Nhận thức lý luận văn hóa nửa đầu thế kỷ XX ở nước ta và bài học kinh
nghiệm trong nghiên cứu văn hóa hiện nay
(ĐHVH) - Văn hoá là gì? Câu hỏi ấy đã được đặt ra từ lâu đối với tư duy
nhân loại. Nhưng để có câu trả lời thì không dễ dàng đi đến sự thống nhất.
Bởi văn hoá xuất hiện cùng với sự xuất hiện của con người và biểu hiện trên
nhiều bình diện của đời sống xã hội; nhưng tiếp sau sự ra đời của văn hoá,
trải qua nhiều thế kỷ (đến thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX), các khoa học về văn
hoá mới phát triển nở rộ trên thế giới.
Lễ hội ở Tây Nguyên
Như vậy, so với sự phát triển của văn hoá thì khoa học nghiên cứu về nó
phát triển chậm hơn rất nhiều. Nằm trong xu hướng chung này, ở nước ta,
mãi đến đầu thế kỷ XX, việc nghiên cứu lý luận văn hoá mới bắt đầu được
đề cập tới. Đó là kết quả tất yếu của xu hướng mở rộng, vươn ra đón nhận
những luồng tư tưởng mới của văn hoá phương Tây, phương Đông trong
điều kiện lịch sử mới. Xem xét quá trình này, chúng tôi nhận thấy một số
vấn đề cơ bản sau:
1. Đặc điểm quá trình nhận thức lý luận về văn hoá:
Thứ nhất về phương diện nội dung, những nhận thức lý luận về văn hóa của
giai đoạn này là kết quả của quá trình tiếp thu lý luận văn hóa thế giới và
phản ánh thực tiễn văn hóa Việt Nam.
Những nội dung cơ bản trong nhận thức lý luận văn hóa đầu thế kỷ XX cho
đến năm 1945 bao gồm: quan niệm về văn hóa; về văn hóa dân tộc; quan
niệm của những người mác xít về văn hoá. Những nội dung này đã khái
quát quá trình nhận thức lý luận về văn hóa ở nước ta: từ việc tiếp thu thành
tựu lý luận của thế giới đi đến nghiên cứu văn hóa Việt Nam trong đó, quan
điểm về văn hóa của những người mác xít Việt Nam là sự tiếp thu và vận
dụng thành công chủ nghĩa Mác - Lênin trong việc xây dựng một nền văn
hóa mới của dân tộc gắn liền với công cuộc giải phóng đất nước ra khỏi ách
nô lệ của chủ nghĩa thực dân.
Thực tiễn cho thấy, cho đến đầu thế kỷ XX, nước ta chưa có chuyên ngành
lý luận văn hóa. Trước đó, các nhà tư tưởng của dân tộc cũng đã từng đề cập
đến văn hóa nhưng chưa thể gọi đó là lý luận với tư cách là hệ thống tri thức
cơ bản trên lĩnh vực văn hóa. Cuộc giao lưu văn hóa với phương Tây từ cuối
thế kỷ XIX, mở cửa với thế giới bên ngoài sau một thời gian dài bế quan tỏa
cảng đã tạo cơ hội cho trí thức dân tộc tiếp xúc với những thành tựu của văn
minh nhân loại. Qua phong trào Tân thư, qua việc truyền bá chủ nghĩa Mác Lênin, những thành tựu này tác động mạnh mẽ vào Việt Nam, được nhiều trí
thức dân tộc đón nhận một cách hào hứng. Những cuộc tranh luận mang tính
học thuật, những cuốn sách khảo cứu về triết học, sử học, văn hóa, kinh tế đã
bắt đầu xuất hiện. Cuốn sách đầu tiên có liên quan đến lý luận văn hóa mang
dấu ấn của sự tiếp thu lý luận của thế giới là Văn minh tân học sách - đây
được coi là cương lĩnh văn hóa, ngọn cờ tư tưởng cho phong trào Duy Tân
đầu thế kỷ XX. Đây là sự kế thừa tác phẩm “Văn minh luận chi khái lược”
của Phúc Trạch Dụ Cát, một học giả Nhật Bản - người đã có công trong việc
dịch chuyển văn hóa phương Tây vào Nhật Bản. Đến Đào Duy Anh, để viết
được Việt Nam văn hóa sử cương, trước hết ông đã dựa vào khái niệm văn
hóa của các học giả Pháp và Trung Quốc lúc đó là F. Sartiaux và Dương
Đông. Dần dần, sự tiếp thu của các học giả Việt Nam đi vào chiều sâu hơn,
thoát khỏi “sự bắt chước vụng về”, có sự chọn lọc trong việc tiếp nhận, thẩm
thấu được những tư tưởng mới để tự mình có những kiến giải riêng. Điều đó
thể hiện ở những nghiên cứu về văn hóa dân tộc chiếm một phần lớn, quan
trọng trong những nhận thức lý luận về văn hóa mà giai đoạn này có được.
