MỞ ĐẦU
Lý do chọn đề tài.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc cũng là giải phóng giai
cấp, giải phóng con người chiếm một vị trí quan trọng trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đây cũng là vấn đề cơ bản của đường lối cách mạng Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp,
giải phóng con người vừa là sự kết hợp tinh hoa văn hoa văn hóa dân tộc và trí tuệ
thời đại, vừa thể hiện tinh thần dân tộc, tự chủ sáng tạo của Người trong việc vận
dụng những nguyên lý của Chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam. Chính vì
vậy tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải
phóng con người được coi là bước phát triển mới của học thuyết Mac Lenin về cách
mạng thuộc địa ở thời điểm các dân tộc bị dân tộc bị áp bức vùng lên đấu tranh cho
độc lập, tự do.
Dân tộc Việt Nam là một dân tộc có truyền thống yêu nước vì vậy tìm hiểu tư
tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc giúp ích rất nhiều cho quá trình
học tập và tìm hiểu lịch sử dân tộc. Vì vậy em chọn đề tài tiểu luận là “Vấn đề về cách
mạng giải phóng dân tộc trong tác phẩm Đường Kách Mệnh” nhằm hiểu thêm về
phong trào cách mạng ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
* Mục đích:
Phân tích làm rõ những luận điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về các vấn đề:
+ Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, thực chất là vấn đề đấu tranh để
giải phóng các dân tộc thuộc địa.
+ Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng
dân tộc. Đó là con đường cách mạng vô sản, đi từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân tiến lên cách mạng XHCN.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở khoa học của việc vận dụng và phát triển học thuyết Mác-Lênin
về cách mạng giải phóng dân tộc.
- Nêu được những quan điểm sáng tạo của Hồ Chí Minh về cách mạng giải
phóng dân tộc.
1
- Làm rõ sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
đối với công cuộc đổi mới hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài.
* Đối tượng nghiên cứu:
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc, tiến đến giải phóng
giai cấp, giải phóng con người trong hệ tư tưởng Hồ Chí Minh ở tác phẩm: “Đường
Kách Mệnh”.
* Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài chọn lựa nội dung Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc và cách mạng giải
phóng dân tộc để tiến hành nghiên cứu.
5. Phương pháp nghiên cứu
Tiểu luận được dựa trên những phương pháp:
Phương pháp duy vật biện chứng
Phương pháp trừu tượng, phương pháp logic, lịch sử, . . .
6. Kết cấu bài tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận bài tiểu luận gồm có 2 chương
2
Chương 1
CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ SỰ VẬN DỤNG CỦA HỒ
CHÍ MINH ĐỐI VỚI VẤN ĐỀ GIẢI PHÓNG DÂN TỘC Ở CÁC NƯỚC
THUỘC ĐỊA
1.1. Cơ sở lý luận về vấn đề dân tộc
1.1.1. Khái niệm dân tộc:
Hiện nay khái niệm được hiểu theo nhiều nghĩa, trong đó có 2 nghĩa được dùng
phổ biến nhất:
- Chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung sinh hoạt
kinh tế, có ngôn ngữ riêng, văn hóa có những đặc thù; xuất hiện sau bộ lạc, bộ tộc; kế
thừa, phát triển cao hơn những nhân tố tộc người ở bộ lạc, bộ tộc và thể hiện thành ý
thức tự giác tộc người của dân cư, cộng đồng đó.
- Chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ
quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức thống nhất của mình,
gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống
đấu tranh chung trong suốt quá trình lịch sử lâu dài dựng nước và giữ nước.
Với nghĩa thứ nhất, dân tộc là một bộ phận của quốc gia. Với nghĩa thứ hai, dân
tộc là toàn bộ nhân dân của quốc gia đó. Với đề tài này dân tộc được hiểu theo nghĩa
thứ nhất.
1.1.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc
Vấn đề dân tộc trong triết học Mác-Lênin là những vấn đề rộng lớn. C. Mác, Ph.
Ăngghen đã nêu lên những quan điểm cơ bản có tính phương pháp luận để nhận thức
và giải quyết vấn đề dân tộc như nguồn gốc, bản chất của dân tộc, những quan hệ cơ
bản của dân tộc, thái độ của giai cấp công nhân và đảng của nó đối với vấn đề dân tộc
cũng như mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc.
Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, Mác và Ăngghen đã đề cập đến vấn đề
dân tộc, đặc biệt, các ông đã làm rõ mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc. Hai ông
viết: Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản nhằm lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản,
ở giai đoạn đầu của nó là mang tính chất dân tộc, vì phong trào vô sản là phong trào
độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích cho khối đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của
giai cấp vô sản chống lại giai cấp tư sản, dù về mặt nội dung, không phải là một cuộc
đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu lại mang hình thức đấu tranh dân tộc . Từ đó, Mác
3
kêu gọi: “giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải giành lấy chính quyền, phải tự vươn
lên thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải
theo cái nghĩa như giai cấp tư sản hiểu.
Theo Mác-Ăngghen, chỉ có giai cấp vô sản mới thống nhất được lợi ích của giai
cấp mình với lợi ích của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Có triệt để xoá bỏ tình
trạng bóc lột và áp bức giai cấp mới có thể có điều kiện xoá bỏ ách áp bức dân tộc,
mới đem lại độc lập thật sự cho dân tộc mình và cho các dân tộc khác. Chỉ có cuộc
cách mạng do chính đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo mới thực hiện được sự thống
nhất giữa giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
Tuy nhiên, ở thời đại Mác - Ăngghen, hai ông không đi sâu giải quyết vấn đề
dân tộc vì vấn đề này ở Tây Âu đã cơ bản được giải quyết trong cách mạng tư sản;
nhất là các ông chưa có điều kiện để luận bàn nhiều vấn đề dân tộc thuộc địa. Đúng
như Lênin từng nhận định, đối với Mác, so với vấn đề giai cấp vô sản thì vấn đề dân
tộc chỉ là một vấn đề thứ yếu thôi.
Kế thừa quan điểm của Mác-Ăngghen, Lênin đã phát triển thành hệ thống lý luận
toàn diện và sâu sắc về vấn đề dân tộc. Theo Lênin, dân tộc là sản phẩm của quá trình
phát triển lâu dài của lịch sử. Trước dân tộc là các hình thức cộng đồng tiền dân tộc
như thị tộc, bộ tộc, bộ lạc. Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa tư bản dẫn đến sự ra
đời của các nhà nước dân tộc tư bản chủ nghĩa. Khi chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai
đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, các nước đế quốc thi hành
chính sách xâm lược thuộc địa, vấn đề dân tộc trở nên gay gắt, từ đó xuất hiện vấn đề
dân tộc thuộc địa.
Thời đại của Lênin, chủ nghĩa đế quốc đã trở thành một hệ thống trên toàn thế
giới, cách mạng giải phóng dân tộc đã thực sự trở thành một nhân tố quan trọng của
các dân tộc thuộc địa, là một bộ phận của cách mạng vô sản. Với thực tiễn đó, Lênin
có điều kiện để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa và kế thừa những quan điểm trước
đó của Mác-Ăngghen để phát triển thành học thuyết về cách mạng thuộc địa. Theo
Lênin, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở chính quốc sẽ không thể giành được thắng
lợi nếu nó không biết liên minh với cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức ở thuộc
địa. Từ đó, Lênin bổ sung khẩu hiệu của Mác thành: Vô sản toàn thế giới và các dân
tộc bị áp bức, đoàn kết lại!
4
Như vậy, C. Mác, Ph. Ăngghen và Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về
dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, đề cập đến mối quan hệ biện chứng giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ yêu cầu, thực tiễn và mục
tiêu của cách mạng vô sản ở châu Âu, các ông tập trung nhiều vào vấn đề giai cấp, coi
đó là chìa khoá giải quyết vấn đề cách mạng, đặt lên hàng đầu nhiệm vụ bảo vệ lợi ích
chung cho toàn thể giai cấp vô sản. Điều này hoàn toàn đúng với đòi hỏi của thực tiễn
cách mạng vô sản ở châu Âu đang đặt ra lúc bấy giờ. Cũng như Lênin, Hồ Chí Minh
đã bổ khuyết những gì Mác và Ăng ghen chưa thực hiện được ở thời đại của các ông.
