Tải bản đầy đủ (.docx) (102 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã thái sơn, huyện kinh môn, tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.06 MB, 102 trang )

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong đồ án là trung thực và chưa từng được sử dụng để bảo vệ một học vị
nào.
Tôi cam đoan rằng, mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện đồ án này đã được
cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong đồ án đều được chỉ rõ nguồn gốc.
Hà nội, ngày…. tháng…. năm 2015
Tác giả đồ án

Trịnh Thị Tố Uyên

1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài, tôi đã nhận được sự quan tâm
giúp đỡ nhiệt tình, sự đóng góp quý báu của nhiều cá nhân và tập thể, đã tạo điều
kiện thuận lợi để tôi hoàn thành đồ án này.
Lời đầu tiên, tôi xin chân thành cảm ơn ThS.Trần Xuân Biên, giảng viên Khoa
Quản lý Đất đai, Trường Đại học tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã trực tiếp
hướng dẫn tôi trong suốt thời gian nghiên cứu thực hiện đề tài.
Tôi xin cảm ơn sự góp ý chân thành của các Thầy, Cô giáo Khoa Quản lý
Đất Đai, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi
thực hiện đề tài.
Tôi xin chân thành cảm ơn Ban lãnh đạo Phòng Tài nguyên và Môi trường
huyện Kinh Môn, Chi cục thống kê huyện Kinh Môn, UBND xã Thái Sơn đã tạo
điều kiện giúp đỡ tôi trong thời gian nghiên cứu thực hiện đồ án tại địa phương.
Tôi xin cảm ơn tới gia đình, những người thân và bạn bè đã giúp đỡ tôi trong
quá trình thực hiện đề tài.
Tuy bản thân đã rất cố gắng, song bài khóa luận tốt nghiệp này không thể


tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đóng góp của các thầy, cô
giáo để đồ án tốt nghiệp được hoàn thiện hơn.
Một lần nữa tôi xin trân trọng cảm ơn !
Tác giả đồ án

Trịnh Thị Tố Uyên

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
LUT

: Land Use Type (Loại hình sử dụng đất)

FAO

: Food Agricultural Organization
( Tổ chức nông lương quốc tế)

SDĐ

: Sử dụng đất

CN


: Công nghiệp

NN

: Nông nghiệp

TM – DV

: Thương mại – Dịch vụ

TTCN

: Tiểu thủ công nghiệp

UBND

: Ủy ban nhân dân

BVTV

: Bảo vệ thực vật



: Lao động

GTSX

: Giá trị sản xuất


CPTG

: Chi phí trung gian

GTGT

: Giá trị gia tăng

GTNC

: Giá trị ngày công

ATLT

: An toàn lương thực

CNH – HĐH

: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

4


DANH MỤC BẢNG

5


MỞ ĐẦU

1. Đặt vấn đề
Đất đai là tài nguyên quốc gia, là tư liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn nội lực,
nguồn vốn to lớn của đất nước, là thành phần quan trọng của môi trường sống, là
địa bàn phân bố của các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an
ninh, quốc phòng. Chúng ta biết rằng không có đất thì không thể sản xuất, cũng
không có sự tồn tại của con người và đất là vị trí đặc biệt quan trọng với sản xuất
nông nghiệp.
Nông nghiệp là một hoạt động có từ xa xưa của loài người và hầu hết các
nước trên thế giới đều phải xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở phát triển nông
nghiệp dựa vào khai thác tiềm năng của đất, lấy đó làm bàn đạp cho việc phát triển
của các ngành khác. Vì vậy việc tổ chức khai thác sử dụng nguồn tài nguyên đất đai
hợp lý, có hiệu quả là nhiệm vụ quan trọng đảm bảo cho nông nghiệp phát triển bền
vững.
Trong những năm gần đây cùng với sự phát triển của đất nước, tốc độ đô thị
hóa và công nghiệp hóa của nước ta diễn ra rất nhanh. Diện tích đất canh tác để sản
xuất nông nghiệp bị thu hẹp, trong khi lực lượng lao động lại tăng rất nhanh do nhu
cầu về việc làm của các khu công nghiệp, khu chế xuất. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp
bước đầu đã gắn phương thức truyền thống với phương thức công nghiệp hoá và
đang từng bước giảm bớt tính tự cấp, tự túc, chuyển dần sang sản xuất và xuất khẩu
các mặt hàng nông sản hàng hóa.
Tập trung vào sản xuất nông sản hàng hoá theo nhóm ngành hàng, nhóm sản
phẩm, xuất phát từ cơ sở dự báo cung cầu của thị trường nông sản trong nước, thế
giới và dựa trên cơ sở khai thác tốt lợi thế so sánh của các vùng.
Xác định cơ cấu sản phẩm trên cơ sở các tiềm năng tự nhiên, kinh tế, xã hội
của từng vùng, lấy hiệu quả kinh tế tổng hợp làm thước đo để xác định cơ cấu, tỷ lệ
sản phẩm hợp lý về các chỉ tiêu, kế hoạch đối với từng nông sản hàng hoá.
Thái Sơn là một xã của huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Trong những năm
gần đây do quá trình xây dựng nông thôn mới quỹ đất nông nghiệp ngày càng bị thu