Từ sự tiếp thu lý luận văn hóa của thế giới, các học giả tập trung vào nghiên
cứu văn hóa Việt Nam, những vấn đề liên quan đến văn hóa dân tộc như bản
sắc văn hóa, vấn đề dân tộc Việt Nam có bản sắc hay không, con đường để
xây dựng văn hóa dân tộc được đem ra tranh luận hết sức quyết liệt. Những
nhận thức lý luận về văn hóa dân tộc xuất hiện ngày càng nhiều, với các
cách tiếp cận đa dạng từ các cuộc tranh luận.
Thứ hai, về phương diện mục tiêu nghiên cứu, nghiên cứu lý luận về văn
hóa trong giai đoạn này chỉ nhằm giải quyết những vấn đề của văn hóa dân
tộc, không hướng tới xây dựng lý thuyết văn hóa
Khảo cứu các tác phẩm của các học giả Việt Nam trong giai đoạn đầu thế kỷ
XX có bàn đến lý luận về văn hóa cho thấy những quan niệm về văn hóa
mang tính lý luận tập trung chủ yếu vào việc nghiên cứu văn hóa dân tộc,
tìm ra con đường, cách thức để giữ gìn bản sắc văn hóa, tiếp thu tinh hoa của
nhân loại. Hơn nữa những quan niệm này cũng chỉ được đề cập rải rác chứ
không tập trung thành một công trình nghiên cứu có hệ thống. Điểm nổi bật
trong các quan niệm về văn hóa ở đây vẫn là những gì liên quan đến văn hóa
dân tộc, giải quyết những vấn đề đang đặt ra với văn hóa dân tộc. Đào Duy
Anh đã đi những bước xa hơn trên con đường nghiên cứu lý luận văn hóa so
với các nhà nghiên cứu khác với hai cuốn sách Việt nam văn hóa sử
cương và Văn hóa là gì, song hầu hết các nội dung của lý luận văn hóa được
ông đề cập đến vẫn chỉ là sự kế thừa, là những cái mà ông “thừa nhận” từ
những thành tựu lý luận văn hóa của thế giới lúc đó. Những quan niệm của
ông đưa ra, mặc dù rất phong phú và toàn diện nhưng cũng chưa thể tạo nên
một lý thuyết văn hóa mới. Do đó, các kết quả nghiên cứu về văn hóa của
các học giả trong giai đoạn này mới chỉ dừng lại ở những nhận thức lý luận
về văn hóa mà thôi. Đề cương văn hóa Việt Nam, ra đời năm 1943 nhằm
mục đích tập hợp giới trí thức lập nên mặt trận văn hóa của những người yêu
nước chống Pháp, Nhật. Đây là công trình nêu lên những tư tưởng lý luận
văn hóa đầu tiên ở nước ta theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đề
cương mang tính chất của một cương lĩnh văn hóa có giá trị chỉ đạo thực tiễn
trong một không gian, thời gian nhất định.