Hồ Chí Minh - chiến sĩ cộng sản đầu tiên đã mở đường cho phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc theo khuynh hướng dân chủ vô sản.
1.2. Hồ Chí Minh vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mac-Lênin về vấn đề giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người ở các nước thuộc địa.
Hồ Chí Minh cho rằng trong điều kiện các nước thuộc địa thì giải phóng dân tộc
là cơ sở để giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Trong quan hệ dân tộc và giai
cấp thì đòi hỏi phải giải quyết thỏa đáng giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, trước
hết là lợi ích giai cấp công nhân. Đây là một vấn đề lớn về lí luận và thực tiễn trước
kia, hiện nay và cả tương lai. Suốt cuộc đời mình Hồ Chí Minh đã giải quyết thành
công vấn đề dân tộc và giai cấp nói chung, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp
nói riêng. Đây là một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi của cách mạng Việt
Nam.
1.2.1. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng thuộc địa.
Hồ Chí Minh nhận thấy sự phân hóa giai cấp thuộc địa khác với các nước
phương tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều, nhưng đều chung một
số phận mất nước.
Mâu thuẫn cơ bản ở các nước phương tây là giai cấp vô sản và giai cấp tư sản,
còn mâu thuẫn chủ yếu ở xã hội thuộc địa phương đông là dân tộc bị áp bức với chủ
nghĩa thực dân. Do vậy cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra giống như các nước
phương Tây.
Hồ Chí Minh đã phân tích: Xã hội phương Đông, Ấn Độ hay Trung Quốc xét về
mặt cấu trúc kinh tế không giống các xã hội phương Tây thời trung cổ cũng như thời
cận đại, và đấu tranh giai cấp không quyết liệ bằng ở đây. Do mâu thuẫn chủ yếu khác
nhau nên tính chất cuộc đấu tranh cách mạng cũng khác nhau,nếu như ở các nước tư
5
bản chủ nghĩa phải tiến hành cuộc đấu tranh giai cấp thì ở các nước thuộc địa trước
hết phải tiến hành cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ hàng đầu, trên hết,
trước hết của cách mạng Việt Nam. Giải phóng dân tộc, xét về thực chất là đánh đổ
ách thống trị, áp bức, xâm lược của đế quốc thực dân giành độc lập dân tộc, hình
thành nhà nước dân tộc, độc lập và tự do lựa chọn con đường phát triển của dân tộc
phù hợp với xu thế phát triển của thời đại, tiến bộ xã hội. Yêu cầu bức thiết của nhân
dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc, trong phong trào cộng sản quốc tế có quan
điển cho rằng vấn đề cơ bản của cách mạng thuộc địa là vấn đề nông dân.
Ở các nước thuộc địa nông dân là nạn nhân chính của chính sách khai thác thuộc
địa, bóc lột tô thuế và cướp đoạt ruộng đất, vì thế kẻ thù số một của nông dân là bọn
đế quốc thực dân.
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và
nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.Trong tác phẩm
Nguyễn Áí Quốc đã nhấn mạnh tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là
giải phóng dân tộc, Người nói rõ: “Giai cấp nông dân là số lượng lớn nhất trong dân
tộc nên giải phóng dân tộc chủ yếu là giải phóng nông dân,nông dân có yêu cầu về
ruộng đất. Khi tiến hành đánh đổ chủ nghĩa đế quốc, yêu cầu đó cũng phần nào được
đáp ứng vì ruộng đất của bọn đế quốc và tay sai sẽ thuộc về nông dân. Đế quốc và tay
sai là kẻ thù số một của nông dân, lật đổ chế độ thuộc địa là nguyện vọng hàng đầu
của nông dân. Tính chất và nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam càng được thể hiện rõ
hơn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn Áí Quốc soạn thảo đó là
tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tại hội
nghị lần thứ 8 Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng(5-1941) do Hồ Chí Minh chủ trì đã
quyết định thành lập mặt trận Việt Minh thực hiện đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên
minh công - nông, giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó là nhiện vụ
bức thiết nhất, chủ trương tạm gác khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và chỉ tiến hành
nhiêm vụ đó ở một mức độ nhất định,thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải
phóng dân tộc.Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Người cũng đã nêu rõ và
khẳng định trường kì kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất, độc lập nhất định
thành công. Đó không những là quyết tâm mà còn là nhiệm vụ của cách mạng Việt
Nam bấy giờ.