6



hẹp do chuyển sang mục đích khác ngoài nông nghiệp để phục vụ cho phát triển
kinh tế xã hội của xã.
Hiện nay, sản xuất nông nghiệp của xã không còn là độc canh cây lúa mà đã
từng bước cải thiện theo hướng sản xuất sản phẩm cung cấp cho thị trường trong và
ngoài xã trên địa bàn huyện thể hiện qua các loại hình sử dụng đất với nhiều kiểu sử
dụng đất khác nhau.Vì vậy, việc định hướng phát triển nông nghiệp trên cơ sở đánh
giá hiệu quả sử dụng đất là mục tiêu để chọn đề tài nghiên cứu: "Đánh giá hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã Thái Sơn, huyện Kinh Môn, tỉnh
Hải Dương”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và xác định các yếu
tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn xã.
- So sánh và đánh giá hiệu quả các loại hình sử dụng đất chính trên địa bàn
xã Thái Sơn.
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn
xã Thái Sơn.
3. Yêu cầu của đề tài.
- Nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, KT-XH đầy đủ và chính xác, các chỉ
tiêu phải đảm bảo tính thống nhất và tính hệ thống.
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp được áp dụng phương pháp
theo hệ thống tài khoản quốc gia với những chỉ tiêu phù hợp với điều kiện cụ thể
của xã.
- Các giải pháp đề xuất phải hợp lý về mặt khoa học và phải có tính thực thi.
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Đất đai và vai trò của đất trong sản xuất nông nghiệp
1.1.1. Khái niệm về đất
Đất là một phần của vỏ trái đất, nó là lớp phủ lục địa mà bên dưới nó là đá và

khoáng sinh ra nó, bên trên là thảm thực bì và khí quyển. Đất là lớp phủ thổ
nhưỡng, là thổ quyển, là một vật thể tự nhiên, mà nguồn gốc của thể tự nhiên đó là

7


do hợp điểm của 4 thể tự nhiên khác của hành tinh là thạch quyển, khí quyển, thủy
quyển và sinh quyển. Sự tác động qua lại của bốn quyển trên và thổ quyển có tính
thường xuyên và cơ bản. Đã có rất nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến
những khái niệm về đất.
Nhà bác học Đocutraiep (1846-1903) người đặt nền móng đầu tiên cho khoa
học đất cho rằng: “Đất là một vật thể có lịch sử tự nhiên hoàn toàn độc lập, nó là
sản phẩm tổng hợp của đá mẹ, khí hậu, sinh vật, địa hình và thời gian. Đất được
xem như một thể sống, nó luôn vận động, biến đổi và phát triển” (Nguyễn Thế
Đặng, Nguyễn Thế Hùng, 1999).
Những năm gần đây trên những tạp chí quốc tế đã xuất hiện một cụm từ mới
“land husbandry” và được hiểu là chúng ta phải nuôi dưỡng đất. Đất là một vật thể
sống cũng tuân thủ theo những quy luật sống, phát sinh, phát triển, thoái hoá và già cỗi.
Tùy thuộc vào thái độ ứng xử của con người đối với đất mà đất có thể trở nên phì nhiêu
hơn, cho năng suất cây trồng cao hơn hay ngược lại.
Trong đánh giá đất theo FAO, đất đai được nhìn nhận là một yếu tố sinh thái
(FAO, 1976) có thể hiểu rộng ra rằng: đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học
và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện trạng
sử dụng đất, các thuộc tính đó bao gồm: khí hậu, dáng đất, địa hình, địa mạo thổ
nhưỡng, thực vật, thảm thực vật tự nhiên, cỏ dại trên đồng ruộng, động vật tự nhiên
và những biến đổi của đất do hoạt động của con người (Đào Châu Thu,1998).
Như vậy đã có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất nhưng
khái niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đai là một khoảng không gian có giới hạn,
theo chiều thẳng đứng gồm: lớp đất bề mặt, thảm thực vật, động vật, diện tích mặt
nước, mặt nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất theo chiều nằm ngang - trên bề

mặt đất, giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa hết sức to lớn đối với hoạt động sản
xuất và cuộc sống của xã hội loài người (Hội khoa học đất Việt Nam, 2000).
* Khái niệm đất nông nghiệp: theo quan điểm truyền thống của người Việt
Nam thì đất nông nghiệp thường được hiểu là đất trồng lúa, trồng cây hoa màu như:
ngô, khoai, sắn... và những loại cây được coi là cây lương thực. Tuy nhiên, trên thực
tế việc sử dụng đất nông nghiệp tương đối phong phú, không chỉ đơn thuần là để

8


trồng lúa, hoa màu mà còn dùng vào mục đích chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy
sản hay để trồng cây lâu năm.
Như vậy có thể nói: đất nông nghiệp (ký hiệu NNP) là đất sử dụng vào mục
đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng. Đất nông nghiệp bao gồm đất
sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, nuôi trồng thủy sản, đất làm muối và đất
nông nghiệp khác (Bộ Tài nguyên và Môi Trường, 2007).
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong sản xuất nông nghiệp
Đất là khoảng không gian lãnh thổ cần thiết đối với mọi quá trình sản xuất
trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con người. Nói về tầm quan
trọng của đất C.Mac viết: “Đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, kho tàng cung cấp
các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể” (C.Mac
1949).
Đối với nông nghiệp: đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất là điều
kiện vật chất đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu tác động trong quá trình
sản xuất như: cày, bừa, xới, xáo...) và là tư liệu sản xuất hay công cụ lao động (sử
dụng để trồng trọt, chăn nuôi...). Quá trình sản xuất luôn có mối quan hệ chặt chẽ
với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên của đất.
Thực tế cho thấy trong quá trình phát triển xã hội loài người, sự hình thành
và phát triển của mọi nền văn minh, các thành tựu khoa học công nghệ đều được

xây dụng trên nền tảng cơ bản - sử dụng đất. Trong nông nghiệp ngoài vai trò là cơ
sở không gian đất còn có hai chức năng đặc biệt quan trọng:
+ Là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của con người trong quá trình sản
xuất.
+ Tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp cho cây trồng nước
muối khoáng, không khí và các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng sinh trưởng
và phát triển của cây trồng. Như vậy, đất trở thành công cụ sản xuất. Năng suất và
chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào độ phì nhiêu của đất. Trong tất cả các loại tư
liệu sản xuất dùng trong nông nghiệp chỉ có đất mới có chức năng này. Vì vậy có
thể nói rằng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và đặc biệt trong nông nghiệp.