Thứ ba, về lực lượng nghiên cứu lý luận văn hóa, quá trình nhận thức lý
luận về văn hóa là hành trình đi từ tinh thần yêu nước, yêu văn hóa dân tộc
đến khoa học. Điều đầu tiên có thể thấy ở lực lượng này là họ không phải là
những người nghiên cứu lý luận văn hóa chuyên nghiệp cho nên thành phần
khá đa dạng. Nhưng cho dù không thuần nhất và có cả sự khác biệt thì giữa
họ vẫn có điểm chung là sự thiết tha với văn hóa dân tộc. Họ đều xúc động,
băn khoăn, trăn trở trước hiện trạng văn hóa dân tộc đang bị rung động trong
cuộc giao lưu với văn hóa phương Tây, đang nằm trong vòng nô lệ của nước
ngoài. Đứng trước những vấn đề của thực tiễn văn hóa dân tộc, họ đều có
chung một niềm khát vọng cháy bỏng muốn gây dựng được một nền văn hóa
riêng cho dân tộc Việt Nam. Đó là khởi nguồn cho các cuộc tranh luận mang
tính học thuật xuất hiện càng nhiều và thu hút đông đảo các học giả lúc bấy
giờ tham gia, điều mà trước đó chưa hề có. Điều đó đã cắt nghĩa tại sao
trong điều kiện khó khăn về thông tin khoa học, chịu sự kiểm duyệt của
chính quyền thực dân và quan trọng là trước đó chưa có nhiều vốn liếng về
lý luận, các học giả trong giai đoạn này đã để lại nhiều quan niệm về văn
hóa có ý nghĩa với việc xây dựng nền văn hóa mới của dân tộc và đặt nền
móng cho công tác nghiên cứu lý luận văn hóa ở nước ta.
2. ý nghĩa của những thành tựu nghiên cứu lý luận văn hóa giai đoạn
nửa đầu thế kỷ XX
Trước hết, qua quá trình nhận thức lý luận về văn hóa, văn hóa Việt Nam lần
đầu tiên được nhận diện tương đối toàn diện. Do nhu cầu muốn hiểu biết về
dân tộc mình, các học giả đã kiểm kê lại hành trang của văn hóa dân tộc cho
việc hội nhập với thế giới bằng cách đánh giá những di sản do cha ông để
lại. Bản sắc của dân tộc trở thành mối quan tâm chung của các học giả, với
nhiều cách tiếp cận khác nhau như cho bản sắc dân tộc là Quốc học, là đặc
tính dân tộc, là tính cách của con người Việt Nam..., bức tranh văn hóa Việt
Nam đã được phác họa một cách chân thực, khách quan cả trong quá khứ và
hiện tại, cả những yếu tố tích cực và yếu tố hạn chế. Điều này có ý nghĩa
quan trọng trong bối cảnh diễn ra sự xung đột giá trị văn hóa cổ truyền với
văn hóa phương Tây ở đầu thế kỷ XXi. Từ đó mới có thể tìm ra con đường để
hiện đại hóa văn hóa dân tộc, xây dựng một nền văn hóa riêng phù hợp với xu
thế vận động của thời đại.
Không chỉ dừng lại ở việc phản ánh thực tiễn văn hóa, quá trình nhận thức lý
luận về văn hóa trong giai đoạn này còn có ý nghĩa quan trọng trên con
đường giải phóng văn hóa dân tộc, mở đường cho văn hóa dân tộc phát triển.
Văn minh tân học sách đã phê phán khá triệt để những tư tưởng cũ, phân tích
thực trạng xã hội Việt Nam trong cảnh lạc hậu, nô lệ, từ đó khởi xướng
những tư tưởng đổi mới. Văn minh Tân học sách là ngọn cờ duy tân, tự
cường, tự phát triển, trở thành tuyên ngôn, cương lĩnh của phong trào Duy
tân nổ ra ở đầu thế kỷ XX. Năm 1943, Đề cương văn hóa Việt Nam ra đời,
với tư cách là một cương lĩnh văn hóa. Những tư tưởng mà Đề cương nêu ra
đã tập hợp giới trí thức lập nên mặt trận văn hóa của những người yêu nước
chống văn hóa nô dịch Pháp - Nhật, đặt những đường nét cơ bản thiết kế về
một nền văn hóa mới Việt Nam. Đề cương đã có tác dụng “thức tỉnh và thu
hút nhiều người làm công tác văn hóa, văn nghệ vào con đường cách
mạng”[1], góp phần cho thắng lợi chung của cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa nửa đầu thế kỷ XX đánh dấu sự ra
đời, hình thành và phát triển của chuyên ngành lý luận văn hóa ở nước ta.
