Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước ASEAN và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.18 MB, 85 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

NGUYỄN THỊ THÁI AN

Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngồi của các nước ASEAN và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam

luận văn thạc sĩ kinh tế

Hà nội - 2006


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA KINH TẾ

NGUYỄN THỊ THÁI AN

Chính sách thu hút vốn đầu tư trực tiếp
nước ngồi của các nước ASEAN và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam

Mã số

: 5.02.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Xuân Thiên


Hµ néi - 2006


MỤC LỤC
Mở đầu ............................................................................................................. 2
Chƣơng 1. Một số vấn đề lý luận về cơng tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng
cho sinh viên nƣớc ta hiện nay ............................................................. 11
1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng ........................ 11
1.2. Một số khái niệm có liên quan ............................................................... 13
1.3. Sự cần thiết, những nội dung và phương thức cơ bản của công tác
giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên nước ta trong các trường
đại học, cao đẳng trong giai đoạn hiện nay ............................................. 17
Chƣơng 2. Thực trạng cơng tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng cho sinh
viên nƣớc ta (qua khảo sát thực tiễn ở một số trƣờng đại học và
cao đẳng tại khu vực Hà Nội) và một số kinh nghiệm ....................... 26
2.1. Thực trạng cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên
ở các trường đã khảo sát .......................................................................... 28
2.2. Những bài học kinh nghiệm rút ra .......................................................... 55
2.3. Đánh giá chung về tình hình chính trị, tư tưởng của sinh viên và
cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên. Những vấn đề
đặt ra đối với cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên.......... 60
Chƣơng 3. Phƣơng hƣớng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục
tăng cƣờng và nâng cao hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tƣ
tƣởng cho sinh viên nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. ..................... 65
3.1. Phương hướng thực hiện cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh
viên nước ta trong giai đoạn hiện nay ..................................................... 65
3.2. Một số giải pháp chủ yếu ........................................................................ 66
3.3. Một vài kiến nghị về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên
nước ta trong thời gian tới ....................................................................... 73

Kết luận ......................................................................................................... 79
Danh mục tài liệu tham khảo ...................................................................... 81

1


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên các trường đại học
và cao đẳng ở nước ta trong những năm gần đây đã được các ngành, các cấp
quan tâm, đặc biệt là lãnh đạo ngành, Đảng uỷ, Ban giám hiệu các trường đại
học, cao đẳng. Công tác này được coi là nhiệm vụ hàng đầu, là một bộ phận
quan trọng chủ yếu trong tồn bộ q trình tổ chức đào tạo ở các trường đại
học và cao đẳng.
Sinh viên trong các trường đại học và cao đẳng là đối tượng đã được
tuyển chọn, có trình độ văn hố, có sức khoẻ, có phẩm chất chính trị và đạo
đức tốt. Đây là bộ phận có trình độ cao trong đội ngũ đồn viên, thanh niên cả
nước, đang được đào tạo thành cán bộ khoa học - kỹ thuật - công nghệ, cán bộ
quản lý, nghiệp vụ, cán bộ văn hoá - nghệ thuật, phục vụ sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước. Phần lớn sinh
viên nước ta được giác ngộ về lý tưởng xã hội chủ nghĩa, có bản lĩnh, tự tin,
có tinh thần vượt khó để học tập. Nhiều sinh viên trăn trở, suy nghĩ về những
vấn đề của đất nước, ủng hộ đường lối đổi mới của Đảng, mong muốn đất
nước nhanh chóng thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, thực hiện mục
tiêu "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" theo định
hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong điều kiện đất nước mở cửa, được giao lưu, tiếp xúc với nhiều
luồng văn hoá, nghệ thuật trên thế giới, nhưng đa số sinh viên nước ta nói
chung vẫn giữ được bản lĩnh và truyền thống dân tộc, có lối sống lành mạnh,
biết tự trọng và giữ gìn nhân cách. Họ khơng để kẻ xấu lợi dụng, kích động

gây chia rẽ, mất ổn định chính trị - xã hội.
Niềm tin của sinh viên vào Đảng và sự nghiệp đổi mới do Đảng khởi
xướng, lãnh đạo ngày càng được củng cố vững chắc. Từ niềm tin đó, lý tưởng
cách mạng được hình thành, củng cố và giữ vững. Số đơng sinh viên có hồi

