Nam, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế đất
nước, khi mà nền sản xuất vật chất tiến triển không ngừng thì nền
dịch vụ cũng phát triển nhanh.
Sự tăng trưởng của nền kinh tế nước ta có các loại hình dịch vụ
cùng với nền kinh tế phát triển đó.
Kinh doanh bảo hiểm là một loại hình kinh doanh trong lĩnh vực
dịch vụ. Các công ty sản xuất như da dày, thực phẩm, bánh kẹo, …
đòi hỏi phải có một nền văn hóa doanh ngiệp trong quá trình phát
triển thì với các doanh nghiệp dịch vụ, nền văn hóa doanh nghiệp đó
càng được đề cao hơn rất nhiều. Bởi, kinh doanh trong lĩnh vực này
là được coi là một “nghệ thuật” trong giao tiếp ứng xử, quảng cáo, lôi
kéo khách hàng, … để khách hàng đến với Công ty. Một doanh nghiệp
dịch vụ sẽ nhanh chóng mất thị trường nếu văn hóa của họ không làm
vừa ý khách hàng.
3
Như vậy, vai trò của văn hóa doanh nghiệp trong sự phát riển

của doanh nghiệp dịch vụ có tầm quan trọng rất to lớn, loại doanh
nghiệp kinh doanh bảo hiểm nằm trong số đó. Bảo hiểm là một lọai
hình dịch vụ chỉ mới phát triển trong khoảng hai chục năm trở lại
đây ở nước ta còn khá mới mẻ, nhưng đã thu hút được rất nhiều
khách hàng. Nhiều công ty bảo hiểm đã có mặt tại Việt Nam, nhưng
có công ty có nhiều khách hàng tới mua có những công ty lại không
tạo được uy tín. Điều đó có thể giải thích được bởi văn hóa doanh
nghiệp của họ không giống nhau mà đều có ý nghĩa trong sự thành bại
của công ty.
Do đó, từ cơ sở lý luận và thực tiễn này mà chúng tôi đã lựa
chọn đề tài “văn hóa doanh nghiệp” ở các doanh nghiệp bảo hiểm để
tiến hành nghiên cứu.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Mặc dù ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều các doanh nghiệp bảo
hiểm hoạt động nhưng trong phạm vi nghiên cứu khoa học này, chúng
tôi chỉ chú trọng xem xét tới hai khách thể: Công ty Bảo hiểm Bảo
Việt – một doanh nghiệp kinh doanh của Việt Nam và Prudential –
một doanh nghiệp của Anh tại Việt Nam. Do những đặc trưng riêng
về lịch sử công ty, về kinh phí, kinh nghiệm, mà văn hóa doanh
nghiệp của hai công ty này là khác nhau và mức độ thành công của
hai doanh nghiệp này là khác nhau. Chúng tôi không đi vào việc so
sánh nền văn hóa doanh nghiệp của hai công ty để đánh giá xem ai tốt
hơn ai, công ty nào phát triển hơn công ty nào mà mục đích trong đề
tài này là: thông qua việc tìm hiểu về văn hóa doanh nghiệp để có thể
biết được mức độ thành công của mỗi công ty trong quá trình kinh
doanh bảo hiểm ở Việt Nam, để đánh giá đúng về điểm yếu, điểm
mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng như nước ngoài.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
4
Cùng với việc xác định lịch sử nghiên cứu và phạm vi nghiên cứ

mục đích trong nghiên cứu này đó là chúng tôi muốn xác định được
mức ảnh hưởng của văn hóa doanh nghiệp như thế nào?
+ Có phải là yếu tố tiên quyết hay không?
+ Có phải xác định văn hóa doanh nghiệp hay không?
+ Trong các công ty bảo hiểm nói riêng và các công ty dịch vụ
nói chung,.
Từ đó có những giải pháp kiến nghị để các doanh nghiệp bảo
hiểm ở nước ta có thể phát triển nhanh và mạnh mẽ hơn.
Để nghiên cứu được đền tài này, chúng tôi đặt ra những nhiệm vụ
cần phải giải quyết:
- Xây dựng cơ sở lý thuyết, văn hóa doanh nghiệp, doanh nghiệp
bảo hiểm…
- Trình bày, phân tích, đánh giá đối tượng khảo sát (2 doanh
nghiệp nêu trên).
- Đưa ra được giải pháp từ việc đánh giá phân tích trên.
Tuy nhiên, đây chỉ là những bước cơ bản, trong quá trình nghiên
cứu, chúng tôi đã đặt ra yêu cầu: phải có sự so sánh liên hệ để tạo
tính thuyết phục cho đề tài.
5. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp luận chung cho mỗi doanh nghiệp, lịch sử của
doanh nghiệp đặt sự vật doanh nghiệp bảo hiểm trong sự vận động,
phát triển không ngừng qua các tiến trình phát triển) và trong mối
liên hệ khác (với khách hàng với nền kinh tế chính trị đất nước với
các doanh nghiệp khác cạnh tranh….).
- Ngoài ra:
+ Phương pháp phân tích và tổng hợp
+ Phương pháp phân loại
6. Kết cấu của báo cáo:
Bao gồm:
5

- 3 Chương
- 7 Mục
- 8 Tiết
- 7 Tiểu tiết
- 40 Trang
B. NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Khái niệm về văn hóa:
“Văn hóa” là một thuật ngữ được dùng phổ biến trong cuộc
sống hàng ngày. Đã có rất nhiều cách tiếp cận góc nhìn khác nhau về
khái niệm văn hóa. Cụ thể: năm 1952, hai nhà nhân loại học Kroeber
và Kluckhohn đã phân loại ra 164 nghĩa của từ “văn hóa”, hiện nay
có khoảng hơn 500 cách định nghĩa khác nhau về khái niệm “văn
hóa”. ở đề tài này, chúng tôi chỉ muốn dẫn ra một số khái niệm văn
hóa tiêu biểu phục vụ cho vấn đề NC của đề tài:
Trước hết là định nghĩa văn hóa doanh nghiệp do nguyên tổng
thư ký UNESCO Rederico Mayor nêu ra: “văn hóa là tổng thể sống
động các hoạt động sáng tạo của các cá nhân và các cộng đồng, trong
quá khứ và hiện tại”
6
Qua các thế kỷ, hoạt động sáng tạo ấy đã hình thành nên hệ
thống các giá trị, các truyền thống và thị hiếu – những yếu tố xác định
đặc tính riêng của từng dân tộc, (UB quốc gia về thập kỷ quốc gia
phát triển văn hóa), thập kỷ TG phát triển văn hóa” Nhà xuất bản VH
– TT và thể thao Hà Nội, 1992, tr 23).
Với ý nghĩa đó, chúng ta thấy rằng “văn hóa là một hệ thống
hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích
lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác giữa con
người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”, (tìm hiểu về bản
sắc văn hóa Việt Nam, Nhà xuất bản TP.HCM 1996).

