Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

Pháp luật hợp đồng việt nam với thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (511.12 KB, 92 trang )

1

Pháp luật Hợp đồng Việt Nam với thực tiễn

1. Khái niệm, bản chất và đặc điểm của hợp đồng :
1.1. Khái niệm :
Hợp đồng là một trong những chế định nhiều tuổi nhất trong lịch sử pháp luật
thế giới. Hợp đồng trong Luật La Mã được coi là hoàn thiện nhất trong thời kỳ lịch
sử sơ khai. Có thể nói nguyên nhân hình thành nên hợp đồng đó chính là :
-

Nguyên nhân khách quan : khi xã hội phát triển đến một mức độ nhất

định, con người chỉ có thể làm một số công việc nhất định, nhu cần của con người
ngày càng phong phú, đa dạng hơn.
-

Nguyên nhân chủ quan : Từ những nhu cầu ngày càng phong phú đa

dạng của mình, để thoả mãn nhu cần này, con người có mong muốn được trao đổi
vật chất với nhau



Cơ sở hình thành nên hợp đồng.

Theo quan niệm của các luật gia La Mã thì Hợp đồng được coi là hình thức thể
hiện ý chí của các giao dịch song phương mà việc xác lập chúng có thể trực tiếp
làm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các bên.
Trong Luật La Mã thì điều kiện cơ bản để hợp đồng có hiệu lực như sau :
-



Ý chí và sự thể hiện ý chí.

-

Nội dung của hợp đồng phải hợp pháp và phải được xác định.

-

Hành vi, công việc trong hợp đồng phải thực hiện được.

-

Thoả mãn đìêu kiện về hình thức.

GVHD : TS. Dương Anh Sơn


2

Còn trong Bộ luật dân sự Pháp điều 1011 thì : Hợp đồng là sự thoả thuận của
hai hay nhiều bên về việc chuyển giao một vật, làm hay không làm một công việc
nào đó.
Còn đối với Bộ luật dân sự Đức : Hợp đồng được coi là điều kiện cần thiết để
hình thành hoặc làm thay đổi một trách nhiệm từ các giao dịch hợp pháp của các
các bên trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. (Điều 305, BLDS Đức năm
1896, sửa đổi 2002 ).




Nhìn chung các nước trong hệ thống pháp luật Châu Âu - Lục địa (Civil

Law) đều có quan niêm về hợp đồng tương tự với Luật La Mã. Như vậy Bản chất
của hợp đồng là sự thoả thuận, thống nhất ý chí giữa hai hay nhiều người, đối
tượng của hợp đồng phải có hai bên trở lên. Một hợp đồng có hiệu lực phải là một
hợp đồng có thể thực hiện được, còn hợp đồng mà không thể thực hiện được thì coi
như không tồn tại tức là hợp đồng bị vô hiệu.
Còn ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ (Common Law) như : Anh,
Mỹ, Úc….thì Hợp đồng được định nghĩa là một thoả thuận có ràng buộc về mặt
pháp lý. Có 4 yếu tố cơ bản đề hình thành nên 1 hợp đồng :
-

Đề nghị giao kết.

-

Sự chấp thuận đề nghị.

-

Sự bù trừ.

-

Ý định thiết lập nghĩa vụ pháp lý.

Khác biệt giữa hệ thống Common Law và Civil Law đó chính là phải có sự bù
trừ nghĩa vụ. Sự bù trừ ở đây được hiểu là một giá trị nào đó ( có thể là tiền, dịch
vụ hoặc một công việc phải thực hiện ….) mà mỗi bên nhận được và trao đi hoặc
từ bỏ theo thoả thuận. Nếu thiếu sự bù trừ điều đó có nghĩa là một trong hai bên

không có nghĩa vụ, do vậy hợp đồng sẽ không tồn tại.
GVHD : TS. Dương Anh Sơn


3

Còn tại các nước Châu Á thì về cơ bản quan niệm về hợp đồng cũng không
khác gì so với hệ thống pháp luật Châu Âu - Lục địa và hệ thống pháp luật Anh Mỹ như trong Điều 2 của Luật Hợp đồng của nước Cộng Hoà nhân dân Trung Hoa
năm 1999 có quy định :
Pháp luật dân sự Nhật Bản cũng như Trung Quốc, đề cao sự tự do ý chí và yếu
tố thoả thuận trong hợp đồng quy định hợp đồng là “một loại giao dịch dân sự thể
hiện sự thống nhất ý chí của hai hay nhiều bên”. Như vậy mục đích của hợp đồng
thông thường là phát sinh nghĩa vụ, coi hợp đồng là một quan hệ pháp luật và cũng
là căn cứ phổ biến và quan trọng làm phát sinh nghỉa vụ. Tuy nhiên, trong pháp
luật Nhật Bản không phải lúc nào cũng làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ mà trong
một số trường hợp, hợp đồng có thể là các loại giao dịch không có mục đích làm
phát sinh nghĩa vụ như quan hệ hôn nhân cũng được coi là một giao dịch không
làm phát sinh nghĩa vụ.
Còn đối với pháp luật việt Nam điều chỉnh lĩnh vực hợp đồng, thì cũng chịu
ảnh hưởng của Luật dân sự La Mã và thành tựu của hệ thống pháp luật Civil Law.
Theo Điều 388 Bộ luật Dân sự 2005 thì : Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự giữa
các chủ thể bình đẳng tự nhiên nhân, pháp nhân và các tổ chức khác.
1.2. Bản chất của hợp đồng :
Như vậy từ Điều 388, BLDS 2005 có
thể thấy được bản chất của hợp đồng: là
một sự thoả thuận có hiệu lực bắt buộc thực
hiện đối với các bên, làm phát sinh quyền
và nghĩa vụ giữa các bên tức là tạo ra sự
ràng buộc pháp lý. Nó được hiểu là sự thể


GVHD : TS. Dương Anh Sơn


4

hiện ý chí của các bên bằng việc thoả thuận với nhau về quyền và nghĩa vụ của các
bên, xác định khi nào và trong điều kiện nào thì các quyền và nghĩa vụ này được
xác lập, được thay đổi và chấm dứt.
1.3. Đặc điểm :
Các chủ thể tham gia hợp đồng có thể là cá nhân hoặc pháp nhân hoặc các loại
chủ thể khác. Khách thể của hợp đồng chính là đối tượng của hợp đồng, có thể là
tài sản, hàng hoá hoặc dịch vụ. Nguyên tắc quan trọng và được pháp luật bảo vệ là
nguyên tắc tự do thoả thuận, bình đẳng và thiện chí trong việc giao kết, thực hiện
hợp đồng, không phân biệt mục đích của hợp đồng là kinh doanh thu lợi nhuận hay
nhằm phục vụ cho tiêu dùng (theo Điều 38 Bộ luật Dân sự 2005).
Để quan hệ hợp đồng được xác lập một cách có hiệu lực, cần tồn tại các điều
kiện sau đây:
1.

