Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Đầu tư nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực xây dựng cơ bản của công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (490.46 KB, 95 trang )

Lời nói đầu
Cạnh tranh xuất hiện cùng với nền kinh tế thị trờng và nó nh một tất yếu
khách quan không thể xóa bỏ. Đồng thời, cạnh tranh cũng là một điều kiện thúc
đẩy nền kinh tế thị trờng phát triển. Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết
định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao
hiệu quả sản xuất kinh doanh, ảnh hởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị tr-
ờng. Đối với ngời tiêu dùng, nhờ có cạnh tranh mà họ đợc thoả mãn đợc nhu
cầu về hàng hoá và dịch vụ: chất lợng sản phẩm ngày càng cao với một mức giá
ngày càng phù hợp. Đối với nền kinh tế quốc dân, cạnh tranh là động lực thúc
đẩy sự phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát
huy lực lợng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hoá nền sản
xuất xã hội, đó cũng là điều kiện để xoá bỏ độc quyền bất hợp lý, xoá bỏ bất
bình đẳng trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát và năng động, óc sáng tạo
của các doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm
mới, nâng cao chất lợng đời sống xã hội.
ở nớc ta trong thời kỳ kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, cạnh tranh hầu
nh không tồn tại. Mọi quan hệ kinh tế trong giai đoạn này đều do Nhà nớc chi
phối, độc quyền quyết định, các doanh nghiệp không có môi trờng cạnh tranh
để phát triển mà tồn tại một cách bị động phục thuộc hoàn toàn vào Nhà nớc.
Chính vì vậy, nền kinh tế luôn bị kìm hãm và không thể phát triển.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục xây dựng nền kinh
tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hớng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý
của Nhà nớc và ngời ta bắt đầu đề cập nhiều đến vấn đề cạnh tranh. Thực tế
cho thấy rằng năng lực cạnh tranh của hầu hết hàng hoá của Việt Nam trên
thị trờng trong nớc cũng nh nớc ngoài còn rất yếu kém. Vấn đề càng trở nên
bức xúc khi áp lực cạnh tranh do quá trình tự do hoá thơng mại trong khuôn
khổ AFTA, trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam lại tỏ ra cha sẵn sàng
đối mặt với những thách thức từ cuộc cạnh tranh gay gắt ấy. Nếu tình hình
này vẫn tiếp tục đợc duy trì thì nguy cơ tụt hậu của nền kinh tế Việt Nam sẽ
1
rất nghiêm trọng, nhất là trong bối cảnh xu thế hôi nhập kinh tế khu vực và


trên thế giới đang gia tăng Do vậy, để tồn tại, đứng vững và phát triển,
khẳng định đợc của mình buộc các doanh nghiệp phải tìm giải pháp tốt nhất
để tăng cờng khả năng cạnh tranh của mình trên cả thị trờng trong và ngoài
nớc. Vấn đề là phải làm gì và làm nh thế nào để phát huy đợc lợi thế cạnh
tranh của từng doanh nghiệp và của cả đất nớc, tận dụng có hiệu quả những
cơ hội có đợc, nhất là khi Việt nam đã trở thành thành viên của ASEAN,
APEC và không lâu nữa sẽ gia nhập AFTA, WTO.
Trớc tình hình trên, Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp
(FBS) luôn đặt ra cho mình mục tiêu là phải nâng cao đợc khả năng cạnh tranh
của mình trên thị trờng. Trong những năm gần đây, Công ty đã có quyết định
đúng đắn là phải tiếp tục đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao chất lợng sản
phẩm, hạ giá thành sản phẩm để có thể duy trì và phát triển uy tín của mình trên
thị trờng.
Nhằm vận dụng những kiến thức đã tìm hiểu đợc trong thời gian qua
và góp một vài ý kiến trong qúa trình đầu t nâng cao khả năng cạnh tranh
của Công ty cổ phần tầi chính và phát triển doanh nghiệp (FBS), em đã lựa
chọn đề tài: "Đầu t nâng cao năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực xây
dựng cơ bản của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp
(FBS) . Vấn đề nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề phức tạp nên bài
viết này của em chỉ tập trung nghiên cứu một số chỉ tiêu, thực trạng, các
vấn đề tồn tại, khó khăn và đa ra giải pháp về đầu t nhằm nâng cao khả
năng cạnh tranh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp
(FBS).
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
bài viết gồm 3 chơng:
Chơng I: Lý luận chung về đầu t, doanh nghiệp, cạnh tranh và đầu t nâng
cao khả năng lực cạnh tranh.
2
Chơng II: Thực trạng về đầu t nâng cao khả năng cạnh tranh trong lĩnh
vực xây dựng cơ bản của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp

(FBS).
Chơng III: Một số giải pháp chủ yếu để đầu t nâng cao đợc khả năng
cạnh tranh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh nghiệp (FBS).
Trong quá trình viết, em đã nhận đợc sự giúp đỡ rất nhiệt tình của các cô,
chú trong phòng kinh doanh của Công ty cổ phần tài chính và phát triển doanh
nghiệp (FBS). Đặc biệt là sự hớng dẫn nhiệt tình của TS Nguyễn Hồng Minh.
Em xin chân thành cảm ơn tất cả những sự giúp đỡ quý báu và nhiệt tình
đó .
3
Chơng I
Lý luận chung về đầu t, doanh nghiệp, cạnh tranh và
đầu t nâng cao năng lực cạnh tranh
I. Một số vấn đề chung về đầu t.
1. Khái niệm về đầu t và đầu t phát triển.
Xuất phát từ phạm vi phát huy tác dụng của các kết quả đầu t chúng ta có
thể có những cách hiểu khác nhau về đầu t.
Đầu t theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại
để tiến hành các hoạt động nào đó nhằm thu về các kết quả nhất định trong tơng
lai lớn hơn nguồn lực đã bỏ ra để đạt đợc các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là
tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ.
Những kết quả đó có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn),
tài sản vật chất (nhà máy, đờng xá, các của cải vật chất khác...), tài sản trí tuệ
(trình độ văn hóa, chuyên môn, khoa học kỹ thuật...) và nguồn nhân lực có điều
kiện để làm việc với năng suất cao hơn trong nền sản xuất xã hội.
Trong các kết quả đã đạt đợc nh trên đây, những kết quả là các tài sản vật
chất, tài sản trí tuệ và nguồn nhân lực tăng thêm có vai trò quan trọng trong mọi
lúc, mọi nơi, không chỉ đối với ngời bỏ vốn mà còn đối với cả nền kinh tế.
Theo nghĩa hẹp, đầu t chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn
lực ở hiện tại nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tơng
lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt đợc kết quả đó.

