Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (353.77 KB, 68 trang )

1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài:
Hiểu biết về quyền con người là nền tảng để mỗi người phát triển
đầy đủ nhân cách, năng lực của mình và cũng là nền tảng của sự phát triển và
tiến bộ của một xã hội. Thế nhưng, "Hàng triệu người sinh ra, rồi chết đi mà
không hề biết rằng mình là chủ nhân của các quyền con người..." (Wolfgang
Benedek). Kiến thức về quyền con người, quyền công dân quan trọng như vậy
cho nên mục tiêu của giáo dục con người phải nhằm "... thúc đẩy sự tôn trọng
các quyền cơ bản của con người..." theo Điều 26 của Tuyên ngôn toàn thế
giới về Quyền con người, năm 1948 của Liên hợp quốc. Vì vậy, việc xây
dựng nền văn hóa Quyền con người trên toàn thế giới là đóng góp quan trọng
nhất cho các thế hệ hiện tại và tương lai.
Ở nước ta, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân luôn là chế
định quan trọng của hiến pháp và là đối tượng chủ yếu của nền hiến pháp dân
chủ, hiến pháp xã hội chủ nghĩa . Đảng và nhà nước ta đã vận dụng một cách
sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh về học thuyết quyền
con người, quyền công dân trong việc soạn thảo, xây dựng, sửa đổi và ban
hành Hiến pháp, luật phù hợp với tình hình thực tế trong từng giai đoạn lịch
sử. Chính vì thế, vấn đề bảo vệ các quyền của công dân được coi là yêu cầu
trung tâm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình đổi mới
đất nước mối quan hệ pháp lí giữa nhà nước và công dân phải được tăng
cường, nhà nước phải có biện pháp phù hợp bảo đảm đầy đủ quyền làm chủ
của nhân dân, giữ vững an ninh để nhân dân thực sự trở thành “ người chủ”,
còn nhà nước chỉ là “phương tiện” để nhân dân thực hiện quyền lực của mình.
Trong các bản hiến pháp, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân
luôn được thể hiện tương đối đầy đủ trên các lĩnh vực chính trị, tự do dân chủ,
tự do cá nhân, kinh tế, văn hóa – xã hội. Trong đó nhóm quyền về tự do dân
chủ và tự do cá nhân có ý nghĩa vô cùng quan trọng vì nó có mối liên hệ mật
thiết với từng cá nhân, từng công dân.




2

Trong những năm qua, quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do
cá nhân luôn được Nhà nước quan tâm, tạo điều kiện để nhân dân phát huy
quyền làm chủ của mình . Tuy nhiên, vẫn không tránh khỏi những thiếu sót,
quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân ít nhiều không
được bảo vệ, nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ phía nhà nước. Yêu cầu khách
quan đặt ra xuất phát từ thực tiễn đáp ứng với yêu cầu dân chủ hóa hiện nay
đó là những việc mở rộng và đảm bảo cho công dân thực hiện quyền cơ bản
của mình về tự do dân chủ và tự do cá nhân.
Với những lí do trên, em mạnh dạn lựa chọn đề tài “ Quyền cơ bản của
công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân. Thực trạng và giải pháp”.
Do kiến thức thực tiễn còn chưa nhiều, tài liệu hạn chế… nên trong bài viết
không tránh khỏi những thiếu sót, rất kính mong nhận được sự đóng ghóp ý
kiến của các thầy cô trong tổ bộ môn.
2. Mục đích, ý nghĩa của khóa luận:
Khóa luận giúp người đọc hiểu rõ hơn về quyền cơ bản của công dân trong
lĩnh vực tự do dân chủ, tự do cá nhân thông qua việc phân tích khái niệm, nội
dung, đặc điểm, ý nghĩa và những qui định của pháp luật.
Khóa luận làm rõ những ưu điểm, hạn chế còn tồn tại trong việc thực hiện
quyền đồng thời đề ra những giải pháp mang tính khuyến nghị nhằm nâng cao
hiệu quả việc thực hiện quyền của công dân trên thực tế, để quyền làm chủ
của công dân được phát huy tối đa.
3. Phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được thực hiện dựa trên cơ sở và phương pháp phân tích các qui
định của pháp luật, tình hình thực tiễn áp dụng và phương pháp tổng hơp,
đánh giá những ưu điểm, hạn chế. Đồng thời, trong quá trình nghiên cứu,
khóa luận còn sử dụng một số phương pháp cụ thể như phương pháp, nghiên

cứu thống kê, khảo cứu thực tiễn. Các phương pháp được kết hợp với nhau
nhằm đạt mục tiêu đã đề ra.
4. Bố cục của khóa luận:


3

Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
nội dung của khóa luận được trình bày trong hai chương:
Chương I: Khái quát chung về quyền cơ bản của công dân.
Chương II: Nội dung quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ
và tự do cá nhân. Thực trạng và giải pháp


4

CHƯƠNG I
Khái quát chung về quyền con người, quyền công dân.
Quyền con người (nhân quyền) quyền công dân ( dân quyền ) là
vấn đề có lịch sử lâu đời, nội dung rộng lớn, phong phú hết sức phức tạp và
nhạy cảm. Trên thế giới, đây là đề tài thường nhật, được bàn đến ở mọi quốc
gia dưới nhiều góc độ triết học, luật học, chính trị học, sử học…Ở nước ta, về
phương diện lí luận, quyền con người, quyền công dân là một vấn đề mới, cần
phải nghiên cứu một cách cơ bản nhất là trong điều kiện kinh tế thị trường,
dân chủ hóa và hòa nhập quốc tế. Nhận thức đúng nội dung vấn đề quyền con
người, quyền công dân sẽ là cơ sở quan trọng để hoàn thiện pháp luật, bảo
đảm nó trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trước khi
trình bày nội dung chính của vấn đề em xin nêu một số vấn đề lí luận chung
về quyền con người, quyền công dân.
I.Khái niệm về quyền con người, quyền công dân.

1. Khái niệm quyền con người
Con người là một giá trị cao quý và là mục tiêu của bất cứ cuộc
cách mạng nào. Chính vì vậy, bảo vệ và phát triển các quyền của con người
phải là trọng tâm và đích cuối cùng của mỗi cuộc cách mạng, của mỗi thể chế
xã hội tiến bộ. “ Sự không hiểu biết, sự lãng quên hay sự coi thường quyền
con người là những nguyên nhân duy nhất của những nỗi bất hạnh công
cộng, của tệ hủ bại của các chính phủ”(1). Việc hiểu đúng nội dung của các
quyền tự do cơ bản của con người theo đúng nghĩa cao quý đã được ghi nhận
trong Hiến Chương Liên Hợp Quốc, trong hàng loạt công ước quốc tế và
trong hàng loạt Hiến pháp của các quốc gia sẽ giúp mỗi cá nhân, mỗi dân tộc,