Với sự phát triển mạnh mẽ của các khoa học về văn hóa như hiện nay, nhất
là văn hóa học, nhiều quan niệm các học giả đưa ra đã bị vượt qua. Nhưng rõ
ràng, nó đã ghi một dấu mốc quan trọng trong buổi đầu chập chững đến với
khoa học ở đầu thế kỷ XX của giới trí thức dân tộc, đóng góp cho di sản văn
hóa dân tộc. Phải đặt trong bối cảnh nửa đầu thế kỷ XX, trong điều kiện một
đất nước nông nghiệp lạc hậu, trải qua hàng nghìn năm phong kiến chịu ảnh
hưởng của Nho giáo, không tiếp xúc rộng rãi với thế giới bên ngoài, trình độ
tư duy lý luận kém phát triển, thân phận một nước thuộc địa mới thấy được ý
nghĩa lớn lao của những thành tựu này. Đó là sự phát triển từ không đến có
và đặt nền tảng ban đầu cho quá trình nghiên cứu tiếp theo. Trong đó, những
tác phẩm của học giả Đào Duy Anh như Việt Nam văn hóa sử cương, Văn
hóa là gì xứng đáng là những cột mốc đầu tiên, chỉ đường cho những người
đi sau, đặt nền móng cho công tác nghiên cứu lý luận văn hóa sau này. Với
tư cách là cương lĩnh văn hóa đầu tiên của những người mácxít Việt Nam,
Đề cương văn hóa Việt Nam cũng đã mở ra sự phát triển mới của lý luận văn
hóa mácxít ở nước ta. Trên cơ sở những tư tưởng mà Đề cương đưa ra, Đảng
Cộng sản Việt Nam tiếp tục phát triển và hoàn thiện lý luận văn hóa và
đường lối văn hóa trong các giai đoạn mới của sự nghiệp cách mạng. Trong
giai đoạn hiện nay, đường lối xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vẫn có dấu ấn của những tư tưởng quan
trọng của Đề cương văn hóa Việt Nam.
3. Những bài học kinh nghiệm
Từ quá trình nhận thức lý luận về văn hóa trong giai đoạn từ đầu thế
kỷ đến năm 1945 và những vấn đề đặt ra trong sự nghiệp xây dựng nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, có thể rút ra một số bài học
đối với công tác nghiên cứu lý luận văn hóa giai đoạn hiện nay:
Thứ nhất, nghiên cứu lý luận văn hóa phải gắn liền với thực tiễn dân tộc.
Quá trình nhận thức lý luận về văn hóa của giai đoạn này là quá trình tiếp
thu lý luận văn hóa thế giới để nghiên cứu và làm sáng tỏ thực tiễn văn hóa
Việt Nam. Trong đó những vấn đề mang tính lý luận về văn hóa như: bản sắc
văn hóa, bản sắc văn hóa Việt Nam, con đường để giải phóng văn hóa, xây
dựng một nền văn hóa mới... là kết quả của sự tiếp thu lý luận văn hóa thế
giới để vận dụng vào nghiên cứu văn hóa dân tộc. Xét trên phương diện lý
thuyết thì những nhận thức lý luận về văn hóa giai đoạn này không phải là
mới với thế giới lúc đó. Đây là những thành quả của khoa học văn hóa mà
các học giả Việt Nam tiếp thu được. Nhưng chính nhờ sự vận dụng lý thuyết
này để xử lý những vấn đề cụ thể của văn hóa dân tộc mà các học giả đưa ra
được nhiều quan niệm về văn hóa, về văn hóa dân tộc mà trước đó chưa
được đề cập đến. Như vậy, sự sáng tạo đã được nảy sinh trong việc vận dụng
những tư tưởng khoa học này để giải quyết vấn đề của Việt Nam. Sự đóng
góp của quá trình nhận thức lý luận về văn hóa cũng thể hiện tập trung nhất
trên phương diện này. ở một phương diện khác, chúng ta có thể thấy những