Trong cuốn “văn hóa kinh doanh và triết ký kinh doanh, Tiến sỹ
Đỗ Minh Cương cho rằng: “Văn hóa là nguồn lực nội sinh của con
người là hiểu sống và bảng giá trị của các tổ chức, cộng đồng người,
trung tâm là các giá trị chân - thiện - mỹ” (VH kinh doanh, triết lý
kinh doanh – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, HN, 2001, Tr 28).
Khái quát lại: văn hóa có một số nội dung cơ bản sau
* Văn hóa là thuộc tính bản chất của con người, chỉ có ở loài
người và do con người sinh ra, văn hóa là dấu hiệu chỉ đặc điểm nhân
văn của con người. Nó hiện diện trong tất cả các mối quan hệ trong
hoạt động và trong sản phẩm của con người.
* Đối với một cộng đồng xã hội, văn hóa thường thể hiện ra như
một lối sống, hiểu, ứng xử riêng biệt và tương đối ổn định, được di
truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác.
* Yếu tố cốt lõi của văn hóa một cộng đồng người là hệ giá trị và
chuẩn mực xã hội, thể hiện như là bản sắc của cộng đồng, nó có chức
năng điều tiết hành vi của các thành viên, tạo nên sự thống nhất hành
động trong cộng đồng xã hội ấy.
Như vậy, văn hóa là hệ thống được định hình và phát triển trong
quá trình lịch sử, bao gồm nhiều yếu tố hợp thành như hệ giá trị, tập
quán, thói quen, lối ứng xử, các chuẩn mực xã hội. Nó mang tính ổn
7
định, bền vững và có khả năng di truyền qua nhiều thế hệ. Văn hóa là
nguồn lực nội sinh, là sức mạnh cốt lõi của con người. Không chỉ các
dân tộc, các quốc gia mới có văn hóa mà mỗi tổ chức, cá nhân, doanh
nghiệp đều có văn hóa riêng của mình. Mỗi cá nhân, doanh nghiệp có
thể tạo ra và khẳng định được giá trị của mình có tiến bộ, có ưu thế
chình là sự thành công của cá nhân hoặc doanh nghiệp đó.
2. Khái niệm doanh nghiệp, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm:
2.1. Khái niệm về doanh nghiệp:
Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế có tư cách pháp nhân,

được thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động kinh doanh nhằm thực
hiện mục tiêu sản xuất ra hàng hóa và dịch vụ, đem lại lợi nhuận cho
doanh nghiệp.
Như vậy, doanh nghiệp có những đặc điểm cơ bản sau:
* Thứ nhất

: Doanh nghiệp là những tổ chức kinh tế có tư cách
pháp nhân, tứclà mỗi doanh nghiệp khi thành lạp đều có giấy phép
của cơ quan nhà nước và được tự do hoạt động trong khuôn khổ của
pháp luật.
* Thứ hai

: Doanh nghiệp trong quá trình hoạt động luôn cố
gắng sử dụng khai thác các nguồn lực kinh doanh một cách hiệu quả
nhất để sản xuất ra của cải vật chất và dịch vụ phục vụ nhu cầu toàn
xã hội. Tuy nhiên, xét đến cùng mục đích hàng đầu của doanh nghiệp
là làm giàu, thu được lợi nhuận tối đa cho doanh nghiệp.
Đây là điểm tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa doanh nghiệp với
các tổ chức hành chính Nhà nước (trường hợc, bện viện….) chỉ hoạt
động nhằm mục đích phục vụ lợi ích cho cộng đồng xã hội.
* Thứ ba

: Mỗi doanh nghiệp đều tồn tại trong một môi trường
văn hóa cụ thể: Dưới ảnh hưởng của môi trường văn hóa đó, hệ thống
các giá trị của mỗi doanh nghiệp sẽ được hình thành và phát triển.
8
Đây cũng là cơ sở cho mỗi doanh nghiệp tạo dựng và phát triển
nét văn hóa doanh nghiệp riêng biệt, đặc trưng của riêng mình, theo ý
nghĩa này, mỗi doanh nghiệp là một không gian văn hóa.
2.2. Những hiểu biết cơ bản về doanh nghiệp kinh doanh bảo

hiểm:
2.2.1. Tìm hiểu những khái niệm liên quan:
Trong luật kinh doanh bảo hiểm (Nhà xuất bản chính trị Quốc
gia, HN, 2001) có đưa ra các khái niệm:
* Kinh doanh bảo hiểm là hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm
nhằm mục đích sinh lời theo đó doanh nghiệp bảo hiểm chấp nhận rủi
ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm đóng phí
bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện
bảo hiểm:.
* Doanh nghiệp bảo hiểm là doanh nghiệp được thành lập, tổ chức và
hoạt động theo quy định lủa Luật kinh doanh bảo hiểm và các quy
định khác của Pháp luật có liên quan để kinh doanh bảo hiểm, tái bảo
hiểm.
2.2.2. Sự khác nhau giữa lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm với bảo
hiểm y tế và các lĩnh vực kinh doanh khác.
Từ định nghĩa trên đã giúp ta phần nào hiểu được đặc điểm của
loại hình kinh doanh bảo hiểm.
Trước hết, đây là một ngành kinh doanh lĩnh vực dịch vụ xuát
hiện do nhu cầu của khách hàng và hoạt động nhằm mục đích sinh lợi.
Tuy nhiên, kinh doanh bảo hiểm khác kinh doanh các lĩnh vực khác ở
chỗ vốn doanh nghiệp thông thường phải tự chuẩn bị, tìm kiếm các
nguồn vốn để đầu tư, sản xuất ra các sản phẩm hàng hóa phục vụ xã
hội. Kinh doanh bảo hiểm là loại hình kinh doanh bằng nguồn vốn
hoạt động thu được từ khách hàng. Đó là số tiền khách hàng đóng phí
bảo hiểm cho doanh nghiệp.
9
Như vậy, kinh doanh bảo hiểm là dạng bảo hiểm thương mại ra
đời khi có sự thỏa thuận giữa doanh nghiệp bảo hiểm với khách hàng,
khi khách hàng tự nguyện tham gia, có nhu cầu được doanh nghiệp

