Tải bản đầy đủ (.docx) (87 trang)

Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại thị trấn trường sơn, huyện an lão, TP hải phòng giai đoạn 2010 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.22 MB, 87 trang )

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan số liệu và kết quả nghiên cứu trong đồ án này là
trung thực và chưa được sử dụng để bảo vệ một học vị nào.
Tôi cam đoan cac thông tin trích dẫn trong đồ án đều được dũ lỗ nguồn
gốc.
Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về nguồn gốc và sổ liệu thông tin
được sử dụng trong đồ án này.

Sinh viên

NGUYỄN VĂN DŨNG

1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, bản thân em luôn nhận được sự quan
tâm giúp đỡ chỉ bảo tận tình của các thầy, cô giáo trong khoa Quản lý đất đai
-Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, cùng các phòng, ban của
nhà trường và địa phương đã tạo điều kiện thuận lợi nhất đề em hoàn thành
báo cáo khóa luận tốt nghiệp này.
Lời đầu tiên, em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong Trường
Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội nói chung, các thầy, cô giáo trong
khoa Quản lý đất đai nói riêng đã tận tình dạy dỗ, chỉ bảo ân cần trong suốt
thời gian em học tập tại trường; trong đó đặc biệt là TS. Phạm Anh Tuấn
người đã trực tiếp hướng dần, chi bảo em trong suốt thời gian em thực hiện đề
tài.
Em xin chân thành cảm ơn UBND thị trấn Trường Sơn đã tạo mọi điều
kiện thuận lợi giúp đỡ em trong thời gian nghiên cứu làm đề tài tại thị trấn.
Cuối cùng em xin kính chúc các thầy cô giáo, các cô chú các bác một
sức khỏe dồi dào, luôn thành công trong công việc cũng như cuộc sống.


Em xin trân trọng cảm ơn!
Trường Sơn, ngày 07 tháng 03 năm 2016.
Sinh viên

Nguyễn Văn Dũng

2


MỤC LỤC

3


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
FAO Food and agriculture organization : Tổ chức lương thực và nông
nghiệp Liên Hợp Quốc
LUT Land use type

: Loại hình sử dụng đất

UBND

: Uỷ ban nhân dân

VH

: Rất cao ( Very high)

H


: Cao

M

: Trung bình ( medium )

L

: Thấp ( low )

VL

: Rất thấp ( very low )

NTTS

: Nuôi trồng thủy sản

KT-XH

: Kinh tế xã hội

GTSX

: Gía trị sản xuất

LX

: Lúa xuân


LM

: Lúa mùa

4


DANH MỤC CÁC BẢNG

5


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá mà thiên nhiên đã ban tặng
cho con người. Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt, là cơ sở của sản xuất nông
nghiệp, là đối tượng lao động độc đáo đồng thời cũng là môi trường sản xuất
ra lương thực, thực phẩm đáp ứng cho nhu cầu của con người. Ðất đai là nền
tảng để con người định cư và tổ chức các hoạt động kinh tế xã hội, nó không
chỉ là đối tượng lao động mà còn là tư liệu sản xuất không thể thay thế được,
đặc biệt đối với ngành sản xuất nông nghiệp.
Việc sử dụng đất có hiệu quả và bền vững đang trở thành vấn đề cấp thiết
với mỗi quốc gia, nhằm duy trì sức sản xuất của đất đai cho hiện tại và cho tương
lai. Nông nghiệp là hoạt động sản xuất cổ nhất và cơ bản nhất của loài người. Hầu
hết các nước trên thế giới đều phải xây dựng một nền kinh tế trên cơ sở phát triển
nông nghiệp dựa vào khai thác tiềm năng của đất, lấy đó làm bàn đạp cho việc
phát triển các ngành khác.
Vì vậy, tổ chức sử dụng nguồn tài nguyên đất đai hợp lý có hiệu quả cao theo
quan điểm sinh thái và phát triển bền vững đang trở thành vấn đề mang tính

toàn cầu. Điều mà các nhà khoa học trên thế giới quan tâm là làm thế nào để
sản xuất ra nhiều lương thực, thực phẩm đáp ứng cho những ai có nhu cầu,
trong khuôn khổ xã hội và kinh tế có thể thực hiện được. Mục đích của sử
dụng đất là làm thế nào để bắt nguồn tư liệu có hạn này cho được hiệu quả
kinh tế, hiệu quả sinh thái, hiệu quả xã hội cao nhất, đảm bảo lợi ích trước
mắt và lâu dài. Nói cách khác mục tiêu hiện nay của loài người là phấn đấu
xây dựng một nền nông nghiệp toàn diện về kinh tế, xã hội, môi trường một
cách bền vững. Để thực hiện mục tiêu trên cần bắt đầu từ nâng cao hiệu quả
sử dụng đất trong nông nghiệp một cách toàn diện, như G.S Bùi Huy Đáp đã
viết “Phải bảo vệ một cách khôn ngoan tài nguyên đất còn lại cho một nền sản
xuất nông nghiệp bền vững”. Thực tế, trong những năm qua, đã có nhiều biện
pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất đai như: giao quyền sử dụng lâu
dài, ổn định cho người sử dụng đất, hoàn thiện hệ thống thuỷ lợi, chuyển đổi
cơ cấu cây trồng, đa dạng hoá các giống cây trồng có năng suất cao đưa vào