Tồn tại một sự thoả thuận.

2.

Giữa các bên có thẩm quyền giao kết hợp đồng.

3.

Dựa trên việc thống nhất ý chí giữa các bên.


4.

Mục đích của việc giao dịch phải hợp pháp.

5.

Thoả thuận được xác lập theo hình thức xác định nếu pháp luật có quy

định.
Các yếu tố này dựa trên điều 122, Bộ luật dân sự 2005, theo đó một giao dịch
dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây :
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật,
không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
GVHD : TS. Dương Anh Sơn


5

d ) Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong
trường hợp pháp luật có quy định.
Từ những phân tích khái quát trên về hợp đồng dễ nhận thấy, hợp đồng dân sự
chính là bản "giao kèo" để ghi nhận những quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên
chủ thể tham gia hợp đồng mà các bên phải tôn trọng và đảm bảo thực hiện.
2. Tại sao pháp luật hợp đồng phải phù hợp với thực tiễn ?
Cuộc đời một con người nếu là người dân lao động thì cũng phải tham gia vào
các quan hệ giao dịch hàng ngày như mua một con cá, bó rau, hay mua nhà mua
đất để sinh sống,... còn đối với một người kinh doanh thì gắn liền với những toan
tính huy động vốn, tìm khe hở thị trường, tổ chức sản xuất, cung ứng dịch vụ và

tiêu thụ sản phẩm. Có nhiều công cụ để tổ chức các giao dịch đó, song công cụ nên
tảng là hợp đồng.
Để hợp đồng ngày càng là một công cụ hữu ích hơn trong một xã hội đang
ngày càng có những chuyển mình phát triển mạnh mẽ như Việt Nam thì cần phải
xây dựng một chế định hợp đồng phù hợp với thực tiễn vì những lý do sau :
Thứ nhất, Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa các đối tác với nhau và đảm bảo
quyền và nghĩa vụ hợp pháp trong các thỏa thuận đó. Trong quá trình thực hiện
pháp luật ở Việt Nam đã xảy ra nhiều sự trùng lặp, mâu thuẫn, không thống nhất
nên trong thời gian qua pháp luật về hợp đồng đã gây ra không ít sự vướng mắc, sự
lúng túng trong việc áp dụng pháp luật để tiến hành giao kết hợp đồng và giải
quyết tranh chấp. Một số khái niệm pháp lý, một số định nghĩa được sử dụng trong
BLDS không thật chính xác như khái niệm nghĩa vụ dân sự, định nghĩa hợp đồng
vay tài sản, hợp đồng tặng cho, các quy định về các biện pháp bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ và hợp đồng chưa thật sự phù hợp với điều kiện kinh tế thị trường nên
gây ra nhiều khó khăn khi áp dụng. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiên nay pháp

GVHD : TS. Dương Anh Sơn


6

luật hợp đồng của Việt Nam chưa tương thích với pháp luật và tập quán thương
mại quốc tế. Việt Nam cũng chưa thừa nhận rộng rãi án lệ, tập quán, thông lệ
thương mại là nguồn của pháp luật hợp đồng.



Hợp đồng không những đảm bảo lợi ích của các bên trong hợp đồng mà

còn dự kiến được những rủi ro sẽ xảy ra trong tương lai để có thể phù hợp với

hoàn cảnh thực tiễn và qui định của pháp luật. Đồng thời đây là căn cứ pháp lý để
giải quyết những tranh chấp có thể nảy sinh trong quá trình thực hiện giao dịch.
Thứ hai, Việc xây dựng một pháp lụât hợp đồng phù hợp với thực tiễn sẽ giúp
cho Hợp đồng có thể bảo đảm, bảo vệ quyền tự do hợp đồng của cá nhân, pháp
nhân và các chủ thể khác. Trong nhà nước pháp quyền, xã hội dân sự quyền tự do
hợp đồng phải được ghi nhận và bảo đảm. Vả lại trong dân gian ta có câu: Việc
dân sự cốt ở đôi bên. Cá nhân, pháp nhân và các chủ thể khác có quyền tự do giao
kết hợp đồng, tự do thoả thuận, tự định đoạt và hợp đồng được xác lập chính trên
cơ sở của sự tự do thoả thuận.
Thứ ba, Môi trường sống, môi trường kinh doanh ngày càng biến thiên liên
tục, ý chí vào thời điểm giao kết cũng có thể hay đổi. Do đó nó hợp đồng này càng
mang tính chất của một quá trình . Và quá trình này hàm chứa nhiều rủi ro đa dạng
do môi trường kinh doanh, môi trường sống trong xã hội ngày càng thay đổi liên
tục và nhanh chóng. Con người ngày nay phải sống chung với cạnh tranh, với thay
đổi không ngừng và rủi ro trong tất cả mọi lĩnh vực. Không còn là hiện tượng ngẫu
nhiên, rủi ro đã trở thành một yếu tố thường trực cần được xét tính trước trong các
giao dịch. Bởi vậy hợp đồng không chỉ là một quá trình mà còn là một quá trình có
điều tiết, trong đó các bên cùng nhận diện, đánh giá, phân chia điều tiết rủi ro- gọi
chung là quản lý rủi ro. Hợp đồng đang dần chuyển sang xu hứng dự phòng và
quản lý rủi ro. Xây dựng một chế định hợp đồng phù hợp với thực tiễn chính là
giúp các bên trong giao kết hợp đồng có thể quản lý và dự phòng rủi ro được hiệu
GVHD : TS. Dương Anh Sơn


7

quả.
Thứ tư, trong điều kiện toàn cầu hoá hiện nay, các giao dịch vượt ra ngoài lãnh
thổ là điều thường thấy nhất là trong lĩnh vực mua bán hàng hoá. Từ đây phát sinh
những loại giao dịch mà chưa được điều chỉnh hay điều chỉnh chưa rõ ràng cụ thể

trong BLDS 2005, gây khó khăn cho việc áp dụng luật, dẫn đến nhiều cách hiểu
khác nhau, quan niệm khác nhau, để rồi phát sinh tranh chấp, mất lòng tin với
khách hàng. Như vậy, một pháp luật về hợp đồng phù hợp với thực tiễn là vô cùng
cần thiềt.
Thứ năm, thông tin bất cân xứng ngày càng trở thành một lĩnh vực cần được
quan tâm. Việc giao kết hợp đồng ngày nay không đơn giản chỉ là giao kết giữa
những thể nhân với nhau hay những pháp nhân với nhau mà còn là những giao kết
giữa các cá nhân với tổ chức, các doanh nghiệp nhỏ với doanh nghiệp lớn, các
doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài…. Vị thế của các bên giao
kết trong những hợp đồng như vậy thường rất khác nhau, và cán cân lợi ích thường
nghiêng về bên nào mạnh hơn, chuyên nghiệp hơn. Điển hình như trong các hợp
đồng giữa thương nhân và người tiêu dùng . Có vị thế yếu ớt so với nhà cung cấp
hàng hoá và dịch vụ, quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng cần được bảo vệ
trước mọi sự lạm dụng. Do vậy một pháp luật Hợp đồng phù hợp với thực tiễn của
xã hội Việt Nam có thể sẽ giúp điều chỉnh lại cán cân lợi ích này cho đồng đều
giữa hai bên, giảm hiện tượng thông tin bất cân xứng, bảo vệ bên chỉ biết chấp
nhận hợp đồng vì trong quá trình giao kết họ không có điều kiện để thương lượng
cụ thể chi tiết
Thứ sáu, hiện nay với sự chuyển biến ngày càng phức tạp của một nền kinh tế
thị trường, rất nhiều vụ việc mới đã phát sinh trong các giao dịch, sự mâu thuẫn
trong các điều luật quy định về hợp đồng. Từ đây, gây khó khăn cho các thẩm phán
trong vấn đề giải quyết các tranh chấp về hợp đồng, gây nên việc tồn đọng án ngày
GVHD : TS. Dương Anh Sơn