2


bão lập thân, lập nghiệp. Sinh viên quan tâm nhiều hơn đến những vấn đề thời
cuộc, đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, đến những thành
tựu của cơng cuộc đổi mới; tích cực tham gia vào việc phòng chống tội phạm
và các tệ nạn xã hội.
Thái độ, ý thức chính trị của sinh viên ngày càng được nâng cao. Sinh
viên tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động chính trị - xã hội mang ý
nghĩa giáo dục sâu sắc. Phong trào phấn đấu vươn lên Đảng và tỷ lệ sinh viên
được kết nạp vào Đảng ở nhiều trường đại học, cao đẳng ở Hà Nội ngày càng
cao, nhất là từ năm 1998, sau khi có chỉ thị 34 - CT/TW của Bộ Chính trị về
“Tăng cường cơng tác chính trị, tư tưởng, củng cố tổ chức Đảng, đồn thể
quần chúng và cơng tác phát triển Đảng viên trong các trường học” [11].
Bên cạnh những mặt tốt, tích cực của đại đa số sinh viên nước ta, vẫn
còn tồn tại những mặt tiêu cực trong một bộ phận sinh viên. Họ mơ hồ về lý
tưởng cách mạng, ngại tham gia các hoạt động đoàn thể; thờ ơ với chính trị,
thờ ơ với số phận của đất nước, với lợi ích chung của đất nước, của tập thể; ý
chí phấn đấu chưa cao. Một bộ phận nhỏ sinh viên chưa có lý tưởng; lịng tin
đối với Đảng, niềm tin vào lý tưởng cách mạng, vào chủ nghĩa xã hội giảm
sút nghiêm trọng. Nhiều sinh viên còn lười học; mục tiêu, động cơ học tập
không rõ ràng, thậm chí lệch lạc, vi phạm nội quy, quy chế, thiếu trung thực
trong học tập, gian lận trong thi cử. Một số khơng nhỏ sinh viên nặng về địi
quyền hưởng thụ, địi hỏi các quyền lợi cá nhân mà khơng nghĩ đến nghĩa vụ
và trách nhiệm cống hiến.

Trong lối sống, trong quan hệ tình bạn, tình yêu, nhiều sinh viên cịn có
xu hướng thực dụng, phóng túng, thiếu trách nhiệm với nhau, xa lạ với đạo
đức và lối sống, với truyền thống của người Việt Nam.
Tệ nạn xã hội, nhất là mại dâm, cờ bạc trong sinh viên tuy có giảm
nhưng chưa triệt để. Tình trạng mê tín dị đoan trong một bộ phận sinh viên có
chiều hướng gia tăng. Một số lực lượng phản động lợi dụng tôn giáo đang

3


dùng nhiều thủ đoạn lôi kéo, lừa gạt sinh viên. Những hiện tượng không lành
mạnh này đang làm ảnh hưởng tới ý thức chính trị và chất lượng học tập, rèn
luyện của sinh viên.
Là một cán bộ làm công tác quản lý Phịng Chính trị và Cơng tác sinh
viên, đồng thời giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí
Minh ở trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, đào tạo ra các hoạ sỹ
mỹ thuật ứng dụng, chúng tôi băn khoăn, trăn trở trước những tồn tại trên đây
của sinh viên.
Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương khoá IX
trong khi đề cập đến phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục đổi mới giáo
dục từ nay đến năm 2010, đã nhấn mạnh yêu cầu phải "Thực hiện giáo dục
toàn diện, tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục, nhất là trong các
trường đại học, cao đẳng; đặc biệt chú trọng giáo dục chính trị - tư tưởng, đạo
đức, lối sống..." [17, tr.46] cho thế hệ trẻ.
Trong Luật Giáo dục sửa đổi năm 2005, Điều 2 Chương I xác định:
"Mục tiêu giáo dục là đào tạo con người Việt Nam phát triển tồn diện, có
đạo đức, tri thức, sức khoẻ, thẩm mỹ và nghề nghiệp, trung thành với lý tưởng
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách,
phẩm chất và năng lực của công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc" [20, tr.27].

Từ thực tiễn giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh, từ thực tiễn thực hiện các hoạt động giáo dục của Phịng Chính trị
và Công tác sinh viên, chúng tôi lựa chọn nghiên cứu và thực hiện đề tài
"Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên nước ta trong
giai đoạn hiện nay (qua thực tiễn một số trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội
từ năm 2000 đến nay)". Việc nghiên cứu đề tài nhằm tìm ra một số phương
hướng, giải pháp chủ yếu để tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo

4


dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên, từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân
lực, phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên là một lĩnh vực có
liên quan tới nhiều ngành, nhiều cấp, nhiều tổ chức đoàn thể trong xã hội.
Đảng và Nhà nước, Bộ Giáo dục Đào tạo, Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh đã có nhiều nghị quyết, văn bản đề cập đến vấn đề này. Ở nước ta từ
trước đến nay, vấn đề này cũng đã có một số tác giả nghiên cứu. Năm 1998,
tác giả Nguyễn Quang Thẩm ở Học viện Qn y có cơng trình nghiên cứu
"Nâng cao phẩm chất chính trị - đạo đức cho sinh viên quân y trong hình
hình hiện nay" [22]. Trong cơng trình này, tác giả đã khảo sát thực trạng
chính trị - đạo đức của sinh viên quân y, thực trạng công tác giáo dục này và
nguyên nhân, từ đó nêu ra một số giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục
phẩm chất chính trị, đạo đức cho sinh viên Quân y.
Năm 1999, tác giả Bùi Văn Thảo có tiến hành một đề tài nghiên cứu
"Nâng cao chất lượng dạy và học các bộ mơn lý luận chính trị Mác - Lênin ở
trường Đại học Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh" [23]. Sau khi xác định một
số mặt đã đạt được và những tồn tại của việc dạy và học các môn Lý luận
chính trị Mác - Lênin cũng như chỉ ra những nguyên nhân của tình hình, tác

giả nêu ra phương hướng chung và một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy
và học các môn này ở trường Đại học Kỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh bao
gồm các vấn đề như: Nâng cao nhận thức của cán bộ quản lý, giảng viên và
sinh viên về vị trí, vai trị của các môn Lý luận Mác - Lênin; Nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy các bộ môn này; Thực hiện nghiêm túc nội
dung, chương trình, quy chế dạy và học do Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định;
Phối hợp chặt chẽ giữa tổ Mác - Lênin, phòng cơng tác chính trị tư tưởng,
Đồn Thanh niên, Phịng Đào tạo, Hội sinh viên và các bộ phận hữu quan
khác trong cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng và quản lý sinh viên; Cuối

5


cùng là cung cấp đầy đủ tài liệu và các phương tiện cần thiết cho việc dạy và
học các môn khoa học Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Năm 2005, tác giả Nguyễn Mạnh Tiến, Phó Vụ trưởng Vụ Quy hoạch
Cán bộ thuộc Ban Tổ chức Trung ương đã viết bài "Giáo dục Lý luận Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường đại học" [24, tr.17-19]. Trong
bài viết này, tác giả đã đánh giá một số kết quả đạt được và những tồn tại của
công tác giáo dục lý luận Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các
trường đại học. Trên cơ sở đánh giá thực trạng, tác giả đã đề xuất một số giải
pháp nâng cao chất lượng giáo dục lý luận Mác-Lênin trong các trường đại
học, cao đẳng.
Trong "Hội thảo phối hợp giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống cho học
sinh, sinh viên giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng" do Bộ Giáo dục và
Đào tạo tổ chức tại Đồ Sơn tháng 11/2005, có một số tác giả cũng đã nghiên
cứu, tìm tịi một số giải pháp phối hợp giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống
cho sinh viên. Tác giả Đinh Xuân Dũng, Vụ trưởng Vụ Xuất bản - Ban Tư
tưởng - Văn hóa Trung ương có bài viết "Tăng cường và đổi mới công tác
giáo dục tư tưởng cho học sinh, sinh viên theo định hướng của Đảng trong
giai đoạn mới" [7, tr.9], trong đó xác định nội dung của việc giáo dục tư

tưởng cho sinh viên, học sinh là "Giáo dục tình yêu đối với Tổ quốc và nhân
dân, là giáo dục lý tưởng sống cao đẹp vì chủ nghĩa xã hội, là giáo dục quan
điểm, ý thức và trình độ chính trị cho học sinh, sinh viên".
Trong "Báo cáo tổng kết 7 năm thực hiện Chỉ thị 34 - CT/TW của Bộ
Chính trị (khố VIII) về "Tăng cường cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
củng cố tổ chức đảng, đồn thể, quần chúng và cơng tác phát triển đảng
trong trường học" [7, tr.94], Thứ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Trần Văn
Nhung đã đánh giá: Tình hình chính trị, tư tưởng, đạo dức, lối sống của học
sinh, sinh viên đã có nhiều chuyển biến tích cực, song vẫn cịn nhiều tồn tại
như mơ hồ về lý tưởng, vi phạm các tệ nạn xã hội, chưa có động cơ học tập
đúng đắn,... Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên đã được các

6


trường coi trọng, đạt được nhiều ưu điểm, song cũng còn nhiều tồn tại, việc
thực hiện chưa liên tục, chưa được nhận thức đầy đủ; Đội ngũ thực hiện còn
nhiều yếu kém về năng lực; Đầu tư còn thiếu và chưa có hiệu quả,...
Như vậy, có thể nói, trong gần chục năm, đặc biệt trong 5 năm trở lại
đây (2000 - 2005), đã có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều bài viết đề cập
đến chất lượng đào tạo các môn lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
trong đó có đề cập đến cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng như là một trong
những hoạt động của các trường đại học và cao đẳng ở nước ta. Tuy nhiên,
chưa có nhiều những cơng trình nghiên cứu một cách trực tiếp, có hệ thống và
tồn diện đánh giá thực trạng, tìm ra những phương hướng và giải pháp tăng
cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh
viên trong các trường đại học và cao đẳng trong cả nước nói chung, ở Hà Nội
nói riêng. Luận văn này là một cố gắng của tác giả nhằm đi sâu nghiên cứu,
làm rõ thêm mảng đề tài vốn đang được cả xã hội quan tâm hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn

* Mục đích của luận văn:
Thơng qua khảo sát thực trạng của cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng
ở một số trường đại học, cao đẳng, bước đầu đề xuất phương hướng và một số
giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả của công tác này đối với
sinh viên nước ta trong giai đoạn hiện nay, góp phần cung cấp nguồn nhân lực
có chất lượng, đáp ứng được u cầu của sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại
hóa đất nước.
* Nhiệm vụ của luận văn:
Để đạt được mục đích trên đây, luận văn tập trung thực hiện những
nhiệm vụ sau:
- Làm rõ vị trí, vai trị và những u cầu của cơng tác giáo dục chính
trị, tư tưởng cho sinh viên nước ta trong giai đoạn hiện nay.

7


- Bước đầu khảo sát thực trạng, nguyên nhân và tìm hiểu những vấn đề
đặt ra đối với cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên một số
trường đại học, cao đẳng ở Hà nội từ năm 2000 đến nay.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục
tăng cường và nâng cao hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
sinh viên nước ta.
4. Cơ sở phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở phương pháp luận của đề tài là phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị quyết của Đảng qua các kỳ đại hội;
các văn bản chỉ đạo và tổng kết, đánh giá của Bộ Giáo dục và Đào tạo về vấn
đề giáo dục chính trị, tư tưởng đối với tầng lớp trí thức nói chung, đối với đội
ngũ sinh viên nói riêng.

* Phương pháp nghiên cứu: Từ góc độ chính trị - xã hội, luận văn sử
dụng các phương pháp lô gic và lịch sử; phương pháp hệ thống hóa và phân
tích, tổng hợp các tài liệu lý luận và tư liệu thực tiễn, phương pháp điều tra xã
hội học, phương pháp nghiên cứu điển hình (case study) để nghiên cứu đề tài
này.
5. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên là một vấn đề phức
tạp, rộng lớn và nhạy cảm, liên quan đến nhiều ngành, nhiều cấp và nhiều tổ
chức xã hội, đoàn thể.
Trong trường đại học và cao đẳng cũng có rất nhiều tổ chức (Đảng ủy,
Ban Giám hiệu, các tổ chức đoàn thể như Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, các
phòng ban chức năng như quản trị, đào tạo, quốc phòng an ninh, giáo dục thể
chất, các bộ mơn...), bằng nhiều hình thức hoạt động khác nhau cùng mục
đích giáo dục ý thức chính trị, tư tưởng cho sinh viên.

8


Do mơi trường cơng tác và tính chất của cơng việc, do thời gian và điều
kiện nghiên cứu còn hạn chế nên đề tài chỉ tập trung đi sâu nghiên cứu thực
trạng thực hiện cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng thông qua khảo sát thực
tiễn thực hiện công tác này ở trường Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội,
trên cơ sở có đối chiếu với tài liệu tổng kết, đánh giá thực hiện công tác này
của một số trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội; Từ đó xác định một số
phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả tổ
chức thực hiện cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên của trường
Đại học Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, các trường đại học và cao đẳng ở Hà
Nội nói riêng và các trường đại học và cao đẳng trong cả nước nói chung.
Việc khảo sát thực trạng thực hiện công tác này giới hạn trong phạm vi
đánh giá chức năng và các hoạt động của phòng Chính trị và Cơng tác sinh

viên; qua thực tiễn giảng dạy các môn khoa học Mác - Lênin từ năm 2000 đến
nay.
6. Đóng góp của luận văn
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận về cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng
cho sinh viên nước ta.
Góp phần phân tích, khái qt thực tiễn cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho sinh viên của một số trường đại học và cao đẳng ở Hà Nội trong
giai đoạn hiện nay.
Nêu lên một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục tăng
cường và nâng cao hiệu quả công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh
viên trong các trường đại học và cao đẳng ở nước ta hiện nay.
Các kết quả nghiên cứu của luận văn được dùng làm tài liệu tham khảo
cho những người làm công tác Đảng, cơng tác chính trị, cơng tác Đồn Thanh
niên, Hội Sinh viên cũng như những người làm công tác quản lý trong các
trường đại học, cao đẳng. Ngoài ra, các kết quả nghiên cứu của luận văn cũng
được dùng làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác giảng dạy

9


chính trị nhằm thơng qua việc giảng dạy chun ngành của mình để nâng cao
hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn gồm có 3 chương.
Chương 1. Một số vấn đề lý luận về cơng tác giáo dục chính trị, tư
tưởng cho sinh viên ở nước ta hiện nay.
Chương 2. Thực trạng công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh
viên nước ta (qua khảo sát thực tiễn ở một số trường đại học và cao đẳng tại
khu vực Hà Nội) và một số kinh nghiệm.