bảo hiểm trả tiền bồi thường khi gặp rủi ro, thông qua việc đóng một
mức phí bảo hiểm nhất định theo định kỳ hợp đồng quy định. Đây
cũng chính là điểm tạo nên sự khác biệt giữa bảo hiểm thương mại với
bảo hiểm xã hội.
Bảo hiểm xã hội là sự thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập
của người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thải
sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, hết tuổi lao động hoặc chết trên cơ
sở đóng vào quỹ bảo hiểm… có một số loại bảo hiểm xã hội bắt buộc
người lao động phải tham gia, quỹ của bảo hiểm xã hội được hình
thành từ một phần lương của người lao động, nhưng đóng và hỗ trợ
và các nguồn khác. Mục đích của bảo hiểm xã hội nhằm từng bước
mở rộng và nâng cao việc đảm bảo vật chất, chăm sóc sức khỏe, góp
phần ổn định đời sống cho người lao động và gia đình.
Vậy, tính chất của các ngành bảo hiểm là khác nhau, mỗi loại
bảo hiểm lại mang một đặc trưng riêng tiêu biểu, chính sự khác nhau
đó cũng chi phối rất lớn tới việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp của
các loại hình doanh nghiệp bảo hiểm khác nhau.
3. Khái niệm và các yếu tố cấu thành văn hóa doanh nghiệp
3.1. Khái niệm:
Thuật ngữ “văn hóa doanh nghiệp” mới được chúng ta làm
quen, tuy vậy thuật ngữ này đã tồn tại khá lâu ở các nước có nền kinh
tế thị trường phát triển. Thực chất “văn hóa doanh nghiệp” là một
dạng cụ thể của văn hóa TC. Vì vậy, để hiểu rõ hơn về văn hóa doanh
nghiệp, trước hết chứng ta cần biết văn hóa TC là gì? sau đây là một
vài định nghĩa được công bố và sử dụng rộng rãi:
* Văn hóa TC là một tập hợp những quan niệm chung của một
nhóm người, những quan niệm này được phần lớn các thành viên hiểu
10
ngầm với nhau và chỉ thích hợp cho tổ chức của riêng họ, các quan
niệm này sẽ được truyền cho các thành viên mới (theo Laris, 1980).

* VHTC có thể được mô tả như một tập hợp chung quanh các
tín ngưỡng thông lệ, hệ thống giá trị, quy chuẩn hành vi ững xử và
cách kinh doanh riêng của từng tổ chức, những mặt trên sẽ quy định
mô hình hoạt động riêng của tổ chức và cách ứng xử của các thành
viên trong tổ chức (theo Tunstall 1983). Hiện nay, vấn đề văn hóa
doanh nghiệp đang được các nhà nghiên cứu và doanh nghiệp Việt
Nam quan tâm, đã có một số tài liệu, giáo trình đề cập nhưng phân
tích chưa sâu,có thể nêu ra một số định nghĩa về văn hóa doanh
nghiệp khá tiêu biểu sau:
Theo Tiến sỹ Dương Thị Liễu thì văn hóa doanh nghiệp là “toàn
bộ các giá trị tinh thần mang đặc trưng riêng biệt của doanh nghiệp,
có tác động tới lý trí, tình cảm và hành vi của tất cả các thành viên
doanh nghiệp”.
Trong bài viết “Xây dựng văn hóa doanh nghiệp” đăng trên
trang Web: www.h.vnclc.com

nhà nghiên cứu Nguyễn Thịnh cho
rằng: “ văn hóa doanh nghiệp là toàn bộ các giá trị văn hóa được gây
dựng nên trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của một doanh
nghiệp, trở thành các giá trị, các quan niệm và tập quán, truyền
thống ăn sâu vào hoạt động của doanh nghiệp ấy và chi phối tình cảm,
nếp nghĩ và hành vi của mọi thành viên của doanh nghiệp trong việc
theo đuổi và thực hiện các mục đích”.
Trong cuốn “Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh”, Tiến
Sỹ Đỗ Minh Cương đưa ra khái niệm: văn hóa doanh nghiệp (văn hóa
công ty) là “một dạng của VHTC bao gồm những giá trị, những nhân
tố văn hóa mà doanh nghiệp làm ra trong quá trình sản xuất, kinh
doanh, tạo nên các bản sắc của doanh nghiệp và tác động tới tình
cảm, lý trí và hành vi của tất cả các thành viên của nó”.
11