8

càng gia tăng.




Từ một vài lý do trên, chúng ta có thể thấy rằng, việc xây dựng một hệ

thống pháp luật về hợp đồng sao cho phù hợp với thực tiễn là một điều vộ cùng
cấp bách. Đề hợp đồng có thể đạt được mục đích vốn có của nó là nhằm bảo vệ
quyền tự do ý chí, bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của các bên trong quan hệ
hợp đồng. Và việc xây dựng một hệ thống pháp luật phù hợp với thực tiễn cũng
chính là một trong những nội dung để hoàn thiện hệ thống pháp luật của nhà
nước pháp quyền, tiến tới xây dựng chủ nghĩa xã hội, bảo đảm tính dân chủ,
công bằng.
3. Mức độ hoàn thiện của pháp luật hợp đồng với thực tiễn hiện nay :
Bộ luật Dân sự 2005 khi vừa mới mới được ban hành thì đã có hàng loạt công
trình nghiên cứu lớn nhỏ công khai phê phán các bất cập, nên buộc phải có kế
hoạch sửa đổi lớn, và trong đó các chế định về hợp đồng chắc chắn cũng sẽ có
nhiều sự thay đồi. Vậy tại sao chỉ mới có hiệu lực trong vòng vài năm, mà các chế
định về hợp đồng lại tỏ ra chưa đáp ứng và chưa phù hợp được với thực tiễn.
Chúng ta hãy cùng phân tích một cách khái quát về chế định hợp đồng trong BLDS
2005 và từ những phân tích ấy, chúng ta có thể thấy được mức độ hoàn thiện của
pháp luật hợp đồng trong pháp luật Việt Nam ta.
3.1. Nguyên tắc giao kết hợp đồng :
Đầu tiên phải kể đến vấn đề nền
tảng trong hợp đồng. Đó là nguyên
tắc giao kết hợp đồng. Về cơ bản,
các nguyên tắc giao kết hợp đồng
trong Bộ luật Dân sự năm 1995 tiếp
tục được duy trì tại Điều 389 Bộ luật

GVHD : TS. Dương Anh Sơn



9

Dân sự năm 2005, nên việc giao kết hợp đồng dân sự phải tuân theo các nguyên tắc
sau đây:
3.1.1. Tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp luật, đạo đức xã
hội.
Dựa trên nguyên tắc này, mọi cá nhân, tổ chức khi có đủ các điều kiện tư cách
chủ thể đều có thể tham gia giao kết bất kỳ một giao dịch/ hợp đồng dân sự nào,
nếu muốn. Tuy nhiên, hợp đồng chỉ có hiệu lực pháp luật, được pháp luật công
nhận và bảo vệ khi ý chí của các bên giao kết hợp đồng phù hợp với ý chí của nhà
nước. Nếu để các bên tự do vô hạn, thì hợp đồng dân sự sẽ trở thành phương tiện
để kể giàu bóc lột người nghèo và sẽ là nguy cơ đối với lợi ích chung của xã hội.
Vì vậy, phải đi xa hơn nữa trong vấn đề tăng cường sự can thiệp của nhà nước vào
các quan hệ pháp luật tư, các việc dân sự…. . Lợi ích của cộng đồng, của toàn xã
hội được quy định bởi pháp luật và đạo đức xã hội trở thành giới hạn cho sự tự do
ý chí của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng nói riêng, và trong mọi hành
vi của chủ thể nói chung.
Tự do hợp đồng là thuộc tính của hợp đồng, là triết lý của pháp luật hợp đồng.
Nhìn vào tự do hợp đồng có thể đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp luật hợp
đồng. Tự do hợp đồng là quyền ký kết, quyền được ký kết, quyền chọn đối tượng,
lựa chọn loại hợp đồng, tự do xác định các điều khoản của hợp đồng. Căn cứ vào
điều kiện,khả năng, hoàn cảnh, mục đích của mình mà chọn lựa loại hợp đồng phù
hợp. Luật pháp không bao giờ dự liêu hết các tình huống xảy ra trên thực tế; trong
hoạt động của đời sống xã hội các quan hệ xã hội luôn luôn phát triển và chính các
chủ thể là người nghĩ ra các quy tắc xử sự để điều chỉnh các hành vi, luật pháp chỉ
là thứ theo sau các hành vi đó. Do đó hợp đồng là luật của các bên, trong nhiều
trường hợp nó còn có giá trị pháp lý cao hơn cả quy định của pháp luật. Chúng ta
có thể nhìn vào BLDS 2005, đa số các quy định liên quan đến đến hợp đồng đều có
GVHD : TS. Dương Anh Sơn



10

câu : “ nếu không có thoà thuận” hoặc “trừ trường hợp có thoả thuận khác” . Điều
này cho thấy một điều rằng chỉ khi nào các bên không có thoả thuận thì pháp luật
mới can thiệp vào, chính pháp luật cũng đề cao giá trị của sự thoả thuận của các
bên. Tự do giao kết hợp đồng cũng có nghĩa là các bên trong quan hệ hợp đồng
được tự do xác định điều khoản của hợp đồng.
Song, tự do hợp đồng không có nghĩa là các bên có thể tự do làm mọi điều
mình muốn mà sự tự do đó phải nằm trong những khuôn khổ nhất định sao cho
phù hợp với đạo đức, pháp luật, tập quán và phải ưu tiên bảo vệ quyền lợi của kẻ
yếu hơn, bảo vệ được quyền lợi của người lương thiện hơn, trung thực hơn Có như
vậy mới đảm bảo được sự hoàn thiện của pháp luật hợp đồng.
Tuy nhiên, có khi nhà nước ta lại can thiệp quá thô bạo vào các quan hệ hợp
đồng: đó là các trường hợp nhà nước ta soạn thoả ra các mẫu hợp đồng. Điều này
vốn không cần thiết.
3.1.2. Tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và ngay thẳng
Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp đồng
không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình; đồng thời thể
hiện bản chất của quan hệ pháp luật dân sự. Các bên chủ thể khi tham gia các quan
hệ trao đổi phải bình đẳng với nhau; không ai được viện lý do khác biệt về hoàn
cảnh kinh tế, thành phần xã hội, dân tộc, giới tính hay tôn giáo… để tạo ra sự bất
bình đẳng trong quan hệ dân sự. Hơn nữa, ý chí tự nguyện của cac bên chủ thể
tham gia hợp đồng chỉ được bảo đảm khi các bên bình đẳng với nhau trên mọi
phương diện. Chính vì vậy, pháp luật không thừa nhận những hợp đồng được giao
kết thiếu sự bình đẳng và ý chí tự nguyện của một trong các bên chủ thể.
Sự thống nhất ý chí của chủ thể giao kết hợp đồng với sự bày tỏ ý chí đó trong
nội dung hợp đồng mà chủ thể này đã giao kết chính là cơ sở quan trọng để xác