9


1.2. Sử dụng đất và những nhân tố ảnh hưởng tới việc sử dụng đất
1.2.1. Sử dụng đất là gì?
- Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan hệ người đất trong tổ hợp với nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi trường. Căn cứ vào quy
luật phát triển kinh tế xã hội cùng với yêu cầu không ngừng ổn định và bền vững về
mặt sinh thái, quyết định phương hướng chung và mục tiêu sử dụng đất hợp lý nhất là
tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công dụng của đất nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái,
kinh tế, xã hội cao nhất. Vì vậy, sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của nhân
loại. Trong mỗi phương thức sản xuất nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của sản
xuất và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai. Với vai trò là nhân tố
sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất đai được thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không gian
sử dụng đất.
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất đai được sử dụng, hình
thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất.
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô kinh
tế sử dụng đất.

- Giữ mật độ sử dụng đất đai thích hợp, hình thành việc sử dụng đất đai một
cách kinh tế, tập trung, thâm canh.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng đất nông nghiệp
a. Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thời tiết...) có ảnh hưởng trực tiếp đến
sản xuất nông nghiệp. Bởi các yếu tố của điều kiện tự nhiên là tài nguyên để sinh
vật tạo nên sinh khối. Do vậy, cần đánh giá đúng điều kiện tự nhiên trên cơ sở đó
xác định cây trồng vật nuôi chủ lực phù hợp và định hướng đầu tư thâm canh đúng.
Theo Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch I. Theo
N.Borlang - người được giải Noben về giải quyết lương thực cho các nước phát
triển cho rằng: yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây trồng ở tầm cỡ thế
giới của các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông dân thiếu vốn là độ phì của
đất.

10


Điều kiện về đất đai, khí hậu thời tiết có ý nghĩa quan trọng đối với sản xuất
nông nghiệp. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, các hộ nông dân có thể lợi dụng
những yếu tố đầu vào trong kinh tế, thuận lợi để tạo ra nông sản hàng hoá với giá
rẻ.
Sản xuất nông nghiệp là ngành kinh doanh năng lượng ánh sáng mặt trời dựa
trên các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác.

11


- Yếu tố khí hậu:
Thực vật nói chung và cây trồng nói riêng muốn sống, sinh trưởng và phát
triển đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố sinh trưởng là ánh sáng, nhiệt độ, không khí

nước và dinh dưỡng. Trong đó, ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa và độ ẩm không khí
chính là các yếu tố khí hậu. Chính vì thế, khí hậu là một trong những yếu tố ảnh
hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, năng suất và sản lượng cây trồng, ảnh hưởng đến
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, vì sự khác biệt về vĩ độ
địa lý và địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét theo từng
vùng. Miền bắc có nhiệt độ trung bình 22,2 - 23,50C, lượng mưa trung bình từ 1.500
- 2.400 mm, tổng số giờ nắng từ 1.650 - 1.750 giờ/năm. Trong khi đó, ở miền nam
khí hậu mang tính chất xích đạo, nhiệt độ trung bình 22,6 - 27,5 0C, lượng mưa trung
bình 1.400 - 2.400 mm, nắng trên 2.000 giờ/năm.
Khí hậu là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc phân bố các loại
cây trồng, cũng như thời vụ cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Nếu như ở trung
du và miền núi phía Bắc có thể trồng mận, hồng, đào, chuối, đậu côve, súp lơ
xanh... ở đồng bằng sông Hồng có thể trồng các loại rau vụ đông có nguồn gốc ôn
đới... thì ở đồng bằng sông Cửu Long có thể trồng cây đặc sản như sầu riêng, măng
cụt... hay miền Đông Nam bộ có thể trồng chôm chôm, trái bơ, và Tây Nguyên
trồng cây công nghiệp lâu năm cao su, cà phê, điều là những cây nhiệt đới điển
hình.
Yếu tố khí hậu nhiều khi ảnh hưởng rõ nét đến hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp với các mức độ khác nhau. Ở đồng bằng sông Hồng và Bắc Trung bộ, nhiệt
độ thấp vào vụ đông và thời kỳ đầu vụ xuân kèm theo ẩm ướt, mưa phùn, thiếu ánh
sáng làm hạn chế sinh trưởng và phát triển của cây trồng ưa nắng, ưa nhiệt nhưng
lại phù hợp cho cây trồng ưa lạnh có nguồn gốc ôn đới. Trời âm u thiếu ánh sáng
cũng là điều kiện cho sâu bệnh phát triển phá hại mùa màng.
- Yếu tố đất trồng:
Cùng với khí hậu, đất tạo nên môi trường sống của cây trồng. Đất trồng với
các đặc tính như loại đất, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì, có vai trò quan
trọng đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng, ảnh hưởng đến
12



hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Đất giữ cây đứng vững trong không gian, cung cấp cho cây các yếu tố sinh
trưởng như nước, dinh dưỡng và không khí. Độ phì là một trong những yếu tố quan
trọng nhất của đất. Vị trí từng mảnh đất có ảnh hưởng đến quá trình hình thành độ
phì của đất. Độ phì nhiêu của đất liên quan trực tiếp đến năng suất cây trồng. Do
vậy, tuỳ theo vị trí địa hình, chất đất mà lựa chọn, bố trí cây trồng thích hợp trên
từng loại đất mới cho năng suất, hiệu quả sử dụng đất cao.
- Yếu tố cây trồng:
Trong sử dụng đất nông nghiệp, cây trồng là yếu tố trung tâm. Con người
hưởng lợi trực tiếp từ những sản phẩm của cây trồng. Những sản phẩm này cung cấp
lương thực cho các nhu cầu thiết yếu cho con người và cho xuất khẩu.
Việc bố trí cây trồng và kiểu sử dụng đất hợp lý trên đất đem lại những giá trị
cao về mặt hiệu quả cho cả người sản xuất và môi trường đất. Ngược lại, nếu cây
trồng được bố trí bất hợp lý, sử dụng đất bừa bãi không những gây thất thu cho
người nông dân mà còn ảnh hưởng xấu đến đất.
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của những tiến bộ khoa học, kỹ thuật,
các giống cây trồng mới với chất lượng và năng suất cao, thời gian sinh trưởng ngắn
xuất hiện ngày càng nhiều. Sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển gắn với việc
tăng hệ số sử dụng đất. Vì vậy, những tiến bộ trong công tác giống cây trồng đã tạo
cơ hội cho việc phát triển nông nghiệp hàng hoá.
b. Nhóm yếu tố về điều kiện kinh tế, xã hội
- Yếu tố con người:
Con người là nhân tố tác động trực tiếp tới đất và hưởng lợi từ đất. Khi dân
số còn thấp, trình độ và nhu cầu thấp, việc khai thác quỹ đất nông nghiệp còn ở mức
hạn chế, hiệu quả không cao nhưng sự bền vững trong sử dụng đất nông nghiệp
được đảm bảo. Ngược lại, ngày nay khi dân số tăng nhanh kéo theo sự gia tăng các
nhu cầu thì tài nguyên đất nông nghiệp bị khai thác nhiều, triệt để hơn nhằm đạt
năng suất và hiệu quả cao hơn. Vì vậy, quy luật sinh thái và tự nhiên bị xâm phạm,
tính bền vững tài nguyên đất kém hơn . Việc đảm bảo cân bằng giữa sử dụng và bảo

vệ đất trở thành vấn đề cấp thiết.

13


Đối với các hoạt động kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói riêng, dân
số vừa là thị trường của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, vừa là nguồn cung về lao
động cho sản xuất. Các hoạt động kinh tế sẽ không thể phát triển nếu không có thị
trường tiêu thụ các sản phẩm do chúng tạo ra. Đặc biệt, đối với một nền sản xuất
nông nghiệp hàng hoá thì điều này lại càng trở nên quan trọng.
Chất lượng nguồn lao động cũng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt động
sản xuất nông nghiệp. Nếu người nông dân có kinh nghiệm, kỹ thuật, có ý thức
trong sản xuất thì việc sử dụng đất nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao.
- Yếu tố kinh tế:
Đối với mỗi quốc gia, mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân có ảnh
hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất nói chung và sử dụng đất nông nghiệp nói
riêng và ngược lại. Nếu sử dụng đất có hiệu quả sẽ góp phần thúc đẩy nền kinh tế
phát triển. Khi kinh tế phát triển là tiền đề cho quá trình sử dụng đất đạt được hiệu
quả cao hơn, thông qua việc đầu tư, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, công nghệ cao, nâng
cao năng suất và chất lượng sản phẩm cây trồng.
- Cơ chế chính sách:
Do có tầm quan trọng đặc biệt nên nông nghiệp, nông thôn luôn giành được
những ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trong mỗi nền kinh tế,
người nông dân tiến hành sản xuất, kinh doanh ở những điều kiện khác nhau, đặc
biệt là các điều kiện về tự nhiên và kinh tế, gây ra bất bình đẳng về thu nhập. Mặt
khác, thị trường luôn hàm chứa các hoạt động cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến
một số người giàu lên do có những việc làm bất chính. Vì vậy, nhà nước cần can
thiệp vào thị trường thông qua những chính sách có tính chất trợ giúp và phân phối
lại thu nhập nhằm đảm bảo sự công bằng xã hội. Các chính sách đầu tư cho nông
nghiệp và nông thôn, chính sách tín dụng nông thôn, chính sách về giải quyết việc

làm và xoá đói giảm nghèo, khuyến nông... thực sự đã giúp ích rất nhiều trong quá
trình sử dụng đất nông nghiệp của những người nông dân.
Trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp hàng hoá, người
nông dân thường chịu thiệt thòi do hạn chế về kiến thức thị trường, thông tin thị
trường, sức mua... hơn nữa các hiệu ứng tràn ra ngoài trong sản xuất nông nghiệp

14


cũng làm cho sản xuất không hiệu quả: việc sử dụng bừa bãi phân hoá học thuốc trừ
sâu, thuốc trừ cỏ... có tác động tiêu cực đến môi trường, nguồn nước không khí và
đất. Do vậy, việc Nhà nước can thiệp bằng các chính sách và pháp luật thích hợp đã
tạo điều kiện, khuyến khích, hướng dẫn sản xuất nông nghiệp và đảm bảo tính bền
vững của các yếu tố nguồn lực trong sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao hiệu
quả sử dụng đất nông nghiệp.
Cũng bằng các chính sách thích hợp, sử dụng đất nông nghiệp được đảm bảo
ổn định và lâu dài. Trong những năm qua, Chính phủ đã không ngừng ban hành sửa
đổi và bổ sung những chủ trương, chính sách về đất đai nhằm mục đích thúc đẩy sự
phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn. Luật đất đai sửa đổi (chính thức có hiệu
lực vào ngày 1/7/2003) đã thể chế hoá và nới rộng quyền của người sử dụng đất.
Đây là một chính sách khuyến khích người nông dân đầu tư vào sản xuất dài hạn,
thay đổi cơ cấu cây trồng nhằm phát triển sản xuất hàng hoá một cách có hiệu quả.
Mặc dù đất đai thuộc sở hữu toàn dân nhưng pháp luật công nhận quyền sử dụng
lâu dài đối với đất. Người sử dụng đất không chỉ được quyền sử dụng lâu dài mà
còn được quyền thừa kế những đầu tư trên đất. Điều đó đã trở thành động lực quan
trọng trong phát triển nông nghiệp. Nó làm cho người nông dân yên tâm đầu tư trên
đất, sử dụng đất nông nghiệp một cách chủ động và hiệu quả, phát huy được lợi thế
so sánh của từng vùng, từng miền. Thực tế cho thấy, chính sách về đất đai thông
thoáng sẽ là cơ sở để hình thành các phương thức sản xuất mới như thâm canh, tăng
vụ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác, đặc biệt là sử dụng để sản xuất cây