6
1.2.2 Mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc.
Mục tiêu của cách mạng Việt Nam là đấu tranh giành độc lập dân tộc đưa đất
nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Từ khi Nguyễn Áí Quốc tìm ra con đường cứu nước,tin tưởng vào chủ nghĩa
Mác - Lênin và quốc tế thứ III thì mục tiêu giải phóng dân tộc ngày càng được thể
hiện rõ hơn. Mục tiêu cấp thiết của cách mạng thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi
riêng biệt của mỗi giai cấp nào mà quyền lợi chung của toàn dân tộc.
Tuy nhiên do những hạn chế trong nhận thức và thực tiễn của cách mạng thuộc
địa, lại chịu ảnh hưởng của tư tưởng giáo điều, tả khuynh nhấn mạnh chiều đấu tranh
giai cấp. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng (10/1930) đã phê
phán những quan điểm của Nguyển Áí Quốc, nhưng với bản lĩnh cách mạng kiên
cường bám sát thực tiễn Viêt Nam, kiên quyết chống giáo điều. Tại Hội nghị lần thứ 8
Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng chủ trương thay đổi chiến lược từ nhấn mạnh đấu
tranh giai cấp sang đấu tranh giải phóng dân tộc, hội nghị khẳng định cuộc cách mạng
Đông Dương hiện tại không phải là cuôc cách mạng tư sản dân quyền nữa mà là cuộc
cách mạng chỉ giải quyết một vấn đề cần thiết là dân tộc giải phóng. Vậy thì cuộc
cách mạng Đông Dương trong giai đoạn hiên tại là một cuộc “cách mạng giải phóng”.
Cuối cùng thắng lợi của cách mạng tháng Tám 1945, cũng như thắng lợi năm
1975 đã khẳng định được đường lối giải phóng dân tộc và tư tưởng độc lập, tư do của
Hồ Chí Minh là đúng đắn nhất.
7
Chương 2
QUAN ĐIỂM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG DÂN
TỘC TRONG TÁC PHẨM “ĐƯỜNG KÁCH MỆNH” VÀ SỰ VẬN DỤNG TƯ
TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC TRONG CÔNG CUỘC ĐỔI
MỚI
2.1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc trong tác
phẩm “Đường Kách Mệnh”
2.1.1. Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản,
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
* Cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con đường cách mạng vô sản
Từ cuối thế kỷ XIX, khi thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, các phong
trào yêu nước ở Việt Nam đã diễn ra hết sức sôi nổi nhưng kết cục đều bị thất bại vì
chưa có đường lối và phương pháp đấu tranh đúng đắn.
Trong cảnh nước mất nhà tan và cách mạng Việt Nam đang bị khủng hoảng về
đường lối cứu nước, ngày 5 tháng 6 năm 1911, Hồ Chí Minh ra đi tìm đường cứu
nước. Gần 10 năm sau (1920), Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm thấy cái
"cẩm nang thần kỳ" cho sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã đặt
cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam vào quỹ đạo cách mạng vô sản thế giới, coi
cuộc cách mạng đó là một bộ phận khắng khít của cách mạng thế giới. Người viết: chỉ
có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng
này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và cách mạng thế giới. Về sau này,
Người kết luận: muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác
con đường cách mạng vô sản, và cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành
cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành thắng lợi hoàn toàn.
Trong hoạt động thực tiễn, Hồ Chí Minh luôn gắn mục tiêu độc lập dân tộc với
chủ nghĩa xã hội, gắn sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc với sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhờ đó, cách mạng Việt Nam đã giành được nhiều
thắng lợi có ý nghĩa lịch sử to lớn và mang tầm vóc thời đại sâu sắc.
8
Có thể khẳng định rằng, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là điểm
khác biệt căn bản giữa con đường cứu nước của Hồ Chí Minh với các con đường cứu
nước của các sĩ phu yêu nước trước đó. Đây là luận điểm trung tâm, xuyên suốt toàn
bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Ngày nay, Đảng ta và dân tộc ta vẫn kiên định
con đường cách mạng với mục tiêu mà Hồ Chí Minh đã lựa chọn.
* Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải do Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo.
Cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo của
đảng của giai cấp công nhân. Đảng đó phải được xây dựng theo các nguyên tắc đảng
kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin: Trước hết phải có
đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chung, ngoài thì liên lạc với
dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành
công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có
chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy.
Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam. Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin. Như vậy Nguyễn Ái Quốc đã
khẳng định: cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đặt dưới sự lãnh đạo
của Đảng của giai cấp công nhân, Đảng đó phải được xây dựng theo nguyên tắc Đảng
kiểu mới của Lênin, được vũ trang bằng chủ nghĩa Mác - Lênin.
Các bậc tiền bối cách mạng bước đầu cũng đã nhận thức được tầm quan trọng và
vai trò của chính đảng cách mạng. Cụ Phan Chu Trinh cũng từng nói: muốn độc lập tự
do, phải có đoàn thể. Phan Bội Châu thì đã tổ chức ra Đảng Việt Nam Quang Phục
Hội, nhưng tất mọi việc đều không thành.
2.1.2. Cách mạng giải phóng dân tộc là sự nghiệp đoàn kết của toàn dân trên
cơ sở liên minh công – nông.
Trong phạm vi của cách mạng giải phóng dân tộc mà đối tượng cần đánh đổ
trước hết là bọn đế quốc và phong kiến tay sai nhằm giành lại độc lập dân tộc và dân
chủ cho nhân dân. Hồ Chí Minh khẳng định muốn làm được công việc khó này thì
phải làm cho quần chúng nhân dân giác ngộ, phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa cho
nhân dân hiểu, phải đoàn kết dân, phải tổ chức dân chúng lại. Người nhấn mạnh vai
trò của tổ chức cách mạng, phải có tổ chức vững bền thì cách mạng mới thành công.
9
Đồng thời đưa ra các tổ chức quần chúng như tổ chức công hội, tổ chức nông hội, tổ
chức dân cày, thanh niên, phụ nữ, quốc tế đỏ. Người chủ trương vận động, tập hợp
rộng rãi các tầng lớp nhân dân Việt Nam mất nước, trong một Mặt trận dân tộc thống
nhất rộng rãi nhằm huy động sức mạnh của toàn dân tộc đấu tranh giành độc lập, tự
do.
Theo Người, cách mạng giải phóng dân tộc là việc chung của dân chúng chứ
không phải việc một hai người. Vì vậy, phải đoàn kết toàn dân, sĩ, nông, công, thương
đều nhất trí chống lại cường quyền. Nhưng trong sự tập hợp rộng rãi đó, không được
quên cái cốt lõi của nó là công - nông. Phải nhớ: công - nông là người chủ cách mệnh.
Công, nông là gốc cách mệnh.
Trong Sách lược vắn tắt, Người viết: Đảng phải hết sức liên lạc với tiểu tư sản,
trí thức, trung nông, Thanh niên , Tân việt..., để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp.
Còn đối với bọn phú nông, trung, tiểu địa chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản
cách mạng thì phải lợi dụng, ít lâu mới làm cho họ đứng trung lập. Bộ phận nào phản
cách mạng thì phải đánh đổ.
Cũng cần phải thấy rằng trong khi chủ trương đoàn kết, tập hợp rộng rãi các lực
lượng dân tộc chống đế quốc, Hồ chí Minh vẫn nhắc nhở chúng ta phải quán triệt
quan điểm giai cấp: Công nông là gốc là gốc cách mạng; còn học trò , nhà buôn nhỏ,
điền chủ cũng bị tư sản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ
là bầu bạn cách mệnh của công nông thôi. Và trong khi liên lạc với các giai cấp, phải
hết sức cẩn thận, không khi nào nhượng bộ một chút lợi ích gì của công nông mà đi
vào con đường thoả hiệp.
2.1.3. Cách mạng giải phóng dân tộc cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và
có khả năng giành thắng lợi trước cách mạng vô sản ở chính quốc.
Thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế trước khi nổ ra cách mạng
tháng Mười chưa đề cập đến vai trò, vị trí của cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc
địa. Ngay bản thân C. Mác, Ph. Ăngghen và V.I. Lênin vẫn chưa có điều kiện để luận
bàn về vấn đề quan trọng này, các ông chỉ tập trung, nhấn mạnh đến vấn đề giai cấp.