nhận thức lý luận về văn hóa trong giai đoạn này đều xuất phát từ những băn
khoăn, trăn trở của giới trí thức dân tộc trước thực tiễn văn hóa dân tộc đang
trong cơn khủng hoảng khi tiếp xúc với văn hóa phương Tây. Họ cố gắng
tìm tòi về mặt lý luận để tìm ra một con đường thích hợp đưa văn hóa dân
tộc thoát ra khỏi khủng hoảng, gây dựng cho dân tộc một nền văn hóa độc
lập. Nhưng không phải mọi cố gắng đó đều đến được mục tiêu mở đường,
giải phóng cho văn hóa dân tộc ra khỏi thân phận nô lệ. Tuy đều có tư tưởng
dân tộc nhưng có khuynh hướng thiên về bảo thủ, có khuynh hướng cải
lương tư sản, có khuynh hướng xa quần chúng cho nên trên thực tế chưa
phản ánh đúng bản chất của văn hóa dân tộc là dân tộc có được tự do thì văn
hóa dân tộc mới phát triển được. Do đó, những lý luận này chưa đáp ứng
được nhu cầu phát triển của văn hóa dân tộc. Một nền “văn hóa ngu dân”,
“văn hóa nô dịch” đang rên xiết, kìm kẹp dưới ách thống trị của chủ nghĩa
phát xít, thực dân chỉ có thể được giải phóng, phát triển khi nó hướng tới dân
tộc, hướng tới nhân dân, chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái với
khoa học, phản tiến bộ và phải được đặt trong quỹ đạo của cuộc cách mạng
giải phóng dân tộc. Chính vì thế, khi những người mácxít Việt Nam đưa ra
quan điểm về xây dựng một nền văn hóa mới mang tính dân tộc - khoa học đại chúng và xác định cuộc vận động văn hóa ở Việt Nam phải là một quá
trình biến đổi sâu sắc và toàn diện đời sống theo định hướng: dân tộc hóa,
khoa học hóa, đại chúng hóa đã tập hợp được một đội ngũ đông đảo những
nhà văn hóa tài năng, giàu nhiệt huyết tham gia vào sự nghiệp giải phóng dân
tộc. Sự nghiệp đó đã thành công mở ra một giai đoạn mới cho văn hóa dân tộc,
xây dựng nền văn hóa mới độc lập, mang đậm bản sắc dân tộc. Với tất cả
những điều đó cho thấy, nghiên cứu lý luận văn hóa phải xuất phát từ thực tiễn
dân tộc, hướng tới mở đường cho văn hóa dân tộc phát triển theo hướng tiến
bộ. Trong điều kiện hiện nay, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc
dân tộc là hướng tới nền văn hóa xã hội chủ nghĩa mà các nhà kinh điển của
chủ nghĩa Mác - Lênin đã đề cập đến. Tuy nhiên, do những giới hạn của lịch
sử, Mác, ăngghen, Lênin chưa thể có những câu trả lời về mặt lý luận đối với
nhiều hiện tượng văn hóa của hôm nay. Từ thực tiễn xây dựng nền văn hóa mới
ở nước ta trong quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện thực hiện kinh
tế thị trường và tác động mạnh mẽ của quá trình toàn cầu hóa đặt ra cho lý luận
văn hóa nhiều vấn đề cần giải đáp. Với những điều kiện có tính đặc thù như
thế, bài học nghiên cứu lý luận văn hóa phải gắn liền với thực tiễn dân tộc có
thể giúp các nhà nghiên cứu không chỉ có những sáng tạo trong việc vận dụng
lý thuyết văn hóa để xử lý những vấn đề cụ thể của văn hóa Việt Nam mà có
thể có những bổ sung lý luận mà ở đây là tiếp tục phát triển chủ nghĩa Mác Lênin, làm cho nó trở thành một học thuyết hoàn chỉnh, có giá trị phổ quát.