(1) Lời nói đầu Tuyên ngôn ngôn về nhân quyền và dân quyền 1789


5

không những không tránh né vấn đề quyền con người mà sẽ giúp nâng cao
trách nhiệm của mỗi cá nhân,
mỗi dân tộc, mỗi quốc gia trong việc hợp sức xây dựng những điều kiện bảo
đảm thực hiện có.
Hiệu quả các quyền này trong phạm vi quốc gia và góp phần vào
cuộc đấu tranh chung của nhân loại vì hòa bình, hợp tác và ổn định, “ cho con
người và vì con người”. Nhất là trong quá trình đổi mới và hoàn thiện hệ
thống pháp luật hiện nay ở nước ta, quan niệm đúng đắn về quyền con người
là một bước quan trọng để đi tới mục tiêu vĩ đại đó - mục tiêu phát triển và
hoàn thiện con người.
Trong lịch sử nhân loại, quyền con người thoạt tiên được coi là
những quyền thiêng liêng và không thể tách rời của con người do trường phái
luật tự nhiên đề xướng. Sau đó, quyền con người ngày càng được xã hội hóa,
được các quốc gia và các cộng đồng quốc tế ghi nhận và bảo vệ bằng các quy

phạm pháp luật - đặc biệt là bằng các quy phạm của luật hiến pháp và các quy
phạm của điều ước quốc tế. Thí dụ, trong hàng loạt các Hiến pháp từ xa xưa
đã từng bước ghi nhận quyền con người, cần phải biết đến Hiến chương vĩ
đại của tự do của nước Anh được ban hành vào ngày 13\6\1215, Luật bảo vệ
thi thể con người được nghị Viện Anh thông qua năm 1689. Tuyên ngôn độc
lập năm 1776 của nước Mỹ; Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền năm 1789
của nước Pháp.v.v. Cho đến tuyên ngôn độc lập do chủ tịch Hồ Chí Minh đọc
ngày 2-9-1945 khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ đó đến nay,
toàn bộ các bản Hiến pháp và toàn bộ hệ thống pháp luật Việt Nam ngày càng
phát triển và hoàn thiện ghi nhận các quyền con người, Điều 50, Hiến pháp
nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 ghi nhận:” Ở nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân
sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện các quyền ở các quyền
công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật”. Cùng với các quy phạm
pháp luật trong nước, các quy phạm pháp luật quốc tế ngày càng tham gia một


6

cách tích cực và hữu hiệu vào việc bảo vệ và phát triển quyền con người. Thí
dụ, Hiến chương Liên hợp quốc ngày 26/6/1945, Tuyên ngôn về quyền con
người ngày 10/12/1948, các công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và
văn hóa về các quyền dân sự và chính trị ngày 16/12/1966, v.v… Chỉ tính
riêng từ năm 1949 đến nay, Liên hợp quốc đã lần lượt ban hành các điều ước
quốc tế về quyền con người ( trên 50 bản). Quyền con người là một phạm trù
phức tạp, đa dạng biểu hiện các đặc điểm và thuộc tính quan trọng của nhân
cách. Vì vậy đưa ra một định nghĩa về quyền con người dưới hình thức cô
đọng mà nêu bật được thuộc tính và đặc điểm cơ bản, quan trọng nhất của con
người là một điều khó. Khoa học luật quốc tế nói chung và khoa học luật quốc
tế từ trước đến nay cũng chưa đưa ra một định nghĩa đầy đủ về quyền con

người.. Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy LHQ về Quyền con người thì:
"Quyền con người là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các
cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn
hại đến nhân phẩm, những sự cho phép và tự do cơ bản của con người".
Cho nên có thể định nghĩa về quyền con người như sau: Quyền
con người là khả năng của con người được bảo đảm bằng pháp luật ( luật
quốc tế và luật quốc gia) về sử dụng và chi phối các phúc lợi xã hội, các giá
trị vật chất, văn hóa và tinh thần, sử dụng quyền tự do trong xã hội trong
phạm vi luật định về các quyền quyết định các hoạt động của mình và của
người khác dựa trên cở sở pháp luật. Trong đó, bao gồm các quyền sống,
quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc. Quyền sống nghĩa là cá nhân có quyền
nuôi sống mình bằng công việc của chính mình (ở bất cứ trình độ kinh tế nào,
ở mức khả năng cá nhân cho phép); chứ không có nghĩa là những người khác
phải cung cấp cho cá nhân đó các thứ cần để sống. Khi người ta đấu tranh vì
quyền con người cũng tức là đấu tranh cho tự do của con người. Và ngược lại
khi đấu tranh cho tự do cũng chính là đấu tranh cho quyền con người. Tất
nhiên, cần phải hiểu tự do ở đây là tự do chân chính. Song, thế nào là tự do
chân chính? Để trả lời câu hỏi đó phải xem xét vấn đề một cách cụ thể, trong


7

hoàn cảnh cụ thể. Trước hết, đó là sự tự do trong xã hội, gắn với một xã hội
cụ thể mà người ta đang sống. Do đó, những hành vi chạy theo dục vọng và
nhu cầu bản năng, động vật, bất chấp nội quy tắc xã hội, không thể là tự do
chân chính. Sau nữa, chỉ là tự do khi tự do của người này không xâm phạm
đến tự do của người khác. Điều 4 trong Hiến pháp 1791 của Cộng hoà Pháp
có ghi : "Tự do là có thể làm mọi cái không hại cho người khác. Cho nên, việc
thực hiện các quyền tự nhiên của mỗi người chỉ có giới hạn là việc bảo đảm
cho những thành viên khác của xã hội cũng được hưởng chính những quyền

ấy". Trong bất kỳ xã hội nào cũng vậy, muốn có tự do chân chính cho mỗi cá
nhân, nghĩa là bảo đảm quyền con người cho mỗi con người, cần phải có hai
tiền đề. Thứ nhất, pháp luật, các quy tắc chung của xã hội phải là sản phẩm,
là sự thể hiện ý chí chung của xã hội. Chỉ có như thế nó mới xứng đáng là
"Kinh thánh của tự do của nhân dân"(1). Thứ hai, mỗi cá nhân phải nhận thức
được pháp luật hay nói cách khác là nhận thức được những "tất yếu xã hội"
quy định trong luật pháp, và điều chỉnh hành vi của mình phù hợp với những
quy định đó.
Con người có quyền mưu cầu hạnh phúc, nghĩa là con người có
quyền tìm kiếm hạnh phúc cho mình. Đúng vậy, thực tế cho thấy hạnh phúc
không tự dưng đến với ta mà ta chẳng có chút công sức gì. Lắm lúc người ta
bỏ ra rất nhiều công sức để tìm kiếm hạnh phúc. Ai cũng vậy nếu chúng ta
khôn khéo thì việc tìm kiếm hạnh phúc sẽ trở nên dễ dàng hơn và ngược lại.
Một điều chắc chắn nữa là nếu ta không có sự chủ động tìm kiếm hạnh phúc
thì sẽ chẳng bao giờ có hạnh phúc hay ta chẳng thể nào cảm nhận được hạnh
phúc. Tuy nhiên, việc tìm kiếm hạnh phúc như thế nào ? Việc tìm kiế