6


sản xuất, nhờ đó mà hiệu quả sử dụng đất tăng lên rõ rệt. Trong đó, việc thay
đổi cơ cấu cây trồng, sử dụng giống mới với năng suất và chất lượng cao, áp
dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất.
Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được thì vẫn có những hạn chế
trong việc khai thác và sử dụng đất đai. Vì vậy để sử dụng đất có hiệu quả cao
nhất là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết, đảm bảo cho sự phát triển của
sản xuất nông nghiệp cũng như sự phát triển chung của nền kinh tế. Cần phải
có nghiên cứu khoa học, đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp, nhằm phát hiện ra các yếu tố tích cực và hạn chế, từ đó làm cơ sở để
định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp, thiết lập các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Khai thác tiềm năng đất đai sao cho
đạt hiệu quả cao nhất là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết, đảm bảo cho

sự phát triển của sản xuất nông nghiệp cũng như sự phát triển chung của nền
kinh tế đất nước. Cần phải đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp nhằm phát hiện ra các yếu tố tích cực và hạn chế, từ đó làm cơ sở để
định hướng phát triển sản xuất nông nghiệp, thiết lập các giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp. Thị trấn Trường Sơn là 1 trong 2 thị
trấn của huyện An Lão- TP Hải Phòng. Người dân nơi đây sống dựa vào nông
nghiệp là chủ yếu. Trong những năm gần đây, kinh tế nông nghiệp, nông thôn
của thị trấn tuy có những bước phát triển mới song nhìn chung vẫn còn lạc
hậu, sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ chưa đồng bộ, công cụ sản xuất chủ yếu
là thủ công, cơ cấu cây trồng chưa hợp lý, năng suất lao động và hiệu quả
kinh tế chưa cao. Nhận thức của nhân dân về sản xuất hàng hoá trong cơ chế
thị trường còn rất hạn chế. Trong khi đó, những chính sách về phát triển nông
nghiệp, nông thôn, đặc biệt là những chính sách cụ thể để phát triển ngành
nông nghiệp chưa có hiệu quả cao.

7


Vì vậy, rất cần có định hướng chỉ đạo và có cơ chế chính sách của các
cấp, các ngành để giúp thị trấn Trường Sơn có hướng đi đúng đắn trong phát
triển nền kinh tế nông nghiệp bền vững, giúp người dân lựa chọn được
phương thức sản xuất phù hợp trong điều kiện cụ thể của thị trấn, nâng cao
hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp, đáp ứng yêu cầu phát triển nền nông
nghiệp bền vững là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết. Xuất phát từ ý
nghĩa thực tiễn và nhu cầu sử dụng đất, tôi đã chọn đề tài:
”Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp tại thị trấn Trường
Sơn, huyện An Lão, TP Hải Phòng giai đoạn 2010-2014”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
- Đánh giá thực trạng hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp và xác định các
yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp trên địa bàn thị trấn

Trường
Sơn.
- Định hướng và đề xuất giải pháp hợp lý nhằm sử dụng đất nông
nghiệp hiệu quả đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phát triển
nông nghiệp, nông thôn.
3. Yêu cầu của đề tài
-

Nghiên cứu các điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội trên địa bàn thị

trấn Trường
Sơn.
- Đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp với những chỉ tiêu phù
hợp với điều
kiện cụ thể của thị trấn Trường Sơn.
- Các đề xuất và giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng
đất nông
nghiệp.

8


4. Ý nghĩa nghiên cứu của đề tài
- Củng cố kiến thức đã được tiếp thu trong nhà trường và những kiến
thức thực tế
của sinh viên trong quá trình thực tập tại cơ sở.
- Nâng cao khả năng tiếp cận, thu thập số liệu và xử lý thông tin của
sinh viên
trong quá trình làm đề tài.
- Trên cơ sở đánh giá hiệu quả sử dụng đất của đất sản xuất nông

nghiệp từ đó đề
xuất được các giải pháp sử dụng đất đạt hiệu quả cao nhất.

9


CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Đất và vai trò của đất đối với sản xuất nông nghiệp
1.1.1.

Khái niệm về đất và đất nông nghiệp
Khái niệm về đất

1.1.1.1.

Đất là một phần của vỏ trái đất, nó là lớp phủ lục địa mà bên dưới nó lá
đá và khoáng sinh ra nó, bên trên là thảm thực bì và khí quyền.
Đất lả lớp phủ thổ nhưỡng, là thổ quyển, là một vật thể tự nhiên, mà
nguồn gốc của thể tự nhiên đó là do hợp điểm của 4 thể tự nhiên khác của
hành tinh là thạch quyển, khí quyển, thủy quyển và sinh quyển. Sự tác động
qua lại của bốn quyểntrên và thổ quyển có tính thường xuyên và cơ bản. Đã
có rất nhiều công trinh nghiên cứu liên quan đến những khái niệm về đất.[5]
Nhà bác học Đocutraiep (1846-1903) người đặt nền móng đẩu tiên cho
khoa học đất cho rằng. Đất là một vật thể có lịch sử tự nhiên hoàn toàn độc
lập, nó là sản phẩm tổng hợp của đá mẹ, khí hậu, sinh vật, địa hình và thời
gian. Đất được xem như một thể sống, nó luôn vận động, biến đổi và phát
triển. [6]
Những năm gần đây trên những tạp chí quốc tế đã xuất hiện một cụm
từ mới “land husbandry” và được hiểu là chúng ta phải nuôi dưỡng đất. Đất là

một vật thể sổng cũng tuân thủ theo những quy luật sống, phát sinh, phát
triển, thoái hoá và già cỗi. Tùy thuộc vào thái độ ứng xử của con người đối
với đất mà đất có thể trờ nên phì nhiêu hơn, cho năng suất cây trồng cao hơn
hay ngược lại.
Trong đánh giá đất theo FAO, đất đai được nhìn nhận là một yếu tố
sinh thái (FAO, 1976) có thể hiểu rộng ra rằng: đất đai bao gồm tất cả các
thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định
đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng đất, các thuộc tính đó bao gồm: khí hậu,
10