Thứ hai, tiếp thu có hệ thống thành tựu lý luận văn hóa thế giới. Nếu như ở
đầu thế kỷ XX, các học giả Việt Nam đã tiếp nhận lý luận văn hóa bên ngoài để
vận dụng vào thực tiễn của dân tộc thì ngày nay việc tiếp thu đó càng có ý
nghĩa hơn bao giờ hết. Mặc dù là một ngành khoa học mới ra đời nhưng trong
hơn một thế kỷ qua khoa học về văn hóa đã có bước phát triển nhanh chóng với
nhiều lý thuyết văn hóa ra đời. Đó là thành tựu chung của thế giới và có những
giá trị phổ quát đối với văn hóa các dân tộc. Hơn nữa, trong quá trình toàn cầu
hóa hiện nay, muốn hội nhập mạnh mẽ với thế giới, văn hóa Việt Nam phải
tăng cường đối thoại với các nền văn hóa khác, lý luận văn hóa của Việt Nam
phải vươn lên đạt trình độ phổ quát của thế giới và đóng góp tiếng nói của mình
cho những thành tựu chung đó. Như vậy, việc tiếp thu lý luận văn hóa của thế
giới trong giai đoạn hiện nay nhằm mục đích hiện đại hóa lý luận văn hóa Việt
Nam là đòi hỏi khách quan trên con đường hội nhập thế giới, vấn đề đặt ra ở
đây là trong điều kiện mới chúng ta phải tiếp thu cái gì và tiếp thu như thế nào?
Nghiên cứu lý luận về văn hóa trong giai đoạn này nhằm mục tiêu giải quyết
những vấn đề của văn hóa dân tộc mà không hướng tới xây dựng lý thuyết
văn hóa cho nên như đã trình bày ở trên, những kết quả nghiên cứu mới chỉ
dừng ở việc nhận thức lý luận về văn hóa mà chưa tạo ra được hệ thống
những khái niệm, phạm trù, quy luật của một lý thuyết. Những kết quả này
không thể đạt đến sự sáng tạo thực sự, đi xa hơn nữa trên cơ sở những thành
tựu đã tiếp nhận được, vấn đề ở đây là chúng ta đã không tiếp thu có hệ
thống các lý thuyết văn hóa của thế giới. Nó bắt nguồn từ cơ chế tiếp nhận
của văn hóa Việt Nam, một nền văn hóa mở thâu nhận các yếu tố của nhiều
nền văn hóa khác nhau. Đó là sự tiếp nhận không theo hệ thống mà chỉ lựa
chọn những giá trị phù hợp “chỉ nhận vào mình những gì mình muốn và
những gì phù hợp với mình theo nguyên tắc thêm bớt lấy bỏ” [2] và cách tiếp
nhận không hệ thống này “mang tính thực dụng, nông nổi nên thường quy
giản và làm biến đổi bản nguyên”2. Do đó, muốn hiểu các lý thuyết một cách
sâu sắc, bản chất để từ đó tiếp thu và có sáng tạo thực sự thì phải nghiên cứu
có hệ thống, lần ngược trở lại gốc vấn đề, từ lý thuyết văn hóa tới các học
thuyết triết học. Con đường này có thể giúp công tác nghiên cứu lý luận văn
hóa ở nước ta đi xa hơn, giải quyết được những vấn đề thực tiễn đang đặt ra.
4. Một số kiến nghị đối với công tác nghiên cứu lý luận văn hóa hiện nay
Với những gì trình bày ở trên cho thấy lý luận văn hóa đã đóng góp
phần quan trọng trong sự phát triển của văn hóa dân tộc, nhất là từ khi Đề
cương văn hóa Việt Nam ra đời đã tham gia trực tiếp vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc, giải phóng văn hóa để xây dựng một nền văn hóa mới. Lý
luận văn hóa đã trở thành một bộ phận và ngày càng có tác động lớn trong
nền văn hóa mới đó. Trong giai đoạn hiện nay, khi đất nước đang đẩy mạnh
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mục tiêu định hướng phát triển văn
hóa được xác định là: xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản
sắc dân tộc. Xây dựng văn hóa Việt Namtrong điều kiện toàn cầu hóa đang
diễn ra mạnh mẽ tác động đến tất cả các quốc gia dân tộc, hội nhập sâu rộng
hơn với thế giới đang là nhu cầu bức thiết trên con đường phát triển của đất