(1) C.Mác, F. Engen. Toàn tập, t.I. Nxb Sự thật, Hà Nội, 1978, tr.85


8

phúc phải có sự tiêu hao sức lực hay tiền của nhất định. Sự tiêu hao này phải
là không thiệt hại gì thậm chí là tốt hơn khi ta có hạnh phúc, ta có thể hiểu
nôm na là "Thả con tép câu con tôm". Như vậy, hạnh phúc là sự phát triển bền
vững. Việc tìm kiếm hạnh phúc mà bất chấp mọi giá là vô cùng nguy hiểm vì
đó là sự mất mát quá lớn không thể bù đắp và sẽ có tác dụng ngược. Việc tìm
kiếm hạnh phúc nói chung phải tuân theo các chuẩn mực đạo đức xã hội ( nói
cách khác là theo chân lý và chính nghĩa ) thì mới có hiệu quả.
2. Khái niệm quyền cơ bản của công dân

2.1. Khái niệm công dân
Trong xã hội, con người luôn tồn tại trong mọi mối quan hệ với
người khác và chịu tác động, ảnh hưởng của môi trường xã hội. Mỗi chế độ
xã hội đều có các cá nhân là những con người chịu sự chi phối của điều kiện
chính trị, kinh tế, đời sống xã hội, hoàn cảnh xã hội và trình độ văn minh của
xã hội ấy. Trong xã hội có giai cấp mỗi cá nhân đều thuộc về một giai cấp,
tầng lớp nhất định. Bất kì Nhà nước nào và bất kì thời đại nào, giai cấp thống
trị nắm Nhà nước luôn tìm mọi cách tách động vào cá nhân nhằm tạo ra một
mẫu người phù hợp với mong muốn lợi ích của giai cấp mình, của thời đại
mình đang thống trị.
Con người trong thời đại có Nhà nước luôn có mối liên hệ, quan
hệ với Nhà nước. Quan hệ đó được thiết lập trên cơ sở pháp luật quy định về
các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia trong quan hệ. Con người đó trở
thành công dân của Nhà nước. Như vậy, trong mối quan hệ giữa một các nhân
và một Nhà nước nhất định, khoa học pháp lý hình thành nên khái niệm công
dân. Vậy công dân là gì?
Công dân là cá nhân trong quan hệ với Nhà nước và pháp luật, là
sự xác định về mặt pháp lý một thể nhân thuộc về một Nhà nước nhất định.
Nhờ sự xác định này mà con người có các quyền do Nhà nước ghi nhận, được
Nhà nước bảo đảm, bảo hộ các quyền, lợi ích ở trong nước cũng như khi ở
nước ngoài và phải làm các nghĩa vụ công dân đối với nhà nước. Ngược lại,


9

Nhà nước có những quyền yêu cầu công dân của mình thực hiện các nghĩa vụ
công dân và Nhà nước có những nghĩa vụ đối với công dân của mình.
Khái niệm công dân ra đời từ lâu trong lịch sử nhưng nó chỉ trở
thành thuật ngữ pháp lý khi Nhà nước tư sản ra đời và được sử dụng rộng rãi
trong xã hội tư sản và xã hội xã hội chủ nghĩa. Nó thể hiện mối quan hệ pháp

lý đặc thù giữa Nhà nước với một số người nhất định, xác định địa vị pháp lý
của cá nhân trong Nhà nước và xã hội. Nhờ khái niệm công dân mà chúng ta
xách định được những quyền mà công dân được hưởng, những nghĩa vụ mà
công dân phải thực hiện đối với Nhà nước của mình và ngược lại, Nhà nước
cũng có trách nhiệm đảm bảo cho các quyền của công dân được thực hiện,
đồng thời yêu cầu công dân thực hiện nghĩa vụ đối với mình.
So với khái niệm cá nhân thì khái niệm công dân hẹp hơn, bởi cá
nhân bao gồm cả những người là công dân và những người không phải là
công dân. Và trong một quốc gia thì không chỉ có công dân của quốc gia đó
mà còn có thể có công dân nước ngoài hoặc người không quốc tịch, thậm chí
có người mang nhiều quốc tịch. Hay nói cách khác không phải mọi cá nhân
sinh sống trên lãnh thổ của một quốc gia đều được coi là công dân của quốc
gia đó. Một cá nhân muốn trở thành công dân thì cần những điều kiện nhất
định. Những điều kiện đó có thể giống hoặc khác nhau tùy thuộc vào pháp
luật của từng quốc gia nhất định. Điều 49 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam quy định:” Công dân nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là người có quốc tịch Việt nam”. Như vậy, thì theo quy định này thì
điều kiện để một người trở thành công dân Việt Nam là người đó phải có quốc
tịch Việt Nam. Hay nói cách khác ai có quốc tịch Việt Nam thì người đó là
công dân Việt Nam. Quốc tịch là trạnh thái pháp lý xác định một cá nhân
thuộc về một Nhà nước nhất định và là tiền đề pháp lý cần thiết để một cá
nhân có thể hưởng các quyền và thực hiện các nghĩa vụ mà pháp luật của Nhà
nước đó quy định. Theo quy định tại Điều 1 Luật Quốc tịch 2008 thì: “Quốc
tịch Việt Nam thể hiện mối quan hệ gắn bó của cá nhân với Nhà nước Cộng


10

hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của công dân
Việt Nam đối với Nhà nước và quyền, trách nhiệm của Nhà nước Cộng hoà

xã hội chủ nghĩa Việt Nam đối với công dân Việt Nam”
Qua đó có thể thấy khái niệm công dân gắn liền với khái niệm
quốc tịch; muốn xác định người nào đó có phải là công dân Việt Nam hay
không thì phải xem họ có quốc tịch Việt Nam hay không. Quốc tịch Việt Nam
là căn cứ duy nhất để xác định một người nào đó là công dân Việt Nam. Theo
quy định của Luật Quốc tịch 2008 thì những trường hợp được hưởng quốc
tịch Việt Nam đó là: Được nhập quốc tịch Việt Nam; được trở lại quốc tịch
Việt Nam; trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là công dân Việt Nam, quốc tịch của
trẻ em khi sinh ra có cha mẹ là người không quốc tịch nhưng thường xuyên cư
trú ở Việt Nam, trẻ sơ sinh bị bỏ rơi, trẻ em tìm thấy trên lãnh thổ Việt Nam..
Các trường hợp khác được quy định tại Điều 35 và Điều 37 Luật Quốc tịch.
Có thể nói, việc đặt ra khái niệm công dân có một ý nghĩa rất quan
trọng. Điều này thể hiện, nếu là công dân của một Nhà nước thì người đó
được hưởng đầy đủ các quyền và phải thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ mà Nhà
nước đó quy định. Còn những người không phải là công dân của nước sở tại
thì quyền và nghĩa vụ của họ bị hạn chế trong một số lĩnh vực như: họ không
có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội; không có quyền bầu cử; ứng
cử; họ cũng không phải thực hiện nghĩa vụ quân sự và tham gia xây dựng
quốc phòng toàn dân,… Mặt khác, khái niệm công dân thể hiện mối quan hệ
pháp lý có tính chất đặc biệt, tồn tại trong cả trường hợp công dân Việt Nam
đã ra nước ngoài sinh sống nhưng vẫn còn mang quốc tịch Việt Nam. Việc
sinh sống ở trong hay ngoài nước sẽ không ảnh hưởng đến tư cách công dân
khi họ vẫn mang quốc tịch Việt Nam.
Tóm lại việc xác định một người có quốc tịch Việt Nam liên quan
trực tiếp đến việc xác định quyền và nghĩa vụ của họ trong mối quan hệ với
Nhà nước Việt Nam.