dáng đất, địa hình, địa mạo thổ nhưỡng, thực vật, thảm thực vật tự nhiên, cỏ
dại trên đồng ruộng, động vật tự nhiên và những biển dối của đất do hoật
động của con người. [2]
Như vậy đã có rất nhiều khái niệm và định nghĩa khác nhau về đất
nhưng khái niệm chung nhất có thể hiểu: Đất đai là một khoảng không gian
có giới hạn, theo chiều thẳng đứng gồm: lớp đất bề mặt, thảm thực vật, động
vật, diện tích mặt nước, mặt nước ngầm và khoáng sản trong lòng đất theo
chiều nằm ngang - trên bề mặt đất, giữ vai trò quan trọng và có ý nghĩa hết
sức to lớn đối với hoạt động sản xuất và cuộc sống của xã hội loài người. [7]
1.1.1.2.Khái niệm đất nông nghiệp
Theo quan điểm truyền thống của người Việt Nam thì đất nông nghiệp
thường được hiểu là đất trồng lúa, trồng cây hoa màu như: ngô, khoai, sắn...
và những loại cây được coi là cây lương thực. Tuy nhiên, trên thực tế việc sử
dụng đất nông nghiệp tương đối phong phú, không chi đơn thuần là để trồng
lúa, hoa màu mà còn dùng vào mục đích chăn nuôi gia súc, nuôi trồng thủy
sản hay để trồng cây lâu năm.
Như vậy có thể nói: đất nông nghiệp (ký hiệu NNP) là đất sử dụng vào
mục đích sản xuất, nghiên cứu, thí nghiệm về nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi
trồng thủy sản, làm muối và mục đích bảo vệ, phát triển rừng. Đất nông

nghiệp bao gồm đất sản xuất nông nghiệp, đất lâm nghiệp, nuôi trồng thủy
sản, đất làm muối và đất nông nghiệp khác. [7]
1.1.2. Vai trò và ý nghĩa của đất đai trong sản xuất nông nghiệp
Đất là khoảng không gian lãnh thổ cần thiết đối với mọi quá trình sản
xuất trong các ngành kinh tế quốc dân và hoạt động của con người. Nói về
tầm quan trọng của đất C.Mac viết: “Đất là một phòng thí nghiệm vĩ đại, kho
tàng cung cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng
của tập thể” (C.Mac 1949).

11


Đối với nông nghiệp: đất đai là yếu tố tích cực của quá trình sản xuất là
điều kiện vật chất đồng thời là đối tượng lao động (luôn chịu tác dộng trong
quá trình sản xuất như: cầy, bừa, xới, xáo...) và là tư liệu sản xuất hay công cụ
lao động (sử dụng để trồng trọt, chăn nuôi...). Quá trình sản xuất luôn có mối
quan hệ chặt chẽ với độ phì nhiêu và quá trình sinh học tự nhiên cùa đất.
Thực tế cho thấy trong quá trình phát triền xã hội loài người, sự hình
thành và phát triển của mọi nền văn minh, các thành tựu khoa học công nghệ
đều được xây dụng trên nền tảng cơ bản - sử dụng đất. Trong nông nghiệp
ngoài vai trò là cơ sở không gian đất còn có hai chức năng đặc biệt quan
trọng:
+ Là đối tượng chịu sự tác động trực tiếp cùa con người trong quá trình
sản xuất.
+ Tham gia tích cực vào quá trình sản xuất, cung cấp cho cây trồng
nước muối khoáng, không khí và các chất dinh dưỡng cần thiết cho cây trồng
sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Như vậy, đất trở thành công cụ sản
xuất. Năng suất và chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào độ phì nhiêu của đất.
Trong tất cả các loại tư liệu sản xuất dùng trong nông nghiệp chỉ có đất mới
có chức năng này. Vì vậy có thể nói rằng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu và

đặc biệt trong nông nghiệp.
1.2. Nguyên tắc và những quan điểm về sử dụng đất
1.2.1. Nguyên tắc sử dụng đất
• Khái niệm và nguyên tắc sử dụng đất
- Sử dụng đất là một hệ thống các biện pháp nhằm điều hòa mối quan
hệ người với đất trong tổ hợp với nguồn tài nguyên thiên nhiên khác và môi
trường. Căn cứ vào quy luật phát triển kinh tế xã hội cùng với yêu cầu không
ngừng ổn định và bền vững về mặt sinh thái, quyết định phương hướng chung
và mục tiêu sử dụng đất họp lý nhất là tài nguyên đất đai, phát huy tối đa công

12


dụng của đất nhằm đạt tới hiệu ích sinh thái, kinh tế, xã hội cao nhất. Vì vậy,
sử dụng đất thuộc phạm trù hoạt động kinh tế của nhân loại. Trong mỗi
phương thức sản xuất nhất định, việc sử dụng đất theo yêu cầu của sản xuất
và đời sống cần căn cứ vào thuộc tính tự nhiên của đất đai. Với vai trò là nhân
tố sản xuất, các nhiệm vụ và nội dung sử dụng đất đai được thể hiện ở các
khía cạnh sau:
- Sử dụng đất hợp lý về không gian, hình thành hiệu quả kinh tế không
gian sử dụng đất.
- Phân phối hợp lý cơ cấu đất đai trên diện tích đất đai được sử dụng,
hình thành cơ cấu kinh tế sử dụng đất.
- Quy mô sử dụng đất cần có sự tập trung thích hợp, hình thành quy mô
kinh tế sử dụng đất.
- Giữ mật độ sử dụng đất đai thích hợp, hình thành việc sử dụng đất đai
một cách kinh tế, tập trung, thâm canh.
1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng nông nghiệp
• Nhóm yếu tố về điều kiện tự nhiên
Điều kiện tự nhiên (đất, nước, khí hậu, thòi tiết...) có ảnh hưởng trực

tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Bởi các yếu tố của đỉều kiện tự nhiên là tài
nguyên để sinh vật tạo nên sinh khối. Do vậy, cần đánh giá đúng điều kiện tự
nhiên trên cơ sở đó xác định cây trồng vật nuôi chủ lực phù hợp và định
hướng đầu tư thâm canh đung.
Theo Mác, điều kiện tự nhiên là cơ sở hình thành địa tô chênh lệch.
Theo N.Borlang - người được giải Noben về giải quyết lương thực cho các
nước phát triển cho rằng: Yếu tố duy nhất quan trọng hạn chế năng suất cây
trồng ở tầm cỡ thế giới của các nước đang phát triển, đặc biệt đối với nông
dân thiếu vốn là độ phì của đất.

13


Điều kiện về đất đai, khí hậu thời tiết có ý nghĩa quan trọng đối vói sản
xuất nông nghiệp. Nếu điều kiện tự nhiên thuận lợi, các hộ nông dân có thê
lợi dụng những yếu tố đầu vào trong kinh tế, thuận lợi để tạo ra nông sản hàng
hoá với giá rẻ
Sản xuất nông nghiệp là ngành kinh doanh năng lượng ánh sáng mặt
trời dựa trên các điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội khác.
- Yếu tố khí hậu
Thực vật nói chung và cây trồng nói riêng muốn sống, sinh trưởng và
phát triền đòi hỏi phải có đầy đủ các yếu tố sinh trưởng là ánh sáng, nhiệt độ,
không khí nước và dinh dưỡng. Trong đó, ánh sáng, nhiệt độ, lượng mưa và
độ ẩm không khí chính là các yếu tố khí hậu. Chính vì thế, khí hậu là một
trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến sinh trưởng, năng suất và sản
lượng cây trổng, ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Việt Nam có khí hậu nhiệt đới gió mùa. Tuy nhiên, vì sự khác biệt về vĩ
độ địa lý và địa hình nên khí hậu có khuynh hướng khác biệt nhau khá rõ nét
theo từng vùng. Miền bắc có nhiệt độ trung bình 22,2 - 23,5°c, lượng mưa
trung bình từ 1.500 -2.400 mm, tổng số giờ nắng từ 1.650 -1.750 giờ/năm.

Trong khi đó, ở miền nam khí hậu mang tính chất xích đạo, nhiệt độ trung
hình 22,6 - 27,50c, lượng mưa trung bình 1.400 1 2.400 mm, nắng trên 2.000
giờ/năm.
Khí hậu là yếu tố quan trọng, ảnh hưởng rất lớn đến việc phân bố các
loại cây trồng, cùng như thời vụ cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Nếu
như ờ trung du và miền núi phía Bắc có thể trồng mận, hồng, đào, chuối, đậu
côve, súp lơ xanh... ở đồng bằng sông Hồng có thể trồng các loại rau vụ đông
có nguồn gốc ôn đới... thì ở đồng bằng sông Cửu Long có thể trồng cây đặc
sản như sầu riêng, măng cụt... hay miền Đông Nam bộ có thể trồng chôm

14


chôm, trái bơ, và Tây Nguyên trồng cây công nghiệp lâu năm cao su, cà phê,
điều là nhũng cây nhiệt đới điển hình.
- Yếu tố khí hậu nhiều khi ảnh hưởng rõ nét đến hiệu quả sử dụng đất
nông nghiệp với các mức độ khác nhau. Ở đồng bằng sông Hồng và Bắc
Trung bộ, nhiệt độ thấp vào vụ đông và thời kỳ đầu vụ xuân kèm theo ẩm
ướt,mưa phùn, thiếu ánh sáng làm hạn chế sinh trưởng và phát triển của cây
trồng ưa nắng, ưa nhiệt nhưng lại phù hợp cho cây trồng ưa lạnh có nguồn
gốc ôn đới. Trời âm u thiếu ánh sáng cũng là điều kiện cho sâu bệnh phát
triển phá hại mùa màng.
-Yếu tố đất trồng:
Cùng với khí hậu, đất tạo nên môi trường sống của cây trồng. Đất trồng
với các đặc tính như loại đất, thành phần cơ giới, chế độ nước, độ phì, có vai
trò quan trọng đối với sự sinh trưởng, phát triển và năng suất của cây trồng,
ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Đất giữ cây đứng vững trong không gian, cung cấp cho cây các yếu tố
sinh trưởng như nước, dinh dưỡng và không khí. Độ phì là một trong những
yếu tố quan trọng nhất của đất. Vị trí từng mảnh đất có ảnh hường đến quá

trình hình thành độ phì của đất. Độ phì nhiêu của đất liên quan trực tiếp đến
năng suất cây trồng. Do vậy, tuỳ theo vị trí địa hình, chất đất mà lựa chọn, bố
trí cây trồng thích hợp trên từng loại đất mới cho năng suất, hiệu quả sử dụng
đất cao.
-Yếu tố cây trồng:
Trong sử dụng đất nông nghiệp, cây trồng là yếu tố trung tâm. Con
người hưởng lợi trực tiếp từ những sản phẩm của cây trồng. Những sản phẩm
này cung cấp lương thực cho các nhu cầu thiết yếu cho con người và cho xuất
khẩu.