trồng có giá trị hàng hoá cao. Các quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất nông nghiệp
cũng là cơ sở để phát triển hệ thống cây trồng, vật nuôi và khai thác đất một cách
đầy đủ và hợp lý, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành
tập trung hoá, chuyên môn hoá, hiện đại hoá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp.
c. Nhóm yếu tố các biện pháp kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây trồng
vật nuôi, nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản xuất để hình
thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Đây là những vấn đề thể hiện sự hiểu

15


biết về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường và thể hiện những
dự báo thông minh của người sản xuất. Lựa chọn các tác động kỹ thuật, lựa chọn
chủng loại và cách sử dụng các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh
vật nhằm đạt được các mục tiêu đề ra là cơ sở để phát triển sản xuất nông nghiệp
hàng hoá. Theo Frank Elli và Douglass C.North, ở các nước phát triển, khi có tác
động tích cực của kỹ thuật, giống mới, thuỷ lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt
ra yêu cầu mới đối với tổ chức sử dụng đất. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản
xuất tiến bộ là một đảm bảo vật chất cho kinh tế nông nghiệp tăng trưởng nhanh
dựa trên việc chuyển đổi sử dụng đất. Cho đến giữa thế kỷ 20, trong nông nghiệp
nước ta các quy trình kỹ thuật đã đóng góp đến 30% năng suất kinh tế. Như vậy
nhóm các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình khai
thác đất theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hoá
hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Cải tiến kỹ thuật trước hết làm tăng cung về
hàng hoá nông sản, cũng tức là làm phát triển kinh tế. Áp dụng khoa học (kiến thức),
kỹ thuật (công cụ), công nghệ (kỹ năng) để tăng năng suất, hiệu quả sản xuất kinh
doanh, phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn một cách bền vững. Thông qua

việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp như giống
cây trồng vật nuôi mới, các quy trình kỹ thuật trong canh tác, trong chế biến bảo
quản… làm tăng năng suất, chất lượng cây trồng vật nuôi, tăng hiệu quả sử dụng
nguồn lực như đất đai, lao động, vốn.
Lựa chọn các tác động khoa học kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử
dụng các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật sẽ đạt được mục
tiêu đề ra.
1.2.3. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên Thế giới và Việt Nam
1.2.3.1. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp trên thế giới
Trên thế giới đất đai phân bố ở các châu lục không đều. Tuy có diện tích đất
nông nghiệp khá cao so với các châu khác nhưng Châu Á lại có tỉ lệ diện tích đất
nông nghiệp trên diện tích tự nhiên thấp và lại là khu vực có tỉ lệ dân số đông trên
thế giới. Có các quốc gia dân số đông nhất nhì thế giới như: Trung Quốc, ấn Độ,

16


Indonexia. Ở Châu Á đất đồi núi chiếm 35% tổng diện tích, tiềm năng đất trồng trọt
nhờ nước trời là khá lớn khoảng 407 triệu ha, trong đó xấp xỉ 282 triệu ha đang
được trồng trọt.
Theo kết quả điều tra của FAO,1992. Trên thế giới hàng năm có khoảng 15%
diện tích đất bị suy thoái vì lý do tác động con người, trong đó suy thoái vì xói mòn
do nước chiếm khoảng 55,70% diện tích, do gió 28% diện tích, mất chất dinh
dưỡng do rửa trôi 12,20% diện tích. Ở Trung Quốc, diện tích đất bị suy thoái là 280
triệu ha, chiếm 30% lãnh thổ, trong đó có 36,67 triệu ha đất đồi bị xói mòn nặng;
6,67 triệu ha đất bị chua mặn; 4 triệu ha đất bị úng, lầy và một số yếu tố khác chiếm
14,10% diện tích. Tại khu vực châu Á Thái Bình Dương có khoảng 860 ha đất đã bị
hoang mạc hoá làm ảnh hưởng đến đời sống của 150 triệu người. Do chế độ canh
tác không tốt đã gây xói mòn đất nghiêm trọng dẫn đến suy thoái đất, đặc biệt ở
vùng nhiệt đới và vùng đất dốc. Mỗi năm lượng đất bị xói mòn tại các châu lục:

châu Âu, châu Úc, châu Phi: 5 -10 tấn/ha, châu Mỹ: 10 - 20 tấn/ha; châu Á: 30
tấn/ha.
Đông Nam Á là một khu vực đặc biệt, từ số liệu của UNDP năm 1995 cho ta
thấy đây là khu vực dân số khá đông trên thế giới nhưng diện tích canh tác thấp:
bình quân đất canh tác trên đầu người của các nước như sau: Indonesia 0,12 ha;
Malaysia 0,27 ha; Philipin 0,13 ha; Thái Lan 0,42 ha; Việt Nam 0,1ha. Như vậy, chỉ
có Thái Lan là diện tích đất canh tác trên đầu người khá nhất và Việt Nam là quốc
gia đứng vào hàng thấp nhất trong số các quốc gia ASEAN.
Những vấn đề môi trường đã trở nên mang tính toàn cầu và được phân thành
2 loại chính: một loại gây ra bởi công nghiệp hoá và các kỹ thuật hiện đại, loại khác
gây ra bởi lối canh tác tự nhiên. Hệ sinh thái nhiệt đới vốn cân bằng một cách mỏng
manh rất dễ bị đảo lộn bởi các phương thức canh tác phản tự nhiên, buộc con người
phải sản xuất nông nghiệp theo hướng sử dụng tài nguyên và bảo vệ môi trường,
thoả mãn các yêu cầu của thế hệ hiện tại nhưng không làm ảnh hưởng đến nhu cầu
của các thế hệ tương lai, đó là mục tiêu của việc xây dựng và phát triển nông nghiệp
bền vững và đó cũng là hướng đi trong tương lai.
1.2.3.2. Tình hình sử dụng đất nông nghiệp và định hướng sử dụng đất nông nghiệp