11


2.2. Khái niệm quyền cơ bản của công dân
Mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân chủ yếu được thể hiện
thông qua quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân. Tổng thể các quy
phạm pháp luật quy định về quyền và nghĩa vụ của công dân tạo nên quy chế
pháp lý công dân. Quy chế pháp lý của công dân bao gồm nhiều chế định
khác nhau: như vấn đề quốc tịch, năng lực pháp luật và nămg lực hành vi của
công dân, các nguyên tắc pháp lý của quy chế pháp lý của công dân, các
quyền tự do và nghĩa vụ pháp lí của công dân, các biện pháp bảo đảm để
quyền, nghĩa vụ công dân được thể hiện trong thực tế… Mỗi chế định điều
chỉnh một mặt trong địa vị pháp lý của công dân. Địa vị pháp lý của công dân
mỗi nước khác nhau là khác nhau vì chúng bị chi phối bởi điều kiện kinh tếxã hội của Nhà nước đó. Điều này liên quan đến các biện pháp bảo đảm thực
hiện quyền và nghĩa vụ của công dân giữa các nước có điều kiện kinh tế phát
triển với các nước có nền kinh tế chậm phát triển.
Tư cách công dân đã tạo cho công dân một địa vị pháp lý đặc biệt,
một quan hệ đặc biệt với một Nhà nước nhất định, khác với những người
không phải là công dân, mối quan hệ đặc biệt đó được thể hiện thành quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đối với nước ta vấn đề quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân luôn được ghi nhận thành một chương của Hiến pháp.
Ngay từ Hiến pháp 1946- bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa đã dành chương II để quy định về “ nghĩa vụ và quyền lợi công
dân”. Những quyền được quy định trong Hiến pháp được gọi là quyền cơ bản
và những người có tư cách công dân được Nhà nước quy định cho hưởng
những quyền nhất định đó gọi là quyền cơ bản của công dân. Như vậy có thể
hiểu quyền cơ bản của công dân là khả năng của mỗi công dân được tự do lựa
chọn những hành vi được quy định trong Hiến Pháp và được Nhà nước bảo
đảm thực hiện.
Từ đó có thể đưa ra định nghĩa: Các quyền cơ bản của công dân là
hệ thống các quyền của công dân được quy định trong Hiến pháp, xuất phát từ



12

quyền công dân và không tách rời nghĩa vụ công dân, biểu hiện mối quan hệ
đặc biệt quan trọng giữa công dân và Nhà nước, được Nhà nước bảo đảm trên
thực tế nhằm thỏa mãn những nhu cầu của đời sống công dân và toàn xã hội.
Các quyền cơ bản của công dân được ghi nhận trong Hiến pháp
gọi là các quyền cơ bản trước hết vì nó xác định mối quan hệ cơ bản nhất giữa
Nhà nước và công dân. Mặt khác, những quyền này lại được quy định trong
đạo luật của Nhà nước. Do vậy, các quyền cơ bản của công dân là cơ sở chủ
yếu, có ý nghĩa quyết định để xác định địa vị pháp lý của công dân, xác định
các quyền cụ thể khác của công dân ở mọi cấp độ và trong mọi ngành luật.
Các quyền này xuất phát từ quyền con người (nhân quyền), nên việc ghi nhận
chúng trong văn bản pháp luật có hiệu lực pháp lý cao nhất của Nhà nước là
nhằm bảo vệ và không xâm phạm chúng trong quá trình thực hiện quyền lực
Nhà nước.
Trên thực tế, mỗi công dân chỉ có thể tham gia vào một lĩnh vực
sinh hoạt nhất định, đảm nhiệm một chức năng xã hội nhất định tùy thuộc vào
hoàn cảnh, điều kiện, khả năng riêng của mỗi người. Do đó, các quyền cơ bản
của công dân được quy định trong Hiến pháp phải được cụ thể hóa, chi tiết
hóa trong các luật khác. Trong thời kì nhất định, tùy theo mức độ hoàn thiện
của quan hệ sản xuất, trình độ phát triển lực lượng sản xuất trong xã hội, Nhà
nước quy định về quyền cơ bản của công dân và các biện pháp bảo đảm trên
thực tế. Trên cơ sở đó tạo điều kiện cho mỗi công dân được làm chủ xã hội,
làm chủ bản thân, sử dụng đúng đắn các quyền công dân của mình, tích cực
tham gia các sinh hoạt xã hội, đóng góp vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2.3. Khái niệm quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và
tự do cá nhân
Trong hệ thống các quyền cơ bản của công dân mà Hiến pháp ghi
nhận thì các quyền về tự do dân chủ và tự do cá nhân của công dân chiếm số

lượng lớn vì chúng liên quan trực tiếp đến cuộc sống và tự do của mỗi người.


13

Đồng thời, nó phản ánh bản chất của Nhà nước, trình độ dân chủ của xã hội,
mức độ giải phóng cá nhân con người. Ngày nay, trong bất kì quốc gia tiến bộ
nào trên thế giới có Hiến pháp thành văn cũng đều quy định trong Hiến pháp
các quyền tự do, dân chủ của công dân. Đây là một bước tiến bộ lớn trong
mối quan hệ Nhà nước – công dân trong lịch sử nhân loại và cũng là tư tưởng,
nội dung cơ bản của chủ nghĩa lập hiến.
Như phần trên đã phân tích các quyền cơ bản của công dân là
những quyền được nhà nước ghi nhận trong Hiến pháp. Những quyền này
thường được xuất phát từ quyền con người, quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc, không ai có thể xâm phạm. Quyền cơ bản của công dân
là cơ sở chủ yếu để xách định địa vị pháp lí của công dân, là cơ sở cho việc
quy định các quyền cụ thể khác của công dân. Mỗi quyền cơ bản của công
dân là một khả năng mà luật cơ bản của nhà nước trao cho công dân được
hưởng gì, được làm gì, được yêu cầu gì từ phía nhà nước và xã hội phù hợp
với pháp luật và khả năng, điều kiện thực tế của đất nước để thỏa mãn những
nhu cầu, lợi ích chính đáng của mình.
Các quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân
thể hiện đậm nét bản chất dân chủ của Nhà nước. Bởi lẽ những quyền này có
mối liên hệ mật thiết với cá nhân từng công dân, cho phép họ được sống trong
tự do, dân chủ, không bị ngăn cấm hoặc lệ thuộc vào người khác. Dưới góc độ
pháp lí, quyền tự do dân chủ của công dân được hiểu là những quyền mà công
dân có được do chế độ dân chủ mang lại, ví dụ: quyền tự do ngôn luận, tự do
báo chí, quyền được thông tin, quyền được tự do hội họp, tự do lập hội…còn
quyền tự do cá nhân được hiểu là những quyền của bản thân mỗi người,
không thể chuyển giao cho người khác, được tự quyết định cuộc sống của

mình, ví dụ: quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền bất khả xâm phạm
về chỗ ở, quyền tự do đi lại và cư trú…Tuy nhiên, sự phân biệt này không
phải là tuyệt đối. Các quyền này đều ghi nhận các vấn đề liên quan đến tự do
của mỗi công dân, có quan hệ gắn bó với nhau, do đó việc phân biệt một cách