15


Việc bố trí cây trồng và kiểu sử dụng đất hợp lý trên đất đem lại những
giá trị cao về mặt hiệu quả cho cả người sản xuất và môi trường đất. Ngược
lại, nếu cây trồng được bố trí bất hợp lý, sử dụng đất bừa bãi không những
gây thất thu cho người nông dân mà còn ảnh hưởng xấu đến đất.
Ngày nay với sự phát triển nhanh chóng của những tiến bộ khoa học,
kỹ thuật, các giống cây trồng mới với chất lượng và năng suất cao, thời gian
sinh trưởng ngắn xuất hiện ngày càng nhiều. Sản xuất nông nghiệp hàng hoá
phát triền gắn với việc tăng hệ số sử dụng đất. Vì vậy, nhừng tiến bộ trong
công tác giống cậy trồng đã tạo cơ hội cho việc phát triển nông nghiệp hàng
hoá.
• Nhóm yếu tố về điều kiện kinh tế, xã hội
- Yếu tố con người
Con người là nhân tố tác động trực tiếp tới đất và hưởng lợi từ đất. Khi
dân số còn thấp, trình độ và nhu cầu thấp, việc khai thác quỹ đất nông nghiệp
còn ở mức hạn chế, hiệu quả không cao nhưng sự bền vững trong sử dụng đất
nông nghiệp được đảmbảo. Ngược lại, ngày nay khi dân số tăng nhanh kéo
theo sự gia tăng các nhu cầu thì tài nguyên đất nông nghiệp bị khai thác

nhiều, triệt để hơn nhằm đạt năng suất và hiệu quả cao hơn. Vì vậy, quy luật
sinh thái và tự nhiên bị xâm phạm, tính bền vững tài nguyên đất kém hơn .
Việc đảm bảo cân bằng giữa sử dụng và bảo vệ đất trở thành vấn đề cấp thiết.
Đối với các hoạt động kinh tế nói chung, sản xuất nông nghiệp nói
riêng, dân số vừa là thị trường của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, vừa là
nguồn cung về lao động cho sản xuất. Các hoạt động kinh tế sẽ không thể
phát triển nếu không có thị trường tiêu thụ các sản phẩm do chúng tạo ra. Đặc
biệt, đối với một nền sản xuất nông nghiệp hàng hoá thì điều này lại càng trở
nên quan trọng.

16


Chất lượng nguồn lao động cũng đóng vai trò quan trọng trong các hoạt
động sản xuất nông nghiệp. Nếu người nông dân có kinh nghiệm, kỹ thuật, có
ý thức trong sản xuất thì việc sử dụng đất nông nghiệp sẽ đạt hiệu quả cao.
- Yếu tố kinh tế
Đối với mỗi quốc gia, mức độ phát triển của nền kinh tế quốc dân có
ảnh hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất nói chung và sử dụng đất nông
nghiệp nói riêng và ngược lại. Nếu sử dụng đất có hiệu quả sẽ góp phần thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Khi kinh tế phát triển là tiền đề cho quá trình sử
dụng đẩt đạt được hiệu quả cao hơn, thông qua việc đầu tư, áp dụng tiến bộ
kỹ thuật, công nghệ cao, nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm cây
trồng.
- Cơ chế chính sách
Do có tầm quan trọng đặc biệt nên nông nghiệp, nông thôn luôn giành
được những ưu tiên trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội. Trong mỗi
nền kinh tế, người nông dân tiến hành sản xuất, kinh doanh ở những điều kiện
khác nhau, đặc biệt là các điều kiện về tự nhiên và kinh tế, gây ra bất bình
đẳnng về thu nhập. Mặt khác, thị trường luôn hàm chứa các hoạt động canh

tranh không lành mạnh dẫn đến một số người giàu lên do có những việc làm
bất chính. Vì vậy, nhà nước cần can thiệp vào thị trường thông qua những
chính sách có tính chất trợ giúp và phân phối lại thu nhập nhằm đảm bảo sự
công bằng xã hội. Các chính sách đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn, chính
sách tín dụng nông thôn, chính sách về giải quyết việc làm và xoá đói giảm
nghèo, khuyến nông...thực sự đã giúp ích rất nhiều trong quá trình sử dụng
đất nông nghiệp của những người nông dân.
Trong sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp hàng hoá,
người nông dân thường chịu thiệt thòi do hạn chế về kiến thức thị trường,
thông tin thị trường, sức mua... hơn nữa các hiệu ứng tràn ra ngoài trong sản
17


xuất nông nghiệp cũng làm cho sản xuất không hiệu quả: việc sử dụng bừa
bãi phân hoá học thuốc trừ sâu, thuốc trừ cỏ... có tác động tiêu cực đến môi
trường, nguồn nước không khí và đất. Do vậy, việc nhà nước can thiệp bằng
các chính sách và pháp luật thích hợp đã tạo điều kiện, khuyến khích, hướng
dẫn sản xuất nông nghiệp và đảm bảo tính bền vững của các yếu tố nguồn lực
trong sản xuất nông nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông
nghiệp.
Cũng bằng các chính sách thích hợp, sử dụng đất nông nghiệp được
đảm bảo ổn định và lâu dài. Trong những năm qua, Chính phủ đã không
ngừng ban hành sửa đổi và bổ sung những chủ trương, chính sách về đất đai
nhằm mục đích thúc đẩy sự phát triển sản xuất nông nghiệp nông thôn. Luật
đất đai sửa đổi (chính thức có hiệu lực vào ngày 1/7/2003) đã thể chế hoá và
với rộng quyền của người sử dụng đất. Đây là một chính sách khuyến khích
người nông dân đầu tư vào sản xuất dài hạn, thay đổi cơ cấu cây trồng nhằm
phát triển sản xuất hàng hoá một cách có hiệu quả. Mặc dù đất đai thuộc sờ
hữu toàn dân nhưng pháp luật công nhận quyền sử dụng lâu dài đôi với đất
Người sử dụng đất không chỉ được quyền sử dụng lâu dài mà còn được quyền

