Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến tài nguyên nước ngầm tỉnh Quảng Trị và đề xuất các giải pháp phục vụ quy hoạch phát triển KTXH và bảo vệ môi trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.09 MB, 77 trang )

LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Khoa Khí Tượng Thủy
Văn và Khoa Tài Nguyên Nước – Trường Đại học Tài Nguyên và Môi Trường
Hà Nội đã truyền thụ kiến thức cho em trong suốt quá trình học tập vừa qua,
đặc biệt là cô Nguyễn Thu Hiền và thầy Trần Thành Lê, người đã hướng dẫn và
chỉ dạy rất tận tình cho em hoàn thành đồ án này.
Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn tới những người thân cùng toàn thể các bạn
trong lớp đã cùng chia sẻ, giúp đỡ, động viên và tạo điều kiện để tôi hoàn thành
nhiệm vụ học tập và niên luận.
Do hạn chế về thời gian cũng như khả năng của bản thân, mặc dù đã có nhiều
cố gắng nhưng đồ án không tránh khỏi còn những hạn chế và thiếu sót. Vì vậy, em
rất mong nhận được sự góp ý, chỉ bảo quý báu của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cám ơn!
Sinh viên thực hiện

Đặng Thị Hồng Đào

1


MỤC LỤC

2


DANH MỤC HINH VẼ

3


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


TDS: Total Dissolved Solids.
KTXH: kinh tế xã hội.
XNM: xâm nhập mặn.
BĐKH: biến đổi khí hậu.
NDD: nước dưới đất

4


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nước là tài nguyên duy nhất không thể thay thế được. Nước là thành phần
thiết yếu của sự sống và môi trường, quyết định sự tồn tại, phát triển của đất nước.
Nước dưới đất là một hợp phần quan trọng của tài nguyên nước, là nguồn cung cấp
nước rất quan trọng cho sinh hoạt, công nghiệp và nông nghiệp. Nhưng hiện nay do
sự phát triển dân cư dẫn đến sự tiêu thụ nước tăng, khai thác nước dưới đất nhiều
làm tăng khả năng xâm nhập mặn. Tỉnh Quảng Trị là một tỉnh ven biển thuộc vùng
Bắc Trung Bộ Việt Nam ở phía Đông giáp biển Đông với chiều dài bờ biển là 75 km
thì nguy cơ xâm nhập mặn nguồn nước càng cao.
Xâm nhập mặn sẽ gây ảnh hưởng đến kinh tế, sức khỏe của cộng đồng dân cư,
nhất là cộng đồng nghèo với điều kiện tiếp cận nước sạch còn hạn chế và kinh kế
phụ thuộc phần lớn vào tài nguyên nước.
Khi xem xét tài nguyên nước ở các vùng ven biển Quảng Trị , tầng chứa nước
ngầm ven biển là những nguồn nước ngọt quan trọng. Do vậy, sự nhập mặn sẽ là một
vấn đề lớn cần quan tâm trong vùng này. Vì thế em chọn đề tài : “Ảnh hưởng của
xâm nhập mặn đến tài nguyên nước ngầm tỉnh Quảng Trị và đề xuất các giải pháp
phục vụ quy hoạch phát triển KTXH và bảo vệ môi trường”.
2. Mục tiêu đề tài
- Nêu ra được hiện trạng xâm nhập mặn tài nguyên nước cuả tỉnh Quảng Trị.
- Ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến tài nguyên nước ngầm Quảng Trị.

- Đề xuất các giải pháp phục vụ quy hoạch phát triển KTXH và bảo vệ môi
trường.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
-

Đối tượng nghiên cứu: Xâm nhập mặn tài nguyên nước Quảng Trị.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài : Tài nguyên nước tỉnh Quảng Trị.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu và nội dung công việc trên,các phương pháp nghiên cứu
chính sau đây đã được sử dụng trong đề tài:

-

5

Phương pháp phân tích hệ thống, phân tích thống kê.
Phương pháp ứng dụng công cụ phần mềm.
Phương pháp nghiên cứu tổng hợp thông tin.
Phương pháp tham khảo ý kiến từ các chuyên gia.


5. Nội dung nghiên cứu
Từ các vấn đề đã được trình bày ở trên sẽ hình thành nội dung nghiên cứu.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đồ án gồm có các nội dung chính sau:
Chương 1: Sơ lược đặc điểm địa lý tự nhiên và kinh tế xã hội khu vực nghiên cứu.
Chương 2: Tổng quan xâm nhập mặn đến tài nguyên nước tỉnh Quảng Trị.
Chương 3: Ảnh hưởng của xâm nhập mặn đến tài nguyên nước ngầm tỉnh
Quảng Trị.
Chương 4: Đề xuất các giải pháp phục vụ quy hoạch phát triển KTXH và bảo vệ
môi trường.


6


CHƯƠNG 1: SƠ LƯỢC ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ TỰ NHIÊN VÀ
KINH TẾ XÃ HỘI KHU VỰC NGHIÊN CỨU
1.1. Đặc điểm địa lý tự nhiên tỉnh Quảng Trị
1.1.1. Vị trí địa lý
Tỉnh Quảng Trị nằm trong phạm vi từ 16º18 đến 17º10 vĩ độ Bắc và 106º32 đến
107º34 kinh độ Đông.
-

Phía Bắc giáp huyện Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
Phía Nam giáp huyện Phong Điền và A Lưới, tỉnh Thừa Thiên Huế.
Phía Tây là biên giới Việt – Lào.
Phía Đông là biển Đông, với chiều dài bờ biển là 75 km.
Tỉnh Quảng Trị được chia thành 10 đơn vị hành chính, gồm 8 huyện và 2 thị xã
Quảng Trị ở vào vị trí cầu nối của hai miền Nam – Bắc có quốc lộ 1A, đường mòn
Hồ Chí Minh và tuyến đường sắt Bắc – Nam chạy qua, có quốc lộ 9 nối hành lang
Đông Tây rất thuận lợi cho việc giao lưu và phát triển kinh tế.