Chương 3. Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục
tăng cường và nâng cao hiệu quả cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
sinh viên nước ta trong giai đoạn hiện nay.

Chƣơng 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CÔNG TÁC GIÁO DỤC
CHÍNH TRỊ, TƢ TƢỞNG CHO SINH VIÊN NƢỚC TA HIỆN NAY
1.1. Quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc ta về công tác giáo dục chính
trị, tƣ tƣởng cho sinh viên trong các trƣờng đại học, cao đẳng

10


Trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, Đảng và Nhà nước ta luôn
coi trọng bồi dưỡng và phát triển đội ngũ trí thức... Vườn ươm đội ngũ trí
thức cách mạng chính là các trường đại học, cao đẳng. Ngay trong điều kiện
biến động hết sức phức tạp của tình hình thế giới hiện nay cũng như dưới sự
tác động của nền kinh tế thị trường và sự hội nhập, mở cửa, Đảng và Nhà
nước ta vẫn luôn đề cập tới cơng tác bồi dưỡng, giáo dục chính trị, tư tưởng
cho cán bộ, đảng viên nói chung, cho tầng lớp trí thức nói riêng. Điều đó được
thể hiện trong các văn kiện, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Ngày 30 tháng 5 năm 1998, Bộ Chính trị (Khoá VIII) đã ra Chỉ thị 34 CT/TW về "Tăng cường cơng tác chính trị, tư tưởng, củng cố tổ chức đảng,
đồn thể quần chúng và cơng tác phát triển đảng viên trong trường học" (gọi
tắt là Chỉ thị 34) [11]. Đây là một Chỉ thị hết sức quan trọng nhằm xây dựng
tổ chức Đảng và các đoàn thể quần chúng trong trường học, tăng cường cơng
tác chính trị, tư tưởng, rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ giáo viên,
học sinh, sinh viên; Nâng cao chất lượng và hiệu quả giảng dạy, học tập các
môn khoa học Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh trong các trường học.
Sau khi có Chỉ thị 34 của Bộ Chính trị, ngày 18/6/1998, Bộ trưởng Bộ Giáo
dục và Đào tạo đã có Chỉ thị số 39/1998/CT - BGD&ĐT về việc kiện tồn tổ

chức lại bộ máy làm cơng tác chính trị, tư tưởng trong các trường đại học và
cao đẳng. Trên cơ sở đó, hàng trăm trường đại học, cao đẳng bắt đầu tái lập
Phịng Chính trị và Cơng tác sinh viên. Chỉ thị 34 đã tạo cơ sở pháp lý thành
lập bộ phận chuyên trách công tác sinh viên, mà một trong các chức năng của
nó là tổ chức, quản lý và giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên.
Để tăng cường cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức và lối
sống cho học sinh, sinh viên, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ký với Trung ương
Đồn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Nghị quyết liên tịch số 32/1998/NQ
- BGD & ĐT - TWĐTN về việc "Tăng cường công tác giáo dục thanh thiếu
nhi và xây dựng Đoàn, Hội, Đội giai đoạn 1998 - 2002" và sau đó là Nghị
quyết liên tịch số 10/2003/NQ - BGD & ĐT - TWĐTN về "Tăng cường công

11


tác học sinh, sinh viên và xây dựng Đoàn, Hội, Đội trong trường học giai
đoạn 2003 -2007".
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam
đã khẳng định: "Xây dựng Đảng ngày càng vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức là nhiệm vụ then chốt... Trong tình hình hiện nay, phải rất chú
trọng giáo dục, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng
của cán bộ - đảng viên" [14, tr.111-112]. Sau chủ trương này, việc giáo dục,
rèn luyện bản lĩnh chính trị, tư tưởng cho các tầng lớp nhân dân, trong đó có
đội ngũ trí thức và học sinh, sinh viên được chú ý hơn.
Tiếp theo, trong Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, tại
mục 5 "Phát triển giáo dục và đào tạo, xây dựng nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc", Đảng ta chỉ rõ: "Tăng cường cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng,
đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên,..." [16, tr.110]. Như vậy, có thể nói,
cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên được khẳng định là một
nhiệm vụ tiên quyết trong trường đại học, cao đẳng.

Trong kết luận của Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương khóa
IX về "Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII", Đảng ta nhấn
mạnh vào các nhiệm vụ: "Tạo chuyển biến cơ bản về chất lượng giáo dục,
trước hết nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo, thực hiện giáo dục toàn diện,
đặc biệt chú trọng giáo dục chính trị, tư tưởng, nhân cách, đạo đức, lối sống
cho người học" .