14

rạch ròi đâu là quyền về tự do dân chủ, đâu là quyền về tự do cá nhân không
phải là vấn đề đơn giản và còn nhiều quan điểm trái ngược nhau. Do vậy, khi
phân loại các quyền cơ bản của công dân người ta gộp chung “ quyền tụ do
dân chủ” và “ tự do cá nhân” thành một nhóm quyền trong Hiến pháp. Các
quyền cơ bản của công dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân có liên quan
mật thiết với các quyền khác về kinhh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, thể hiện
địa vị của công dân được tự do trong những lĩnh vực thiết yếu của cuộc sống
để phát triển về mọi mặt.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu các quyền cơ bản của công
dân về tự do dân chủ và tự do cá nhân là cá quyền của công dân được quy
định trong Hiến pháp, cho phép công dân được tự do đi lại và cư trú; tự do
ngôn luận; tự do báo chí; được thông tin, được hội họp, lập hội và biểu tình
theo quy định của pháp luật; được tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc
không theo một tôn giáo nào; được bất khả xâm phạm về thân thể, và được
suy đoán vô tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp
luật; quyền được bất khả xâm phạm về chỗ ở; được Nhà nước đảm bảo an
toàn, bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín. Những quyền này được Hiến pháp
quy định cho mọi công dân có thể thực hiện.
II. Các quan điểm về quyền con người và quyền công dân
1. Các quan điểm chung về quyền con người và quyền công
dân
Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về quyền con người. Có

những ý kiến trái ngược về lịch sử phát triển của quyền con người. Một học
giả cho rằng : “… các quyền con người không có lịch sử… vì lịch sử, nếu có,
thì hình như rất hỗn độn. Nó pha lẫn những lặp lại, những xen kẽ, những
tương phản và những đứt đoạn giữa những bước tiến triển và những bước
thụt lùi(1)”. Nhưng trên quan điểm duy vật lịch sử, có thể khẳng định rằng,
cũng như bất kỳ sự vật, hiện tượng nào, quyền con người không phải là một
(1) www.http: //chungta.com


15

cái gì siêu lịch sử, siêu giai cấp và siêu xã hội. “Quyền con người là sản phẩm
phát triển văn hoá xã hội của một kết cấu kinh tế xã hội nhất định và chịu sự
quy định của cơ sở kinh tế, xã hội hiện thực”(1). Theo một số học giả, những
tư tưởng về quyền con người xuất hiện từ thời tiền sử, thể hiện trong các luật
lệ của chiến tranh, mà: “Luật lệ của chiến tranh thì lâu đời như bản thân
chiến tranh và chiến tranh thì lâu đời như cuộc sống trên trái đất”(2). Tuy
nhiên, ở trình độ phát triển của thời tiền sử, có lẽ con người mới chỉ có những
ý niệm, chứ chưa thể có những tư tưởng (với ý nghĩa là những quan điểm
hoặc hệ thống quan điểm rõ ràng về một sự vật, hiện tượng nhất định), về
quyền con người. Bởi vậy, quan điểm phù hợp hơn đó là, tư tưởng quyền con
người được khởi thuỷ từ khi trái đất xuất hiện những nền văn minh cổ đại, mà
trong đó có là nền văn minh rực rỡ ở Trung Đông (khoảng năm 3.000-1.500
trước CN). Chính trong nền văn minh Lưỡng Hà này, nhà vua Hammurabi xứ
Babylon đã ban hành một đạo luật có tên là Bộ luật Hammurabi khoảng năm
1780 TCN) với câu tuyên bố nổi tiếng ( đã đề cập ở trên), theo đó, mục đích
của đức vua khi thiết lập ra đạo luật này là để : “… ngăn ngừa những kẻ mạnh
áp bức kẻ yếu”, …làm cho người cô quả có nơi nương tựa ở thành Babylon,…
đem lại hạnh phúc chân chính và đặt "nền thống trị nhân từ “cho mọi thần dân
trên vương quốc.

Cho đến thời điểm hiện nay, xét từ các góc độ tính toàn vẹn,
nguyên bản, nội dung và niên đại, Bộ luật Hammurabi có thể coi là văn bản
pháp luật thành văn đầu tiên của nhân loại nói đến quyền con người (mặc dù
quan điểm này không phải được tất cả các học giả ủng hộ) . Ngoài Bộ luật
Hammurabi, vấn đề quyền con người còn sớm được đề cập trong nhiều văn
bản pháp luật cổ khác của thế giới, trong đó tiêu biểu như Bộ luật của vua
Cyrus Đại đế ban hành vào khoảng các năm 576 -529 TCN; Bộ luật do nhà
(1) www.http: //chungta.com
(2) www.http: //chungta.com


16

vua Ashoka (Ashoka’s Edicts) ban hành vào khoảng các năm 272-231 ; Hiến
pháp Medina (The Constitution of Medina) do nhà tiên tri Muhammad sáng
lập vào năm 622; Đại Hiến chương Magna Carta (1215); Tuyên ngôn về các
quyền của con người và của công dân(1789) của nước Pháp; Tuyên ngôn độc
lập (1776) của nước Mỹ. Trong vấn đề này, mặc dù ít được nhắc tới trong các
công trình nghiên cứu ở tầm quốc tế, song xét về mặt nội dung, bộ luật Hồng
Đức (Quốc triều Hình Luật (1470-1497) thời Hậu Lê của Việt Nam cũng
xứng đáng được xếp vào danh sách những bộ luật cổ tiêu biểu của thế giới về
quyền con người, bởi lẽ, nó đã chứa đựng nhiều quy định có tính nhân văn sâu
sắc, trong đó bao gồm cả các quy định cụ thể về quyền của phụ nữ, trẻ em,
v.v.. mà được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước đánh giá rất cao.
Tuy nhiên, trong lịch sử phát triển của nhân loại, các tư tưởng về
quyền con người không chỉ được thể hiện trong các đạo luật, mà còn được
phản ánh (một cách sâu sắc và cụ thể hơn) trong các tư tưởng, học thuyết tôn
giáo, chính trị và pháp lý. Trước hết, xét về các học thuyết tôn giáo, tư tưởng
về quyền con người từ lâu đã được thấm nhuần trong giáo lý của hầu hết các
tôn giáo trên thế giới. Trên thực tế, trong số những tài liệu được cho là cổ xưa

và toàn diện nhất xét về tư tưởng quyền con người mà nhân loại còn giữ lại
được cho đến ngày nay; ngoài đạo luật Hammurabi và bộ Văn tuyển Nho giáo
(Luận ngữ) , các tài liệu còn lại đều là những kinh điển của tôn giáo , bao
gồm: Kinh Vệ Đà của đạo Hinđu ở Ấn Độ, Kinh Phật của đạo Phật; Kinh
Thánh của đạo Thiên chúa và Kinh Kôran của đạo Hồi.
Những tư tưởng triết học về quyền con người ở Châu Âu thời kỳ
Phục Hưng đã có ảnh hưởng quan trọng đến sự ra đời của những văn bản
pháp luật về quyền con người ở một số nước của châu lục này, cũng như đến
hai cuộc cách mạng nổi tiếng thế giới nổ ra vào cuối những năm 1700 ở Mỹ
và Pháp. Hai cuộc cách mạng này đã có những đóng góp rất to lớn vào sự
phát triển của tư tưởng và quá trình lập pháp về quyền con người không chỉ ở
hai nước Mỹ và Pháp mà còn trên toàn thế giới. Trong cuộc cách mạng thứ