Hình 1. Bản đồ tỉnh Quảng Trị
1.1.2. Đặc điểm địa hình - địa mạo - thổ nhưỡng
7


Nhìn một cách tổng thể, hình thái địa hình miền đồng bằng tỉnh Quảng Trị
chạy dài theo hướng Tây Bắc – Đông Nam, trùng với đường kéo dài của đoạn bờ biển
ở phía Đông. Theo độ cao và hình thái có thể phân ra làm các dạng địa hình chính
như sau :

Địa hình đồng bằng: gồm dải đồng bằng ven biển Quảng Trị có diện tích hẹp
nhưng chiếm vị trí quan trọng, nó là vựa lúa cung cấp lương thực và thực phẩm cho
các địa phương trong tỉnh và các vùng lân cận. Theo các quan điểm địa chất, đồng
bằng ven biển miền Trung có nguồn gốc bóc mòn, tích tụ, được hình thành khoảng
trên một triệu năm. Độ cao tuyệt đối của đồng bằng dao động từ dưới 1 m đến 50 m.
Phần phía Tây có độ cao từ 25 đến 50 m tạo nên một đới chuyển tiếp với địa hình đồi
với lớp phủ trầm tích bở rời mỏng, mức độ phân cắt yếu, các quá trình rửa trôi bề mặt
chiếm ưu thế. Phần phía Đông có độ cao tuyệt đối từ 1m đến 6 m, lớp phủ trầm tích
bở rời lớn hơn, có nơi đạt độ dày 50 – 60 m, bề mặt địa hình phẳng, bị chia cắt bởi
các hệ thống cửa sông, kênh, mương và các đụn cát.
Địa hình cồn cát và đụn cát: phát triển dọc ven biển từ nam Cửa Tùng đến
giáp Thừa Thiên Huế với bề rộng trung bình 4 – 5 km, độ cao từ 5m đến 15 m, cục bộ
đến 30 m. Toàn bộ các đụn cát được cấu thành từ các loại cát trắng bở rời. Về đặc
điểm thổ nhưỡng, khu vực nghiên cứu gồm các tiểu vùng sau :
-

Tiểu vùng cồn cát, bãi cát : phân bố dọc bờ biển, cát trắng chiếm ưu thế (97% là cát),

-

dưới cùng bước đầu thấy có tích tụ sắt, chuyển sang màu nâu hơi đỏ.
Tiểu vùng đất nhiễm mặn ở cửa Tùng : được tạo thành dưới tác động của thuỷ triều,
phân bố ở địa hình thấp.
1.1.3. Thảm thực vật
Toàn tỉnh Quảng Trị có 213564 ha đất rừng, theo kết quả điều tra nghiên cứu
đến năm 2007 thì hiện tại rừng Quảng Trị có khoảng 1053 loại thực vật thuộc 528
chi, 130 họ, trong đó có 175 loài cây gỗ. Động vật khá phong phú và đa dạng. Hiện
có 67 loài thú, 193 loài chim và 64 loài lưỡng cư, bò sát đang sinh sống tại rừng
Quảng Trị. Rừng trồng có 50556 ha, chất lượng tốt, cây thông nhựa chiếm khoảng
20000 ha. Độ che phủ rừng đã tăng bình quân 1%/năm. Đến nay, độ che phủ của rừng

đạt 45,01% là một thành quả sinh thái quan trọng.
1.1.4. Khí hậu
8


Tỉnh Quảng Trị nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nóng, ẩm mang
đầy đủ sắc thái khí hậu các tỉnh miền Trung Việt Nam. Trong năm có hai mùa rõ rệt,
mùa khô và mùa mưa. Mùa khô từ tháng XII tới tháng VIII năm sau, mùa mưa từ
tháng IX tới tháng XI. Từ tháng III đến tháng VIII chịu ảnh hưởng của gió Tây Nam
khô và nóng. Từ tháng IX đến tháng II năm sau chịu ảnh hưởng của gió Đông Bắc đi
kèm với mưa phùn và rét đậm.
-

Mưa
Mưa trong vùng phụ thuộc vào yếu tố địa hình trên từng lưu vực. Lượng mưa

hàng năm nằm trong khoảng 2.000 - 2.800mm. Lượng mưa 3 tháng mùa mưa chiếm
tới 68 ÷ 70% lượng mưa năm. Tổng lượng mưa 9 tháng mùa khô chỉ chiếm 30% tổng
lượng mưa năm. Trong các tháng mùa khô từ tháng XII đến tháng IV thường có
những trận mưa rào nhẹ cách nhau từ 7 đến 8 ngày với lượng mưa trần từ 20 ÷ 30mm,
giữa 2 mùa khô có 1 thời kỳ mưa lớn là tháng V và tháng VI gọi là mưa lũ tiểu mãn.
Mùa mưa bắt đầu từ tháng IX đến tháng XI, thậm chí có năm mùa mưa kéo dài
đến tận tháng XII. Đây là thời gian bão và áp thấp nhiệt đới hoạt động mạnh ở khu
vực miền Trung. Do đặc điểm địa hình chia cắt nên lượng mưa trong mùa mưa cũng ít
khi đồng đều trên toàn tỉnh. Theo thống kê lượng mưa bình quân nhiều năm của các
trạm thể hiện trên bảng 1.1
Bảng 1. Mưa bình quân nhiều năm (2000 – 2007)
Đơn vị : mm
Trạm


I

II

III

IV

V

VI

VII

VIII

IX

X

XI

XII

Năm

Vĩnh Linh

129.9 83.3


48.6

51.9 100.5 97.8

94.3 125.3 420.2 766.0 462.3 227.0

2614.1

Gia Vòng

60.1 47.9

35.4

64.1 143.6 101.4 78.7 155.0 509.7 695.9 456.4 188.0

2536.3

Đông Hà

48.2 34.1

30.8

60.7 119.3 83.0

65.7 163.2 388.9 683.9 429.0 175.2

2291.8


Thạch Hãn

84.3 60.7

48.9

63.0 135.0 105.7 82.9 135.3 476.4 710.6 438.6 240.7

2627.3

Cửa Việt

57.6 48.6

33.1

50.8 102.6 63.4

68.1 150.3 398.6 574.3 415.7 219.6

2187.8

Hướng Hoá 83.6 61.7

47.8

97.8 191.5 171.7 148.9 219.1 585.8 778.0 227.7 95.7

2779.9


Khe Sanh

16.7 19.2

29.7

89.8 158.9 210.8 187.8 295.9 376.7 455.0 175.8 64.7

2118.6

Ba Lòng

99.8 90.1

51.0

71.7 156.6 156.8 74.2 173.1 473.4 762.0 411.8 227.8

2794.3

(Nguồn Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Quảng Trị)

9


-

Nhiệt độ không khí
Nhiệt độ trung bình hàng năm dao động từ 20-25°C. Nhiệt độ không khí trong


vùng thấp nhất vào mùa Đông (tháng XI tới tháng III), cao nhất vào mùa hè (tháng V
tới thángVIII). Nhiệt độ tối cao trong năm vào các tháng nóng, ở vùng đồng bằng trên
40°C và ở vùng núi thấp 34-35°C. Nhiệt độ thấp nhất trong năm có thể xuống tới 810°C ở vùng đồng bằng và 3-5°C ở vùng núi cao. Nhiệt độ bình quân tháng tại các
trạm trong vùng nghiên cứu được thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.2. Nhiệt độ bình quân tháng tại các trạm
Đơn vị: °C
Trạm
Đông Hà
Quảng Trị
Khe Sanh

I
19.2
19.4
17.6

II
19.3
20.4
18.4

III
22.5
22.6
21.8

IV
25.6
25.6
24.4


V
28.2
28.1
25.6

VI
29.3
29.4
25.6

VII
29.6
29.5
25.3

VIII
28.8
29.0
24.6

IX
27.1
27.1
24.0

X
25.1
25.1
22.8


XI
22.5
23.2
20.4

XII
19.9
20.8
18.2

(Nguồn Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Quảng Trị)
-

Độ ẩm tương đối
Độ ẩm tương đối bình quân nhiều năm nằm trong khoảng 85 tới 89%. Bảng 1.3

trích dẫn độ ẩm tương đối tại Đông Hà.
Bảng 1.3. Độ ẩm tương đối trạm Đông Hà (2000 – 2007)
Đơn vị: %
I
92
1.1.5.