GVHD : TS. Dương Anh Sơn



11

định một hợp đồng đã đảm bảo nguyên tắc tự nguyện hay chưa. Hay nói cách khác,
việc giao kết hợp đồng chỉ được coi là tự nguyện khi hình thức của hợp đồng phản
ánh một cách khách quan, trung thực mong muốn, nguyện vọng của các bên chủ
thể tham gia hợp đồng.
Do đó, theo quy định của pháp luật thì tất cả những hợp đồng được giao kết do
bị nhầm lẫn, lừa dối hay bị đe doạ đều không đáp ứng được nguyên tắc tự nguyện
khi giao kết và do đó bị vô hiệu.
Nguyên tắc trung thực, thiện chí và hợp tác đã, đang và sẽ là nguyên tắc cơ bản
của việc ký kết và thực hiện hợp đồng. Cùng với sự phát triển của các quan hệ xã
hội, của hoạt động kinh doanh thương mại và của pháp luật hợp đồng, nguyên tắc
này càng có ý nghĩa hết sức quan trọng. Để nguyên tắc này phát huy được hiệu lực
của mình, pháp luật cần phải có những quy định thể hiện sự nghiêm khắc đối với
những hành vi ký kết hay thực hiện hợp đồng không trung thực, thiện chí – những
hành vi cố ý vi phạm pháp luật hợp đồng. Có như vậy pháp luật hợp đồng của
chúng ta mới có thể bảo vệ một cách tốt hơn, hiệu quả hơn quyền và lợi ích hợp
pháp của bên yếu hơn, của người trung thực, lương thiện
Về mặt nội dung, 2 nguyên tắc trên nhằm mục đích bảo đảm sự tự do, bình
đẳng cho các bên. Thế nhưng trên thực tiễn, do có sự tự do giao kết giữa các bên
nên đã xảy ra nhiều trường hợp bên có hiểu biết hơn trong quan hệ hợp đồng lợi
dụng nguyên tắc này để mưu toan trục lợi. Từ đó dẫn đến sự thiếu trung thực thiện
chí trong việc giao kết hợp đồng, nghĩa là đã vi phạm nguyên tắc khi giao kết hợp
đồng. Ấy vậy mà trên thực tiễn, các hợp đồng rất hiếm khi bị vô hiệu do vi phạm
một trong hai hoặc cả hai nguyên tắc này.
Ví dụ : A, B,C cùng là thương nhân. A và C cùng kinh doanh một mặt hàng,
cùng kiểu dáng, cùng chất lượng. A biết điều này nhưng C thì không biết. Chuyến
tàu hàng của C cập cảng vào lúc 10 giờ ngày 19/5 còn chuyến tàu hàng của A cập

GVHD : TS. Dương Anh Sơn


12

cảng vào lúc 10giờ 30 phút cùng ngày. A và B là bạn thân nên A đã nhờ B giả vờ
làm người muốn mua hàng của C. B đồng ý. Trong quá trình hai bên thương thảo
về việc mua bán hàng hoá thì hàng của A cập cảng và A nhanh chóng bán số hàng
này ra bên ngoài. Sau đó A gọi điện cho B. Khi B nhận được điện thoại của A thì
quyết định không ký kết hợp đồng với C. Hàng của A thì được bán ra ngoài trước
còn hàng của C thì đã không bán được cho B mà còn không bán được cho các
khách hàng khác, vì họ đã mua hàng của A rồi. Vậy thiệt hại trên B có được bồi
thường hay không ?
Các thẩm phán rất hiếm khi viện dẫn điều 389 này để xem xét các trường hợp
như : hợp đồng có vô hiệu hay không, hoặc bên không trung thực có phải bồi
thường về những thiệt hại gây ra cho bên còn lại từ hành vi của mình hay không.....
Điều này dẫn tới việc, dù cho không tuân theo điều 389 thì hợp đồng vẫn có hiệu
lực hay người vi phạm vẫn không phải bồi thường những thiệt hại do hành vi của
mình gây ra. Từ đó dẫn tới việc những bên trung thực thiện chí hơn lại phải chịu
những tổn thất do hành vi thiếu trung thực của người khác gây ra.
3.2. Hình thức của hợp đồng :
Hình thức của hợp đồng là hình thức mà các bên lực chọn để bày tỏ ý chí của
mình ra bên ngoài.
Theo Ðiều 401của BLDS 2005 :
1. Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc
bằng hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định loại hợp đồng đó phải được
giao kết bằng một hình thức nhất định.
2. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng
văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân
theo các quy định đó.


GVHD : TS. Dương Anh Sơn


13

Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ
trường hợp pháp luật có quy định khác.
Tự do thoả thuận là một trong những nguyên tắc quan trọng trong giao kết hợp
đồng. Về nguyên tắc, các bên được lựa chọn hình thức của hợp đồng, ví dụ bằng
lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể. Đoạn văn này đã gợi ý rằng, ý đồ
thực sự của nhà làm luật về hình thức hợp đồng nên được giải thích rộng ra là bất
kỳ hình thức nào thể hiện ý chí của các bên phải do các bên lựa chọn, có nghĩa là
cùng nhau thoả thuận. Điều này có nghĩa là các bên được phép lựa chọn hình thức
thích hợp khi ký kết hợp đồng. Tuy nhiên, để bảo đảm an toàn pháp luật trong các
giao dịch hợp đồng giữa các bên, cũng như để bảo vệ trật tự pháp luật và lợi ích
của các bên, đối với một số loại hợp đồng pháp luật đòi hỏi người phải tuân theo
những hình thức nhất định, ngược lại, hợp đồng đó sẽ không có hiệu lực.
Hình thức của hợp đồng là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới hình thức
nhất định của các chủ thể hợp đồng. Thông qua cách thức biểu hiện này, người ta
có thể biết được nội dung của giao dịch kinh doanh đã xác lập. Hình thức của hợp
đồng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong tố tụng, bởi đó là chứng cứ xác nhận các
quan hệ kinh doanh đã và đang tồn tại giữa các bên, từ đó xác định trách nhiệm khi
có vi phạm xảy ra. Hình thức của hợp đồng có thể là lời nói, văn bản hoặc các hành
vi cụ thể. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện
bằng hình thức văn bản hoặc phải được công chứng, chứng thực, đăng ký hay xin
phép thì các bên phải tuân thủ quy định về hình thức khi ký kết hợp đồng.
Có thể nói, hình thức hợp đồng được hiểu là sự thể hiện nội dung của hợp đồng
và những thủ tục mà pháp luật quy định bắt buộc các bên giao kết hợp đồng phải
tuân thủ khi ký kết một số loại hợp đồng nhất định. Việc đưa ra hình thức bắt buộc