Những cách định nghĩa trên đã chỉ ra được quá trình hình
thành phát triển của văn hóa doanh nghiệp và khẳng định giá trị của
văn hóa doanh nghiệp đối với sự tồn tại và phát triển của doanh
nghiệp.
Mới đây, trong bài viết “Văn hóa doanh nghiệp – nền móng của
sự giàu có”, tác giả Ngô Minh Khôi cũng đứ ra khái niệm: “Văn hóa
doanh nghiệp là toàn bộ các hệ thống chuẩn mực về tinh thần, vật
chất quy định mối quan hệ, thái độ và hành vi ứng xử của tất cả các
thành viên trong doanh nghiệp, hướng tới những giá trị tốt đẹp được
xã hội đồng tình, tạo ra nét riêng, độc đáo đồng thời là sức mạnh lâu
bền của doanh nghiệp thể hiện qua sức mạnh sản phẩm của doanh
nghiệp trên thương trường” (Nhà QL, số 16, tháng 10-2006).
ở đây, tác gỉa đã chỉ ra được giá trị của văn hóa doanh nghiệp
đó chính là sự khác biệt, độc đáo là sức mạnh của mỗi doanh nghiệp.
Điều đó được thể hiện qua sức cạnh tranh của sản phẩm doanh nghiệp
đó làm ra.
Từ những quan điển củacácnhà nghiên cứu trên, chúng tôi
muốn đưa ra một khái niệm: “Văn hóa doanh nghiệp là một hệ thóng
các giá trị, triết lý, truyền thống, tập quán, lễ nghi, chuẩn mực, biểu
tượng được hình thành trong quá trình xây dựng và phát triển doanh
nghiệp, có khả năng lưu truyền tạo nên bản sẳc riêng của doanh
nghiệp, gắn kết mọi thành viên của doanh nghiệp trong mục tiêu
chung và cung cách hành động chung.
3.2. Cácyếu tố cấu thành Văn hóa doanh nghiệp
Văn hóa doanh nghiệp là nền văn hóa đặc thù của doanh nghiệp,
là caí để phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác. Nghĩa là
mỗi doanh nghiệp đều có một avưn hóa doanh nghiệp riêng mang dấu
ấn cá nhân, tạo nên sự khác biệt của doanh nghiệp đó. Tuy nhiên văn
hóa doanh nghiệp là một bộ phận củavăn hóa dân tộc hay văn hóa
quốc gia. Vì vậy văn hóa doanh nghiệp cần được xem xét như một hệ

12
thống, bao gồm các thành tố có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Theo
chúng tôi, văn hóa doanh nghiệp bao gồm các yếu tố cơ bản sau:
3.2.1. Các yếu tố ngầm định:
- Triết lý kinh doanh – hạt nhân của văn hóa doanh nghiệp. Yếu
tố nàyịnh hướng cho toàn bộ quá trình hoạt động, phát triển của
doanh nghiệp.
- Hệ quan điểm, giá trị chung của doanh nghiệp ở yếu tố này,
doanh nghiệp sẽ tuyên bố rõ sứ mệnh của mình. Vì vậy nó chi phối
mọi hành vi, ứng xử củacác thành viên trong doanh nghiệp từ đó tạo
nên phong cách và lối hành động chung củadoanh nghiệp.
- Hệ thống các quy định về nề nếp, kỷ luật, chế độ khen thưởng,
ưu đãi nhân viên của doanh nghiệp.
- Các tập tục không thành văn do các thành viên trong doanh
nghiệp tự nguyện lập nên vì lợi ích chung như thăm hỏi, động viên,
tặng quà ngày lễ tết, các câu truyện, huyền thoại nghiệp vụ giao dịch
đối ngoại, các hoạt động sinh hoạt văn hóa nghệ thuật.
3.2.2. Các biểu hiện vật chất:
- Thương hiệu , logo, slogan
- Trang phục nhân viên
- Cách bài trí văn phòng
4. Vai trò của văn hóa doanh nghiệp đối với sự phát triển của
doanh nghiệp
Quan điểm của các nhà nghiên cứu đều đánh giá rất cao vai trò của
văn hóa doanh nghiệp đối với việc nâng cao hiệu quả hoạt động toàn
diện của doanh nghiệp. Có thể khái quát vai trò của văn hóa doanh
nghiệp ở một số điểm sau đây:
4.1. Văn hóa doanh nghiệp là tài sản tinh thần của doanh
nghiệp, là một nguồn lực quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp phát
triển bền vững.

13
Có thể nói, văn hóa doanh nghiệp có vai trò lớn trong việc tạo
lập vị thế của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp ngoài hoạt động kinh
doanh, sản xuất vật chất, hàng hóa hoặc dịch vụ còn có một tài sản
tinh thần to lớn – văn hóa doanh nghiệp.
Văn hóa doanh nghiệp là cái “hồn” của doanh nghiệp. Vì vậy, nó
là yếu tố không thể thiếu, nó tồn tài khách quan trong từng doanh
nghiệp.
Bởi thế, văn hóa doanh nghiệp chính là cái làm nền cốt cách của
doanh nghiệp, là cột trụ tinh thần của doanh nghiệp, là linh hồn của
cả doanh nghiệp. Do đó, văn hóa doanh nghiệp đóng vai trò quan
trọng thúc đẩy doanh nghiệp phát triển bền vững. Một doanh nghiệp
nếu có nền văn hóa riêng vững mạnh thì trong quá trình kinh doanh
có lên hay xuống vẫn vực lại được.
Nhưng nếu một doanh nghiệp không chú trọng xây dựng cho
mình một nền văn hóa đặc thù thì không thể tồn tại được.
4.2. Văn hóa doanh nghiệp định hướng cho hoạt động của doanh
nghiệp, tạo ra sự nhất thể hóa trong lối sống và hoạt động của mọi
thành viên trong doanh nghiệp.
Trong một doanh nghiệp là một tập hợp những con người khác
nhau về nhiều mặt tạo nên một môi trường làm việc phức tạp. Văn
hóa doanh nghiệp tạo ra một môi trường làm việc thân thiện để mỗi
cá nhân, đơn vị có thể phát huy năng lực, sáng tạo và cống hiến nhiều
nhất cho doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp như dòng máy lan tỏa
trong toàn doanh nghiệp, gắn kết và vận hành các niềm tin, giá trị
xuyên suốt các bậc, các vùng miền địa lý khác nhau. Từ đó, tạo dựng
tình bạn bằng hữu, đồng đội trong công việc cũng như ngoài công
việc.
Doanh nghiệp dù lớn hay nhỏ, sở hữu Nhà nước hay tư nhân đều
phải đối mặt với bài toán hợp tác giữa cá nhân và tập thể trong khi