nước. Những vấn đề đặt ra đối với văn hóa dân tộc hồi đầu thế kỷ XX dường
như lặp lại: hiện đại hóa văn hóa dân tộc, giữ gìn bản sắc văn hóa nhưng
thách thức thì lớn hơn nhiều. Mặt khác, khi chúng ta bước vào thực hiện
công nghiệp hóa, phát triển nền kinh tế thị trường, văn hóa Việt Nam đã bộc
lộ nhiều hạn chế, bất cập và hàng loạt các vấn đề mới nảy sinh. Nghiên cứu
lý luận văn hóa đang đứng trước những yêu cầu hết sức nặng nề là phải tổng
kết thực tiễn xây dựng văn hóa, giải đáp những vấn đề văn hóa đang nảy
sinh để mở đường cho văn hóa dân tộc phát triển, góp phần vào thành công
của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Với những gì đã đạt
được của nghiên cứu lý luận văn hóa thời gian qua so với yêu cầu của thực
tiễn xây dựng văn hóa dân tộc, với sự phát triển mạnh mẽ của lý luận văn
hóa trên thế giới thì công tác nghiên cứu lý luận văn hóa hiện nay có rất
nhiều việc phải làm, phải hiện đại hóa lý luận văn hóa để vượt lên, rút ngắn
khoảng cách so với trình độ của thế giới. Bài viết xin đưa ra một số kiến
nghị sau:
Thứ nhất, nhận thức đúng vị trí của nghiên cứu lý luận văn hóa như một bộ phận
của nền văn hóa Việt Nam để từ đó có chính sách đầu tư nguồn lực con người,
tài chính tạo môi trường thuận lợi cho công tác nghiên cứu lý luận văn hóa.
Thứ hai, nhân tố quyết định nhất cho sự phát triển của lý luận văn hóa ở
nước ta vẫn là yếu tố con người. Nếu trong những giai đoạn trước đây, do
những điều kiện khách quan, lực lượng nghiên cứu lý luận văn hóa còn ít thì
ngày nay muốn hiện đại hóa lý luận văn hóa phải có một đội ngũ những nhà
nghiên cứu lý luận có tính chuyên nghiệp cao để chúng ta có được một
chuyên ngành lý luận văn hóa đủ sức vươn ra trình độ của thế giới. Trên
thực tế, số người chuyên nghiên cứu lý luận văn hóa không nhiều, chúng ta
đang thiếu hụt đội ngũ chuyên gia lý luận văn hóa, cho nên Nhà nước cần
chú trọng đến việc xây dựng cho được một lực lượng những người nghiên
cứu lý luận văn hóa có trình độ cao. Ngoài quan tâm đến việc đào tạo, bồi
dưỡng kể cả việc cử những nhân tài đi học ở nước ngoài thì điều quan trọng
là tạo ra một môi trường thuận lợi để cho lực lượng này có thể sáng tạo và
cống hiến cho đất nước. Đó là một môi trường nghiên cứu khoa học thực sự
dân chủ. Đồng thời cần tăng cường dịch và xuất bản rộng rãi những tác
phẩm kinh điển và những tài liệu mới về lý luận văn hóa - những cuốn sách
không phải là ăn khách nên cần có sự tài trợ của Nhà nước.
Thứ ba, phải xây dựng bộ giáo trình lý luận văn hóa. Hiện nay, trong việc giảng
dạy và học tập bộ môn lý luận văn hóa nhu cầu có giáo trình riêng rất lớn. Trên
thực tế, mới chỉ có cuốn Cơ sở lý luận văn hóa Mác - Lênin của A.I. ácnônđốp
được dịch từ năm 1976 đến nay đã có nhiều bất cập, Giáo trình lý luận văn hoá
và đường lối văn hoá của Đảng của Viện Văn hoá và Phát triển (Học viện
CTQG Hồ Chí Minh), một số sách tham khảo như cuốn Mấy vấn đề lí luận và
thực tiễn văn hoá ở nước ta của GS Hoàng Vinh, còn lại hầu hết những tri thức
lý luận văn hóa vẫn chỉ được đề cập rải rác trong các công trình nghiên cứu văn
hóa, chứ chưa có một giáo trình lý luận văn hóa. Đã đến lúc nên khuyến khích
các nhà khoa học biên soạn những bộ giáo trình riêng về lý luận văn hóa, cập
nhật và tiếp cận với những thành tựu của khoa học về văn hóa hiện đại của thế
giớ