Nh vậy, nếu xem xét trong phạm vi quốc gia thì chỉ có hoạt động sử dụng
các nguồn lực ở hiện tại trực tiếp làm tăng các tài sản vật chất, nguồn nhân lực
và tài sản trí tuệ, hoặc duy trì sự hoạt đông của các tài sản và nguồn nhân lực
sẵn có thuộc phạm trù đầu t theo nghĩa hẹp hay đầu t phát triển. Đối với một
quốc gia, hay một nền kinh tế thì hoạt động đầu t phát triển luôn đóng một vai
trò quyết định trong sự đi lên phát triển hay hng thịnh của chính quốc gia đó.
Có thể hiểu đầu t phát triển là hoạt động sử dụng các nguồn lực tài chính,
4
nguồn lực vật chất, nguồn lực lao động và trí tuệ để xây dựng, sửa chữa nhà
cửa và cấu trúc hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ,
bồi dỡng đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện chi phí thờng xuyên gắn liền với
các hoạt động của các tài sản này nhằm duy trì tiềm lực hoạt động của các cơ
sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế - xã hội, tạo việc làm và
nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội. Với những tác dụng to
lớn trên, chúng ta nhận thấy rằng chỉ có đầu t phát triển mới làm cho nền
kinh tế tăng trởng, phát triển theo mục tiêu ta lựa chọn.
2. Những đặc điểm của hoạt động đầu t phát triển.
Hoạt động đầu t phát triển có các điểm khác biệt với các loại hình đầu t
khác là:
* Đầu t phát triển đòi hỏi một lợng vốn lớn và để nằm khê đọng trong
suốt quá trình thực hiện đầu t. Đây là cái giá phải trả khá lớn cho đầu t phát
triển.
* Thời gian để tiến hành một công cuộc đầu t cho đến khi các thành
quả của nó phát huy tác dụng thờng đòi hỏi nhiều năm tháng với nhiều biến
động xảy ra.
* Thời gian cần hoạt động để có thể thu hồi vốn đã bỏ ra đối với các cơ
sở vật chất kỹ thuật, phục vụ sản xuất kinh doanh thờng đòi hỏi nhiều năm
tháng và do đó không tránh khỏi sự tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của
các yếu tố không ổn định về tự nhiên, xã hội, chính trị, kinh tế...
* Các thành quả của hoạt động đầu t phát triển có giá trị sử dụng lâu dài

trong nhiều năm, có khi hàng trăm năm, thậm chí tồn tại vĩnh viễn. Điều này
nói lên giá trị lơn lao của các thành quả đầu t phát triển
* Vị trí của các công trình xây dựng là cố định, các công trình này sẽ
hoạt động ở ngay nơi mà nó đợc tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa hình
có ảnh hởng lớn đến quá trình thực hiện đầu t cũng nh tác động sau này của kết
quả đầu t.
* Ngoài ra, các yếu tố rủi ro đầu t luôn luôn rình rập. Nếu ngời đầu t,
ngời quản lý không đánh giá đúng hay nhận dạng đủ các nhân tố rủi ro có thể
5
xảy ra và có kế hoạch quản lý phòng ngừa thì rất dễ gây ra sự đổ vỡ cho dự
án.
3. Vai trò của đầu t phát triển.
3.1. Trên giác độ toàn bộ nền kinh tế của đất nớc
3.1.1. Đầu t vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu.
* Về mặt cầu: đầu t là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn trong tổng cầu của
toàn bộ nền kinh tế . Theo số liệu của Ngân hàng Thế giới, đầu t thờng chiếm
khoảng 24 - 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nớc trên thế giới. Đối với
tổng cầu, tác động của đầu t là ngắn hạn. Với tổng cung cha kịp thay đổi, sự
tăng lên của đầu t làm cho tổng cầu tăng, kéo theo mức sản lợng cân bằng tăng
và giá cả của các đầu vào của đầu t tăng.
* Về mặt cung: khi thành quả của đầu t phát huy tác dụng, các năng lực
mới đi vào hoạt động thì tổng cung, đặc biệt là tổng cung dài hạn tăng lên, kéo
theo sản lợng tiềm năng tăng và do đó giá cả giảm. Sản lợng tăng, giá cả giảm
cho phép tăng tiêu dùng. Tăng tiêu dùng đến lợt mình lại tiếp tục kích thích sản
xuất hơn nữa. Sản xuất phát triển là nguồn gốc cơ bản để tăng tích luỹ, phát
triển kinh tế xã hội, tăng thu nhập cho ngời lao động, nâng cao đời sống của
mọi thành viên trong xã hội.
3.1.2. Đầu t có tác động hai mặt đến sự ổn định kinh tế .
Sự tác động không đồng thời về mặt thời gian của đầu t đối với tổng cầu
và tổng cung của nền kinh tế làm cho mỗi sự thay đổi của đầu t, dù là tăng hay

giảm đều cùng một lúc vừa là yếu tố duy trì sự ổn định vừa là yếu tố phá vỡ sự
ổn định của nền kinh tế của mọi quốc gia.
Chẳng hạn, khi tăng đầu t, cầu của các yếu tố của đầu t tăng làm cho giá
của hàng hoá có liên quan tăng đến mức một mức độ nào đó dẫn đến tình trạng
lạm phát. Đến lợt mình, lạm phát làm cho sản xuất đình trệ, đời sống của ngời
lao động gặp nhiều khó khăn do tiền lơng ngày càng thấp hơn, thâm hụt ngân
sách, kinh tế phát triển chậm lại. Mặt khác, tăng đầu t làm cho cầu của các yếu
tố có liên quan tăng, sản xuất của các ngành này phát triển, thu hút thêm nhiều
lao động, giảm tình trạng thất nghiệp, nâng cao đời sống của ngời lao động,
6
giảm tệ nạn xã hội. Tất cả các tác động này tạo điều kiện cho sự phát triển kinh
tế.
Khi giảm đầu t cũng dẫn đến tác động hai mặt, nhng theo chiều hớng ng-
ợc lại so với các tác động trên đây. Vì vậy, trong điều hành vĩ mô nền kinh tế,
các nhà hoạt động chính sách cần thấy hết tác động hai mặt này để đa ra các
chính sách nhằm hạn chế các tác động xáu, phát huy tác động tích cực, duy trì
đợc sự ổn định của toàn bộ nền kinh tế.
3.1.3. Đầu t tác động đến tốc độ tăng trởng và phát triển kinh tế:
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế cho thấy: muốn giữ tốc độ tăng
trởng ở mức độ trung bình thì tỷ lệ đầu t phải đạt đợc t 15 - 25% so với GDP tuỳ
thuộc vào ICOR của mỗi nớc.
Vốn đầu t
ICOR =
Mức tăng GDP
Từ đó suy ra:
Vốn đầu t
Mức tăng GDP =
ICOR
Nếu ICOR không đổi, mức tăng GDP hoàn toàn phụ thuộc vào vốn đầu t.
ở các nớc phát triển, ICOR thờng lớn, từ 5 -7 do thừa vốn, thiếu lao động,

vốn đợc sử dụng nhiều để thay thế cho lao động, do sử dụng công nghệ hiện đại
có giá trị cao. Còn ở các nớc chậm phát triển, ICOR thấp từ 2- 3 do thiếu vốn,
thừa lao động nên có thể cần phải sử dụng lao động để thay thế cho vốn, do sử
dụng công nghệ kém hiện đại, giá rẻ
3.1.4. Đầu t và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế:
Kinh nghiệm của các nớc trên thế giới cho thấycon đờng tất yếu có thể
tăng trởng nhanh tốc độ mong muốn (từ 9 -10%) là tăng cờng đầu t nhằm tạo ra
sự phát triển nhanh ở khu vực công nghiệp và dịch vụ. Đối với các ngành nông,
lâm, ng nghiệp do những hạn chế về đất đai và các khả năng sinh học, để đạt đ-
ợc tốc độ tăng trởng từ 5 -6% là rất khó khăn. Nh vậy, chính sách đầu t quyết
7
định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở các quốc gia nhằm đạt đợc tốc độ
tăng trởng nhanh của toàn bộ nền kinh tế.
Về cơ cấu lãnh thổ, đầu t có tác dụng giải quyết những mất cân đối về
phát triển giữa các vùng lãnh thổ, đa những vùng kém phát triển thoát khỏi tình
trạng đói nghèo, phát huy tối đa những lợi thế so sánh về tài nguyên, địa thế,
kinh tế, chính trị,...của những vùng có khả năng phát triển nhanh hơn, làm bàn
đạp thúc đẩy những vùng khác cùng phát triển.
3.1.5. Đầu t với việc tăng cờng khả năng khoa học và công nghệ của
đất nớc:
Công nghệ là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu t là điều kiện tiên quyết
của sự phát triển và tăng cờng khả năng công nghệ của nớc ta hiện nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của
Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Theo UNIDO, nếu
chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm
1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt Nam đang là một trong 90 nớc kém nhất về
công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và
hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn nếu không đề ra đợc một
chiến lợc đầu t phát triển công nghệ nhanh và vững chắc.
Chúng ta đều biết rằng có hai con đờng cơ bản để có công nghệ là tự