II
91

III
91


IV
93

V
91

VI VII VIII IX
X
XI XII TB
79
81
79
84
85
88
89 86.9
(Nguồn Trung tâm khí tượng thủy văn tỉnh Quảng Trị)

Thuỷ văn
Trên địa phận tỉnh Quảng Trị có các hệ thống sông:
+ Hệ thống sông Thạch Hãn (còn gọi là sông Quảng Trị) có 37 con sông gồm

17 sông nhánh cấp I với 3 nhánh tiêu biểu là Vĩnh Phước, Rào Quán và Cam Lộ, 13
sông nhánh cấp II, 6 sông nhánh cấp III. Diện tích toàn lưu vực là 2660 km2, độ dài
sông chính là 156 km, độ cao bình quân lưu vực 301 m, độ dốc bình quân lưu vực là
20,1%, độ rộng trung bình lưu vực là 36,8 km, mật độ lưới sông là 0,92; hệ số uốn
khúc là 3,5.
+ Hệ thống sông Bến Hải có diện tích lưu vực là 809 km2, dài 64,5 km, độ cao
bình quân lưu vực 115 m, độ dốc bình quân lưu vực là 15,7%, mật độ lưới sông là
1,15; hệ số uốn khúc là 1,43.

10


+ Hệ thống sông Ô Lâu thuộc lưu vực sông Mỹ Chánh chảy qua phá Tam
Giang về cửa Thuận An bao quát một diện tích lưu vực là 855 km2, dài 65 km. Đầu
nguồn lưu vực nằm ở địa phận tỉnh Thừa Thiên – Huế.
Ngoài ra còn có một số sông suối lưu vực sông Xê Pôn và Sê Păng Hiêng thuộc
Tây Trường Sơn và một số suối nhỏ vùng cồn cát đổ thẳng ra biển.
Nguồn nước ngầm ở tỉnh Quảng Trị thể hiện ở nước khe nứt, nước lỗ hổng và
nước cồn cát. Nguồn nước này tương đối dồi dào và chất lượng tốt có thể đáp ứng
cho nhu cầu sinh hoạt của dân cư và bổ sung nước tưới cho các loại hình sản xuất
kinh tế xã hội. Tuy nhiên, vùng ven biển nhiều nơi nước ngầm bị nhiễm mặn, ở vùng
đồi núi nước ngầm phân bố sâu khó khai thác. Vì vậy, cần có kế hoạch cân đối và
khai thác sử dụng nước hợp lý.
1.2. Tình hình kinh tế xã hội tỉnh Quảng Trị
1.2.1. Dân số
Theo Niên giám thống kê 2007 của Cục thống kê Quảng Trị , dân số của tỉnh là
630.339 người, số dân sống ở thành thị chiếm 24,53% còn lại hầu hết dân số sống ở
nông thôn và vùng núi (75,47%). Dân số phân bố không đều đặc biệt có sự khác biệt
lớn giữa đồng bằng và miền núi. Mật độ dân số trung bình toàn tỉnh 133 người/km2,
trong đó thị xã Đông Hà 1125 người/km 2, thị xã Quảng Trị 2712 người/km 2, huyện
miền núi Đakrông 30 người/km2, Hướng Hoá có mật độ dân là 58 người/km 2. Dân cư
trong vùng chủ yếu là người Kinh, sống tập trung ở dải đồng bằng ven biển, các thị
trấn vùng núi. Tỷ lệ người Kinh chiếm 84%, người Vân Kiều, Pacô chiếm 10% còn
lại là các dân tộc ít người khác.
1.2.2. Cơ cấu kinh tế của tỉnh
Cơ cấu kinh tế đã có sự dịch chuyển tích cực từ năm 1991, nền kinh tế chủ yếu
là thuần nông với tỷ trọng ngành nông nghiệp là 64% thì đến năm 2007 tỷ trọng
nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 32,1 %, dịch vụ 37,0%, công nghiệp và xây
dựng 30,9% tổng sản lượng của tỉnh.


11


a. Hiện trạng nông – lâm nghiệp
• Trồng trọt

Theo Niên giám thống kê năm 2007 của tỉnh Quảng Trị, diện tích canh tác hiện
nay trong toàn vùng là 95792,2 ha, trong đó 73347,6 ha dùng cho cây hàng năm và
22444,6 ha dùng cho cây lâu năm.
• Chăn nuôi
Chăn nuôi trong vùng chưa phát triển, chủ yếu còn ở mức độ chăn nuôi tự phát
ở mức độ hộ gia đình. Chưa có nông trường chăn nuôi theo quy mô công nghiệp. Do
điều kiện thiếu lương thực, chăn nuôi trong vùng chưa phát triển thành quy mô chăn
nuôi trang trại được. Cơ cấu vật nuôi trong gia đình là trâu, bò, lợn, gà. Ngành chăn
nuôi mới chiếm tỷ trọng 15-18% thu nhập cho các hộ nông dân.
• Lâm nghiệp
Diện tích che phủ của thảm rừng tự nhiên hiện nay chỉ còn khoảng 30%.Rừng
hiện hữu chỉ còn rừng thứ sinh, hỗn giao. Vùng đồi bát úp vùng trung du từ lâu đã trở
thành đồi núi trọc. Ở vùng cát ven biển nơi không có cây che phủ nên hiện tượng cát
di chuyển đã ảnh hưởng xấu tới việc định canh định cư và gây mất đất.
b. Hiện trạng công nghiệp
Công nghiệp trong vùng còn chưa phát triển. Cơ cấu công nghiệp chủ yếu là
vật liệu xây dựng và chế biến nông lâm sản. Trong vùng có 2 nhà máy sản xuất xi
măng lò đứng Đông Hà 1 và Đông Hà 2, nhưng hiện nay chỉ còn nhà máy Đông Hà 2
hoạt động với tổng sản lượng 50.000 tấn/năm.
Nguồn điện trong vùng còn hạn chế. Lưới điện quốc gia đã phát triển tới các
trung tâm huyện. Điện lưới đã tới được các xã, tuy nhiên ở miền núi các xã vùng sâu
vùng xa còn hạn chế.
c. Y tế, Giáo dục

• Y tế

Mạng lưới y tế ở vùng đồng bằng phát triển rộng khắp ở các cộng đồng dân cư
nhất là y tế cộng đồng. Mỗi huyện có một bệnh viện với quy mô 80 giường bệnh.
• Giáo dục
Các xã trong vùng đồng bằng đã thực hiện tốt công tác xoá mù chữ. Lực lượng
lao động vùng nông thôn có tới 60% đã qua trình độ văn hoá cấp cơ sở và 20% số lao
động có trình độ văn hoá phổ thông trung học.
d. Mạng lưới giao thông.
- Mạng lưới giao thông của tỉnh Quảng Trị khá phát triển ở khu vực đồng bằng ven
biển. Trong khi đó ở miền núi, hệ thống giao thông phát triển rất kém.