Các nhà cách mạng hoạt động trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế giai
đoạn này luôn luôn cho rằng thắng lợi của cách mạng ở các nước thuộc địa phụ thuộc
trực tiếp vào thắng lợi của cách mạng vô sản ở chính quốc. Khi Quốc tế cộng sản
được thành lập (1919), trong Tuyên ngôn của Quốc tế III ghi rõ: “Công nhân và nông
10
dân không những ở An Nam, Angiêri, Bengan mà cả ở Ba Tư hay Ácmênia chỉ có thể
giành được độc lập khi mà công nhân các nước Anh và Pháp lật đổ được Lôiit
Gioócgiơ và Clêmăngxô, giành chính quyền nhà nước về tay mình”. Quan điểm này
tiếp tục tồn tại và ảnh hưởng kéo dài đến Đại hội VI Quốc tế cộng sản (1928). Trong
Những luận cương về phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa
(01/9/1928), viết: “Chỉ có thể thực hiện hoàn toàn công cuộc giải phóng các thuộc địa
khi giai cấp vô sản giành được thắng lợi ở các tư bản tiên tiến”.
Với chủ trương đó, Quốc tế cộng sản đã không thể phát huy được phong trào đấu
tranh cách mạng ở các nước tư bản nói chung và phong trào cách mạng giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa nói riêng. Không tán thành với chủ trương đó, tại Đại
hội V Quốc tế cộng sản (6/1924), Nguyễn Ái Quốc đã trình bày quan điểm của mình
cho rằng hình như những người trong Quốc tế Cộng sản chưa thấm nhuần tư tưởng
cho rằng vận mệnh của giai cấp vô sản thế giới và đặc biệt là vận mệnh của giai cấp
vô sản ở các nước đi xâm lược thuộc địa gắn chặt với vận mệnh của giai cấp bị áp bức
ở các thuộc địa...nọc độc và sức sống của bọn rắn độc tư bản chủ nghĩa đang tập trung
ở các nước thuộc địa hơn là chính quốc. Người chỉ trích, đã có nhiều người xem
thường các thuộc địa trong lúc chủ nghĩa tư bản lại dựa vào nó để tự bảo vệ và chống
lại các đồng chí. Người đã phát hiện ra thuộc địa là mắt xích yếu trong hệ thống của
chủ nghĩa đế quốc. Trong khi đó, nhân dân thuộc địa luôn chứa đựng tinh thần yêu
nước, căm thù bọn xâm lược và sẽ vùng dậy khi có thời cơ.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản đã trở thành chủ nghĩa đế
quốc. Chúng vừa tranh giành nhau trong việc xâu xé thuộc địa, vừa liên kết với nhau
trong việc đàn áp phong trào đấu tranh giành độc lập của các dân tộc thuộc địa. Trong
cuộc đấu tranh tự giải phóng, giai cấp vô sản ở chính quốc và nhân dân các dân tộc
thuộc địa có chung một kẻ thù. Nhận thức được điều đó, từ đầu những năm 20 của thế
kỷ XX, Người cho rằng: chủ nghĩa đế quốc là một con đỉa có hai vòi, một vòi bám
vào chính quốc, một vòi bám vào thuộc địa. Muốn đánh bại chủ nghĩa đế quốc phải
đồng thời cắt cả hai vòi của nó đi, tức là phải kết hợp cách mạng vô sản ở chính quốc
với cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa, phải xem cách mạng ở thuộc địa như là
"một trong những cái cánh của cách mạng vô sản", phát triển nhịp nhàng với cách
mạng vô sản.
11
Mặc dù trong phong trào cộng sản quốc tế đã từng tồn tại quan điểm xem thắng
lợi của cách mạng thuộc địa phụ thuộc trực tiếp vào thắng lợi vô sản ở chính quốc,
song do nhận thức và vận dụng công thức của Mác : Sự giải phóng của giai cấp công
nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân, do nhận thức được thuộc địa
là một khâu yếu trong hệ thống của chủ nghĩa đế quốc, do đánh giá đúng sức mạnh
của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, ngay từ năm 1924, Người cho rằng: cách
mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc
mà còn có thể giành thắng lợi trước, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện
tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh
em mình ở phương Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn.