nghiên cứu phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nớc ngoài. Dù là tự
nghiên cứu hay nhập từ nớc ngoài cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu t. Mọi
phơng án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu t sẽ là những phơng
án không khả thi.
3.2. Đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ
Đầu t quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của mỗi cơ sở.
Chẳng hạn, để tạo dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho sự ra đời của bất kỳ
cơ sở nào đều cần phải xây dựng nhà xởng, cấu trúc hạ tầng, mua sắm và lắp đặt
thiết bị máy móc trên nền bệ, tiến hành các công tác xây dựng cơ bản và thực
hiện các chi phí khác gắn liền với sự hoạt động trong một chu kỳ của các cơ sở
vật chất - kỹ thuật vừa tạo ra. Các hoạt động này chính là hoạt động đầu t đối
8
với các cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ đang tồn tại: sau một thời gian hoạt
động, các cơ sở vật chất - kỹ thuật của các sơ sở này hao mòn, h hỏng. Để duy
trì đợc sự hoạt động bình thờng cần định kỳ tiến hành sửa chữa lớn hoặc thay
mới các cơ sở vật chất - kỹ thuật đã h hỏng, hao mòn này hoặc đổi mới để thích
ứng với điều kiện hoạt động mới của sự phát triển khoa học - kỹ thuật và nhu
cầu tiêu dùng của nền sản xuất xã hội, phải mua sắm các trang thiết bị mới thay
thế cho các trang thiết bị cũ đã lỗi thời, cũng có nghĩa là phải đầu t.
Đối với các cơ sở vô vị lợi (hoạt động không để thu lợi nhuận cho bản
thân mình) đang tồn tại, để duy trì sự hoạt động, ngoài tiến hành sửa chữa lớn
định kỳ các cơ sở vật chất kỹ thuật còn phải thực hiện các chi phí thờng xuyên.
Tất cả những hoạt động và chi phí này đều là những hoạt động đầu t.
4. Đầu t xây dựng cơ bản.
4.1. Khái niệm:
Hoạt động đầu t nói chung là hoạt động bỏ vốn vào các lĩnh vực kinh tế
xã hội để thu đợc lợi ích dới các hình thức khác nhau.
đầu t xây dựng cơ bản là hoạt động đầu t để tạo ra các tài sản cố định đa
vào hoạt động trong các lĩnh vực kinh tế xã hội nhằm thu đợc lợi ích dới các
hình thức khác nhau.

Xét một cách tổng thể thì không một hoạt động đầu t nào mà không cần
phải có các tài sản cố định. Để có đợc tài sản cố định, chủ đầu t có thể thực hiện
bằng nhiều cách: xây dựng mới, mua sắm, đi thuê
Đầu t xây dựng cơ bản là hoạt động thực hiện đầu t bằng cách tiến hành
xây dựng mới tài sản cố định.
Xây dựng cơ bản là một khâu trong đầu t xây dựng cơ bản. Kết quả của
hoạt động xây dựng cơ bản ( khảo sát, thiết kế, xây dựng lắp đặt ) là tạo ra các
tài sản cố định có một năng lực sản xuất và phục vụ nhất định. Cũng có thể nói
xây dựng là quá trình đổi mới và tái sản xuất có kế hoạch các tài sản cố định
của nền kinh tế quốc dân trong các ngành sản xuất vật chất cũng nh không sản
xuất vật chất. Nó là quá trình xây dựng cơ bản vật chất và kỹ thuật cho chủ
9
nghĩa xã hội. Nó thực hiện phơng thức xây dựng mới, xây dựng lại, khôi phục
và mở rộng các tài sản cố định.
Quá trình xây dựng cơ bản là quá trình hoạt động để chuyển vốn đầu t d-
ới dạng tiền tệ sang tài sản phục vụ cho mục đích đầu t.
4.2. Sự cần thiết phải đầu t xây dựng cơ bản.
Xây dựng là một ngành sản xuất vật chất đặc biệt, tạo ra cơ sở vật chất và
kỹ thuật ban đầu cho xã hội, nó giữ một vai trò hết sức quan trọng trong nền
kinh tế quốc dân vì nhiệm vụ chủ yếu của ngành công nghiệp xây dựng đảm
bảo nâng cao nhanh chóng năng lực sản xuất của các nhành, các khu vực kinh
tế có kế hoạch, đảm bảo mối quan hệ tỷ lệ cân đối giữa các ngành, các khu vực
và phân bố hợp lý sức sản xuất.
Đại hội Đảng lần thứ VII nêu rõ: Trớc mắt ngành công nghiệp xây dựng
phải ra sức phục vụ cho các ngành nông, lâm, ng nghiệp và công nghiệp chế
biến, một số ngành công nghiệp nặng nh: Dầu khí, điện lực, vật liệu xây dựng,
xây dựng cơ sở hạ tầng nh mạng lới giao thông vận tải, mạng lới thông tin liên
lạc . Thực tế cho thấy, tất cả các ngành kinh tế khác chỉ có thể tăng nhanh đ -
ợc nhờ có xây dựng cơ bản, bằng việc xây dựng mới, nâng cấp các công trình về
mặt quy mô, đổi mới kỹ thuật và công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu quả

sản xuất.Từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của ngành và
của nền kinh tế.
Ngành công nghiệp xây dựng là một trong những ngành kinh tế lớn của
nền kinh tế quốc dân, đóng vai trò chủ chốt ở khâu cuối cùng của quá trình sáng
tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật và tài sản cố định trong mọi lĩnh vực hoạt động
của đất nớc và xã hội dới mọi hình thức ( xây dựng mới, cải tạo, mở rộng và
hiện đại hoá tài sản cố định ). Các công trình xây dựng luôn có tính chất kinh
tế, kỹ thuật, văn hoá, nghệ thuật và xã hội tổng hợp. Một công trình mới đợc
xây dựng thờng là kết tinh của những kết quả khoa học, kỹ thuật và nghệ thuật
của nhiều ngành ở thời điểm đang xét và nó lại có tác dụng góp phần mở ra một
giai đoạn phát triển mới của đất nớc.
10
Vì vậy, các công trình xây dựng có tác dụng quan trọng đối với tốc độ
tăng trởng kinh tế, đẩy mạnh phát triển khoa học kỹ thuật, góp phần nâng cao
đời sống cho nhân dân, góp phần phát triển văn hoá và nghệ thuật kiến trúc, có
tác động quan trọng đến môi trờng sinh thái.
4.3. Vai trò của đầu t xây dựng cơ bản:
Để đảm bảo cho nền kinh tế xã hội không ngừng phát triển, điều kiện tr-
ớc tiên và cần thiết là phải đầu t xây dựng cơ bản. Trong một nền kinh tế xã hội,
đối với bất kỳ một phơng thức sản phẩm nào cũng đều phải có cơ sở vật chất, kỹ
thuật tơng ứng. Việc đảm bảo tính tơng ứng đó là nhiệm vụ của hoạt động đầu t
xây dựng cơ bản.
Đầu t xây dựng cơ bản là điều kiện cần thiết để phát triển tất cả các
ngành kinh tế quốc dân và thay đổi tỷ lệ cân đối giữa chúng. Những năm qua, ở
nớc ta do tăng cờng đầu t xây dựng cơ bản mà cơ cấu kinh tế đã có những biến
đổi quan trọng. Cũng với việc phát triển các ngành kinh tế vốn có nh cơ khí chế
tạo, luyện kim, hoá chất, vận tải, nhiều ngành kinh tế mới đã bắt đầu xuất hiện
nh bu điện, hàng không... Nhiều khu công nghiệp, nhiều vùng kinh tế mới đã
và đang đợc hình thành.
Mặt khác, đầu t xây dựng cơ bản là tiền đề cho việc xây dựng cơ sở vật