doanh nghiệp tối đa hóa lợn nhuận thì cá nhân có thể theo đuổi mục
14
đích riêng. Văn hóa doanh ngiệp đóng vai trò then chốt trong việc giải
quyết vấn đề xung đột giữa quyền lợi cá nhân và tập thể, người lao
động sẽ làm việc mà không nghĩ đến tiền thưởng. Chẳng hạn, nếu lợi
thế cạnh tranh của doanh nghiệp xoay quanh nguyên tấc sáng tạo và
chất lượng sản phẩm là niềm tự hào của doanh nghiệp. Các cá nhận
trong doanh nghiệp xem sự thỏa mãn của mình gắn với điều này,
doanh nghiệp sẽ cần đến các giải pháp tiền bạc.
Nói tóm lại, một trong những chức năng cơ bản của văn hóa
doanh nghiệp là tạo ra cảm giác thống nhất của mọi thành viên, tạo ra
hình ảnh “chúng tôi” tập thể, bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích tập thể
và lợi ích cá nhân, Trong văn hóa doanh nghiệp, mỗi thành viên của
nó đều nhận thức được vai trò của mình trong hệ thống các doanh
nghiệp, nhận thức lại những gì mà doanh nghiệp trông đợi và có thể
đáp lại trông đợi ấy như thê nào?
Như vậy, văn hóa doanh nghiệp động viên mọi nguồn lực trong
doanh nghiệp và hưởng những nguồn lực ấy vào việc phấn đấu cho
mục đích của doanh nghiệp.
4.3. Văn hóa doanh nghiệp là bản sắc của doanh nghiệp là cái
phân biệt doanh nghiệp này với doanh nghiệp khác.
Bản sắc của doanh nghiệp là nét riêng biệt, đặc thù của mỗi
doanh nghiệp, văn hóa là nhân tố quan trọng cơ bản tạo nên dấu ấn
của doanh nghiệp, là đặc tính để phân biệt doanh nghiệp này với
doanh nghiệp khác.
Văn hóa doanh nghiệp có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc
sáng tạo cái mới, bởi văn hóa là sáng tạo. Quá trình xây dựng và phát
triển, doanh nghiệp luôn cung cấp cho xã hội những nhu cầu mới,
khác trước. Điều đó có nghĩa là một doanh nghiệp không thể giới hạn
ở chỗ cung cấp những sản phẩm và dịch vụ mới hơn, tốt hơn cho xã

hội. Đó là chức năng sáng tạo, đồng thời cũng là cái cần thiết để
doanh nghiệp tồn tại.
15
Văn hóa doanh nghiệp sẽ hình thành nên bản sắc của doanh
nghiệp khi nó được chăm lo phát triển, in đậm vào tâm trí dùng tạo
thành ấn tượng xã hội, thành niềm tự hào của các thành viên trong
doanh nghiệp.
Ví dụ như khi nhắc đến dày dép là người ta nghĩ ngay đến Bits,
nhắc đến cafee là người ta nghĩ đến cafee Trung Nguyên. Hay khi
muốn mua Bảo hiểm rất nhiều khách hàng sẽ tìm đến Prudential hoặc
Bảo Việt.
Tuy nhiên, một doanh nghiệp trong thời gian khởi sự chưa thể
có một văn hóa doanh nghiệp ổn định, tức là chưa thể có một bản sắc
doanh nghiệp đầy đủ. Để làm được điều này các giá trị phải trải qua
một quá trình tạp lập, chọn lọc, thích nghi và phát triển lâu dài trong
quá trình đó, vai trò của người quản lý là rất quan trọng để định
hướng và xác lập văn hóa doanh nghiệp.
Tóm lại, văn hóa doanh nghiệp bao giờ cũng in đậm dấu ấn cá
nhân từ nhân cách của người lao động, lối suy nghĩ quản lý đến hoạt
động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp là cái
hồn của doanh nghiệp, nó tạo dựng lòng tin của nhiều người về doanh
nghiệp và giúp nhân viên tập trung vào những công việc quan trọng
tạo nên lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp, khẳng định tên tuổi, uy
tín của doanh nghiệp đó.
4.4. Văn hóa doanh nghiệp có tính “di truyền” qua nhiều thế hệ
thành viên tạo môi trường thuận lợi để doanh nghiệp phát triển.
Có thể ví văn hóa doanh nghiệp như một “bộ gen” của nó nên
thách thức đối với nguời sáng lập và tạo dựng các doanh nghiệp chính
là khả năng sáng tạo “bộ gen” tốt cho doanh nghiệp mình. Đối với văn
hóa doanh nghiệp, đổi mới và bảo tồn, phát triển có mối quan hệ biện

chứng với nhau. Một doanh nghiệp không có khả năng tự đổi mới và
phát triển lâu dài, thì sớm muộn cũng bị thị trường cạnh tranh đào
thải (bị sát nhập, giải thể, phái sản…). Trái lại, doanh nghiệp sẽ có
16
phat triển bền vững nếu có khả năng bảo tồn và di truyền bản sắc
doanh nghiệp cho các thế hệ thành viên.
Điều này cho thấy rằng một doanh nghiệp muốn tồn tại và phát
triển phải có khả năng đối phó với những thay đổi của môi trường
xugn quanh. Để làm được điều này, mỗi doanh nghiệp cần phải mang
tầm nhìn vào cuộc sống, chuyển biến những mong ước tốt đẹp bằng
hiện thực cụ thể. Văn hóa doanh nghiệp đòi hỏi doanh nghiệp phải hài
hòa trong tư duy, nhất quán trong hành động để trở thành một doanh
nghiệp xuất sắc, bền vững, có sự phát triển mạnh mẽ và liên tục. chỉ
có như vậy mới thể hiện sức sống trường tồn của một nền văn hóa
doanh nghiệp giá trị.
Toàn cầu hóa kinh tế và cạnh tranh đã trở thành động lực chính
thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp, các quốc gia – các nền
kinh tế và đó là xu thế chủ đạo ngày nay. TCH kinh tế tạo ra cơ hội
như nhau cho các doanh nghiệp những khả năng tiếp cận thị trường
thế giới rộng lớn, đồng thời cùng tạo ra thách thức buộc các doanh
nghiệp dù ở các nước phát triển hay đang phát triển phải đối mặt với
môi trường nhiều rủi ro hơn và cạnh tranh gay gắt hơn. Mục tiêu của
doanh nghiệp chỉ đạt được trên cơ sở những lợi thế cạnh tranh, khả
năng đổi mới, sáng tạo và thích ứng nhanh chóng với môi trường kinh
doanh. Cái giá cho doanh nghiệp đạt sự kỳ diệu ấy? đó là văn hóa
doanh nghiệp.
Qua thực tế nghiên cứu về văn hóa doanh nghiệp ở hai doanh
nghiệp Bảo hiểm Prudential và bảo hiểm Bảo Việt chúng tôi sẽ chứng
minh rõ hơn vai trò của văn hóa doanh nghiệp đối với sự phát triển
của doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh

vực bảo hiểm.
II. THỰC TRẠNG VĂN HOÁ DOAN NGHIỆP Ở CÔNG TY
BẢO HIỂM PRUDENTIAL VÀ BẢO VIỆT:
1. Biểu hiện vật chất
17
Văn hoá tổ chức mỗi doanh nghiệp không chỉ được thể hiện ở
bên trong mà còn bộc lộ ra bên ngoài rất cụ thể. Ở phần này, chúng
tôi đề cập đến những yếu tố vật chất cấu thành nên văn hoá doanh
nghiệp trên cơ sở phân tích từng yếu tố đó thể hiện ở hai doanh
nghiệp Prudential và Bảo Việt như thế nào?
1.1. Câu khẩu hiệu và logo:
1.1.1. Câu khẩu hiệu (slogan)
1.1.1.1. Slogan của Prudential:
“Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”
Câu khẩu hiệu này vừa là phương châm của công ty đối với
khách hàng cũng như đối với các nhân viên của công ty. Với khách
hàng, Prudential khẳng định mình rất am hiểu tâm lý khách hàng,
sẵn sàng lắng nghe mọi ý kiến và hiểu thấu những gì khách hàng
mong đợi. Về phía nội bộ công ty, các nhân viên cũng phải hiểu rõ
nhau, cảm thông lẫn nhau, thể hiện qua cách đối xử giữa nhân viên
với nhân viên, nhà quản lý với nhân viên.
1.1.1.2. Slogan của Bảo Việt:
Công ty đã sử dụng nhiều câu khẩu hiệu khác nhau, song chủ
yếu nhắc tới hai khẩu hiệu chính là: “Bảo vệ lợi ích người Việt” và
“Phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển”.
- Với câu: “Bảo vệ lợi ích người Việt”, công ty khẳng định
phương châm hoạt động của mình là bảo vệ lợi ích của người Việt
Nam. Câu khẩu hiệu đã sử dụng lối chơi chữ “Bảo vệ lợi ích người
Việt” đã ghép thành tên công ty Bảo Việt. Nó đã sử dụng lối chơi chữ
của người á đông, mang thuần bản chất văn hoá người Việt nên dễ

được tiếp thu. Với câu chữ ngắn gọn, doanh nghiệp đã khẳng định
Bảo Việt luôn gắn bó và bảo vệ lợi ích người Việt. Tuy nhiên, cũng
chính bằng câu khẩu hiệu này, Bảo Việt đã tự giới hạn không gian
hoạt động và lượng khách hàng của mình( chỉ phục vụ và bảo vệ lợi
ích người Việt) mang tính cục bộ. Ngày nay, Việt Nam đã gia nhập
18
WTO và hoà mình vào dòng chảy Toàn cầu hoá. Với khẩu hiệu này sẽ
không thể thu hút và thuyết phục được đối tác nước ngoài. Câu slogan
này chỉ thích hợp trên lãnh thổ Việt Nam. Nếu Bảo Việt muốn mở
rộng thị trường ra nước ngoài cần nhất thiết phái sử dụng slogan
khác.Song điều này dễ dẫn đến thiếu nhất quán trong đường lối cũng
như phương châm hoat động của công ty.
- Với câu:”Phục vụ khách hàng tốt nhất để phát triển” đã đánh
giá cao hoạt động phục vụ, chăm sóc khách hàng, coi đó là yếu tố
quan trọng nhất để phát triển. Công ty cũng gắn lợi ích của mình với
sự ủng hộ của khách hàng, từ đó khích lệ nhân viên lấy việc thoả mãn
khách hàng là nhiệm vụ hàng đầu. Tuy nhiên,câu khẩu hiệu này
không ấn tượng, khó nhớ, không có điểm nhấn về thanh điệu cũng
như nội dung nên khó lưu vào tâm trí khách hàng. Hơn nữa ý nghĩa
của nó rất chung chung không mang bản sắc riêng của doanh nghiệp.
1.1.2. Lôgô:
1.1.2.1. Lôgô của Prudential

Lôgô của Prudential là hình ảnh một cô gái da đỏ cầm một chiếc
gương và một con rắn quấn quanh mũi tên. Prudential là tập đoàn
bảo hiểm được sáng lập ở Anh nhưng lại lấy hình ảnh một cô gái da
đỏ, tại sao lại vậy? Vì cô gái da đỏ mang những đặc tính giàu ý nghĩa
như chân thật, trung thành và mạnh mẽ. Cô gái cầm gương để lúc nào
cũng tự soi mình, khắc phục những điểm yếu từ đó sẽ luôn hoàn thiện
bản thân. Con rắn thể hiện sự thông minh, lanh lợi và linh hoạt đồng