12


-

Quốc lộ 1A nối liền Quảng Trị với các khu vực ở phía bắc và phía nam của đất nước.
Quốc lộ 9 cũng đã được hiện đại hoá, nối liền cửa khẩu Lao Bảo với bến cảng Cửa

-

Việt.
Các đường liên tỉnh và liên huyện về cơ bản là đường rải nhựa cấp thấp, đường rải
đá. Một số đường liên huyện, liên xã nối từ quốc lộ 9, quốc lộ 14, quốc lộ 1 về các
bản thường là các đường rải đá.

13



CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN XÂM NHẬP MẶN ĐẾN TÀI NGUYÊN NƯỚC
TỈNH QUẢNG TRỊ
2.1. Đặc điểm tài nguyên nước tỉnh Quảng Trị
2.1.1 Tài nguyên nước mưa
Quảng Trị nằm trong vùng mưa tương đối lớn của nước ta. Lượng mưa hàng
năm tính trung bình trên phạm vi toàn tỉnh trên 2400 mm. Tuy nhiên, ở Quảng
Trị, lượng mưa năm phân bố không đều theo không gian, phụ thuộc vào hướng sườn
dốc và độ cao địa hình. Do địa hình nên lượng mưa năm cũng có xu thế tăng dần từ
Đông (tức từ vùng đồng bằng ven biển) sang Tây (tức khu vực núi cao thuộc dãy
Trường Sơn) và từ Bắc xuống Nam. Nơi mưa ít nhất là những thung lũng khuất
gió như Khe Sanh, Tà Rụt và phía hữu ngạn của thượng nguồn sông Xê Pôn. Nơi
mưa nhiều nhất là khu vực núi cao thuộc dãy Trường Sơn, thượng nguồn các sông
Rào Quán, Cam Lộ. Lượng mưa năm của nơi mưa nhiều nhất lớn gấp trên 1,7 lần nơi
mưa ít nhất.
Mức độ dao động của lượng mưa năm trong thời kỳ nhiều năm ở tỉnh Quảng Trị
thuộc loại trung bình. Hệ số biến đổi tại đa số các trạm dao động trong khoảng từ
0,20 đến 0,24. Lượng mưa năm lớn nhất của năm mưa nhiều nhất trong thời kì
quan trắc lớn gấp từ 2 - 3 lần lượng mưa năm của năm mưa ít nhất.
Lượng mưa ở tỉnh Quảng Trị phân phối không đều trong năm, hình thành hai
mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô, bắt đầu và kết thúc không đồng bộ. Các khu vực
thuộc sườn phía Đông Trường Sơn có mùa mưa xuất hiện muộn và ngắn, chỉ 3
đến 4 tháng (IX – XI, XII) còn mùa khô kéo dài tới 8-9 tháng (XII, I – VIII). Các khu
vực thuộc sườn phía Tây Trường Sơn có mùa mưa đến sớm và kéo dài hơn (VI –
– XI, khoảng 6 tháng) còn mùa khô ( XII – V). Sự phân hóa giữa hai mùa mưa - khô
khá sâu sắc. Tại sườn phía Đông Trường Sơn, tổng lượng mưa cả mùa mưa chiếm
59-73% tổng lượng mưa năm; trong khi đó, mùa khô chỉ chiếm 27-41%. Tại sườn
phía Tây Trường Sơn, tổng lượng mưa của mùa mưa chiếm trên 80% tổng lượng
mưa năm còn mùa khô chỉ chiếm chưa đầy 20%.
2.1.2 Tài nguyên nước mặt
Nằm trong vùng mưa tương đối lớn nên dòng chảy năm của các sông suối

trong tỉnh Quảng Trị cũng khá dồi dào. Mô đun dòng chảy năm bình quân toàn
tỉnh đạt khoảng 45,4 l/skm2, tương đương với lớp dòng chảy 1431 mm.
14


Chuẩn dòng chảy năm phân bố không đều theo không gian, biến đổi theo độ cao
địa hình từ 30 l/skm2 đến 60 l/skm2. Thượng nguồn các sông Bến Hải, Rào Quán,
Cam Lộ, hạ lưu sông Ô Lâu có nguồn nước rất dồi dào, mô đun dòng chảy hàng năm
đạt tới 50-60 l/skm2. Hữu ngạn của thượng nguồn sông Sê Pôn và phần sông Đakrông trên dãy Trường Sơn là những khu vực có lượng dòng chảy nghèo nhất, mô
đun dòng chảy năm đạt 30-40 l/skm2. Vùng đồng bằng ven biển có dòng chảy năm
vào loại trung bình, mô đun dòng chảy năm đạt 38-45 l/skm2. Các khu vực còn lại có
chuẩn dòng chảy năm khoảng 40-50 l/skm2.
Tổng lượng dòng chảy năm, trên toàn bộ sông suối tỉnh Quảng Trị là 6,673 km 3,
trong đó: hệ thống sông Bến Hải 1,31 km3 (chiếm 19,6 %), Thạch Hãn khoảng 3,92
km3 (58,8 %), Ô Lâu 0,50 km3 (7,55 %) và Sê Păng Hiêng 1,05 km 3 (15,8 %). Mức
đảm bảo nước tính trung bình hàng năm trên một người dân hiện tại của tỉnh Quảng
Trị là 10750 m3/người, cao hơn nhiều so với trung bình của cả nước (4750 m 3/người).
Mức độ dao động của dòng chảy năm trong thời kì nhiều biến đổi từ 0,27 đến 0,33.
Dòng chảy sông suối trong tỉnh Quảng Trị phân phối rất không đều trong năm,
phân hoá thành hai mùa rõ rệt: mùa lũ và mùa kiệt. Mùa lũ trên các sông suối trong
tỉnh Quảng Trị xuất hiện muộn và duy trì trong khoảng thời gian ngắn, chỉ kéo dài 4
tháng, nhưng mức độ tập trung dòng chảy khá lớn, chiếm tới 62,5 – 80% tổng lượng
dòng chảy năm. Mùa kiệt kéo dài tới 8 tháng và tổng lượng dòng chảy chiếm khoảng
20 - 37,5% tổng lượng dòng chảy năm.
Tỉnh Quảng Trị hiện có 301 công trình thủy lợi, trong đó có 200 công trình hồ
chứa, đập dâng lớn, vừa và nhỏ. Ngoài ra có 101 trạm bơm các loại phục vụ tưới, tiêu
nước cho sản xuất nông nghiệp. Tổng dung tích nước đã sử dụng qua các công trình
thủy lợi khoảng 295 triệu m 3 (trong đó tổng dung tích hồ chứa các loại cung cấp 211
triệu m3, các đập dâng và trạm bơm tập trung cung cấp 82 triệu m 3, số còn lại là các
trạm bơm quy mô nhỏ).