chất kỹ thuật cho các cơ sở sản xuất và dịch vụ, từ đó nâng cao năng lực sản
xuất cho từng ngành và toàn bộ nền kinh tế quốc dân, tạo điều kiện phát triển
sản xuất xã hội, tăng nhanh giá trị sản xuất.
II. Doanh nghiệp - doanh nghiệp ngành xây dựng.
1. Khái niệm chung về doanh nghiệp.
1.1. Khái niệm:
Nhìn bề ngoài doanh nghiệp đợc biểu hiện nh là một toà nhà, những máy
móc, một tấm biển, nhãn mác sản phẩm tóm lại là tập hợp những yếu tố rời
rạc.
Doanh nghiệp đợc hiểu nh là một đơn vị kinh doanh đợc thành lập để thực
hiện các hoạt động kinh doanh trong đo kinh doanh là việc thực hiện một, một số
11
hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu t từ sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm
hoặc thực hiện dịch vụ trên thị trờng nhằm mục đích sinh lời.
Theo cách tiếp cận vi mô có nhà kinh tế đa ra quan niệm về doanh nghiệp
nh sau: Doanh nghiệp là một hình thức sản xuất theo đó trong cùng một sản
nghiệp ngời ta phối hợp giá của nhiều yếu tố khác nhau do các tác nhân khác
cùng với chủ sở hữu doanh nghiệp đem lại nhằm bán ra trên thị trờng hàng hoá
hay dịch vụ và đạt đợc một khoản thu nhập tiền tệ từ mức chênh lệch giữa hai
giá.
Theo Điều 3 Luật Doanh nghiệp do Quốc hội thông qua ngày 12/6/1999,
Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có trụ sở giao dịch ổn định, đợc
đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các
hoạt động kinh doanh. Theo khái niệm này, trừ loại hình kinh doanh cá thể,
các tổ chức kinh tế đảm bảo các điều kiện về tài sản, tên riêng, trụ sở giao dịch
và có giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đều đợc gọi là doanh nghiệp.
1.2. Phân loại doanh nghiệp:
Tuỳ mục đích khác nhau, căn cứ vào tiêu thức khác nhau để phân loại, sẽ
có các loại hình doanh nghiệp khác nhau, chẳng hạn nh:
Phân loại doanh nghiệp theo chủ sở hữu có:

Doanh nghiệp một chủ sở hữu ;
Doanh nghiệp nhiều chủ sở hữu;
Phân loại doanh nghiệp theo phạm vi pháp lý có:
Doanh nghiệp TNHH;
Doanh nghiệp trách nhiêm vô hạn;
Phân loại doanh nghiệp theo quy mô có:
Doanh nghiệp lớn;
Doanh nghiệp vừa và nhỏ;
Dựa vào chức năng của doanh nghiệp và đặc điểm hình thành giá trị sử
dụng và giá trị mới của sản phẩm hàng hóa của doanh nghiệp để phân loại, có
hai loại doanh nghiệp:
12
Doanh nghiệp sản xuất;
Doanh nghiệp dịch vụ ;
Nhng cách phân loại thờng đợc sử dụng nhiều nhất và có vai trò quan
trọng nhất trong việc nghiên cứu hoạt động của doanh nghiệp là phân loại theo
hình thức sở hữu. Theo đó, doanh nghiệp đợc phân thành các nhóm sau:
Doanh nghiệp Nhà nớc.
Doanh nghiệp t nhân.
Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần.
Hợp tác xã.
Doanh nghiệp có vốn đầu t nớc ngoài.
2. Doanh nghiệp ngành xây dựng.
2.1. Khái niệm.
Doanh nghiệp ngành xây dựng là những doanh nghiệp có chức năng chủ
yếu là tạo ra các sản phẩm xây dựng, các sản phẩm đó có thể là: các loại vật
liệu xây dựng, các công trình xây dựng nh: nhà ở, khách sạn, trụ sở công ty, các
nhà máy xí nghiệp, công trình công cộng, đờng xá, cầu cống đáp ứng nhu cầu
và phát triển hạ tầng cơ sở của nên kinh tế.
Những năm trớc đây, trong thời kỳ bao cấp với nền kinh tế tập trung

mệnh lệnh, dịch vụ xây dựng do các doanh nghiệp của Nhà nớc độc quyền cung
ứng theo kế hoạch của Nhà nớc. Đến nay, mặc dù các doanh nghiệp thuộc sở
hữu Nhà nớc vẫn còn chiếm tỷ lệ cao trong lĩnh vực cung ứng dịch vụ xây dựng,
nhng cũng có khá nhiều doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế t nhân đợc thành
lập. Đặc biệt là có sự tham gia của các nhà cung ứng dịch vụ nớc ngoài.
2.2. Đặc điểm và nội dung hoạt động của doanh nghiệp ngành xây dựng.
* Tình hình và điều kiện sản xuất trong các doanh nghiệp ngành xây
dựng luôn thiếu tính ổn định, luôn biến đổi theo địa điểm xây dựng và giai đoạn
xây dựng. Cụ thể là trong xây dựng, con ngời và công cụ lao động luôn phải di
chuyển từ công trình này đến công trình khác, còn sản phẩm xây dựng (công
13
trình xây dựng) thì hình thành và đứng yên tại chỗ, một đặc điểm hiếm thấy ở
các ngành sản xuất khác.
* Các phơng án xây dựng về kỹ thuật và tổ chức sản xuất luôn phải thay
đổi theo từng địa điểm và giai đoạn xây dựng. Đặc điểm này làm khó khăn cho
việc tổ chức sản xuất, khó cải thiện điều kiện làm việc cho ngời lao động, làm
nảy sinh nhiều chi phí cho khâu di chuyển lực lợng sản xuất và cho công trình
tạm phục vụ sản xuất. Muốn khắc phục những khó khăn đó, các doanh nghiệp
xây dựng phải chú ý tăng cờng tính cơ động, linh hoạt, gọn nhẹ về mặt trang bị
tài sản cố định sản xuất, lựa chọn các hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt, phấn
đấu giảm chi phí có liên quan đến vận chuyển, lựa chọn vùng hoạt động thích
hợp, lợi dụng tối đa lực lợng xây dựng tại chỗ và liên kết tại chỗ để có thể trúng
thầu xây dựng.
Đặc điểm này cũng đòi hỏi phải phát triển rộng khắp trên lãnh thổ các
loại hình dịch vụ sản xuất phục vụ xây dựng nh: dịch vụ cho thuê máy xây
dựng, cung ứng và vận tải, sản xuất vật liệu xây dựng
* Chu kỳ sản xuất (tức thời gian xây dựng các công trình) thờng dài. Đặc
điểm này làm cho vốn đầu t xây dựng công trình và vốn sản xuất của doanh
nghiệp xây dựng thờng bị ứ đọng lâu tại công trình đang còn xây dựng. Yếu tố
bất lợi này đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng lựa chọn phơng án xây dựng có