17


theo hướng bền vững ở Việt Nam.
* Tình hình sử dụng đất nông nghiệp ở Việt Nam.
Việt Nam có tổng diện tích tự nhiên là 33.121,20 nghìn ha, trong đó đất nông
nghiệp năm 2013 là 26.280,5 nghìn ha chiếm 79,35% tổng diện tích đất tự nhiên.
Diện tích đất bình quân đầu người ở Việt Nam thuộc loại thấp nhất thế giới. Ngày
nay với áp lực về dân số và tốc độ đô thị hóa kèm theo là những quá trình xói mòn
rửa trôi bạc màu do mất rừng, mưa lớn, canh tác không hợp lý, chăn thả quá mức;
quá trình chua hoá, mặn hóa, hoang mạc hoá, cát bay, đá lộ đầu, mất cân bằng dinh
dưỡng... Tính theo bình quân đầu người thì diện tích đất tự nhiên giảm 26,7%, đất

nông nghiệp giảm 21,5%.
Vì vậy, vấn đề đảm bảo lương thực, thực phẩm trong khi diện tích đất nông
nghiệp ngày càng giảm đang là một áp lực rất lớn. Do đó việc sử dụng hiệu quả
nguồn tài nguyên đất nông nghiệp càng trở nên quan trọng đối với nước ta.
Ở Việt Nam, các kết quả nghiên cứu đều cho thấy đất ở vùng trung du miền
núi đều nghèo các chất dinh dưỡng P, K, Ca. Để đảm bảo đủ dinh dưỡng, đất không
bị thoái hoá thì N, P là hai yếu tố cần phải được bổ sung thường xuyên.
Trong quá trình sử dụng đất, do chưa tìm được các loại hình sử dụng đất hợp
lý hoặc chưa có công thức luân canh hợp lý cũng gây ra hiện tượng thoái hoá đất
như vùng đất dốc mà trồng cây lương thực, đất có dinh dưỡng kém lại không luân
canh với cây họ đậu. Trong điều kiện nền kinh tế kém phát triển, người dân đã tập
trung chủ yếu vào trồng cây lương thực đã gây ra hiện tượng xói mòn, suy thoái đất.
Điều kiện kinh tế và sự hiểu biết của con người còn thấp dẫn tới việc sử dụng phân
bón còn nhiều hạn chế và sử dụng thuốc bảo vệ thực vật quá nhiều, ảnh hưởng tới
môi trường. Tadon H.L.S chỉ ra rằng “sự suy kiệt đất và các chất dự trữ trong đất
cũng là biểu hiện thoái hoá về môi trường, do vậy việc cải tạo độ phì của đất là
đóng góp cho cải thiện cơ sở tài nguyên thiên nhiên và còn hơn nữa cho chính môi
trường”.
Tổng diện tích nhóm đất nông nghiệp năm 2013 của cả nước so với năm
2010 tăng 184,4 ha, trong đó tăng chủ yếu ở loại đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm
nghiệp, tình hình tăng giảm các loại đất nông nghiệp được thể hiện cụ thể qua bảng

18


1.1 như sau:

19



Bảng 1.1. Biến động đất nông nghiệp của cả nước năm 2010 - 2014
STT

1
1.1
1.2
2
2.1
2.2
2.3
3
4
5

Chỉ tiêu



Năm 2010

Năm 2014

(nghìn ha) (nghìn ha)

So sánh
2010-2014

Đất nông nghiệp

NNP


26.100,1

26.280,5

(nghìn ha)
184,4

Đất sản xuất nông nghiệp
Đất trồng cây hàng năm
Trong đó: Đất trồng lúa
Đất trồng cây lâu năm
Đất lâm nghiệp
Đất rừng sản xuất
Đất rừng phòng hộ
Đất rừng đặc dụng
Đất nuôi trồng thủy sản
Đất làm muối
Đất nông nghiệp khác

SXN
CHN
LUA
CLN
LNP
RPH
RSX
RDD
NTS
LMU

NKH

10.117,8
6.437,2
4.127,7
3.680,6
15.249,0
7.389,4
5.719,3
2.140,2
690,2
17,5
25,4

10.151,1
6.401,3
4.092,8
3.749,7
15.373,1
7.406,6
5.827,3
2.139,2
712,0
17,9
26,5