12


1.2. Một số khái niệm có liên quan
1.2.1. Tư tưởng và hệ tư tưởng
Theo "Từ điển Tiếng Việt" [26] của NXB Khoa học Xã hội, tư tưởng là
sự nhìn nhận, là quan điểm, là sự phản ánh thế giới tự nhiên, xã hội của con
người một cách tích cực, tự giác. Theo "Đại từ điển Tiếng Việt" [27], tư tưởng
có hai nghĩa: Một là chỉ sự suy nghĩ của con người; hai là chỉ quan điểm và ý
nghĩ chung của con người đối với thế giới tự nhiên, xã hội. Như vậy, có thể
hiểu một cách thống nhất như sau: Tư tưởng là sự nhìn nhận, là quan điểm và
ý nghĩ chung của con người đối với thế giới tự nhiên và xã hội. Tư tưởng
thuộc phạm trù ý thức, nó tồn tại như một thực tế khách quan gắn liền với
hoạt động của con người. Tư tưởng là sản phẩm chủ quan của con người.
Nhưng tư tưởng của mỗi người lại phụ thuộc vào đối tượng phản ánh và trình
độ nhận thức của bản thân người đó. Sự vận động và phát triển của thực tại
khách quan tác động vào tư tưởng con nguời làm thay đổi nhận thức, tư tưởng
của họ.
Tư tưởng là bộ phận của ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã hội, chịu sự
quyết định của tồn tại xã hội. Tính chất, hiệu quả tác động của tư tưởng phụ
thuộc vào nhiều yếu tố như: Chế độ chính trị, mức độ phù hợp với thực tiễn,
khả năng truyền bá xâm nhập vào quần chúng. Sự tác động của tư tưởng diễn
ra theo các chiều hướng khác nhau: Có thể thúc đẩy xã hội phát triển nếu như

tư tưởng đó là tiến bộ, cách mạng; có thể kìm hãm sự phát triển của xã hội
nếu như đó là tư tưởng lạc hậu, lỗi thời, phản cách mạng. Tư tưởng tồn tại
trong lịch sử kế thừa những quan điểm tư tưởng trước đó. Sự kế thừa mang
tính chọn lọc, phê phán, sáng tạo.
Các tư tưởng cùng nhìn nhận thế giới theo một hướng được sắp xếp
một cách có hệ thống, lơ gic được gọi là hệ tư tưởng. Hệ tư tưởng là hệ thống
ý thức của một người hay một giai cấp do lợi ích của giai cấp chi phối. Nó có
giá trị chỉ đạo tư duy, hành động của con người vì lợi ích của giai cấp, chỉ đạo
hoạt động cải tạo thực tiễn của con người. Hệ tư tưởng tồn tại, phát triển cùng

13


lịch sử, có sự kế thừa, mang tính chọn lọc, phê phán, phát triển, sáng tạo. Hệ
tư tưởng được hệ thống hố thành lí luận, có tính xã hội và tính chiến đấu cao.
Hệ tư tưởng là những quan điểm, tư tưởng được con người tư duy một
cách tích cực, tự giác, được hệ thống hố thành lí luận, thành học thuyết chính
trị. Nó phản ánh tồn tại xã hội và đại diện cho một giai cấp nhất định.
Hệ tư tưởng mang tính giai cấp. Lênin đã từng khẳng định: Hoặc là hệ
tư tưởng của giai cấp vô sản, hoặc là hệ tư tưởng của giai cấp tư sản chứ
không có hệ tư tưởng trung gian thứ 3.
1.2.2. Chính trị
Theo "Từ điển Tiếng Việt" [26] của NXB Khoa học Xã hội, chính trị
chỉ "Quan hệ của một giai cấp này đối với một giai cấp khác trong cuộc đấu
tranh nhằm giành địa vị thống trị và chính quyền trong nước". Theo "Đại từ
điển Tiếng Việt" [27], nghĩa thứ nhất, xét ở phạm vi giai cấp, quốc gia "Chính
trị là những vấn đề về điều hành bộ máy nhà nước hoặc những hoạt động của
giai cấp nhằm giành điều kiện duy trì quyền điều hành nhà nước". Cách hiểu
thứ hai, chính trị được hiểu nghiêng về mặt nhận thức, ý thức giai cấp ở người
hoặc một bộ phận người, "Chính trị là những hiểu biết về mục đích, đường lối

đấu tranh của các chính đảng cũng như đơng đảo quần chúng (Ví dụ như cơng
tác chính trị, giáo dục ý thức chính trị)". Cách hiểu thứ hai cũng gần đồng
nhất với cách hiểu trong "Từ điển Chính trị": Chính trị phản ánh cuộc đấu
tranh giai cấp, do địa vị kinh tế của những giai cấp đó quyết định... Chính trị
là biểu hiện tập trung của kinh tế [25, tr.97].
Mỗi cá nhân đều đứng trong một giai cấp, tầng lớp xã hội nhất định.
Mỗi cá nhân cũng có ý thức chính trị, có địa vị chính trị nhất định trong xã
hội. Ở phạm trù cá nhân, chính trị có thể hiểu là ý thức, là nhận thức của mỗi
cá nhân đối với địa vị kinh tế của giai cấp mình, hiểu về mục đích, đường lối
đấu tranh của giai cấp mình.