thời gian xây dựng hợp lý kiểm tra chất lợng chặt chẽ, phải có chế độ thanh toán
giữa kỳ và dự trữ vốn hợp lý.
* Sản xuất xây dựng phải tiến hành theo đơn đặt hàng cho từng trờng hợp
cụ thể thông qua hình thức ký hợp đồng sau khi thắng thầu, vì sản phẩm xây
dựng đa dạng và có tính cá biệt cao, có chi phí lớn. ở nhiều ngành sản xuất
khác, ngời ta có thể sản xuất hàng loạt các sản phẩm để bán, nhng với công
trình xây dựng thì không thể nh vậy (trừ một số trờng hợp rất hiếm khi chủ đầu
t làm sẵn một số nhà ở để bán). Đặc điểm này dẫn đến yêu cầu là phải xác định
giá của sản phẩm xây dựng trớc khi sản phẩm đợc làm ra. Vì thế, hình thức giao
nhận thầu hoặc đấu thầu trong xây dựng cho từng công trình cụ thể đã trở nên
phổ biến trong sản xuất xây dựng. Chính vì lẽ đó, các doanh nghiệp xây dựng
14
phải nâng cao năng lực và tạo uy tín cho mình bằng bề dày kinh nghiệm nghề
nghiệp, đồng thời phải có những giải pháp kinh tế hợp lý mang tính thuyết phục
cao mới hy vọng giành thắng lợi trong các cuộc tranh thầu.
* Quá trình sản xuất xây dựng rất phức tạp, có những thời điểm đòi hỏi
một số đơn vị tham gia xây dựng công trình cùng đến hiện trờng thi công để
thực hiện phần việc của mình, trong khi diện tích của công trình lại có hạn. Do
đó đòi hỏi các doanh nghiệp xây dựng phải có trình độ tổ chức phối hợp cao
trong sản xuất, coi trọng công tác chuẩn bị xây dựng và thiết kế tổ chức thi
công, phối hợp chặt chẽ giữa các tổ chức xây dựng nhận thầu chính hay tổng
thầu với các tổ chức nhận thầu phụ.
* Công việc xây dựng phải tiến hành ngoài trời, công việc thờng bị gián
đoạn do những thay đổi của thaời tiết, điều kiện làm việc nặng nhọc. Năng lực
sản xuất của tổ chức xây dựng không đợc sử dụng điều hoà trong bốn quý, gây
khó khăn cho việc lựa chọn trình tự thi công, đòi hỏi dự trữ vật t nhiều hơn
Đặc điểm này đòi hỏi các tổ chức xây dựng phải chú ý đến nhân tố rủi ro về
thời tiết khi lập tiến độ thi công, phấn đấu tìm cách hoạt động tròn năm, sử
dụng kết cấu lắp ghép làm sẵn trong xởng một cách hợp lý, đảm bảo độ an toàn
bền chắc của máy móc trong quá trình sử dụng, đặc biệt quan tâm đến việc cải

thiện điều kiện làm việc của công nhân, quan tâm phát triển phơng pháp xây
dựng tron điều kiện nhiệt đới.
* Sản xuất xây dựng chịu ảnh hởng của lợi nhuận chênh lệch do điều kiện
của địa điểm xây dựng đem lại. Cùng một loại công trình xây dựng, nhng nếu nó
đợc đặt ở nơi có sẵn nguồn nguyên vật liệu xây dựng, nguồn máy móc cho thuê
và sẵn nhân công, thì doanh nghiệp nhận thầu xây dựng ở trờng hợp này có nhiều
cơ hội hạ thấp chi phí sản xuất và thu đợc lợi nhuận cao.
2.3. Vai trò của doanh nghiệp ngành xây dựng.
* Các doanh nghiệp ngành xây dựng có nhiệm vụ tái sản xuất các tài sản
cố định cho mọi lĩnh vực sản xuất và phi sản xuất của đất nớc. Có thể nói
không một ngành sản xuất nào, không một hoạt động văn hoá - xã hội nào là
không sử dụng sản phẩm của ngành xây dựng.
15
* Các công trình xây dựng của các doanh nghiệp có vai trò tăng năng lực
sản xuất kinh doanh của chính doanh nghiệp mình, đồng thời tạo sự phát triển
kinh tế xã hội của đất nớc và tạo thêm chỗ làm cho ngời lao động, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho họ.
* Các doanh nghiệp ngành xây dựng phải sử dụng một lợng vốn lớn, do đó
một sai lầm trong xây dựng có thể dẫn đến lãng phí lớn lao rất khó sửa chữa
trong nhiều năm.
* Hoạt động của các doanh nghiệp ngành xây dựng đóng góp đáng kể vào
giá trị tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân.
III. Cạnh tranh.
1. Cạnh tranh.
1.1. Khái niệm.
Bớc vào thời kỳ đổi mới, quyền bình đẳng và tự do kinh doanh đợc tôn
trọng và xuất hiện cơ sở khách quan cho cạnh tranh ngày càng sâu rộng giữa
các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sở hữu.Cạnh tranh không chỉ là một nhu
cầu khách quan của sự tồn tại và phát triển doanh nghiệp mà còn là động lực
phát triển kinh tế.

Cạnh tranh là một khái niệm đợc sử dụng trong nhiều lĩnh vực khác
nhau.Trong nền kinh tế, hiện tợng cạnh tranh xuất hiện đồng thời vơi sự ra đời
và phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Tuy nhiên ở giai đoạn phát triển ban
đầu của nền sản xuất hàng hoá, cạnh tranh cha đợc nhận biết và xem xét một
cách đầy đủ các khía cạnh của nó trong nền kinh tế. Chỉ đến khi các khái niệm
giá trị, giá bán đợc nghiên cứu một cách khoa học, khi đó vấn đề cạnh tranh
mới đợc hiểu đầy đủ hơn và đợc đánh giá đúng hơn vai trò của nó trong nền
kinh tế.
Khi nghiên cứu về chủ nghĩa t bản Carl Mark đã đi đến kết luận Cạnh
tranh t bản chủ nghĩa là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà t bản
nhằm giành giật điều kiện thuận lợi trong sản xuất và mua bán hàng hóa để thu
đợc lợi nhuận siêu ngạch. Trong thuật ngữ này cạnh tranh chủ yếu phản ánh sự
16
đấu tranh ganh đua, thi đua giữa các đối tợng có phẩm chất cùng loại, đồng giá
trị nhằm đạt đợc u thế, lợi ích theo mục tiêu xác định.
Đại từ điển tiếng việt ( Nguyễn nh ý chủ biên ) định nghĩa: Cạnh tranh
là sự ganh đua giữa các cá nhân, tập thể có chức năng nh nhau nhằm giành phần
hơn, phần thắng về mình.
Một định nghĩa khác về cạnh tranh đợc nêu trong cuốn Chính sách cạnh
tranh ở Việt Nam Nxb Lao động: Cạnh tranh là sự ganh đua giữa các doanh
nghiệp trong việc giành một nhân tố sản xuất hoặc khách hàng nhằm nâng cao
vị thế của mình trên thị trờng.
Nh vậy, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài này chúng ta có thể hiểu:
Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các tổ chức, các doanh
nghiệp nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất và kinh doanh
để đạt đợc những mục tiêu của tổ chức, của doanh nghiệp đó. Đồng thời tạo
điều kiện thúc đẩy sự phát triển của toàn xã hội.
Hay nói cách khác, Cạnh tranh là quá trình mà các chủ thể sản xuất kinh
doanh tìm mọi biện pháp để vợt lên các chủ thể khác. Để tồn tại và phát triển
các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh nh là một sự lựa chọn đơng nhiên