thời nó cũng chính là sự linh hoạt của công ty trong công việc và luôn
lắng nghe ý kiến của khách hàng để phục vụ khách hàng tốt hơn. Mũi
tên cô gái cầm là để chinh phục những mục tiêu mình đề ra, đưa công
ty phát triển đúng hướng và đúng mục tiêu( điều này thể hiện rõ nhất
19
khi mũi tên hướng lên trên, nó thể hiện sự quyết tâm và khát khao
phát triển, hướng tới thành công ).
Lôgô của Prudential đơn giản với hai màu chủ đạo là đỏ và đen.
Màu đỏ thể hiện cho sự quyết tâm và mạnh mẽ. Màu đen thể hiện sự
giàu có và sang trọng.
Nói tóm lại, lôgô của Prudential khá đơn giản, dễ nhớ, đã chuyển
tải đầy đủ ý nghĩa phương châm hoạt động của công ty là “luôn luôn
lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.
1.1.2.2. Lôgo của Bảo Việt:
Nhìn tổng thể là hình trái đất, nhưng khi chúng ta đi vào chi tiết
sẽ thấy có các hình: máy bay, tàu thuỷ, bông lúa và bánh răng. Thông
qua lôgô của Bảo Việt chúng ta có thể thấy được sự đa dạng và tổng
hợp trong các ngành bảo hiểm của Bảo Việt. Trong đó có các ngành
bảo hiểm về đường không( biểu tượng là máy bay), bảo hiểm đường
thuỷ( biểu tượng là chiếc tàu thuỷ), bảo hiểm đường bộ ( biểu tượng
là bông lúa và bánh xe ). Suy rộng ra, Bảo Việt bảo hiểm trên mọi lĩnh
vực. Hình trái đất ngầm định rằng Bảo Việt sẽ vươn xa phạm vi kinh
doanh của mình tới tất cả các nước trên thế giới.
Lôgô của Bảo Việt đã thể hiện được sự đa dạng trong lĩnh vực
bảo hiểm của mình. Tuy nhiên nhìn tổng thể cấu hình lôgô rất phức
tạp do có quá nhiều chi tiết, khiến cho lôgô không có điểm nhấn nên
khách hàng khó nhớ. Hình trái đất bao bọc lôgô thể hiện khát vọng
vươn ra ngoài lãnh thổ Việt Nam nhưng nó lại đối lập với triết lý
kinh doanh Bảo Việt - “Bảo vệ lợi ích người Việt”.
1.2. Cách bài trí của công ty:

1.2.1. Prudential
1.2.1.1. Phòng giao dịch với khách hàng:
Khách hàng được đón tiếp ở một phòng rất sang trọng, lịch sự
với ánh sáng màu vàng trang nhã. Trên mỗi bàn của gian phòng đó
đều có một lãng hoa tươi. Tại điểm chính diện là lôgô và khẩu hiệu
20
của công ty. Qua cách bài trí này giúp khách hàng thấy thoải mái và
thân thiện khi đến giao dịch với công ty.
1.2.1.2. Phòng làm việc của nhân viên:
Được chia thành những ô nhỏ, diện tích khoảng 2m vuông. Mỗi
một nhóm được sở hữu một gian và trang trí theo sở thích của nhóm
mình. Cách trang trí của mỗi nhóm đều có điểm chung là: có một lọ
hoa tươi ở chính gữa, có những chiếc cúp và giấy chứng nhận đánh
dấu thành tích giải thưởng mà các thành viên trong nhóm hay cả
nhóm đạt được, ngoài ra còn có các giấy chứng nhận các thành viên
đã kết thúc các khóa học mà công ty đã tổ chức. Song mỗi nhóm cũng
có những cách bài trí riêng: có những nhóm treo những bức ảnh của
nhóm khi cả nhóm đi du lịch, hoặc những bức ảnh gia đình của các
thành viên trong nhóm, ngoài ra một số nhóm treo những tờ giấy lớn
bên trên có ghi những lời câu khẩu hiệu thể hiện sự quyết tâm đạt
được doanh thu cao với chữ kí của từng thành viên trong nhóm. Tuy
nhiên mỗi ô nhỏ này chỉ là nơi các thành viên trao đổi thông tin chứ ít
khi cả nhóm gặp mặt tại đây, nên mọi thông báo của công ty được dán
tại nơi này. Tại điểm trung tâm của văn phòng là một chiếc bảng có
dán ảnh của các cá nhân hoặc nhóm đạt thành tích cao trong các cuộc
thi về doanh số bán hàng do công ty tổ chức.
1.2.2. Bảo Việt
Do tính chất hoạt động trên đa lĩnh vực nên cách bài trí của Bảo
Việt tại từng chi nhánh có sự khác nhau. Tuy nhiên trong giới hạn của
bài nghiên cứu này chúng tôi chỉ đề cập đến cách bài trí văn phòng

của các chi nhánh bảo hiểm.
1.2.2.1Phòng giao dịch với khách hàng:
Phòng giao dịch với khách hàng có sự bày trí khá đơn giản, gọn
gàng, được chia thành các ô nhỏ với diện tích khoảng 3m vuông và
không có hoa tươi. ở một góc của gian phòng có một tủ kính trưng
21
bày những chiếc cúp, những giấy chứng nhận về những giải thưởng
mà công ty nhận được.
1.2.2.2. Phòng nhân viên
Được chia thành các ô nhỏ màu xanh( màu đặc trưng của công
ty Bảo Việt ). Mỗi nhân viên được sử dụng một ô, tuy nhiên tương đối
giống nhau, không có sự khác biệt giữa các phòng. Các ô được sắp xếp
khá gọn gàng ngăn nắp và nhân viên không được trang trí theo ý
mình để đảm bảo sự thống nhất .
1.3. Trang phục của nhân viên
Quy định về việc mặc đồng phục với nhân viên đều giống nhau:
Những nhân viên làm việc tại phòng giao dịch với khách hàng đều có
đồng phục riêng và mặc tất cả các ngày trong tuần.
Những nhân viên đi bán hàng không có đồng phục riêng của công ty,
tuy nhiên khi tiép xúc với khách hàng hay đến văn phòng phải mặc áo
có cổ, không được mặc quần bò.
2. Triết lý ngầm định
Tất cả các loại hình kinh doanh đều nhằm đến đối tượng là
khách hàng. Nhưng riêng lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm thì khách
hàng không chỉ là đối tượng phục vụ mà còn là phương tiện để doanh
nghiệp tồn tại. Bởi nó kinh doanh theo cách : khách hàng gửi tiền của
mình cho công ty và trong trường hợp gặp phải rủi ro thì công ty
sẽ có trách nhiệm bồi thường theo thoả thuận. Chính vì vậy doanh
nghiệp bảo hiểm muốn hoạt động thì phải có khách hàng mà muốn
có khách hàng thì phải tạo được niềm tin từ họ. Để tạo được niềm tin