17

nhất, năm 1776, mười ba thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tuyên bố độc lập với đế chế
Anh thông qua một văn bản có tên là Tuyên ngôn độc lập , trong đó khẳng
định rằng : “… mọi người sinh ra đều bình đẳng. Tạo hoá cho họ những
quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền đó có quyền được
sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc “. Mặc dù không phải văn
kiện pháp lý đầu tiên trên thế giới đề cập đến vấn đề này. Tuy nhiên, Tuyên
ngôn Độc lập 1776 của nước Mỹ có thể coi là sự xác nhận chính thức đầu
tiên trên phương diện nhà nước về quyền con người. Đánh giá về văn kiện
này, Các Mác đã cho rằng, nước Mỹ là nơi lần đầu tiên xuất hiện ý tưởng về
nền cộng hoà dân chủ vĩ đại, nơi đã tuyên bố bản tuyên ngôn đầu tiên về
quyền con người.
Trong cuộc cách mạng thứ hai, vào năm 1789, nhân dân Pháp, mà
chủ yếu là thợ thuyền, trí thức và một số thị dân, đã đứng lên lật đổ chế độ
phong kiến, thành lập nền cộng hòa đầu tiên, đồng thời công bố bản Tuyên

ngôn về nhân quyền và dân quyền nổi tiếng của Pháp. Điều 1 bản Tuyên ngôn
này khẳng định : “ Người ta sinh ra và sống tự do và bình đẳng về các quyền
…”. Đặc biệt, không dừng lại ở những nguyên tắc, ý tưởng như Tuyên ngôn
Độc lập 1776 của nước Mỹ, Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền 1789 đã
xác định một loạt các quyền cơ bản của con người như quyền tự do và bình
đẳng, quyền sở hữu, được bảo đảm an ninh và chống áp bức , quyền bình
đẳng trước pháp luật, quyền không bị bắt giữ trái phép, quyền được coi là vô
tội cho đến khi bị tuyên bố phạm tội, quyền tự do tư tưởng, tự do tín ngưỡng,
quyền tự do ngôn luận, quyền tham gia ý kiến vào công việc nhà nước…,
đồng thời đề cập đến những biện pháp cụ thể nhằm bảo đảm thực hiện các
quyền này . Nhưng đáng chú ý hơn là, chỉ trong vòng 35 năm ( từ 1795 đến
1830), hơn 70 bản Hiến pháp mang dấu ấn của những luận điểm trong bản
Tuyên ngôn về nhân quyền và dân quyền 1789 đã được thông qua ở Châu Âu.
Điều đó chứng tỏ những tư tưởng về quyền con người đã thẩm thấu một cách
nhanh chóng và gây ra những biến động xã hội rất to lớn ở châu lục này. Nó


18

cũng chứng tỏ rằng, giai cấp tư sản đã nhận thấy, nắm lấy và tận dụng triệt để
quyền con người như là một phương tiện hữu hiệu trong cuộc đấu tranh giành
quyền lực với giai cấp phong kiến.
Tuy nhiên, quyền con người chỉ thực sự nổi lên như một vấn đề ở
tầm quốc tế từ những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với cuộc đấu tranh nhằm
xoá bỏ chế độ nô lệ và buôn bán nô lệ diễn ra rất mạnh mẽ và liên tục tới tận
cuối thế kỷ đó và phong trào đấu tranh đòi cải thiện điều kiện sống cho người
lao động và bảo vệ nạn nhân trong các cuộc xung đột vũ trang thế giới. Vào
năm 1864, Hội nghị ngoại giao quốc tế đầu tiên họp ở Giơnevơ (Thuỵ Sĩ) đã
thông qua Công ước về cải thiện điều kiện của người bị thương trong các cuộc
chiến trên bộ ( Công ước Giơnevơ thứ I). Năm 1899, Hội nghị hoà bình quốc

tế họp ở La hay (Hà Lan) đã thông qua Công ước về các luật lệ và tập quán
trong chiến tranh. Đây là những văn kiện đầu tiên của luật nhân đạo quốc tế ngành luật mà tuy chỉ giới hạn trong việc bảo vệ những nạn nhân chiến tranh
trong hoàn cảnh xung đột vũ trang, nhưng chứa đựng những giá trị và quy
phạm có quan hệ chặt chẽ với luật quốc tế về quyền con người ở giao đoạn
sau này.
Vào những năm đầu của thế kỷ XIX, cùng với việc thành lập Hội
quốc liên và Tổ chức Lao động quốc tế, quyền con người càng trở thành một
vấn đề có tầm quốc tế rộng lớn. Cả hai tổ chức này đã nâng nhận thức và các
hoạt động về quyền con người lên một mức độ mới. Tổ chức Lao động quốc
tế, trong Điều lệ của mình, đã khẳng định, hoà bình trên thế giới chỉ có thể
được thực hiện nếu được dựa trên cơ sở bảo đảm công bằng xã hội cho tất cả
mọi người. Trong thoả ước của Hội quốc liên, các nước thành viên tuyên bố
chấp nhận nghĩa vụ bảo đảm, duy trì sự công bằng và các điều kiện nhân đạo
về lao động cho đàn ông, phụ nữ và trẻ em cũng như bảo đảm sự đối xử xứng
đáng với những người bản xứ tại các thuộc địa của họ. Cũng trong thời kỳ
này, một loạt văn kiện khác của luật nhân đạo quốc tế đã được thông qua
trong hội nghị La Hay, tại các Hội nghị của Hội Chữ Thập đỏ quốc tế (ICRC)


19

và Hội Quốc liên, bổ sung những bảo đảm rộng rãi hơn với các quyền con
người trong hoàn cảnh chiến tranh và xung đột vũ trang. Cũng trong thời kỳ
này, cuộc Cách mạng vô sản đầu tiên trên thế giới nổ ra ở nước Nga vào tháng
10 năm 1917, mở ra một chương mới trong lịch sử chính trị quốc tế, đồng thời
tạo ra những biến chuyển quan trọng trong tư tưởng và thực tiễn về quyền con
người. Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của hệ thống các nước xã hội chủ
nghĩa trong những thập kỷ 1940 đến 1980 của thế kỷ trước, các quyền kinh tế,
xã hội, văn hoá được đề cao, và đặc biệt, các quyền độc lập và tự quyết của
các dân tộc được cổ vũ. Đây là những quyền con người mà trước đó đã không

hoặc rất ít được đề cập trên các diễn đàn quốc tế.
Sau chiến tranh thế giới thứ II, việc Liên hợp quốc ra đời, thông
qua Hiến chương (24/10/1945), Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người
( 10/12/1948) và hai công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị và kinh
tế, xã hội, văn hoá ( năm 1966) đã chính thức khai sinh ra ngành luật quốc tế
về quyền con người, đặt nền móng cho việc tạo dựng một nền văn hoá quyền
con người- nền văn hoá mới và chung của mọi dân tộc- trên trái đất. Mặc dù
ngay sau khi Liên Hợp quốc được thành lập cho đến cuối thập kỷ 1970, cuộc
Chiến tranh Lạnh trên thế giới phần nào ảnh hưởng đến những nỗ lực quốc tế
trên lĩnh vực này, song cho đến ngày nay, một hệ thống hàng trăm văn kiện
quốc tế về quyền con người đã được thông qua , một cơ chế quốc tế về bảo vệ
và thúc đẩy quyền con người đã được hình thành, biến quyền con người thành
một trong các yếu tố chính trị chi phối các quan hệ quốc tế.
Hội nghị thế giới về quyền con người năm 1993 đánh dấu một
bước ngoặt trong những nỗ lực thúc đẩy các quyền con người trên thế giới sau
những trì trệ ở thời kỳ “ Chiến tranh Lạnh”. Hội nghị đã khẳng định mối liên
hệ không thể tách rời giữa dân chủ, phát triển và quyền con người cũng như
giữa các quyền con người về dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội, văn hoá. Hội
nghị đã thiết lập “một khuôn khổ mới cho việc đối thoại, hợp tác và phối hợp
của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực quyền con người” mà cho phép thúc đẩy