Khi thực hiện các nghiên cứu đánh giá tài nguyên nước tỉnh Quảng Trị gặp phải
khó khăn do rất thiếu số liệu đo đạc. Cụ thể là số liệu đo mưa tại khu vực vùng núi
cao phía Tây của tỉnh và số liệu đo lưu lượng dòng chảy của các sông chính trong
tỉnh. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các nghiên cứu sau này, cần xây dựng thêm ít
nhất một trạm đo mưa ở khu vực vùng núi cao phía Tây của tỉnh, một số trạm đo lưu
15


lượng trên các sông chính khác trong tỉnh ngoài sông Bến Hải và tiến hành đo đạc cả
đặc trưng bùn cát tại các trạm thủy văn.
2.1.3. Tài nguyên nước ngầm
Ở Quảng Trị, nước lỗ hổng tồn tại trong các trầm tích bở rời Đệ Tứ được phát
hiện trong các lưu vực sông, trong đồng bằng và các cồn cát ven biển. Độ dốc
thuỷ lực của các tầng chứa nước nhìn chung rất nhỏ (0,008 - 0,012). Độ sâu mực
nước ở trung tâm các lưu vực thường chỉ vào khoảng 1,0 - 2,0m. Trên các cồn cát và
các cánh đồng trước núi, nón phóng vật thì mực nước ngầm nằm sâu hơn (2,0 5,0m). Các tầng chứa nước lỗ hổng ở Quảng Trị có bề dày khá lớn (10-30) đôi chỗ
đạt được 35m. Thành phần trầm tích hạt thô (cát, cuội, sạn) chiếm ưu thế hơn trầm
tích hạt mịn (bột sét) trên mặt cắt. Vì vậy, phần lớn các tầng chứa nước lỗ hổng có độ
giàu nước trung bình khá. Về chất lượng, trong vùng chứa nước nhạt chiếm diện tích
khoảng 300km2 , nước dưới đất thường có tổng khoáng hoá từ 0,2 - 0,4 đến đôi chỗ
tới 0,8g/l. Nhìn chung, nước sạch đạt các tiêu chuẩn vệ sinh để sử dụng vào việc cấp
nước cho đô thị và nông nghiệp. Tuy nhiên, vùng này nước dưới đất cũng dễ bị
nhiễm bẩn do nó có quan hệ thuỷ lực với các dòng nước mặt, có liên hệ tới các
nguồn rác thải bởi phần trên cùng của mặt cắt thường chỉ gồm các lỗ thấm mạnh,
đôi chỗ có sét và sét pha những bề dày không lớn. Trên vùng tam giác của sông như
vùng Quảng Trị phần lớn nước lỗ hổng bị nhiễm mặn, chất lượng kém đối với các
mục tiêu cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp (tổng khoáng hoá: M lớn hơn 1 đến
3 g/l).
Dựa vào thành taọ địa chất, thành phần thạch học, tính thấm, độ giàu nước…có
thề chia khu vực nghiên cứu ra thành các tầng chứa nước sau:

-

Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích bở rời đa nguồn gốc Holocen.
Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích nguồn gốc sông Pleistocen.
Tầng chứa nước lỗ hổng – khe nứt các thành tạo phun trào Bazan Neogen Đệ Tứ.

-

Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích Neogen.
Đới chứa nước khe nứt các trầm tích Ocdovic – Silua.
a. Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích bở rời đa nguồn gốc Holocen
Nước dưới đất tồn tại trong các trầm tích bở rời Holocen, bao gồm các thành tạo
trầm tích đa nguồn gốc (mQ2, a Q2, am Q2, ml Q2, mv Q2) phân bố rộng rãi, phủ tràn

16


trên bề mặt và chiếm phần lớn diện lộ đồng bằng đồng bằng, đồng bằng ven biển
Quảng Trị.
Trên bình đồ có thể nhận thấy các trầm tích bở rời đa nguồn gốc Holocen phân
bố thành hai vùng rõ rệt:
Vùng I dọc bờ biển Quảng Trị phân bố rộng rãi các trầm tích cát hạt thô nguồn
gốc biển, gió biển (m Q 2, mv Q). Đó là các dải cát, đụn cát thạch anh màu xám trắng
đến trắng tinh khiết kết cấu rời rạc có độ chọn lọc và mài tròn tốt tạo thành hai dải
lớn. Dải phía Bắc bắt đầu từ ranh giới tỉnh Quảng Bình cho đến khu Đồng Luật (Vĩnh
Thái). Dải phía Nam từ Cửa Tùng chạy dài theo hướng Tây Bắc- Đông Nam cho đến
tiếp giáp với tỉnh Thừa Thiên - Huế. Chiều rộng của các dải cát thay đổi trong phạm
vi rộng từ 2 - 3 km đến 6 - 7 km, bề dày thay đổi từ 10 đến 30m. Bề mặt địa hình chịu
tác động mạnh của gió, tạo nên các gò đụn cát cao 10 - 20 m, giữa chúng là các trũng
có tính tụ than bùn.

Vùng II dọc theo các con sông và thung lũng sông lớn và phân bố chủ yếu là các
trầm tích hạt mịn nguồn gốc sông, sông hồ, sông biển hỗn hợp. Thành phần bao gồm
cát lẫn bột xét màu xám vàng và có tính phân lớp. Lớp dưới là cát bột xám đen lẫn vỏ
sò ốc, lớp trên cùng là sét bột màu vàng. Quy mô phân bố tương đối hẹp, dọc theo hai
bên Quốc lộ 1A, chiều dày không lớn thường từ 10 đến 20 m. Cột địa tầng lỗ khoan
cấp nước tại Triệu Phước năm 2000 là một ví dụ tiêu biểu, từ trên xuống dưới có các
tập sau đây.
- Từ 0 đến 2,5 m: sét pha màu nâu, càng xuống sâu lượng cát càng tăng.
- Từ 2,5 đến 12 m: cát hạt nhỏ chứa ít sét màu xám trắng có chứa các vỏ sò, vỏ
hến lẫn mica.
- Từ 12 đến 18 m: cát hạt nhỏ sạch rất ít sét.
Tổng diện tích tầng chứa nước này lộ ra khoảng 691,88 km 2, chiếm 64,8% diện
tích của đồng bằng.
Theo tài liệu hút nước thí nghiệm trong tầng chứa nước Holocen tại các lỗ
khoan trên khắp đồng bằng cho thấy mức độ chứa nước thay đổi từ nghèo ở phía
Nam đồng bằng (Hải Lăng), đến trung bình ở phía Bắc (Hồ Xá, Gio Linh) và giàu ở
trung tâm của đồng bằng (Cửa Việt, Đông Hà, Triệu Phong) có tỷ lưu lượng đơn vị q
từ 1,08 đến 2,11 l/sm (bảng 2.1).
Bảng 2.1. Bảng tổng hợp kết quả hút nước thí nghiệm
trong tầng chứa nước Holocen