thì doanh nghiệp đó cần tạo cho mình những nét văn hóa riêng đặc
thù. Nét văn hóa đó không chỉ dừng lại ở những biểu hiện bên ngoài
mà quan trọng không kém là nét văn hóa tổ chức bên trong. Đó là:
Triết lý kinh doanh; Hệ quan điểm, hệ giá trị; Hệ thống các quy định
về nề nếp , kỷ luật, chế dộ khen thưởng, kỷ luật, ưu đãi nhân viên và
các tập tục không thành văn khác. Tất cả những điều này chúng tôi
22
đều nhận thấy ở hai tập đoàn bảo hiểm Prudential Việt Nam và Bảo
Việt Việt Nam.
23
2.1. Tập đoàn bảo hiểm Prudential Việt Nam:
Prudential Việt Nam chỉ là một công ty “con” của tập đoàn
Prudential Anh Quốc- được thành lập năm 1848 tại Luân Đôn,
Prudential là một trong những tập đoàn bảo hiểm lớn nhất vương
quốc Anh và cũng là một trong những tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế
giới. Quản lý trên 430 tỷ đô la Mỹ (tính đến 30/06/2006) và có hơn
23.000 nhân viên trên toàn cầu, phục vụ cho hơn 21triệu khách hàng
trên toàn thế giới.
Tập đoàn Prudential toàn cầu đã chính thức khai trương văn
phòng đại diện thứ nhất tại Việt Nam từ năm 1995 và được chính phủ
Việt Nam cấp giấy phép đầu tư vào tháng 10/1999. Hiện nay,
Prudential đã có 75.000 đại lý trên toàn quốc. Mở đầu với số vốn 15
triệu đôla Mỹ, Prudential Việt Nam đã lần lượt tăng số vốn đầu tư của
mình lên 40 triệu ( 6/2001 ), 61 triệu ( 10/2002 ) 75 triệu ( 11/2003 ).
Với khả năng tài chính vững chắc , Prdential Việt Nam đã và đang đầu
tư ráo riết vào việc đa dạng hóa sản phẩm và xây dựng hệ thống phục
vụ hiệu quả nhằm phục vụ khách hàng ngày một hoàn hảo hơn.
• Triết lý kinh doanh:
Triết lý kinh doanh của Prudential là “ Tất cả vì khách hàng”.
Đây được xem là kim chỉ nam xuyên suốt mọi hành động của các

thành viên trong công ty. Và bởi vì Prudential là công ty kinh doanh
dịch vụ bảo hiểm nên triết lý kinh doanh này tuy có hơi đơn giản
nhưng ý nghĩa vô cùng lớn. Nó đã đánh đúng và trúng tâm lý khách
hàng - đối tượng quyết định sự tồn tại của cả tập đoàn.
Prudential còn cạm kết : “Nhằm đáp ứng niềm tin to lớn của
người dân Việt Nam với tinh thần trách nhiệm cao, Prudential cam
kết chỉ tham gia các hoạt động đầu tư an toàn và hiệu quả để mang lại
lợi nhuận cao nhất cho khách hàng và góp phần xây dựng kinh tế
nước nhà”.
24
• Hệ quan điểm, giá trị :
Được thể hiện qua chính câu slogan: “ Luôn luôn lắng nghe,
luôn luôn thấu hiểu”. Bởi theo họ thì: “ Chúng tôi nhận thức được
rằng chỉ khi lắng nghe chúng tôi mới thực sự thấu hiểu được nhu cầu
của khách hàng địa phương. Từ đó chúng tôi mới có thể cung cấp các
sản phẩm và dịch vụ hoàn hảo, đáp ứng được nhu cầu của họ. Mục
tiêu cuối cùng của chúng tôi là nâng cao đời sống con người trên toàn
thế giới, đặc biệt là người Việt Nam”
Họ cũng tuyên bố rộng rãi với mọi người rằng: Sự thành công
của Prudential bắt nguồn từ những nguyên tắc: Chính trực; Công
bằng; Dịch vụ hoàn hảo.
+ Chính trực: Được thể hiện qua việc Prudential luôn sẵn
sàng phục vụ mọi khách hàng nhưng họ vẫn bảo đảm hợp đồng bảo
hiểm của họ không bị thua lỗ. Vì vậy khách hàng muốn ký hợp đồng
bảo hiểm với Prudential thì phải đảm bảo điều kiện về sức khỏe, nếu
có bệnh thì công ty sẽ từ chối ký hợp đồng bảo hiểm.
+ Công bằng: Được thể hiện qua việc đối xử với khách hàng.
Mỗi khách hàng của Prudential đều có 1 mã số riêng, và công ty sẽ đối
xử với khách hàng theo mã số đó, không phân biệt quốc gia, dân tộc,
trình độ văn hóa , đẳng cấp, địa vị,…Prudential luôn cam kết: Nếu

khách hàng gặp sự cố thì bất kể bạn là một người có chức quyền,một
tỉ phú hay là một người dân bình thường bạn vẫn được đối xử một
cách công bằng theo mã số mà bạn có .
+ Dịch vụ hoàn hảo: Đó là dịch vụ chăm sóc khách hàng
trên cơ sở đảm bảo lợi ích tối đa của khách hàng . Nếu khách hàng ký
hợp đồng bảo hiểm với công ty, ngay sau đó anh ta không may bị tai
nan. Anh ta sẽ được công ty bồi thường phí tổn theo hợp đồng đã ký.
Nếu trường hợp một khách hàng ký hợp đồng bảo hiểm với công ty
qua một nhân viên cuả công ty. Trong thời gian người nhân viên chưa
kịp chuyển tiền bảo hiểm của khách hàng này vào công ty mà anh ta
25

×