thừa kế những đầu tư trên đất. Điều đó đã trở thành động lực quan trọng trong
phát triển nông nghiệp. Nó làm cho người nông dân yên tâm đầu tư trên đất,
sử dụng đất nông nghiệp một cách chủ động và hiệu quả, phát huy được lợi
thế so sánh của từng vùng, từng miền. Thực tế cho thây, chính sách về đất đai
thông thoáng sẽ là cơ sở để hình thành các phương thức sản xuẩt mới như
thâm canh, tăng vụ, nâng cao hiệu quả sử dụng đất canh tác, đặc biệt là sử
dụng để sản xuất cây trồng có giá trị hàng hoá cao. Các quy hoạch, kế hoạch
sử dụng đất nông nghiệp cũng là cơ sở đê phát triên hệ thong cây trồng, vật
nuôi và khai thác đất một cách đầy đủ và hợp lý, đồng thời tạo điều kiện

18


thuận lợi để đầu tư thâm canh và tiến hành tập trung hoá, chuyên môn hoá,
hiện đại hoá nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
• Nhóm yếu tố các biện pháp kỹ thuật canh tác
Biện pháp kỹ thuật canh tác là tác động của con người vào đất đai, cây
trồng vật nuôi, nhằm tạo nên sự hài hoà giữa các yếu tố của quá trình sản xuất
để hình thành, phân bố và tích luỹ năng suất kinh tế. Đây là những vấn đề thể
hiện sự hiểu biết về đối tượng sản xuất, về thời tiết, về điều kiện môi trường
và thể hiện những dự báo thông minh của người sản xuất. Lựa chọn các tác
động kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách sử dụng các đầu vào phù hợp với
các quy luật tự nhiên của sinh vật nhằm đạt được các mục tiêu đề ra là cơ sở
để phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá. Theo Frank Elli và Douglass
C.North, ở các nước phát triển, khi có tác động tích cực của kỳ thuật, giống
mới, thuỷ lợi, phân bón tới hiệu quả thì cũng đặt ra yêu cầu mới đối với tổ
chức sử dụng đẩt. Có nghĩa là ứng dụng công nghệ sản xuất tiến bộ là một
đảm bảo vật chất cho kinh tể nông nghiệp tăng trưởng nhanh dựa trên việc
chuyển đổi sử dụng đất. Cho đển giữa thể ký 20, trong nông nghiệp nước ta
các quy trình kỹ thuật đã dóng góp đến 30% năng suất kinh tế. Như vậy nhóm

các biện pháp kỹ thuật đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong quá trình khai
thác đât theo chiều sâu và nâng cao hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp.
Khoa học kỹ thuật đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp
hoá hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. Cải tiến kỹ thuật trước hết làm táng
cung về hàng hoá nông sản, cũng tức là làm phát triển kinh tế. Áp dụng khoa
học (kiến thức), kỳ thuật (công cụ), công nghệ (kỹ năng) để tăng năng suất,
hiệu quả sàn xuất kinh doanh, phát triển nông nghiệp và kỉnh tế nông thôn
một cách bền vững. Thông qua việc áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật
vào sản xuất nông nghiệp như giống cây trồng vật nuôi mới, các quy trình kỹ
thuật trong canh tác, trong chế biến bảo quản...làm tăng năng suất, chất lượng

19


cây trồng vật nuôi, tăng hiệu quả sử dụng nguồn lực như đất đai, lao động,
vốn.
Lựa chọn các tác động khoa học kỹ thuật, lựa chọn chủng loại và cách
sử dụng các đầu vào phù hợp với các quy luật tự nhiên của sinh vật sẽ đạt
được mục tiêu đề ra.
1.3 Hiệu quả và tính bền vững trong sử dụng đất
1.3.1.Tính bền vững trong sử dụng đất
Từ khi biết sử dụng đất đai vào mục đích sinh tồn của mình, đất đai đã
trở thành cơ sờ cần thiết cho sự sống và cho tương lai phát triển của loài
người.
Sử dụng đất một cách hiệu quả và bền vững luôn là mong muốn cho sự
tồn tại và tương lai phát triển loài người, chính bởi vậy việc tìm kiếm các giải
pháp sử dụng đất thích hợp, bền vững đã được nhiều nhà nghiên cứu đất và các
tổ chức quốc tế rất quan tâm và không ngừng hoàn thiện theo sự phát triển của
khoa học. Thuật ngữ “Sừ dụng đất bền vững” (Sustainable Land Use) đã trở
thành thông dụng trên thế giới hiện nay.