17


TT

1

Số hiệu lỗ
khoan


LK421

Chiều

MN

sâu

T

LK (m)
21,9

Lưu lượng
Q (l/s)

(m)
Vùn g Đông Hà
0,1

4,10

Tỷ lưu

Hệ số

lượng q

thấm


(l/s/m)

K (m/ng)

1,84

3,41

Vùng Tây Đông Hà
2

LK904

-

-

1,77

1,08

16,31

Vùn g Cửa Việt
3

LK CV 1

27


1,22

1,20

1,03

-

4

LK CV 2

27

1,21

1,50

1,41

-

5

LK CV 3

27

0,49


3,80

2,11

-

Lỗ k hoan trong đề án vùng Hải Lăng
6

LK II B

15

0,45

0,33

-

-

7

LK III B

20

0,45


0,55

-

-

8

LK IV B

15

1,60

1,00

-

-

9

LK V B

18

1,40

1,20


-

-

10

LK VI B

17

1,50

1,20

-

-

11

LK VII B

9

1,20

1,00

-


-

12

LK 14

18

1,30

1,50

-

-

13

LK 01

18
1,20
1,00
( Nguồn Báo cáo Quy hoạch NDD miền đồng bằng Quảng Trị 2008)

Theo kết quả phân tích hoá mẫu nước cho thấy nước dưới đất trong tầng
chứa nước này phần lớn là nước nhạt có chất lượng tốt đáp ứng tiêu chuẩn sử
dụng nước cho mục đích ăn uống và sinh hoạt. Ngoại trừ một số vùng gần sông
Thạch Hãn như một phần của các xã Triệu Hoà, Triệu Phước, Triệu Độ huyện Triệu
Phong nước đã bị nhiễn mặn, độ tổng khoáng hoá M > 1000 mg/l, một số vùng khác

cũng đang có dấu hiệu nhiễm mặn như Cửa Tùng, xã Vĩnh Giang huyện Vĩnh Linh,
xã Triệu Trung, Triệu Tài huyện Triệu Phong và xã Hải Hoà huyện Hải Lăng có độ
tổng khoáng hoá từ 500 đến 1000 mg/l.
Loại hình hoá học của nước là bicacbonat natri, vùng nước mặn có loại hình
clorua natri. Hàm lượng nitơ (N0 3 + N02 + NH4+) và tổng sắt ở một số vùng đang có

18


dấu hiệu tăng cao như một số dải nước nhỏ thuộc địa phận các xã Hải Hoà, Hải Thọ,
Hải Ba, Hải Quế huyện Hải Lăng; xã Triệu Hòa, Triệu Phước huyện Triệu
Phong có hàm lượng nitơ từ 10 đến 20 mg/l và lớn hơn, giá trị tổng sắt thay đổi
từ 1,0 đến 5 mg/l.
Đây là tầng chứa nước không áp, nguồn cung cấp cho tầng chứa nước chủ yếu
là nước mưa, có thể một phần đáng kể là nước ngưng tụ. Nước có thể thấm xuống
cung cấp cho các tầng chứa nước nằm bên dưới hoặc thoát ra các thung lũng thấp
hoặc các chân cồn cát dọc theo bờ biển.
Động thái của tầng chứa nước biến đổi theo mùa, nhưng biên độ dao động
không lớn. Mùa mưa nước trong các cồn cát hầu như tràn trên mặt đất, mùa khô mực
nước nằm cách mặt đất khoảng từ 0,5 đến 1,6 m.
b. Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích nguồn gốc sông Pleistocen

Trong vùng đồng bằng ven biển, tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích bở rời
Pleistocen bao gồm các thành tạo có nguồn gốc sông (aQ 11-3).
Tầng chứa nước này có diện phân bố rộng khắp vùng, về cơ bản chúng bị phủ
bởi tầng chứa nước Holocen và chỉ lộ ra thành các dải dọc theo thung lũng sông Bến
Hải, Thạch Hãn, Cam Lộ và sông Bến Xe. Tổng diện lộ của tầng chứa nước này vào
khoảng 190,27 km2, chiếm 17,82% diện tích của đồng bằng.
Phần phía Bắc sông Thạch Hãn tầng chứa nước phân bố dưới các trầm tích
Holocen, phần lộ ra trên mặt chủ yếu là các thành tạo nguồn gốc biển (mQ 13) phân bố

ở phía Bắc- Tây Bắc huyện Vĩnh Linh thành các dải lớn, phía Tây Nam huyện Gio
Linh có diện phân bố hẹp tạo thành các dải nhỏ bề rộng khoảng 1 - 2 km. Tổng diện
lộ của phần này khoảng 80,42 km2. Mặt cắt tiêu biểu được nghiên cứu qua các lỗ
khoan 604, 608 và 610 (vùng Hồ Xá). Đất đá phần trên là sét, sét cát màu nâu tạo
thành những dải mỏng, phần giữa là cát thạch anh màu vàng, vàng nâu, xám trắng độ
hạt từ trung bình đến thô. Phần dưới là cát sét, sét cát màu vàng loang lổ tạo thành
các dải mỏng.
Phần phía Nam sông Thạch Hãn tầng chứa nước có quy mô lớn hơn. Ngoài các
thành tạo hạt mịn nguồn gốc biển lộ ra ở phía Tây Quốc lộ 1A còn có diện lộ của các
thành tạo nguồn gốc sông, sông biển hỗn hợp (amQ 12-3) có khả năng chứa nước tốt
nhất. Diện tích lộ ra khoảng 109,85 km2. Thành phần đất đá chứa nước là cát cuội sỏi
lẫn sét có kích thước hạt tăng dần theo chiều sâu và giảm dần theo chiều từ Quốc lộ