đối với một số loại giao dịch là nhằm mục đích lưu ý các bên cần thận trọng hơn
khi giao kết hợp đồng và nhằm đảm bảo tính rõ ràng của việc tồn tại các giao kết
GVHD : TS. Dương Anh Sơn


14

trong hợp đồng, quyền và nghĩa vụ cũng như đặc điểm của quan hệ pháp luật hợp
đồng.
Tuy nhiên, việc pháp luật quy định hợp đồng phải được thiết lập bởi những
hình thức nhất định sẽ vô tình tạo nên khoảng cách nhất định giữa sự thỏa thuận
mong muốn của các bên với hiệu lực của hợp đồng. Hay ở một số nước theo hệ
thống luật Anh - Mỹ (common law), người ta quan niệm hình thức văn bản là bắt
buộc đối với các hợp đồng có giá trị. Đơn cử Anh và Úc, hợp đồng bắt buộc phải
được lập thành văn bản khi giá trị của nó lớn hơn 10 bảng Anh. Quy định này xuất
phát từ hệ thống luật án lệ coi các văn bản hợp đồng có giá trị bắt buộc và có tính
chất như luật đối với các bên và đó chính là căn cứ cơ bản để cơ quan có thẩm
quyền xem xét giải quyết tranh chấp. Nhờ đó, hợp đồng ở các nước này được soạn
thảo rất chặt chẽ.
Một số nước theo hệ thống luật lục địa (continental law) như Pháp, Thụy Sỹ...
thì coi tự do ký kết hợp đồng là nguyên tắc cơ bản. Ở các nước này, sự thoả thuận
thể hiện ý chí chung của các bên đã là điều kiện đủ để hình thành nên hợp đồng,
cho dù chúng được thể hiện dưới bất cứ hình thức nào. Nguyên tắc này coi trọng
“chữ tín”, nghĩa là khi đã cam kết điều gì thì các bên phải tự giác thực hiện. Thực
tế này đã giúp loại bỏ các trường hợp hợp đồng bị vô hiệu vì có vi phạm về hình
thức. để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, các chủ công ty Pháp thường
ký kết hợp đồng bằng văn bản cho dù pháp luật có đòi hỏi hay không.
Hệ thống pháp luật của Đức thì mặc dù, hình thức không có chức năng chứng
cứ, nhưng vi phạm điều kiện về hình thức sẽ đưa đến sự vô hiệu của hợp đồng. Sự
giải thích duy nhất đối với việc trói buộc một chế tài mạnh như vậy là do nhà làm

luật quan tâm tới việc bảo vệ các bên trước những tình huống bất ngờ. Do đó, Đức
đã đưa vào phần chung của Bộ luật dân sự nguyên tắc: giao dịch pháp luật không
được thực hiện bằng hình thức hợp pháp thì sẽ bị vô hiệu hoặc không có giá trị.
GVHD : TS. Dương Anh Sơn


15

Điều này được lý giải là các đòi hỏi hình thức được dự liệu để nhằm bảo vệ những
người không có kinh nghiệm trước sự bất ngờ, cũng như hạn chế phương pháp
chứng cứ. Luật dân sự Việt cũng có cách tiếp cận như vậy về hình thức hợp đồng.
Như vậy, không có hệ thống pháp luật nào có thể miễn trừ hoàn toàn các đòi
hỏi về hình thức, song việc có thừa nhận hình thức là điều kiện hiệu lực của hợp
đồng hay không lại phụ thuộc cách tiếp cận vấn đề của pháp luật từng nước .
Khi sửa đổi và hoàn thiện Bộ luật Dân sự với mong muốn đề cao tự do hợp
đồng nên quy định rõ ràng về việc vi phạm về hình thức hợp đồng không làm cho
làm hợp đồng vô hiệu. Nếu sửa đổi theo hướng đó, để tránh các trường hợp lạm
dụng quy định tại điều 134, BLDS 2005 nhằm không thực hiện hợp đồng, nên có
quy định chiểu theo ý chí tự do hợp đồng mà hối thúc các bên hoàn tất thủ tục về
hình thức theo luật định.
Sau cùng, văn hoá và trình độ của mỗi công ty thể hiện ở việc giao tiếp trong
đàm phán và ký kết hợp đồng.” . Do vậy, trước khi tiến hành ký kết hợp động với
các đối tác nước ngoài, bạn cần xem xét và nắm vững các quy định pháp luật về
hợp đồng của nước đó. Chúng ta nên thể hiện sự tôn trọng đối tác qua sự chặt chẽ
và nghiêm túc của các bản hợp đồng. “Xây dựng và chuẩn bị các bản hợp đồng
cũng đồng nghĩa với thành công trong các giao dịch kinh doanh và thiết lập hình
ảnh đẹp về chính mình trong mắt đối tác”- một chuyên gia pháp luật của Mỹ đã
nhận định như vậy.
Coi chừng vi phạm hình thức hợp đồng
TBKTSG - 09/05/2010 11:50:00 SA


-

Vụ án dưới đây chỉ là một trong số rất nhiều vụ án tranh chấp hợp đồng
liên quan đến việc vi phạm hình thức ở Việt Nam.

GVHD : TS. Dương Anh Sơn


16

Vợ chồng ông A rất thân với vợ chồng ông B và cho vợ chồng ông B mượn nhà
để sinh sống. Khi cơ hội đến, vợ chồng ông A đã dùng căn nhà của mình đem thế
chấp ngân hàng để vay tiền kinh doanh. Nhưng do việc làm ăn của vợ chồng ông A
không thuận lợi, nợ nần quá nhiều, khiến vợ chồng ông B phải cho vợ chồng ông A
vay tiền để trả ngân hàng và trang trải nợ nần.
Trước tình hình đó, vợ chồng ông A gợi ý bán căn nhà cho vợ chồng ông B.
Sau nhiều lần thỏa thuận, hai bên đã lập bốn văn bản mua bán căn nhà có đầy đủ
chữ ký của các bên nhưng không đem đi công chứng, chứng thực. Đang trong quá
trình sang tên sổ đỏ, vợ chồng ông A lại làm đơn ra tòa yêu cầu hủy thỏa thuận
mua bán căn nhà, buộc vợ chồng ông B phải trả lại nhà.
Qua các cấp xét xử, sơ thẩm rồi đến phúc thẩm, tòa án đều xác nhận việc mua
bán căn nhà là có thực, song tuyên bố chấp nhận yêu cầu xin hủy thỏa thuận mua
bán căn nhà của vợ chồng ông A và tuyên bố hợp đồng này vô hiệu. Lý do mà tòa
án đưa ra là thỏa thuận mua bán căn nhà chưa được hai bên lập hợp đồng, công
chứng, chứng thực theo quy định của pháp luật, vi phạm quy định về hình thức hợp
đồng.
Tuyên bố hợp đồng mua
bán căn nhà vô hiệu, tòa án
buộc ông vợ chồng ông B phải

trả lại căn nhà; ngược lại, vợ
chồng ông A có nghĩa vụ trả
lại cho vợ chồng ông B tiền
bán căn nhà đã nhận.
3.3. Nội dung của hợp đồng :