14


Từ những cách hiểu trên trong từ điển, có thể hiểu chính trị, tư tưởng là
quan điểm lý luận, là chính kiến, là thế giới quan của mỗi người đối với thế
giới, đối với chế độ xã hội, đối với sự giác ngộ về lợi ích giai cấp và địa vị
của giai cấp đó trong xã hội. Nó được hình thành và phát triển trong quá trình
sống, hoạt động của con người. Nó thể hiện lý tưởng, mục tiêu, lẽ sống của
mỗi người.
1.2.3. Giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên trong các trường đại
học, cao đẳng hiện nay
Đối với sinh viên nước ta hiện nay, chính trị, tư tưởng được hiểu là
những nhận thức, hiểu biết về thế giới, về giai cấp, về dân tộc dựa trên nền
tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên chủ trương,
đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Ngồi nhận thức, sinh viên
cần có quan điểm thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh quan cộng sản
chủ nghĩa. Các phẩm chất chính trị, tư tưởng của sinh viên không chỉ được
biểu hiện ở phạm trù ý thức, nhận thức, sự giác ngộ mà được biểu hiện cả ở
hành động, ý chí cải tạo thực tiễn, cải tạo xã hội và cải tạo bản thân, kiên

quyết phấn đấu vì mục tiêu của Đảng ta, đó là "độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội", đó là "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".
Ngồi ra, sinh viên cần có lập trường chính trị vững vàng, khơng bị các thế
lực thù địch, phản động lôi kéo, không bị sa vào các tệ nạn xã hội.
Từ nội hàm khái niệm chính trị, tư tưởng và các giá trị, phẩm chất
chính trị, tư tưởng cần thiết đối với sinh viên, có thể thấy giáo dục chính trị,
tư tưởng cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện
nay là hình thành cho sinh viên thế giới quan duy vật biện chứng, nhân sinh
quan cộng sản chủ nghĩa; là việc định hướng, hình thành lý tưởng sống của
mỗi người phấn đấu theo mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam, mục tiêu
của giai cấp cơng nhân Việt Nam, là lợi ích của dân tộc Việt Nam. Giáo dục
chính trị, tư tưởng cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt
Nam hiện nay còn là việc rèn luyện ý chí và năng lực cải tạo thực tiễn cho

15


sinh viên, là sự kiên định, quyết tâm đi theo con đường mà Đảng và Bác Hồ
đã lựa chọn, đó là mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Các nội dung
giáo dục này chỉ có tác dụng hình thành ý thức và phẩm chất chính trị, tư
tưởng cho sinh viên khi nó được xây dựng trên cơ sở nền tảng của chủ nghĩa
Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên trong các trường đại học, cao
đẳng ở Việt Nam hiện nay không chỉ là giáo dục ý thức chính trị, ý thức giai
cấp mà cịn là giáo dục ý chí học tập, kiên trì vượt khó, "lập thân, lập nghiệp,
không cam chịu nghèo hèn".
Không chỉ vậy, giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên cịn là giúp
sinh viên có đủ nghị lực, chiến thắng bản thân, chiến thắng những cám dỗ tiêu
cực, những tệ nạn xã hội, giáo dục hành vi sống đẹp; hình thành cho họ có
một đời sống tâm hồn lành mạnh, phát triển tồn diện con người.

1.2.4. Quan niệm về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh
viên trong các trường đại học, cao đẳng hiện nay
Để thực hiện được việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên trong
trường đại học, cao đẳng, cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên
là một trong những công tác trọng tâm. Nó khơng những chỉ ra phương thức
mà chỉ ra cả con đường thực hiện nội dung giáo dục trên trong nhà trường. Nó
khơng chỉ giúp cho việc hình thành các giá trị, phẩm chất chính trị, tư tưởng
cho sinh viên mà nó cịn nhằm hình thành nhân cách phát triển tồn diện cho
người lao động có chun mơn nghiệp vụ, giúp họ không chỉ đủ năng lực mà
cả phẩm chất, các tố chất cần thiết để trở thành những con người năng động,
sáng tạo, có đức, có tài.
Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên nước ta hiện nay
được hiểu là công tác tuyên truyền, giác ngộ thế giới quan duy vật, nhân sinh
quan cộng sản, giáo dục cho sinh viên nước ta lý tưởng cách mạng, mục tiêu,
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.