+33,3
-35,9
-34,9
+69,1

+124,1
+17,2
+108,0
-1,0
+21,8
+0,4
+1,1

(Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2014 )
Như vậy diện tích đất trồng lúa của nước ta năm 2014 là 4.092,8 nghìn ha, so
với năm 2010 đã giảm -34,9 nghìn ha, trong đó, giảm nhiều nhất ở đồng bằng sông
Hồng, chiếm 4,4% tổng diện tích đất nông nghiệp, tỷ lệ này ở Đông Nam Bộ là
2,1%, ở nhiều vùng khác dưới 0,5%. Điều đáng nói là phần lớn các sân golf ở Việt
Nam đều nằm trên những khu đất trước kia vốn là đất canh tác nông nghiệp. Một
nguyên nhân nữa làm đất nông nghiệp bị thu hẹp là do các quyết định thu hồi đất
nhằm mục đích khác như xây dựng công viên nghĩa trang hiện nay cũng đáng báo
động khi triển khai các dự án này chiếm dụng đất nông nghiệp rất lớn. Đồng thời
các thảm hoạ thiên nhiên cũng là một trong những nguyên nhân làm cho diện tích
đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp ở nước ta hiện nay.
Ô nhiễm đất nông nghiệp ngày càng thêm trầm trọng.
Ô nhiễm môi trường đất nông nghiệp ở Việt Nam hiện nay đang là vấn đề
nghiêm trọng. Các nguyên nhân ô nhiễm đất nông nghiệp hiện nay gồm những
nguyên nhân chủ yếu sau: ô nhiễm đất vì nước thải sinh hoạt, nước thải công
nghiệp, ô nhiễm đất vì chất phế thải bởi các nguồn chất thải rắn, ô nhiễm đất do sử
dụng phân bón hoá học và nông dược trong canh tác sản xuất nông nghiệp. Thuốc
20


trừ sâu đồng thời với việc diệt các côn trùng gây hại, còn dẫn đến ngộ độc đất đai
ảnh hưởng đến môi trường đất của nước ta hiện nay.

1.3. Loại hình sử dụng đất, phương pháp đánh giá hiệu quả loại hình sử dụng
đất.
1.3.1. Khái niệm về loại hình sử dụng đất.
Loại hình sử dụng đất là bức tranh mô tả thực trạng sử dụng đất của một
vùng đất với những phương thức quản lý sản xuất trong các điều kiện kinh tế xã hội
và kỹ thuật được xác định.
Những loại hình sử dụng đất này có thể hiểu theo nghĩa rộng là các loại hình
sử dụng đất chính (Major type of land use), hoặc có thể được mô tả chi tiết hơn với
khái niệm là các loại hình sử dụng đất (Land use type, LUT).
* Loại hình sử dụng đất chính: là sự phân nhỏ của sử dụng đất trong khu vực
hoặc vùng nông lâm nghiệp, chủ yếu dựa trên cơ sở của sản xuất các cây trồng hàng
năm, lâu năm, lúa, đồng cỏ, rừng.
Tuy nhiên trong trong đánh giá đất (LE), nếu chỉ xem xét việc sử dụng đất
qua các loại hình sử dụng đất chính thì chưa đủ, vì chúng chưa phản ánh được:
- Những loại cây trồng hay những giống loài cây gì được trồng? Điều này rất
quan trọng vì mỗi loài, giống cây khác nhau sẽ đòi hỏi điều kiện đất đai khác nhau.
- Các loại phân bón được dùng đã đáp ứng nhu cầu dinh dưỡng của các loại cây
trồng chưa? Đôi khi việc sử dụng phân bón không hợp lý còn làm giảm độ phì đất hoặc
chưa ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của việc sử dụng đất đó.
Để trả lời được những vấn đề trên, cần phải có những mô tả chi tiết hơn
trong việc sử dụng đất, vì vậy một khái niệm “Loại hình sử dụng đất” (LUT) được
đề cập đến trong LE.
* Loại hình sử dụng sử dụng đất (Land Use Type - LUT): là loại hình đặc
biệt của sử dụng đất được mô tả theo các thuộc tính nhất định. Theo H.Hulzing
(1993) các thuộc tính đó bao gồm:
- Thuộc tính sinh học: các sản phẩm và lợi ích khác.
- Thuộc tính kinh tế - xã hội: định hướng thị trường, khả năng vốn, khả năng

21



lao động; kĩ thuật, kiến thức và quan điểm.
- Thuộc tính kỹ thuật và quản lý: sở hữu đất đai và quy mô quản lý đất; sức
kéo/cơ giới hóa; các đặc điểm trồng trọt, đầu tư vật tư, công nghệ được sử dụng
năng suất và sản lượng; thông tin kinh tế có liên quan đến đầu vào và đầu ra.
- Thuộc tính về cơ sở hạ tầng: các yêu cầu về hạ tầng cơ sở.
Không phải tất cả các thuộc tính trên đều được đề cập đến như nhau trong
trong các dự án LE mà việc lựa chọn các thuộc tính và mức độ mô tả chi tiết phụ
thuộc vào tình hình sử dụng đất của địa phương cũng như cấp độ, yêu cầu chi tiết và
mục tiêu của mỗi dự án LE khác.
1.3.2. Sự cần thiết phải đánh giá hiệu quả sử dụng đất
Đất nông nghiệp là một tài nguyên quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của mỗi quốc gia. Muốn quy hoạch và sử dụng nguồn tài nguyên đất này một cách
hiệu quả, cần đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng đất để tìm ra lời giải cho các vấn
đề như: diện tích các loại đất nông nghiệp bằng bao nhiêu? Cơ cấu mỗi loại đất như
thế nào? Đất nông nghiệp đang được sử dụng ra sao? Hiệu quả sử dụng cao hay
thấp? Những nhân tố nào ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp? Giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp...
Việt Nam là một nước nông nghiệp, diện tích đất nông nghiệp có vai trò đặc
biệt quan trọng. Trong những năm qua dù đã có nhiều đổi mới phù hợp với điều
kiện thực tế hơn, diện tích đất nông nghiệp có sự tăng đáng kể theo thời gian, song
diện tích đất lúa lại giảm đi, kèm theo đó công tác quy hoạch sử dụng đất, đặc biệt
là đất nông nghiệp vẫn còn nhiều bất cập, dẫn đến hiệu quả sử dụng đất thấp, gây
lãng phí lớn. Nhiều diện tích đất nông nghiệp đã chuyển mục đích sử dụng nhưng
vẫn bỏ hoang trong khi có biết bao nhiêu người dân phải rơi vào cảnh thiếu đất sản
xuất.
Cũng do việc quản lý và sử dụng còn nhiều bất cập nên nguồn thu từ đất đai
cũng rất hạn chế. Theo báo cáo Bộ tài chính, thuế đất không tạo ra nguồn thu đáng
kể, tổng các nguồn thu từ đất của nước ta chỉ chiếm khoảng từ 5 - 8% tổng thu ngân
sách nhà nước, trong đó chủ yếu là tiền sử dụng đất. Đây là mức thấp so với các nước

trên thế giới. Giải quyết tận gốc vấn đề này để nguồn tài nguyên đất thực sự phát huy