GVHD : TS. Dương Anh Sơn


17

Nội dung của hợp đồng là điều khoản của các bên mà dựa vào các điều khoản
đó có thể xác định quyền và nghĩa vụ của các bên.
Cac điều khoản của hợp đồng được chia thành 3 nhóm :
+ Điều khoản bắt buộc: là điều khoản mà khi các bên chưa đạt được những
điều khoản đó thì hợp đồng chưa được ký kết. Thông thường điều khoản bắt buộc
là đối tược của hợp đồng ( tài sản, hàng hoá, công việc …).
+ Điều khoản thông thường: Là những điều kiện mà không phụ thuộc vào việc
các bên đã thoả thuận, mà hợp đồng vẫn được ký kết.
+ Điều khoản tuỳ nghi : là những điều khoản vừa mang đặc điểm của điều
khoản bắt buộc vừa mang đặc điểm của điều khoản tuỳ nghi. Nó giống với điều
khoản thông thường là không phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa các bên; và giống
với điều khoản bắt buộc ở chỗ nếu các bên chưa thoả thuận được điều khoản tuỳ
nghi thì hợp đồng chưa được ký kết.
Việc phân loại mà điều khoản trên để xác định có hay không có vi phạm hợp
đồng và điều khoản thông thường thường được điều chỉnh bởi các quy phạm pháp
luật hợp đồng. Để có thể bảo vệ quyền lợi của kẻ yếu thì phải xác định những điều
khoản thông thường.
3.4. Phân loại hợp đồng :
Ðiều 406. Các loại hợp đồng dân sự chủ yếu

Hợp đồng gồm các loại chủ yếu sau đây:
1. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau;
2. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà chỉ một bên có nghĩa vụ;
3. Hợp đồng chính là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng
phụ;
GVHD : TS. Dương Anh Sơn


18

4. Hợp đồng phụ là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính;
5. Hợp đồng vì lợi ích của người thứ ba là hợp đồng mà các bên giao kết hợp
đồng đều phải thực hiện nghĩa vụ và người thứ ba được hưởng lợi ích từ việc thực
hiện nghĩa vụ đó;
6. Hợp đồng có điều kiện là hợp đồng mà việc thực hiện phụ thuộc vào việc
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một sự kiện nhất định.
Trong thực tiễn áp dụng pháp luật, việc phân loại hợp đồng có ý nghĩa nhất
định, bởi qua việc phân loại hợp đồng sẽ xác định những đặc điểm chung và riêng
của từng nhóm hợp đồng, và từ đó góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều
chỉnh các quan hệ hợp đồng.
Phân loại hợp đồng tại Điều 406 và Điều 407, BLDS 2005 rất thiếu thốn và
không thỏa đáng. Việc phân loại các hợp đồng trở nên rất quan trọng cho việc thiết
lập các quy chế pháp lý tương ứng với chúng. Nếu sự phân loại cơ bản mà bị thiếu
sẽ gây khó khăn cho việc đưa ra các giải pháp pháp lý. Chẳng hạn, khi giao kết hợp
đồng với người ở xa, thì việc phân loại hợp đồng thành hợp đồng ưng thuận, hợp
đồng trọng hình thức và hợp đồng thực tế có ý nghĩa nhất định. Đối với hợp đồng
mà pháp luật yêu cầu phải có công chứng hoặc chứng thực, thì có chấp nhận
phương thức giao kết với người ở xa không? Nếu chấp nhận thì cần có giải pháp gì
liên quan tới yêu cầu đặc biệt về mặt hình thức? Đó chính là những điều phát sinh
trong thực tiễn mà chưa được BLDS 2005 bàn tới.

3.5. Về xác lập hợp đồng :
Thực tiễn ký kết hợp đồng trong hoạt động kinh doanh, thương mại ở Việt
Nam trong thời gian vừa qua cho thấy rằng, hợp đồng được ký kết chủ yếu theo
thói quen mà không theo kỹ năng pháp lý. Theo thói quen của người Việt Nam thì
đối với những vật có giá trị nhỏ hoặc các bên gặp nhau lần đầu sẽ giao kết trực

GVHD : TS. Dương Anh Sơn


19

tiếp; ngược lại đối với những vật có giá trị không lớn hoặc các bên đã quen biết
nhau thì hợp đồng sẽ được kí kết gián tiếp và được tiến hành theo 2 bước :
1.

Ðề nghị giao kết hợp đồng.

2.

Chấp nhận giao kết hợp đồng.

Đề nghị và chấp nhận là các khái niệm luôn luôn đi liền với nhau trong việc
nghiên cứu về giao kết hợp đồng, bởi chúng là các thành tố của sự thỏa thuận. Các
nguyên tắc của Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế 1994 và 2004 đều xác
định ngay đầu tiên khi nói về giao kết hợp đồng, tại các Điều 2.1 và Điều 2.1.1
tương ứng, với nội dung không thay đổi là: “Một hợp đồng có thế giảo kết hoặc bởi
sự chấp nhận một đề nghị hoặc bởi cách hành xử của các bên mà đủ để thể hiện sự
thỏa thuận”.
3.5.1. Ðề nghị giao kết hợp đồng :
Điều 390 BLDS 2005 quy định:

1. Ðề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và
chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ
thể.
2. Trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu
bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề
nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được
giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh.
Sự gặp gỡ của ý chí là điều kiện để một hợp đồng được xác lập. Thế nhưng, có
điều kiện còn tiên quyết hơn nữa, đó là ý chí giao kết phải hiện hữu. Luật của
Pháp, của Anh – Mỹ, nói chung, của nhiều nước tiền tiến thừa nhận rằng sự hiện
hữu của ý chí chỉ được ghi nhận một khi nó được bộc lộ ra ngoài và ở trong tình
trạng có thể được người khác nhận biết. Luật Việt Nam hiện hành, vận dụng kinh
GVHD : TS. Dương Anh Sơn