Nội dung sử dụng đất bền vững bao hàm một vùng trên bể mặt trái đât
với tất cả các đặc trưng: Khí hậu, địa hình, thổ nhưỡng, chế độ thủy văn, động
vật, thực vật và cả những hoạt động cải thiện việc sử dụng và quản lý đất đai
như: Hệ thống tiêu nước, xây dựng đồng ruộng... Do đó, thông qua hoạt động
thực tiễn sử dụng đất chúng ta phải xác định được những vấn đề liên quan đến
khả năng bền vững đất đai trên phạm vi cụ thể của từng vùng để tránh khỏi
những sai lầm trong sử dụng đất, đồng thời hạn chế được những tác động có
hại đến môi trường sinh thái.
Theo Fetry, “Sự phát triển bền vững trong lĩnh vực nông nghiệp chính
là sự bảo tồn đất, nước, các nguồn động và thực vật, không bị suy thoái môi

20


trường, kỹ thuật thích hợp, sinh lợi kinh tế và chấp nhận được về mặt xã hội”
(FAO, 1994). FAO đã đưa các chỉ tiêu cụ thể cho nông nghiệp bền vững là:
Thoả mãn nhu cầu dinh dưỡng cơ bản của các thế hệ hiện tại và tương
lai về số lượng, chất lượng và các sản phẩm nông nghiệp khác.
Cung cấp lâu dài việc làm, đủ thu nhập và các điều kiện sống, làm việc
tốt cho mọi người trực tiếp sản xuất nông nghiệp.
Duy trì và có thể tăng cường khả năng sản xuất của các cơ sở tài
nguyên thiên nhiên và khả năng tái sản xuất của các nguồn tài nguyên tái tạo
được mà không phá vỡ chức năng của các chu trình sinh thái cơ sở và cân
bằng tự nhiên, không phá vỡ bản sắc văn hóa - xã hội của các cộng đồng sống
ở nông thôn hoặc không gây ô nhiễm môi trường.
Giảm thiểu khả năng bị tổn thương trong nông nghiệp, củng cố lòng tin
trong nông dân.
Vào năm 1991 ở Nairobi đã tổ chức hội thảo về “Khung đánh giá việc
quản lý đất đai” đã đưa ra định nghĩa quản lý bền vững đất đai bao gồm các
công nghệ, chính sách và hoạt động nhăm liên hợp các nguyên lý kinh tê - xã

hội với các quan tâm môi trường đè đong thời được xã hội chấp nhận (tính
chấp nhận).
Rõ ràng quản lý bền vừng đẩt đai phải bao gồm một tổ hợp để đồng thời
duy trì và nâng cao được sản lượng (hiệu quả sản xuất), giảm được rủi ro (an
toàn) bảo vệ được tiềm năng nguồn lực tự nhiên, ngăn ngừa thoái hóa đất và ô
nhiễm môi trường nước (bảo vệ). Hiệu quả là lợi ích lâu dài (lâu bền) được xã
hội chấp nhận phù hợp với lợi ích của các bên tham gia quản lý, lợi ích quốc
gia, lợi ích cộng đồng (tính chấp nhận).
Năm nguyên tắc trên được coi là trụ cột cùa sử dụng đất đai bền vững
và là những mục tiêu cần phải đạt được. Chúng có mối quan hệ với nhau, nếu
thực tế diễn ra đồng bộ so với các mục tiêu nêu trên thì khả năng bền vững sẽ

21


đạt được, nểu chi đạt được một hoặc một vài mục tiêu mà không phải là tất cả
thì khả năng bền vừng chi mang tính bộ phận.
Vận dụng các nguyên tẳc trên, ở Việt nam một loại hình sử dụng đất
được xem là bền vững phải đạt được 3 yêu cầu sau:
- Bền vững về Kinh tế: Cây trồng cho hiệu quả kinh tế cao, được thị
trường chấp nhận về chất lượng, sản phẩm phải đạt tiêu chuẩn tiêu thụ tại địa
phương, trong nước và xuất khẩu, tùy vào mục tiêu của từng vùng.
Tổng giá trị sản phẩm trên đơn vị diện tích là thước đo quan trọng nhất
của hiệu quả kinh tế đối với một hệ thống sử dụng đất. Tổng giá trị trong một
giai đoạn hay cả chu kỳ phải trên mức bình quân của vùng, nêu dưới mức đó
thì nguy cơ người sản xuất sẽ không có lãi, lãi suất phải lớn hơn lãi suât tiên
vay vốn ngân hàng.
- Bền vững về mặt Xã hội: Thu hút được lao động, đảm bảo đời sống
Xã hội phát triển.
Nội lực và nguồn lực địa phương phải phát huy về đất đai, hệ sử dụng

đất phải được tổ chức trên đất mà nông dân có thể hưởng thu lâu dài, đất đã
được giao và rừng đã được khoán với lợi ích các bên cụ thể.
Sử dụng đất sẽ bền vững nếu phù hợp với nền văn hóa dân tộc và tập
quán địa phương, nếu ngược lại sẽ không được cộng đồng ủng hộ.
- Bền vững về môi trường: Các loại hình sử dụng đất phải bảo vệ
được độ màu mỡ của đất, ngăn chặn sự thoái hóa đất và bảo vệ môi trường
sinh thái đất (Nguyễn Ngọc Nông và cs, 2007).
Giữ đất được thể thiện bằng giảm thiểu liều lượng đất mất hàng năm
dưới mức cho phép. Độ phì nhiêu đất tăng dần là yêu cầu bắt buộc đối với
quản lý sử dụng bền vững. Độ che phủ tối thiểu phải đạt ngưỡng an toàn sinh
thái (>35%). Đa dạng sinh học biểu hiện qua thành phầm loài (đa canh bền