và đầy cảm xúc để tồn tại và phát triển trong thơng trờng.
Cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền sản xuất hàng hóa, là một
yếu tố trong cơ chế vận động của thị trờng. Sản xuất hàng hóa càng phát triển,
hàng hóa bán ra càng nhiều, số lợng ngời cung ứng càng đông thì cạnh tranh
càng gay gắt. Kết quả trong cạnh tranh là sẽ có một số doanh nghiệp bị thua
cuộc và bị gạt ra khỏi thị trờng, trong khi đó một số doanh nghiệp sẽ tồn tại và
phát triển hơn nữa. Cũng chính nhờ sự cạnh tranh không ngừng mà nền kinh tế
thị trờng vận động theo hớng ngày càng nâng cao năng suất lao động xã hội. Đó
cũng là yếu tố đảm bảo cho sự thành công của mỗi quốc gia trên con đờng phát
triển.
1.2. Các loại hình cạnh tranh.
Nhận dạng tính chất và mức độ biểu hiện của cạnh tranh trong các hình
thái thị trờng đã và đang trở thành một nội dung cấp bách trớc yêu cầu quản lý
17
của doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trờng. Và cũng chỉ
trên cơ sở nhận dạng đúng vị trí, vai trò của cạnh tranh trong các hình thái thị tr-
ờng mới cho phép mỗi doanh nghiệp hoạch định những chiến lợc, chính sách
phù hợp để ứng xử với cạnh tranh. Có nhiều cách phân loại cạnh tranh dựa trên
các tiêu thức khác nhau:
1.2.1. Căn cứ vào tính chất và mức độ can thiệp của Chính phủ vào đời
sống kinh tế:
* Cạnh tranh tự do: Là hình thái thị trờng thoát khỏi sự can thiệp của Nhà
nớc. Trong đó, giá cả tự do vận động lên xuống theo sự chi phối của quan hệ
cung cầu, của các thế lực thị trờng. T tởng tự do kinh tế dựa trên nền tảng Tự
do đợc nuôi dỡng bởi chính tự do, và trên nền tảng t tởng ấy, học thuyết Bàn
tay vô hình của Adam Smith đã chỉ ra rằng: Trong khi chạy theo t lợi thì có
một bàn tay vô hình buộc con ngời kinh tế phải thực hiện một nhiệm vụ
không nằm trong dự kiến là đáp ứng lợi ích xã hội và đôi khi họ còn đáp ứng lợi
ích xã hội tốt hơn ngay cả khi họ có ý định làm việc đó từ trớc. Bàn tay vô
hình đó chính là các quy luật khách quan tự phát chi phối hoạt động của con

ngời. Do đó, việc nhà nớc can thiệp vào kinh tế sẽ làm giảm bớt sự tăng trởng
của cải và sử dụng không hợp lý tài nguyên.
* Cạnh tranh có sự điều tiết của Nhà nớc: là hình thái thị truờng của các
nền kinh tế thị trờng hiện đại.Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới những năm
1929 -1933 của kinh tế thế giới đã chứng kiến sự sụp đổ của hình thái thị trờng
cạnh tranh tự do và học thuyết Bàn tay vô hình của Adam Smith.Trong giai
đoạn này, cạnh tranh tự do đã bộc lộ những mặt trái của nó: Thất nghiệp,sự phá
sản hàng loạt, sự lãng phí tài nguyên Bởi vậy, bản thân cơ chế hiểu theo nghĩa
văn minh và nhân đạo có nhu cầu đợc điều tiết. Đã đến lúc quyền lực Nhà nớc
cần đợc sử dụng để khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trờng,bảo vệ tự
do cạnh tranh - động lực phát triển phát triển kinh tế. Theo đó, tự do cạnh tranh
trong hình thái thị trờng này đợc bảo vệ, nuôi dỡng và giới hạn bởi các thể chế,
chính sách và pháp luật của Nhà nớc.
18
1.2.2. Căn cứ vào cơ cấu doanh nghiệp và mức độ tập trung trong một
ngành, lĩnh vực kinh tế:
* Cạnh tranh hoàn hảo: Thị trờng cạnh tranh hoàn hảo là thị trờng trong
đó cả ngời mua và ngời bán đều cho rằng các quyết định mua và bán cuả họ
không ảnh hởng gì đến giả cả của thị trờng. Nh vậy,cạnh tranh hoàn hảo chỉ có
thể diễn ra khi hội tụ đủ các diều kiện sau:
+ Một là, sản phẩm của mỗi doanh nghiệp là đồng nhất hay đợc tiêu
chuẩn hoá hoàn hảo,
+ Hai là, mỗi doanh nghiệp trong ngành phải chiếm lĩnh một thị phần rất
nhỏ,
+ Ba là, các sản phẩm hàng hoá đều có thể gia nhập và đi khỏi thị trờng
một cách dễ dàng,
+ Bốn là, ngời tiêu dùng và các doanh nghiệp có kiến thức hoản hảo về
giá hiện tại, giá tơng lai, chi phí và những cơ hội kinh tế.
* Cạnh tranh không hoàn hảo: là hình thức cạnh tranh chiếm u thế trong
các ngành sản xuất mà ở đó các cá nhân bán hàng hoặc các nhà sản xuất có đủ

sức mạnh để có thể chi phối giá cả các sản phẩm của mình trên thị trờng. Trên
thị truờng cạnh tranh không hoàn hảo phần lớn các sản phẩm là không đồng
nhất với nhau. Mỗi loại sản phẩm có thể có nhiều nhãn hiệu khác nhau, mỗi loại
nhãn hiệu lại có uy tín và hình ảnh khác nhau. Các điều kiện mua bán cũng rất
khác nhau. Trong cạnh tranh không hoàn hảo lại phân làm hai loại:
+ Độc quyền nhóm: là hình thái thị trờng mà trong đó chỉ có một số ít
các nhà sản xuất, mỗi ngời đều nhận thức đợc rằng giá cả của mình không chỉ
phụ thuộc vào năng suất của mình mà còn phụ thuộc vào hoạt động của các nhà
cạnh tranh trong ngành đó.
+ Cạnh tranh mang tính độc quyền: là hình thái thị trờng có nhiều ngời
bán sản xuất ra những sản phẩm có thể dễ dàng thay thế cho nhau. Mỗi hàng
chỉ có khả năng hạn chế ảnh hởng tới giá cả sản phẩm của mình.
19
* Độc quyền: là hình thái thị trờng trong đó một doanh nghiệp duy nhất
bán một sản phẩm mà không có sản phẩm thay thế gần giống với nó. Việc thâm
nhập vào ngành sản xuất sản phẩm này là rất khó khăn hoặc không thể đợc.
1.2.3. Căn cứ vào chủ thể tham gia trên thị trờng:
* Cạnh tranh giữa ngời bán và ngời mua: là cuộc cạnh tranh diễn ra trên
cơ sở quy luật Tối đa hoá lợi ích. Ngời bán- với mong muốn tối đa hóa lợi
nhuận- họ mong bán đợc sản phẩm của mình với gía cao nhất có thể. Ngợc lại,
ngời mua- với mong muốn tối đa hóa độ thoả dụng mong muốn mua đợc
những sản phẩm có chất lợng cao nhất với giá rẻ nhất có thể. Hoạt động mua
bán chỉ đợc thực hiện sau một quá trình thơng lợng ( mặc cả) nhằm trung hoà
lợi ích giữa ngời bán và ngời mua.
* Cạnh tranh giữa những ngời bán với nhau: là cuộc cạnh tranh dựa trên
cơ sở luật cung. Khi cung một loại hàng hóa, dịch vụ nào đó lớn hơn cầu, cuộc
cạnh tranh quyết liệt giữa những ngời bán sẽ diễn ra. Để thu hút nhiều khách
hàng đến với mình hơn, mỗi ngời bán phải tìm cho mình những cách thức trội
hơn các đối thủ khác ( kể cả việc phải bán với mức giá thấp hơn, chấp nhận một
mức lợi nhuận thấp trong ngắn hạn). kết quả là, hiệu quả sản xuất kinh doanh