20

nghiệm của các nước, xây dựng các khái niệm về đề nghị và chấp nhận đề nghị
giao kết hợp đồng để mô tả và điều chỉnh quá trình bộc lộ đi đến sự gặp gỡ ý chí
của các bên trong quan hệ kết ước.
Đầu tiên ta sẽ xét đến những đề nghị giao kết có địa chỉ xác định, thì luật có vẻ
muốn buộc người đề nghị gìn giữ cam kết trong một thời hạn nào đó. Bằng chứng
là điều 392, 393 chỉ thừa nhận việc rút lại hoặc thay đổi đề nghị trong trường hợp
người được đề nghị nhận được thông báo rút lại hoặc thay đổi đề nghị trước hoặc
cùng thời điểm với việc nhận lại đề nghị. Nhưng thái độ của người làm luật không
dứt khoát; bởi vậy, người ta không biết làm thế nào để giải thoát người đề nghị
trong trường hợp người được đề nghị đã nhận được một đề nghị không có thời hạn
xác định, còn thông báo rút lại đề nghị thì chưa tới nơi…
Tiếp theo là đề nghị ra công chúng. Pháp luật Việt Nam dường như không ghi
nhận những lời đề nghị dạng này. Điều này thể hiện trong điều 390 khi pháp luật

Việt Nam hiện hành không sử dụng thuật ngữ “chào hàng” như pháp luật của hầu
hết các nước cũng như Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế (CISG) mà lại sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao kết”. Việc pháp luật Việt
Nam không sử dụng thuật ngữ “chào hàng” mà lại sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao
kết hợp đồng” sẽ gây rất nhiều khó khăn cho người áp dụng cũng như người ký kết
hợp đồng vì rất khó có thể phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng với quảng cáo và
đặc biệt là với lời mời đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng, bởi vì theo nguyên tắc,
quảng cáo, lời mời chào hàng và bản thân chào hàng đều được coi là đề nghị giao
kết hợp đồng, tuy nhiên giá trị pháp lý của chúng lại hoàn toàn khác nhau.
Với những lời đề nghị ra công chúng có nghĩa là lời đề nghị được gửi rộng rãi
cho mọi người chứ không nhằm vào một đại chỉ xác định và điều đó có nghĩa rằng
ngay cả trong trường hợp đề nghị giao kết đã có đầy đủ nội dung của một hợp đồng
và có ghi rõ thời hạn được duy trì để chờ được chấp nhận, người đề nghị vẫn có
GVHD : TS. Dương Anh Sơn


21

quyền huỷ bỏ hoặc rút lại đề nghị mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý. Với
giải pháp này, người làm luật tỏ ra quá nuông chiều, dễ dãi đối với người đề nghị
chuyên nghiệp, tức là các thương nhân, trong mối quan hệ giao tiếp với người tiêu
dùng: điều này không có lợi cho việc xây dựng, phổ biến ý thức về trách nhiệm xã
hội của doanh nghiệp .
Khác với quảng cáo hay lời mời chào hàng, chào hàng có giá trị pháp lý ràng
buộc. Một đề nghị giao kết hợp đồng, để được coi là chào hàng, phải thỏa mãn các
dấu hiệu sau đây:
Thứ nhất, đề nghị đó phải được xác định cụ thể. Điều này có nghĩa là xuất
phát từ nội dung của nó bên được chào hàng có khả năng hiểu được ý chí của bên
chào hàng. Thông thường một đề nghị được coi là xác định nếu có chứa các nội
dung của hợp đồng tương lai. Quảng cáo hay lời mời chào hàng thường là không

xác định, bởi lẽ chúng không có các nội dung của một hợp đồng tương lai.
Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện được sự ràng buộc của bên
chào hàng với lời đề nghị của mình trong trường hợp được bên được chào hàng
chấp nhận.
Thứ ba, chào hàng phải được gửi cho một người hay một số người cụ thể, tức
là địa chỉ gửi đến phải được xác định rõ ràng. Lời mời chào hàng mặc dù được gửi
cho một hay một số người xác định, tuy nhiên nó không thể hiện được sự ràng
buộc của bên đưa ra đề nghị. Quảng cáo thường không được gửi cho một người
xác định nào mà nó chỉ có mục đích thông báo, giới thiệu cho tất cả những người
quan tâm về một loại sản phẩm nào đó của người đưa ra quảng cáo.
Vấn đề tiếp theo là giá trị pháp lý của một đề nghị giao kết hợp đồng được coi
là chào hàng. Lý thuyết về ký kết hợp đồng chỉ ra rằng, có hai loại chào hàng: thứ
nhất, chào hàng có quy định thời hạn trả lời và thứ hai, chào hàng không quy định

GVHD : TS. Dương Anh Sơn


22

thời hạn trả lời. Khi xem xét khoản 1 Điều 390 BLDS 2005 có thể nhận thấy pháp
luật Việt Nam có quy định chào hàng không quy định thời hạn trả lời, tuy nhiên giá
trị pháp lý của nó lại không được nói đến. Điểm a khoản 1 Điều 392 BLDS 2005
quy định rằng, bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao
kết hợp đồng nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút
lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị. Có thể nói điều
khoản này chỉ quy định giá trị pháp lý của chào hàng có quy định thời hạn trả lời.
Bởi vì quy định này có thể hiểu là trong khoảng thời gian từ thời điểm bên được đề
nghị nhận được đề nghị đến khi kết thúc thời hạn trong đề nghị, bên đề nghị không
được rút lại hay hủy đề nghị của mình. Mặt khác sẽ hết sức vô lý nếu quy định trên
được áp dụng cho cả đề nghị giao kết hợp đồng không quy định thời hạn trả lời bởi

vì không quy định khoảng thời gian hiệu lực của nó. Vậy thì đối với chào hàng
không quy định thời hạn trả lời bên đề nghị có thể rút lại hoặc hủy lời đề nghị của
mình khi nào? Hay nói cách khác là bên được đề nghị giao kết hợp đồng phải trả
lời trong thời hạn nào thì trả lời đó mới được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp
đồng?
Khoản 1 Điều 16 CISG quy định, bên đề nghị có thể rút lại đề nghị nếu bên
được đề nghị nhận được thông báo về việc rút lại chào hàng trước khi trả lời chấp
nhận. Điều 145 Bộ luật dân sự của Đức quy định, trong trường hợp chào hàng
không quy định thời hạn trả lời thì bên chào hàng chịu sự ràng buộc trong thời hạn
hợp lý, tức là trong thời hạn hợp lý đó bên chào hàng không được thay đổi hay hủy
lời đề nghị của mình. Từ những gì được nói ở trên, trong Bộ luật dân sự Việt Nam
nên chăng cũng cần phải có quy định cụ thể hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng
không có quy định thời hạn trả lời.
Mặt khác, một khi đề nghị có nêu rõ thời hạn hiệu lực, luật Việt Nam chỉ dự
kiến khả năng yêu cầu bồi thường thiệt hại trong trường hợp bên đề nghị giao kết

GVHD : TS. Dương Anh Sơn


23

hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn đề nghị (Điều 390 khoản 2). Điều đó có
nghĩa rằng, nếu bên đề nghị không giao kết với ai khác nhưng cũng không muốn
giao kết với bên được đề nghị nữa, thì cũng không có quyền hủy bỏ đề nghị và, bởi
vậy, một khi bên được đề nghị chấp nhận đề nghị trong thời hạn, bên đề nghị có
thể bị đặt vào tình trạng buộc phải giao kết (?). Luật chưa rõ ở điểm này.
3.5.2. Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng :
Điều 396, BLDS 2005 quy định :
Chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là sự trả lời của bên được đề nghị đối
với bên đề nghị về việc chấp nhận toàn bộ nội dung của đề nghị.