19


1A ra biển. Phần trên lát cắt là sét, sét cát, phần giữa là cát và cuội sỏi, phần dưới là
cuội sỏi lẫn cát.
Chiều dày của tầng chứa nước thay đổi theo có quy luật trong khoảng từ 28 38m, trung bình là 32m. Nếu theo mặt cắt giữa trung tâm đồng bằng từ Bắc vào Nam
thì dày nhất trong khoảng từ sông Cánh Hòm đến sông Vĩnh Diện và phía giáp giới
với tỉnh Thừa Thiên - Huế. Phía Bắc có chiều dày mỏng hơn.
Đây là tầng chứa nước có áp, áp lực trên mái thay đổi từ 14,25 m (QT1) đến
43,3 m (QT13), trung bình là 31,0 m. Chiều sâu mực nước tĩnh thay đổi từ 0,2 - 17,65
m, có nơi nước tràn trên mặt đất tới +0,1 m (vùng Gio Linh, Đông Hà). Đặc biệt ngày
12/7/2002 trong quá trình thi công lỗ khoan tại Triệu Đại thuộc chương trình EMW
do đoàn 708 thực hiện đến độ sâu 54 mét nước phun lên mặt đất đến 10 - 15m.
Kết quả hút nước thí nghiệm tại các lỗ khoan (bảng 2.2) cho thấy đây là tầng
chứa nước có mức độ chứa nước thay đổi từ trung bình đến giàu.
Trong tổng số 23 lỗ khoan nghiên cứu có 16 lỗ khoan (69,5%) cho tỷ lưu lượng
từ 1 đến 7 l/sm tập trung ở khu trung tâm của đồng bằng bao gồm các huyện Gio

Linh, Triệu Phong, Cam Lộ và thị xã Đông Hà.
Có 2 lỗ khoan cho tỷ lưu lượng q từ 0,5 đến 0,1 l/sm tập trung ở Đông Nam
huyện Vĩnh Linh.
Có 5 lỗ khoan (21,7%) cho tỷ lưu lượng q từ 0,1 đến 0,5 l/sm. Phía Nam đồng
bằng (vùng Hải Lăng) khá giàu nước, kết quả hút nước tại các lỗ khoan cho lưu lượng
từ 1,1 đến 1,8 l/s (xem bảng dưới).
Phần lớn nước dưới đất tồn tại trong tầng chứa nước Pleistocen có chất lượng
tốt, nước nhạt có độ tổng khoáng hoá M < 500 mg/l, loại hình hoá học của nước chủ
yếu là bicacbonat natri.
Trong tầng chứa nước này còn tồn tại một dải nước mặn lớn ở đoạn cuối của
sông Thạch Hãn bao gồm một phần các xã Gio Hải, Gio Việt, Gio Quang huyện Gio
Linh, xã Triệu An, Triệu Phước, Triệu Vân, Triệu Đài, Triệu Thuận huyện
Triệu Phong và Đông Bắc thị xã Đông Hà. Một vài dải nước nhỏ khác thuộc các
xã Hải Vĩnh, Hải Ba, Hải An, Hải Hoà, Hải Xuân huyện Hải Lăng.
Vùng Cửa Tùng cũng đang có nguy cơ bị nhiễm mặn (500 < M < 1000 mg/l).
Tại đây có các lớp sét, sét bột nguồn gốc hồ, đầm lầy cách nước. Lớp sét bột này có
nơi phân bố liên tục trên mái tầng chứa nước tạo cho tầng chứa nước có áp lực lớn.
Chiều dày lớp sét thay đổi từ một vài mét đến hàng chục mét.
Bảng 2.2. Kết quả hút nước thí nghiệm trong tầng chứa nước Pleistocen
20


TT

Số hiệu

Chiều dày

LK


(m)

MNT (m)

Q (l/s)

q (l/sm)

M (g/l)

Vùng Hồ Xá
1

LK 604

65,3

1,50

7,425

0,124

0,200

2

LK 608

22,5


0,50

1,590

0,469

0,125

3

LK 610

-

1,0
Vùng

4,300

0,835

0,210

0,06

0,12

-


Gio Linh
-

4

Q 60

-

5

Q86

-

-

0,06

0,1

-

6

Q117

-

-


0,073

0,15

-

7

QT 14

30,5

0,60

26,61

4,65

0,12

Số hiệu

Chiều dày

LK

(m)

8


QT 1

9

TT

MNT (m)

Q (l/s)

q (l/sm)

M (g/l)

28,0

14,7

5,01

0,81

0,08

QT 3

34,2

7,0


9,55

2,10

0,09

10

QT 9

32,9

3,6

16,1

1,1

0,1

11

QT 12

30,7

3,6

16


2,76

-

12

QT 13

38,0

1,3

16,81

1,63

0,1

13

QT 15

33,5

17,65

17,65

1,48


0,09

Vùng Đông Hà
14

LK404

38,10

+0,5

11,72

2,93

0,13

15

LK405

18,50

+1,0

19,42

23,88


0,24

16

LK413

38,9

3,1

8,31

5,94

0,23

17

LK415

27,5

0,4

15,36

4,80

1,87


18

LK431

17,80

0,3

19,02

7,26

1,21

19

LK410

37,80

0,8

23,02

7,68

0,98

20


LK424

62,5

2,10

13,95

3,81

0,34

21

LK429

21,6

1,76

8,27

5,82

1,28

22

LK433


47,0

1,70

12,45

2,83

0,32

21


Vùng Tây Đông Hà
Các lỗ khoan thuộc đề án vùng Hải Lăng - Triệu
23

LK908

38

Phong
5,50

24

LK II A

15


+0,45

1,21

-

0,504

25

LK III A

>12

+0,20

1,10

-

0,967

26

LK IV A

>4,0

1,60


1,40

-

1,325

27

LK V A

>12

1,10

1,20

-

0,834

28

LK VI A

>4,5

1,20

1,80


-

2,796

29

LK VII A
>14
1,20
1,80
0,268
( Nguồn Báo cáo Quy hoạch NDD miền đồng bằng Quảng Trị 2008)

3,72

2,28

0,114

Miền cung cấp nước cho tầng chứa nước này là phần tầng chứa nước lộ trên mặt
ở phía Tây vùng nghiên cứu, từ đây nước mưa có thể cung cấp trực tiếp cho tầng
chứa nước, hoặc ngấm qua tầng chứa nước qh ở phía trên. Nước vận động theo
hướng Tây Bắc - Đông Nam với vận tốc 28,8 m/ng (theo tài liệu đo nạp điện lỗ khoan
QT 13 ở Gio Linh). Miền thoát có thể dọc theo sông Cam Lộ, sông Thạch Hãn, sông
Bến Hải. Động thái mực nước thay đổi theo mùa, thường từ 1,0 - 8,2 m (theo tài liệu
của trạm quan trắc GL 32).
c. Tầng chứa nước lỗ hổng - khe nứt, các thành tạo phun trào Bazan Neogen - Đệ