16


Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên nước ta hiện nay
cịn là cơng tác giáo dục truyền thống cách mạng, truyền thống lịch sử, hướng
về cội nguồn, công tác khơi dậy phong trào "đền ơn đáp nghĩa". Đó cịn là
cơng tác giáo dục bồi dưỡng, phát triển Đảng trong sinh viên.
Cơng tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho sinh viên nước ta hiện nay
còn là việc tổ chức các hoạt động giáo dục toàn diện, tạo ra điều kiện và môi
trường cho sinh viên tham gia, qua đó hình thành các giá trị, phẩm chất chính
trị, tư tưởng cho sinh viên. Đó cũng là việc tổ chức cho sinh viên rèn luyện và
tự rèn luyện; là việc xây dựng môi trường cho sinh viên rèn luyện.
Các hoạt động giáo dục toàn diện bao gồm cả hoạt động giảng dạy và
học tập nội khóa và ngoại khóa các kiến thức khoa học trong đó kiến thức lý

luận Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Bên cạnh dạy học,
cần tăng cường các hoạt động giáo dục ngoài giờ học như hoạt động xã hội,
sinh hoạt đồn thể, hoạt động lao động cơng ích, hoạt động văn nghệ, thể thao
- quân sự,...
1.3. Sự cần thiết, những nội dung và phƣơng thức cơ bản của cơng
tác giáo dục chính trị, tƣ tƣởng cho sinh viên nƣớc ta trong các trƣờng
đại học, cao đẳng trong giai đoạn hiện nay
1.3.1. Sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng
cho sinh viên trong các trường đại học, cao đẳng ở Việt Nam hiện nay

Sự cần thiết phải đẩy mạnh công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho
sinh viên xuất phát từ những căn cứ sau đây:
a) Sự địi hỏi của tình hình thế giới và Việt Nam cuối thế kỷ XX, đầu
thế kỷ XXI đối với việc hình thành nguồn nhân lực có chất lượng chính trị và
chun mơn cao.
Cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, sau khi chuyển đổi từ nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ
nghĩa; q trình hội nhập thế giới, q trình tồn cầu hóa cùng với sự liên kết

17


toàn cầu, rút ngắn khoảng cách giữa các nước nhờ sự phát triển của cơng nghệ
thơng tin; Tính chất nền kinh tế mỗi nước ngày càng phụ thuộc vào sự tồn
cầu hóa,... Tất cả các xu hướng trên địi hỏi mỗi người Việt Nam nói chung,
đội ngũ nhân lực trình độ cao nói riêng phải nhanh chóng nắm bắt các cơ hội
thuận lợi, thúc đẩy sự phát triển kinh tế của đất nước, cũng như sự nâng cao
trình độ khoa học, cơng nghệ, phát triển trí tuệ. Sự địi hỏi này của thực tiễn
cũng thúc ép sinh viên phải nhanh chóng, tranh thủ cơ hội học tập, đạt chất
lượng cao nhằm phục vụ xã hội, đất nước, dân tộc tốt hơn.

Tuy nhiên, cùng với những luồng gió mát, cả những luồng gió độc cũng
ùa vào địi hỏi mỗi cơng dân Việt Nam, mỗi sinh viên vừa phải có bản lĩnh
chống lại những luồng gió độc, tự bảo vệ bản thân trước những ảnh hưởng
tiêu cực của q trình tồn cầu hóa và phát triển kinh tế thị trường. Hơn nữa,
điều này đòi hỏi phải nâng cao bản lĩnh sống cho sinh viên, nâng cao ý thức
và bản lĩnh chính trị, giữ vững lập trường tư tưởng, kiên định lập trường Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định với mục tiêu và con đường mà
Đảng ta, dân tộc ta đã lựa chọn.
Ngoài yêu cầu về giáo dục bản lĩnh chính trị, lập trường giai cấp, nâng
cao ý thức hệ tư tưởng cho sinh viên, việc giáo dục động cơ học tập đúng đắn,
giáo dục ý thức và ý chí học tập cũng là một đòi hỏi đối với việc giáo dục
chính trị, tư tưởng cho sinh viên hiện nay.
b) Yêu cầu của giáo dục và sự phát triển của giáo dục trong xã hội hiện
đại nói chung, trong xã hội Việt Nam nói riêng.
Sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật, công nghệ và sự phát triển mạnh mẽ
của lực lượng sản xuất cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI đã làm bùng nổ các
cuộc vận động cải cách giáo dục ở các nước. Cuộc cải cách giáo dục lần thứ
ba của thế giới trong thế kỷ XX, khác với hai cuộc cải cách trước là hướng
trọng tâm vào cải cách quan niệm và kỹ thuật xây dựng chương trình, thiết kế
lại hệ thống các mơn học, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy

18



×