22


hiệu quả, trở thành động lực cho việc phát triển kinh tế - xã hội đang là nhiệm vụ cấp
bách hiện nay, năng lực quản lý đất đai đã được đề cập chi tiết. Năm 2012, Tổng Bí
Thư Nguyễn Phú Trọng đã ký ban hành Nghị quyết 19-NQ/TƯ - Nghị quyết hội nghị
lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về "Tiếp tục đổi mới chính
sách, pháp luật về đất đai". Nghị quyết nêu rõ: “Đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá
chất lượng tiềm năng đất đai đáp ứng yêu cầu quản lý, sử dụng đất, ứng phó với biến
đổi khí hậu và phát triển bền vững. Phổ biến, giáo dục chính sách, pháp luật đất đai
cho cộng đồng. "Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin về đất đai,
công khai, minh bạch, phục vụ đa mục tiêu…".
Nội dung, Nghị quyết cho thấy, hơn lúc nào hết, nâng cao hiệu quả công tác
quản lý đất đai nói chung và đất nông nghiệp nói riêng cần được coi là nhiệm vụ
cấp bách. Việc tìm kiếm các giải pháp đồng bộ, tăng cường áp dụng khoa học kỹ
thuật để nâng cao chuỗi giá trị sản phẩm, cải thiện thu nhập từ đất nông nghiệp cho
người dân… để người nông dân yên tâm sản xuất trên đất nông nghiệp, sống được
bằng nghề nông là hết sức cần thiết.
Để lựa chọn được những giải pháp và thứ tự ưu tiên cho mỗi giải pháp, đánh
giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp là một việc có ý nghĩa quan trọng, có chất
quyết định. Phải dựa trên bức tranh thực trạng về hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp
mỗi địa phương, mỗi quốc gia mới có thể hoạch định được chính sách phù hợp, hiệu
quả.
Đánh giá hiệu quả mỗi loại hình sử dụng đất là một việc làm cụ thể và có ý
nghĩa, giúp cho các địa phương lựa chọn được những phương án sản xuất kinh
doanh, vừa mang lại thu nhập cao, ổn định, tăng khả năng ứng phó biến đổi khí hậu,
vừa giảm bớt các nguy cơ làm giảm suy thoái môi trường.
1.3.2.1. Khái niệm về hiệu quả sử dụng đất

Có nhiều quan điểm khác nhau về hiệu quả. Trước đây, người ta thường quan
niệm kết quả chính là hiệu quả. Sau này, người ta nhận thấy rõ sự khác nhau giữa
hiệu quả và kết quả. Nói một cách tổng quát và chung nhất thì hiệu quả chính là kết
quả như yêu cầu của công việc mang lại.

23


Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi
hướng tới nó có những nội dung khác nhau. Trong sản xuất, hiệu quả có nghĩa là
hiệu suất, là năng suất. Trong kinh doanh, hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận. Trong lao
động nói chung, hiệu quả là năng suất lao động được đánh giá bằng số lượng thời
gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm, hoặc bằng số lượng sản phẩm
được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian.
Kết quả, mà là kết quả hữu ích là một đại lượng vật chất tạo ra do mục đích
của con người, được biểu hiện bằng những chỉ tiêu cụ thể, xác định. Do tính chất
mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu tăng lên của con người mà ta
phải xem xét kết quả đó được tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra bao nhiêu? Có đưa
lại kết quả hữu ích hay không? Chính vì vậy khi đánh giá kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả mà phải đánh giá chất
lượng hoạt động tạo ra sản phẩm đó. Đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh
doanh là nội dung của đánh giá hiệu quả.
Từ những khái niệm chung về hiệu quả, ta xem xét trong lĩnh vực sử dụng
đất thì hiệu quả là chỉ tiêu chất lượng đánh giá kết quả sử dụng đất trong hoạt động
kinh tế, thể hiện qua lượng sản phẩm, lượng giá trị thu được bằng tiền. Đồng thời về
mặt hiệu quả xã hội là thể hiện mức thu hút lao động trong quá trình hoạt động kinh
tế để khai thác sử dụng đất. Riêng đối với ngành nông nghiệp, cùng với hiệu quả
kinh tế về giá trị và hiệu quả về mặt sử dụng lao động trong nhiều trường hợp phải
coi trọng hiệu quả về mặt hiện vật là sản lượng nông sản thu hoạch được, nhất là
các loại nông sản cơ bản có ý nghĩa chiến lược (lương thực, sản phẩm xuất khẩu…)

để đảm bảo sự ổn định về kinh tế - xã hội đất nước.
Như vậy, hiệu quả sử dụng đất là kết quả của cả một hệ thống các biện pháp
tổ chức sản xuất, khoa học, kỹ thuật, quản lý kinh tế và phát huy các lợi thế, khắc
phục các khó khăn khách quan của điều kiện tự nhiên, trong những hoàn cảnh cụ
thể còn gắn sản xuất nông nghiệp với các ngành khác của nền kinh tế quốc dân, gắn
sản xuất trong nước với thị trường quốc tế.
Hiện nay, các nhà khoa học đều cho rằng vấn đề đánh giá hiệu quả sử dụng
đất không chỉ xem xét đơn thuần ở một mặt hay một khía cạnh nào đó mà phải xem

24


xét trên tổng thể các mặt bao gồm: hiệu quả kinh tế, hiệu quả xã hội và hiệu quả
môi trường.

25


×