của mỗi doanh nghiệp ngày một tốt hơn, những doanh nghiệp yếu kém sẽ bị đào
thải. Khách hàng sẽ là những ngời đợc hởng lợi từ cuộc cạnh tranh này, bởi sản
phẩm mà họ đợc sử dụng sẽ tốt hơn, gía cả rẻ hơn, dịch vụ kèm theo cũng tốt
hơn.
* Cạnh tranh giữa những ngời mua với nhau: trong rất nhiều ngành hàng,
đặc biệt là nguyên vật liệu cho sản xuất, thờng xuyên diễn ra cuộc cạnh tranh
giữa những ngời mua với nhau, do ở đó cầu luôn lớn hơn mức cung. Trong tr-
ờng hợp này, ngời mua sẽ mất đi vị thế là thợng đế của mình. Họ sẽ phải
giành giật với đối thủ là những ngời mua khác để có đợc sản phẩm mong muốn
thoả mãn nhu cầu của mình. Trong hầu hết các trờng hợp, họ sẽ phải chấp nhận
một mức giá cao hơn giá trị thực tế của sản phẩm mà mình mong muốn mua.
Cuộc cạnh tranh này mang lại nhiều lợi nhuận cho ngời bán nhất.
1.2.4. Căn cứ vào phạm vi ngành kinh tế:
20
* Cạnh tranh trong nội bộ ngành: là cuộc cạnh tranh giữa các doanh
nghiệp cùng sản xuất kinh doanh một chủng loại hàng hoá dịch vụ nào đó
( cùng một ngành ). Để giành giật khách hàng về phía mình, loại bỏ đối thủ ra
khỏi cuộc chơi, mỗi doanh nghiệp phải tìm mọi cách để có đợc những lợi thế
hơn trong cuộc chiến không khoan nhợng đó. Biện pháp quan trọng và phổ biến
nhất hiện nay là cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, nâng cao chất l-
ợng sản phẩm hàng hoá, dịch vụ, tăng cờng những tiện ích cho khách hàng
( khuyến mãi, bảo hành ). Cuộc cạnh tranh tất dẫn đến kỹ thuật sản xuất ngày
càng phát triển, lợi ích của ngời tiêu dùng đợc nâng cao.
* Cạnh tranh giữa các ngành: là sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp
trong những ngành kinh tế khác nhau nhằm giành giật lợi nhuận cao nhất.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp luôn bị hấp dẫn bởi các ngành có
tỷ suất lợi nhuận bình quân cao, nên xảy ra sự dịch chuyển vốn từ ngành có tỷ
suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Sự dịch chuyển này
qua thời gian sẽ tạo nên sự phân phối hợp lý giữa các ngành sản xuất và kết quả
là các doanh nghiệp ở các ngành kinh tế khác nhau sẽ có tỷ suất lợi nhuận tơng

đơng.
1.3. Quy luật cạnh tranh.
Trong quá trình nghiên cứu về nền sản xuất hàng hoá t bản chủ nghĩa và
cạnh tranh t bản chủ nghĩa, Carl Marx đã phát hiện ra rằng: Quy luật cạnh tranh
t bản chủ nghĩa là quy luật điều chỉnh tỷ suất lợi nhuận bình quân và qua đó
hình thành nên hệ thống gía cả thị trờng. Quy luật này dựa trên sự chênh lệch
giữa giá trị và giá cả của hàng hóa và khả năng có thể bán hàng hoá dới gía trị
của nó nhng vẫn thu đợc lợi nhuận.
Các học thuyết về kinh tế thị trờng hiện đại dù thuộc trờng phái chủ
nghĩa tự do hay trờng phái chủ nghĩa can thiệp đều đi đến kết luận rằng: Cạnh
tranh với tính cách là động lực phát triển nội tại của nền kinh tế chỉ xuất hiện và
tồn tại trong điều kiện của nền kinh tế thị trờng. Bất kỳ một doanh nghiệp hay
sản phẩm nào khi xuất hiện trên thị trờng cũng đều chịu những sức ép cạnh
tranh nhất định từ các doanh nghiệp và sản phẩm cùng loại của đối thủ cạnh
21
tranh. Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải tự đổi mới và hoàn thiện mình
tạo nên cơ chế thị trờng và trở thành quy luật kinh tế đặc thù của nền kinh tế thị
trờng. Nh vậy, cạnh tranh là một quy luật khách quan của nền kinh tế thị trờng,
là động lực cho sự phát triển của mỗi doanh nghiệp nói riêng và toàn bộ nền
kinh tế xã hội nói chung
1.4. Vai trò của cạnh tranh.
* Đối với các doanh nghiệp, cạnh tranh quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh
doanh, ảnh hởng đến uy tín của doanh nghiệp trên thị trờng.
* Đối với ngời tiêu dùng, cạnh tranh giúp họ thỏa mãn nhu cầu về hàng
hóa và dịch vụ, chất lợng sản phẩm ngày càng cao cùng với mức giá cả ngày
càng phù hợp với khả năng của họ.
* Đối với nền kinh tế quốc dân thì cạnh tranh là động lực thúc đẩy sự
phát triển bình đẳng của mọi thành phần kinh tế, tạo điều kiện để phát huy lực l-
ợng sản xuất, nâng cao tiến bộ khoa học kỹ thuật, hiện đại hóa nền sản xuất xã

hội. Đó cũng là điều kiện để xóa bỏ độc quyền bất hợp lý, xóa bỏ bất bình đẳng
trong kinh doanh, phát huy tính tháo vát, năng động và óc sáng tạo trong các
doanh nghiệp, gợi mở nhu cầu thông qua việc tạo ra nhiều sản phẩm mới, nâng
chất lợng đời sống xã hội, phát triển nền văn minh nhân loại.
Tuy nhiên chúng ta không thể phủ nhận mặt tiêu cực của cạnh tranh.
Để khắc phục đợc những tiêu cực đó thì vai trò của Nhà nớc là hết sức quan
trọng.
2. Lợi thế cạnh tranh.
Đạt đợc một lợi thế cạnh tranh trên thị trờng là mục đích của mọi doanh
nghiệp đặc biệt các doanh nghiệp Việt nam hiện đang trong tình trạng cạnh
tranh kém. Nhng có phải mọi lợi thế cạnh tranh đều có ý nghĩa chiến lợc hay có
thể duy trì trong thời gian dài và liệu một lợi thế cạnh tranh có đảm bảm cho
một chiến lợc kinh doanh thành công hay không? Lợi thế cạnh tranh có phải là
ở vốn, công nghệ, lao động hoặc các kỹ năng sản xuất không? Có thể thấy rằng,
nguồn lực về vốn luôn là một nhân tố tác động đến lợi thế cạnh tranh của một
22
doanh nghiệp.ở đây, không thể chỉ hiểu nguồn lực này là số lợng vốn có đợc mà
trớc hết nó phải là khả năng sử dụng nguồn vốn. Hiệu quả sử dụng vốn sẽ làm
cho nhu cầu về vốn của doanh nghiệp giảm tơng đối, do đó sẽ cần ít vốn hơn
cho những nhu cầu kinh doanh nhất định, từ đó chi phí cho sử dụng vốn sẽ
giảm đi, tăng lợi thế cạnh tranh về chi phí. Khi đã có vốn, một việc làm không
thể thiếu của doanh nghiệp là đầu t vào trang thiết bị, máy móc, công nghệ.
Công nghệ đợc đầu t phải không quá lạc hậu và phù hợp với quy mô cũng nh
phạm vi hoạt động của doanh nghiệp thì mới có thể nâng cao chất lợng sản
phẩm, giảm chi phí và tạo lợi thế cạnh tranh. Bên cạnh vốn và công nghệ thì
có một đội ngũ cán bộ giàu kinh nghiệm, năng lực và một đội ngũ công
nhân lành nghề, có kỷ luật lao động cao sẽ tạo ra cho doanh nghiệp một lợi
thế cạnh tranh không chỉ trớc mắt mà còn trong dài hạn.
Vấn đề đặt ra là doanh nghiệp làm thế nào để nhận biết và đạt đợc lợi thế
cạnh tranh dài hạn. Doanh nghiệp cũng cần phải biết xây dựng chiến lợc kinh