20

một cách thực sự hiệu quả các quyền con người ở tất cả các cấp độ địa
phương, quốc gia khu vực và quốc tế. Tại hội nghị này, các đại biểu đã nhất
trí thông qua Tuyên bố Viên kèm theo Chương trình hành động chung về
quyền con người, với các mục tiêu rất cụ thể, trong đó đưa ra những biện pháp
mới mang tính lịch sử để thúc đẩy và bảo vệ các quyền của phụ nữ, trẻ em,
người bản địa và để tăng cường năng lực của hệ thống Liên hợp quốc trong

việc giám sát sự tuân thủ các chuẩn mực quốc tế về quyền con người trên thế
giới…
Cùng với Hội nghị Viên, những phát triển gần đây trên lĩnh vực
quyền con người bao gồm việc thành lập các toà án hình sự quốc tế lâm thời
và thường trực để xét xử các tội ác chiến tranh, tội ác chống nhân loại, tội diệt
chủng và tội xâm lược và việc thành lập Hội Đồng Liên Hợp quốc về quyền
con người (năm 2006, thay thế cho Uỷ ban của Liên hợp quốc về quyền con
người trước đó) đã làm cho cuộc đấu tranh vì quyền con người thực sự phát
triển trên phạm vi toàn cầu với một cơ sở pháp lý vững chắc, được mở rộng
không ngừng cả về nội dụng và mức độ bảo đảm. Song song và làm nền tảng
cho tiến trình phát triển đó, dòng tư tưởng, lý thuyết về quyền con người cũng
ngày càng được củng cố và phát triển, đi sâu làm rõ những khía cạnh thực tiễn
của quyền con người, biến quyền con người trở thành một trong những khái
niệm được đề cập, chấp nhận và cổ vũ một cách rộng khắp, thường xuyên và
nồng nhiệt nhất trong đời sống hiện nay của nhân loại.
2. Quan điểm của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh về quyền con
người và quyền công dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh, người sáng lập ra nước Việt Nam mới, lúc
sinh thời luôn có một ước vọng: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột
bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn
tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Ý
nguyện đó của Người phản ánh khát vọng của nhân dân Việt Nam, thực hiện
những giá trị thiết yếu về quyền con người, là mục đích, tôn chỉ hoạt động


21

xuyên suốt của Nhà nước Việt Nam. Dân tộc Việt Nam, không phân biệt già
trẻ, gái trai, sắc tộc, tôn giáo đã đoàn kết một lòng, vượt qua mọi thử thách,
gian khổ, hy sinh để giành và giữ các quyền cơ bản đó.

Vấn đề con người cũng được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan
tâm. Trong suốt chiều dài lịch sử, loài người luôn đấu tranh nhằm giải phóng
con người, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong thời
gian dài dân tộc Việt Nam bị nước ngoài đô hộ, phải gánh chịu những hy sinh
to lớn để giành độc lập dân tộc và tự do của Tổ quốc. Bằng cuộc đấu tranh
bất khuất, kiên cường qua nhiều thế kỷ, dân tộc Việt Nam đã khẳng định rằng,
quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong độc
lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của mình. Đây cũng chính là
nguyên tắc có tính nền tảng về quyền tự quyết dân tộc đã được khẳng định
trong Hiến chương Liên hiệp quốc và tại Điều 1 của cả 2 Công ước quốc tế cơ
bản nhất của Liên hợp quốc về quyền con người: Công ước quốc tế về các
quyền Kinh tế, Xã hội, Văn hoá và Công ước quốc tế về các quyền Dân sự,
Chính trị.
Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu, vừa
là động lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Nhà nước Việt Nam khẳng định
con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ
quyền con người là nhân tố quan trọng cho phát triển bền vững, bảo đảm
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mọi chủ
trương, đường lối, chính sách của Việt Nam đều nhằm phấn đấu cho mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, tất cả vì con
người và cho con người. “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển,
đồng thời là chủ thể phát triển. Tôn trọng và bảo vệ quyền con người, gắn
quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và quyền làm chủ
của nhân dân. Kết hợp và phát huy đầy đủ vai trò của xã hội, gia đình, nhà
trường, từng tập thể lao động, các đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc
chăm lo xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ,


22


trách nhiệm công dân; có tri thức, sức khoẻ, lao động giỏi; sống có văn hoá,
nghĩa tình; có tinh thần quốc tế chân chính. Xây dựng gia đình no ấm, tiến
bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan
trọng, trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách. Đơn vị sản xuất,
công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn luyện phong cách làm
việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao, bồi đắp tình bạn,
tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền văn hoá Việt
Nam”. (Trích Văn kiện Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ XI).
Từng là nạn nhân của nhiều cuộc chiến tranh xâm lược, sự vi
phạm lớn nhất quyền con người, hơn ai hết Việt Nam hiểu rõ rằng quyền con
người vừa mang tính phổ biến, thể hiện khát vọng chung của nhân loại, được
ghi trong Hiến chương của Liên Hợp Quốc, vừa có tính đặc thù đối với từng
xã hội và cộng đồng. Chính phủ Việt Nam cho rằng, trong một thế giới ngày
càng đa dạng, khi tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người cần kết hợp hài
hòa các chuẩn mực, nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều
kiện đặc thù về lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội, các giá trị văn hoá, tôn giáo,
tín ngưỡng, phong tục tập quán của mỗi quốc gia và khu vực. Không một
nước nào có quyền áp đặt mô hình chính trị, kinh tế, văn hoá của mình cho
một quốc gia khác. Việt Nam cho rằng, cần tiếp cận một cách toàn diện tất cả
các quyền con người về dân sự, chính trị, kinh tế, xã hội, văn hoá trong một
tổng thể hài hoà, không được xem nhẹ bất cứ quyền nào. Đồng thời, các
quyền và tự do của mỗi cá nhân chỉ có thể được bảo đảm và phát huy trên cơ
sở tôn trọng quyền và lợi ích chung của dân tộc và cộng đồng; quyền lợi phải
đi đôi với nghĩa vụ đối với xã hội. Việc chỉ ưu tiên hoặc tuyệt đối hóa các
quyền dân sự, chính trị và một số quyền tự do cá nhân, không quan tâm thích
đáng đến quyền phát triển, các quyền kinh tế, xã hội và văn hoá của cả cộng
đồng là cách đề cập phiến diện, không phản ánh đầy đủ bức tranh toàn cảnh
về quyền con người .