Theo nguyên tắc, một trong những điều kiện để sự trả lời của bên được đề nghị
được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là bên đề nghị nhận được chấp
nhận đề nghị trong thời hạn hiệu lực của chào hàng. Tuy nhiên trong thực tiễn có
nhiều trường hợp mặc dù bên được đề nghị gửi chấp nhận sớm và theo điều kiện
thương mại thông thường nó phải đến tay người đề nghị sớm, tức là trong thời hạn
hiệu lực của chào hàng, tuy nhiên vì lý do khách quan chấp nhận đến trễ. Hiệu lực
pháp luật của chấp nhận đến trễ này được quy định giống nhau trong pháp luật Việt
Nam, CISG và pháp luật của một số nước, theo đó chấp nhận đến trễ này vẫn có
giá trị pháp lý như một chấp nhận chào hàng nếu bên đề nghị không phản đối ngay
khi nhận được chấp nhận chào hàng đó. Quy định này của BLDS 2005, của pháp
luật các nước và cả CISG nghiêng về việc bảo vệ được quyền lợi của bên đề nghị
và không bảo vệ được lợi ích của bên được đề nghị. Rõ ràng như vậy, ví dụ, khi
người bán nhận được sự chấp nhận trễ của người mua, nếu còn hàng thì người bán
sẽ coi chấp nhận đó có hiệu lực, nếu hàng đã bán rồi thì họ sẽ trả lời ngay không
đồng ý với chấp nhận đó. Trong trường hợp này rất có thể người mua sẽ phải chịu
thiệt hại liên quan đến sự chuẩn bị cho việc thực hiện hợp đồng bởi họ tin rằng,
hợp đồng đã được ký kết vì sự trả lời của họ đến đúng hạn. Như vậy thiệt hại này
GVHD : TS. Dương Anh Sơn


24

của người mua – người được đề nghị sẽ được giải quyết như thế nào? Tất nhiên là
người mua phải chịu theo quy định của khoản 1 Điều 397 BLDS 2005. Điều này
có vẻ không công bằng với người mua, bởi vì họ phải chịu sự thiệt hại hoàn toàn
không do lỗi của họ. Để giải quyết trường hợp này nên chăng chúng ta có cách tiếp
cận khác, tức là phải làm thế nào để bên được đề nghị không bị thiệt hại. Ví dụ,
pháp luật có thể quy định rằng, khi hết thời hạn được quy định trong đề nghị giao
kết hợp đồng mà bên đề nghị không nhận được sự trả lời thì phải thông báo ngay
cho bên kia biết về điều đó. Có thể coi đây là sự thể hiện một cách rõ ràng nhất của

nguyên tắc thiện chí khi ký kết hợp đồng, mặt khác, so với bên được đề nghị thì
người đề nghị chính là người quan tâm hơn đến việc thành công của giao dịch.
Điều 398 BLDS 2005 quy định, trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp
đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết hợp
đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá
trị. Điều này có nghĩa là hợp đồng đã được ký kết. Đề nghị giao kết hợp đồng có
giá trị pháp lý có nghĩa là nếu nó được chấp nhận thì hợp đồng được ký kết. Quy
định của Điều 398 cũng có thể hiểu là đối với đề nghị giao kết hợp đồng có quy
định thời hạn trả lời thì nó vẫn có giá trị pháp lý ngay cả khi bên đề nghị chết hay
mất năng lực hành vi dân sự trong trong thời hạn đó. Để xem xét tính phù hợp của
quy định này chúng ta có thể xem xét một ví dụ sau đây: Ông A là một nhạc sĩ.
Ông ta gửi cho công ty B một đề nghị giao kết hợp đồng, theo đó ông A sẽ sáng tác
cho công ty B một ca khúc. Nhận được lời đề nghị của ông A, công ty B xem xét
và chấp nhận lời đề nghị đó. Sau khi nhận được sự trả lời chấp nhận của công ty B,
ông A chết. Trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 398 BLDS 2005 thì lời
đề nghị của ông A vẫn có giá trị ràng buộc, điều này cũng có nghĩa là hợp đồng
giữa ông A với công ty B đã được ký kết và có hiệu lực và nếu ông A chết thì
người thừa kế – người thế nghĩa vụ – của ông A phải thực hiện hợp đồng nói trên.

GVHD : TS. Dương Anh Sơn


25

Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể nói trên chỉ ông A là người mới có thể thực hiện
được nghĩa vụ hợp đồng chứ không phải là một người nào khác bởi vì người thừa
kế của ông A không phải là nhạc sĩ, mà cho dù là nhạc sĩ đi nữa thì cũng không thể
thực hiện được nghĩa vụ theo hợp đồng. Mặt khác điều này lại mâu thuẫn với
khoản 3 Điều 424 BLDS 2005, theo đó, hợp đồng chấm dứt trong trường hợp cá
nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc các chủ thể khác chấm dứt mà hợp

đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc chủ thể đó thực hiện. Như vậy, bên đề
nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được
mời giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp
đồng vẫn có giá trị theo quy định tại Điều 398 và ngay lập tức bị chấm dứt hiệu lực
theo quy định của khoản 3 Điều 424 BLDS 2005.
Cũng tương tự, Điều 399 quy định, trong trường hợp bên được mời giao kết
hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi trả lời chấp nhận giao kết
hợp đồng thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Và điều này
cũng có nghĩa là hợp đồng đã được ký kết. Hậu quả pháp lý của Điều 399 cũng
tương tự trong trường hợp công ty B là bên đề nghị và ông A – nh ạc sĩ – là bên
được đề nghị.
Cũng có thể các nhà làm luật cho rằng, trong trường hợp khi bên đề nghị giao
kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết
hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng nếu sau này hợp đồng phải do chính
người đó thực hiện (hoặc trong trường hợp bên được mời giao kết hợp đồng chết
hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng nếu
sau này hợp đồng phải do chính người đó thực hiện) thì không áp dụng quy định
của hai Điều 398 và 399 mà áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 424. Còn quy định
tại hai Điều 398 và 399 chỉ được áp dụng cho những trường hợp khác ngoài trường
hợp nói trên, tức là khi hợp đồng không do chính người đề nghị hay người được đề

GVHD : TS. Dương Anh Sơn


×