22


vững hơn độc canh, cây lâu năm có khả năng bảo vệ đất tốt hơn cây hàng
năm...
Ba yêu cầu trên là để xem xét và đánh giá các loại hình sử dụng đất
hiện tại. Thông qua việc xem xét và đánh giá theo các yêu cầu trên để giúp
cho việc định hướng phát triển nông nghiệp ở từng vùng sinh thái.
Bền vững là một khái niệm động, bền vững ở nơi này có thể không bền
vững ở nơi khác, bền vững ở thời điểm này, có thể không bền vững ở thời
điểm khác. Đo lường trực tiếp tính bền vững là một khó khăn nhưng sự đánh
giá đó có thể thực hiện được dựa vào những biểu hiện và chiều hướng của các
quá trình chi phối đến chức năng một hệ canh tác nhất định, ở một địa phương
cụ thể. Nguyên tắc chung khi đánh giá tính bề vững là:
+ Tính bền vững được đánh giá cho một kiểu sử dụng đất nhất định,
một mô hình sản xuất nhất định, cho một đơn vị cụ thể, cho một hoạt động
điều hành, cho một thời hạn xác định.
+ Dựa trên quy trình và dữ liệu khoa học, những chỉ sô và tiêu chuẩn

phản ánh nguyên nhân và kết quả, các tiêu chí và chi tiêu phản ánh hết dược
các mặt bền vững và không bền vững của một hệ thống đạt mức tối đa. Song
trong thực tế không có một hệ thống lý tưởng như vậy, mỗi một hệ thống chỉ
đạt được một số mặt nào đó ở một mức độ nhất định tùy theo từng mục tiêu
của mỗi kiểu sử dụng đất, các tiêu chí và chì tiêu cũng có ý nghĩa khác nhau,
cấp độ quan trọng khác nhau và nhận được sự đánh giá khác nhau xem xét
cho từng trường hợp. (Thái Phiên và cs, 1998).
Tóm lại: Khái niệm sử dụng đất đai bền vững do con người đưa ra được
thể hiện trong nhiều hoạt động sử dụng và quản lý đất đai theo các mục đích
mà con người đã lựa chọn cho từng vùng đất xác định. Đối với sản xuất nông
nghiệp, việc sử dụng đất bền vững phải đạt được trên cơ sở đảm bảo khả năng
sản xuất on định của cây trồng, chất lượng tài nguyên đất không làm suy giảm

23


theo thời gian và việc sử dụng đất không ảnh hưởng xấu đến hoạt động sống
của con người.
1.3.2. Tính hiệu quả trong sử dụng đất
Hiệu quả chính là kết quả như yêu cầu của việc mang lại. Do tính chất
mâu thuẫn giữa nguồn tài nguyên hữu hạn với nhu cầu ngày càng cao của con
người mà ta phải xem xét kết quả phải tạo ra như thế nào? Chi phí bỏ ra để
tạo ra kết quả đó là bao nhiêu? Có đưa lại kết quả hữu ích không? Chính vì
thế khi đánh giá hoạt động sản xuất không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết
quả mà còn phải đánh giá chất lượng các hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra
sản phẩm đó.
Để xác định bản chất và khái niệm hiệu quả cần xuất phát từ những
luận điểm của Mác và những luận điểm lý thuyết hệ thống sau:
- Thứ nhất: Bản chất của hiệu quả là yêu cầu tiết kiệm thời gian, thể
hiện trình độ nguồn lực của xã hội.

- Thứ hai: Theo quan điểm của lý thuyết hệ thống thì nền sản xuất xã
hội) là một hệ thống các yếu tố sản xuất và các quan hệ vật chất hình thành
giữa con người vói con người trong quá trình sản xuất.
-Thứ ba: Hiệu quả kinh tế là mục tiêu nhưng không phải là mục tiêu
cuối cùng mà là mục tiêu xuyên suốt mọi hoạt động kinh tế. Trong quy hoạch
và quản lý kinh tế nói chung hiệu quả là quan hệ so sánh tối ưu giữa đầu vào
và đầu ra, là lợi ích lớn hơn thu được với một chi phí nhất định, hoặc một kết
quả nhầt định với chi phí nhỏ hơn (PGS.TS Đỗ Thị Lan, Đỗ Anh Tài, 2007).
Như vậy, bản chất của hiệu quả được xem là: việc đáp ứng nhu cầu của của
con người trong xã hội; việc bảo tồn tài nguyên, thiên nhiên và nguồn lực để phát
triển bền vững.
* Hiệu quả kinh tế: Hiệu quả kinh tế là một chỉ tiêu so sánh mức độ
tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu

24


ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kỳ, góp phần làm tăng
thêm lợi ích của xã hội:
Hiệu quả kinh tế phải đạt được 2 vấn đề sau:
+ Một là: Mọi hoạt động sản xuất của con người đều phải tuân theo quy
luật tiết kiệm thời gian.
+ Hai là: Hiệu quả kinh tế phải được xem xét trên quan điểm lý thuyết
hệ thống.
Hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết
quả đạt được và lượng chi phí bỏ ra trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Kết
quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra
là phần giá trị của các nguồn lực đầu vào. Mối tương quan cần xét cả phần so
sánh tuyệt đối và tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai
đại lượng đó.

Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng bản chất của phạm trù kinh
tế sử dụng đẩt là: Với một diện tích nhất định sản xuất ra một khối lượng của
cải vật chất nhiều nhất với một lượng chi phí về vật chất và lao động thấp
nhất nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng vật chất xã hội (Phạm Vân Đình
và cs, 2001).
* Hiệu quả xã hội: Phản ánh mối tương quan giữa kết quả thu được về
mặt xã hội mà sản xuất mang lại với các chi phí sản xuất xã hội bỏ ra. Loại
hiệu quả này đánh giá chủ yếu về mặt xã hội do hoạt động sản xuất mang lại.
“Hiệu quả về mặt xã hội sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác
định bằng khả năng tạo việc làm trên một diện tích đất nông nghiệp” (Nguyễn
Duy Tính, 1995).
Từ những quan niệm trên cho thấy, giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả
xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là một
phạm trù thống nhất, phản ánh mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với các lợi

25


×