Tứ
Trong vùng đồng bằng đồng bằng, đồng bằng ven biển Quảng Trị, tầng chứa

nước này phân bố thành hai khối lớn. Khối thứ nhất ở phía Bắc sông Thạch Hãn
thuộc một phần địa phận các xã Gio Phong, Gio Bình, Gio An, Gio Sơn huyện Gio
Linh với diện tích lộ ra khoảng 79 km 2. Khối Bazan thứ hai có diện tích khoảng 100
km2 chiếm 9,3% diện tích đồng bằng phân bố ở đồng bằng, đồng bằng ven biển phía
Bắc Cửa Tùng thuộc một phần của các xã Vĩnh Kim, Vĩnh Hoà, Vĩnh Quang và Vĩnh
Giang huyện Vĩnh Linh. Ngoài ra đảo Cồn Cỏ thuộc tỉnh Quảng Trị cũng là một khối
Bazan nhỏ có diện tích 2,5 km2.
Như vậy tổng diện lộ của tầng chứa nước Bazan trong vùng đồng bằng đồng
bằng, đồng bằng ven biển tỉnh Quảng Trị là 179 km 2, chiếm 16,76% diện tích của
đồng bằng. Trên bản đồ địa hình các thành tạo Bazan có độ cao tuyệt đối từ 10 - 16
m, chiều dày lớn nhất khoảng 80 - 100 m.
22


Kết quả tài liệu khoan và các giếng đào cho thấy phần trên của khối đá Bazan đã
bị phong hoá thành sét màu nâu đỏ. Phần giữa bị phong hoá dở dang, phần dưới là
Bazan đặc xít màu xám đen. Chiều dày của tầng có xu hướng mỏng dần từ Tây sang
Đông.
Kết quả hút nước thí nghiệm ở các lỗ khoan (xem bảng 2.3) cho thấy tầng chứa
nước khá phong phú, mức độ chứa nước thay đổi từ giàu ở trung tâm, ở ven rìa của
khối Bazan thì nghèo nước. Mức độ chứa nước cũng giảm dần từ trên xuống dưới. Tỷ
lưu lượng thay đổi từ 0,003 l/sm (LK912) đến 0,404 l/sm (LK901).

23


Bảng 2.3. Kết quả hút nước thí nghiệm trong tầng chứa nước Bazan
Số hiệu
TT


lỗ

1

khoan
LK401

2

Chiều sâu lỗ
khoan (m)

Chiều
dày

45,0

(m)
20,9

LK910

65,0

3

LK911

4


MNT
(m)

Q (l/s)

q
(l/sm)

M (g/l)

2,0

0,93

0,13

-

79,0

12,0

2,16

0,24

0,107

62,0


59,0

17,54

3,84

0,57

0,20

LK912

62,0

37,6

12,0

0,08

0,003

-

5

LK901

85,0


81,2

2,08

2,32

0,404

0,10

6

LK902

30,0
19,0
4,48
0,34
0,27
0,33
( Nguồn Báo cáo Quy hoạch NDD miền đồng bằng Quảng Trị 2008)

Nước dưới đất trong tầng chứa nước lỗ hổng - khe nứt các thành tạo phun trào
Bazan có chất lượng tốt, không bị nhiễm mặn, độ tổng khoáng của nước nhỏ hơn 0,5
g/l. Nước có loại hình bicacbonat - clorua natri.
Đây là tầng chứa nước không áp, được nước mưa cung cấp trực tiếp và thấm
xuống cung cấp cho các tầng chứa nước bên dưới. Các tài liệu quan trắc trong vùng
cho biết biên độ dao động mực nước theo mùa từ 2,1 - 6,1 m.
d. Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích Neogen


Tầng chứa nước lỗ hổng các trầm tích Neogen có diện phân bố khá rộng nhưng
hầu hết bị che phủ và có quan hệ thuỷ lực chặt chẽ với tầng chứa nước Pleistocen
phân bố ở phía trên. Nhiều nơi khó tách biệt hai tầng. Trên mặt cắt ĐCTV dọc đồng
bằng ven biển, tầng chứa nước này có xu hướng mỏng dần ở hai phía Bắc và Nam,
còn ở trung tâm của đồng bằng thì có chiều dày lớn hơn. Chiều dày trung bình 43,5m.
Độ sâu phân bố của đáy tầng từ 92,8 m (LK2QT) đến 132,2 m (LK2BQT).
Thành phần thạch học của tầng chứa nước từ trên xuống dưới bao gồm sét lẫn
cát và sỏi nhỏ tiếp đến là cuội sỏi màu xám trắng, lẫn cát thạch anh có kết cấu rời rạc,
bên dưới là sét kết, cát kết, cuội sạn kết nứt nẻ gắn kết yếu.
Kết quả hút nước thí nghiệm tại các lỗ khoan cho thấy tầng chứa nước rất giàu
nước. Tỷ lưu lượng lỗ khoan thay đổi từ 2,38 - 7,68 l/sm, trung bình là 4,08 l/sm. Hệ
số thấm trung bình là 12,61 m/ng (xem bảng 2.4).
Các mẫu phân tích hoá học và vi trùng cho thấy nước có chất lượng tốt, độ tổng
khoáng hoá từ 0,03 - 0,176 g/l, các nguyên tố độc hại không có, nước không bị nhiễm

24


bẩn, không có vi trùng gây bệnh. Nước có loại hình hoá học là bicacbonat - clorua
natri hoặc bicacbonat canxi - magiê.
Đây là tầng chứa nước có áp, mực nước tĩnh cách mặt đất từ 0,8 m (LK420) đến
3,5 m (LK432), trung bình là 1,48 m. Nguồn cung cấp nước cho tầng chủ yếu là từ
phía trên ngấm xuống qua các cửa sổ ĐCTV. Miền thoát là các hệ thống sông Bến
Hải, sông La Lung và có thể thoát trực tiếp ra biển.
Tại vùng Hồ Xá, các tầng chứa nước Neogen nằm dưới lớp phủ tuổi Pleistocen
mỏng, hoặc dưới tập phun trào Bazan Vĩnh Linh (bảng 2.5). Đất đá chứa nước là cát
sạn lẫn bột sét màu vàng nâu loang lổ, thấu kính hoặc lớp mỏng bột sét lẫn vật chất
than màu xám đen. Đây là tầng chứa nước quan trọng của đồng bằng Bắc Quảng Trị.
Bảng 2.4. Kết quả hút nước thí nghiệm trong tầng chứa nước Neogen (m)
vùng Gio Linh – Hải Lăng

Chiều

Chiều

MN

SHLK

sâu(m

dày

T

Q (l/s)

1

LK410

)
120

(m)
37,8

(m)
0,8

2


LK432

115,0

53,8

3

LK424

160

4

LK429

5

STT

S

q

K

M

(m)


(l/sm) (m/ng)

(g/l)

23,02

3,0

7,68

13,67

0,14

3,5

13,35

5,61

2,38

8,06

0,04

68,4

2,1


13,95

3,66

3,81

11,05

0,06

95

-

1,76

8,26

1,42

5,8

3,68

0,04

LK433

102


47,0

1,7

12,09

4,4

2,83

7,89

0,03

6

LK602

60,8

-

1,00

14,38

4,66

3,09


6,22

0,118

7

LK603

58,2

10,5

1,00

9,73

2,64

3,68

37,69

0,176

TB

25

43,5

1,48
4,08
12,61
( Nguồn Báo cáo Quy hoạch NDD miền đồng bằng Quảng Trị 2008)


×