23

Chính phủ Việt Nam cho rằng, việc bảo đảm và thúc đẩy quyền
con người trước hết là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia. Các quốc
gia có trách nhiệm xây dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với các
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, đặc biệt là Hiến chương Liên hợp
quốc có tính đến hoàn cảnh cña mỗi nước để bảo đảm cho người dân được thụ
hưởng quyền con người một cách tốt nhất. Do khác biệt về hoàn cảnh lịch sử,
chế độ chính trị, trình độ phát triển, giá trị truyền thống văn hóa… nên cách
tiếp cận về quyền con người của mỗi quốc gia có thể khác nhau. Việc hợp tác
và đối thoại giữa các quốc gia để thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là một
yêu cầu cần thiết và khách quan. Việt Nam ủng hộ việc tăng cường hợp tác
quốc tế trong lĩnh vực quyền con người trên cơ sở đối thoại bình đẳng, xây
dựng, tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, vì mục tiêu chung là thúc đẩy và bảo vệ ngày càng tốt hơn các
quyền con người. Việt Nam cũng cho rằng không nước nào có quyền sử dụng
vấn đề quyền con người làm công cụ can thiệp vào công việc nội bộ các quốc
gia, gây đối đầu, gây sức ép chính trị, thậm chí sử dụng vũ lực hoặc làm điều
kiện trong quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại... với nước khác.
Trong một thế giới tùy thuộc lẫn nhau, các quyền con người chỉ có
thể được tôn trọng và bảo vệ trong một môi trường hòa bình, an ninh, bình
đẳng và phát triển bền vững, trong đó các giá trị nhân bản được tôn trọng và
bảo vệ. Cuộc đấu tranh vì các quyền con người cần tiến hành đồng thời với
các biện pháp ngăn chặn các cuộc chiến tranh, xung đột, khủng bố, nghèo đói,
dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia... đang hàng ngày, hàng giờ đe doạ hòa
bình, an ninh, độc lập và phồn vinh của mọi quốc gia, ngăn cản việc thúc đẩy
và bảo vệ quyền con người trên toàn thế giới.
Các quan điểm nêu trên của Việt Nam hoàn toàn phù hợp với các
nguyên tắc, nội dung cơ bản và xu thế phát triển theo hướng tiến bộ của luật
pháp quốc tế nói chung và trong lĩnh vực quyền con người nói riêng.



24

Xuất phát từ chủ trương không ngừng phát triển quyền con người,
Nhà nước Việt Nam đã và đang xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật để
bảo đảm các quyền con người được tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ
nhất. Mà trong đó quyền công dân là một bộ phận của quyền con người nên
từ khi giành độc lập Nhà nước ta rất chú trọng phát triển quyền công dân
thông qua các bản Hiến pháp. Quyền công dân một khi đã được Hiến pháp và
pháp luật ghi nhận, sẽ trở thành ý chí chung của toàn xã hội, được xã hội tuân
thủ và được pháp luật bảo vệ.
III. Quá trình hình thành và phát triển của quyền con người,
quyền công dân qua các Hiến pháp năm 1946, 1959, 1980, 1992 (sửa đổi
bổ sung năm 2001 )
1. Hiến pháp năm 1946
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc
lập, khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Sau khi chính quyền cách
mạng non trẻ được thành lập một thời gian ngắn, ngày 9/11/1946, bản Hiến
pháp đầu tiên của Nhà nước ta đã được Quốc hội thông qua. Ra đời trong
hoàn cảnh lịch sử có nhiều khó khăn, phức tạp, Hiến pháp năm 1946 thực sự
là một công cụ đặc biệt quan trọng và có hiệu quả nhất để bảo vệ nền độc lập
dân tộc, tạo cơ sở pháp lí cho việc xác định địa vị pháp lý của công dân. Với
Hiến pháp năm 1946, lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, những người dân
nô lệ trước đây thực sự trở thành người chủ của đất nước, được bảo đảm các
quyền tự do, dân chủ trên nhiều phương diện. Với Hiến pháp năm 1946, lần
đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, nhân dân Việt Nam được đảm bảo các quyền
tự do, dân chủ. Điều 10 Hiến pháp năm 1946 quy định:” Công dân Việt Nam
có quyền tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín
ngưỡng, tự so cư trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài”. Lần đầu tiên trong

lịch sử Việt Nam quyền bình đẳng của công dân trước pháp luật được ghi
nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nước. Và cũng là lần đầu tiên trong lịch
sử dân tộc, phụ nữ được ngang quyền với nam giới về mọi phương diện. Với


25

bản Hiến pháp đầu tiên công dân Việt Nam được hưởng quyền bầu cử, ứng
cử, nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mình đã bầu ra khi họ tỏ ra
không xứng đáng với danh hiệu đó. Điều 11 Hiến pháp 1946 quy định:” Tư
pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân
Việt Nam… ”. Quy định này có nghĩa là không phải cơ quan nào cũng được
phép bắt, giam cầm công dân một cách tùy tiện mà chỉ được phép bắt, giam
cầm người công dân khi có quyết định của cơ quan tư pháp. Quy định này của
Hiến pháp 1946 đã tạo cơ sở pháp lí để bảo đảm quyền bất khả xâm phạm về
thân thể của công dân ngăn ngừa sự vi phạm từ cơ quan nhà nước. Hiến pháp
1946 quy định quyền bất khả xâm phạm về nhà ở và thư tín của công dân tại
Điều 11:”…Nhà ở và thư tín của công dân Việt Nam, không ai được xâm
phạm một cách trái pháp luật”. Theo quy định này thì công dân có quyền bất
khả xâm phạm về nhà ở và thư tín. Không ai được tự ý xâm phạm nhà và thư
tín của người khác, trừ trường hợp pháp luật cho phép. Quy định này nhằm
ngăn ngừa sự vi phạm từ phía Nhà nước và các chủ thể khác.
2. Hiến pháp năm 1959 - quyền công dân phát triển thêm một
bước mới
Hiến pháp năm 1959 là bản Hiến pháp thứ hai và là Hiến pháp xã
hội chủ nghĩa đầu tiên của nước ta, đánh dấu sự phát triển quan trọng trong
lịch sử lập hiến nước Việt Nam. Hiến pháp 1959 ra đời trong hoàn cảnh có
nhiều sự kiện quan trọng làm thay đổi tình hình chính trị, kinh tế xã hội của
đất nước. Sau chiến thắng Điện Biên phủ năm 1954 nước ta tạm thời bị chia
cắt làm hai miền, miền Bắc hoàn toàn giải phóng và đi lên chủ nghĩa xã hội,

còn Miền nam vẫn còn nằm dưới ách thống trị của Đế quốc Mỹ và chính
quyền Sài Gòn. Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang giai đoạn mới với
những nhiệm vụ mới.Trước tình hình đó, nhiều quy định của Hiến pháp 1946
đã không còn phù hợp nữa và cần được sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với điều
kiện mới. Chính vì vậy , ngày 31/12/1959, Quốc hội đã nhất trí thông qua


×