doanh khi có một lợi thế cạnh tranh và biết cạnh tranh với các doanh nghiệp
khác có một lợi thế cạnh tranh dài hạn mà mình không có.
Lợi thế cạnh tranh dài hạn không phải luôn dễ dàng xác định đợc. Các
hãng sản xuất bột giặt đều cố gắng xây dựng các lợi thế, nhng nó nhanh chóng
bị bắt chớc ngay sau đó. Trong thị trờng hàng điện tử có hãng đã cố gắng lợi
dụng một lợi thế hơn so với đối thủ của mình, nhng lợi thế đó lại sớm trở nên
không quan trọng với mong muốn của ngời tiêu dùng.
Nh vậy mọi nhà kinh doanh cần phải khám phá xem một lợi thế cạnh
tranh dài hạn và sự thể hiện thực sự có ý nghĩa đối với cạnh tranh và chiến lợc
kinh doanh là gì?
2.1. Các điều kiện cho lợi thế cạnh tranh dài hạn.
Mọi doanh nghiệp cần hiểu là họ cần một lợi thế cạnh tranh trớc những
khách hàng, ngời chọn hàng hóa của họ, chứ không phải trớc các đối thủ cạnh
tranh. Một lợi thế cạnh tranh có ý nghĩa chiến lợc khi nó thỏa mãn ba điều kiện
sau:
23
* Khách hàng phải nhận biết đợc sự khác biệt rõ ràng trong những đặc
điểm quan trọng giữa sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp và sản phẩm, dịch vụ
của các đối thủ cạnh tranh.
* Sự khác biệt đó là kết quả trực tiếp của sự chênh lệch về khả năng đáp
ứng nhu cầu của khách hàng giữa doanh nghiệp và các đối thủ cạnh tranh.
* Sự khác biệt trong những đặc điểm quan trọng và khoảng cách về khả
năng có thể hy vọng duy trì đợc lâu dài.
2.2. Lợi thế cạnh tranh trong hoạt động kinh doanh.
Khái niệm chiến lợc cạnh tranh nh một tập hợp các hoạt động đợc thiết
kế để tạo ra một lợi thế lâu dài trớc các đối thủ cạnh tranh có thể chỉ ra rằng:
có một lợi thế cạnh tranh dài hạn đồng nghĩa với thành công. Nói cách khác,
những doanh nghiệp có lợi thế cạnh tranh dài hạn sẽ chắc chắn chiến thắng.
Những đối thủ cạnh tranh thiếu một lợi thế cạnh tranh dài hạn nên rút lui khỏi
thơng trờng để tránh các thảm họa tài chính...

Tất nhiên, các kết luận có vẻ hiển nhiên này là sai lầm. Mặc dầu một lợi
thế cạnh tranh dài hạn là một công cụ rất hiệu quả cho việc xây dựng các chiến
lợc kinh doanh xuất sắc, nó vẫn chỉ là một trong những nhân tố cần thiết mà
thôi. Qua thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam đã rút ra kết luận:
* Có lợi thế cạnh tranh dài hạn không chắc đã đảm bảo sự thành công về
tài chính.
* Doanh nghiệp có thể thành công thậm chí khi đối thủ cạnh tranh có
một lợi thế cạnh tranh dài hạn.
* Mu cầu một lợi thế cạnh tranh dài hạn nhiều khi mâu thuẫn với chiến l-
ợc kinh doanh hợp lý.
a. Thất bại với một lợi thế cạnh tranh dài hạn.
Lợi thế cạnh tranh dài hạn có thể giúp một doanh nghiệp đạt đợc kết quả
cao hơn so với đối thủ cạnh tranh, nhng có ít nhất là 3 trờng hợp mà ngời sở hữu
nó sẽ thất bại:
* Nếu các nhu cầu thị trờng không tồn tại: Trong rất nhiều trờng hợp chi
phí tối thiểu để sản xuất và tiêu thụ của một loại sản phẩm hay dịch vụ cụ thể v-
24
ợt quá giá trị mà ngời tiêu dùng nhận đợc. Trong tình huống này, một lợi thế
cạnh tranh dài hạn không thể cứu đợc ngời có nó. Nó chỉ có thể đảm bảo rằng
tình trạng của các đối thủ cạnh tranh còn tồi tệ hơn nhiều.
* Nếu doanh nghiệp gặp phải một số rắc rối trong vận hành: Một lợi
thế cạnh tranh dài hạn có thể cho phép quản lý tập trung hơn hoạt động của
doanh nghiệp. Nhng hàng ngàn doanh nghiệp thất bại do sự vận hành, hơn là
do các lý do chiến lợc. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam rõ ràng là rơi vào tr-
ờng hợp này.
* Nếu các đối thủ cạnh tranh phản ứng mạnh mẽ: Một lợi thế cạnh tranh
dài hạn ít khi đặt doanh nghiệp hoàn toàn vợt tầm với của các đối thủ cạnh tranh
chẳng hạn nh các chính sách giảm giá để tăng tỷ phần thị trờng có thể mất tác
dụng do các đối thủ hạ theo.
Trong những trờng hợp này, doanh nghiệp phải lựa chọn cách hành động

rất cẩn thận. Các hoạt động dễ bị bắt chớc chỉ dẫn đến sự cạnh tranh mạnh mẽ
và khi ấy những lợi thế của doanh nghiệp là mục tiêu của những đòn phản công
của đối thủ.
b. Cạnh tranh với đối thủ có một lợi thế cạnh tranh dài hạn.
Không phải mọi ngời sản xuất đều có thể có một lợi thế cạnh tranh dài
hạn, có những ngời sản xuất phải đơng đầu với sự cạnh tranh trong vị trí bất lợi.
Trong một số trờng hợp họ vẫn có khả năng thành công.
Những thị trờng phát triển mạnh mẽ tạo ra tình huống nh vậy. Sự tăng tr-
ởng thị trờng thực sự trong những thời kỳ nhất định... khiến các đối thủ yếu
cũng có thể phát đạt. Ví dụ, sự bùng nổ trong thị trờng phần mềm máy vi tính
trong 5 năm gần đây đã làm cho nhiều công ty nhỏ bé trở nên giàu có. Chỉ khi
thị trờng tăng trởng chậm lại hay các đổi thủ có lợi thế tăng lên, thị trờng sẽ
điều chỉnh sự cạnh tranh và tác động của lợi thế cạnh tranh và tác động của lợi
thế cạnh tranh dài hạn mới thể hiện.
Nếu doanh nghiệp dẫn đầu thị trờng chỉ có một lợi thế hời hợt hay không
quan trọng, nhiều đối thủ bất lợi có thể có khả năng thu hẹp khoảng cách. Mỗi
đối thủ cạnh tranh đều có khả năng về một khía cạnh nào đó. Sau khi xem xét
25

×