Đây là một quan điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn, một
cống hiến rất quan trọng vào kho tàng lý luận Mác - Lênin, đã được phong trào cách
mạng giải phóng dân tộc thế giới chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.
2.1.4. Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo
lực, kết hợp lực lượng chính trị của quần chúng và lực lượng vũ trang của nhân dân.
Theo học thuyết Mác-Lênin, có nhiều phương thức giành chính quyền cách
mạng từ giai cấp thống trị, tuy nhiên kẻ thù của cách mạng không bao giờ trao chính
quyền cho nhân dân một cách tự nguyện, tự giác. Vì vậy, cách mạng muốn thắng lợi
phải sử dụng bạo lực của quần chúng nhân dân.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX đã chứng minh sự sai
lầm của các hình thức đấu tranh cách mạng theo khuynh hướng phong kiến hoặc dân
chủ tư sản mặc dù những phong trào này đều là yêu nước. Các phong trào đấu tranh
chống Pháp do các sĩ phu yêu nước lãnh đạo như phong trào Cần Vương đã phản ảnh
sự lỗi thời của hệ tư tưởng phong kiến trước một đế quốc thực dân Pháp hung bạo;
hay phong trào Đông Du do cụ Phan Bội Châu lãnh đạo chủ trương vũ trang khởi
nghĩa, giành độc lập dân tộc, sau đó tiến hành công cuộc cải cách dân chủ nhưng lại
bằng phương pháp xuất dương cầu viện. Tiếp những sai lầm đó, phong trào Duy Tân
do cụ Phan Chu Trinh đưa ra phương pháp đấu tranh cải lương, chủ yếu là đấu tranh
hợp pháp, nhưng đã thất bại trước nanh vuốt của đế quốc thực dân. Một số sĩ phu sau
đó chủ trương dựa vào Pháp để tăng tiềm lực cho đất nước theo phương châm “Pháp
Việt đề huề”, đấu tranh bằng phương pháp hoà bình giành độc lập dân tộc. Có thể nói
rằng đó chỉ là những phương pháp, giải pháp đấu tranh giành độc lập mang tính ảo
12
tưởng vì bản chất của thực dân, đế quốc là xâm chiếm thuộc địa, là nô dịch và lợi
nhuận nên chúng không dễ dàng từ bỏ thị trường, thuộc địa của chúng.
Khắc phục những hạn chế mang tính lịch sử đó, Hồ Chí Minh cho rằng không
thể giành chính quyền theo khuynh hướng phong kiến hay dân chủ tư sản. Đầu năm
1924, trong Báo cáo về Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ Người đã nhận định về khả năng
của một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đông Dương. Theo Hồ Chí Minh điều kiện để
cuộc khởi nghĩa vũ trang giành thắng lợi phải:
Một là, cuộc khởi nghĩa vũ trang phải có tính chất của một cuộc khởi nghĩa quần
chúng chứ không phải là một cuộc nổi loạn... phải được chuẩn bị trong quần chúng,
nổ ra trong thành phố, theo kiểu các cuộc cách mạng ở châu Âu.
Hai là, phải được nước Nga ủng hộ.
Ba là, phải trùng hợp với cách mạng vô sản Pháp.
Bốn là, phải gắn mật thiết với sự nghiệp của vô sản thế giới.
Tư tưởng bạo lực cách mạng của Hồ Chí Minh chứa đựng những nét độc đáo,
đặc sắc, phản ảnh đúng điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của cách mạng ViệtNam. Tư
tưởng đó được thể hiện trong việc kết hợp xây dựng lực lượng chính trị của quần
chúng làm điểm tựa cho việc phát triển lực lượng vũ trang, gắn với hai hình thức đấu
tranh: đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang đi từ thấp đến cao, từ nhỏ đến lớn, phù
hợp với từng nơi, từng thời kỳ cụ thể. Đặc biệt, trong thời đại cách mạng vô sản,
Người cho rằng cuộc vũ trang khởi nghĩa đó cần thiết phải có sự liên kết, ủng hộ của
cách mạng vô sản thế giới.
Tiếp thu học thuyết Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo, đồng thời
chỉ đạo thực hiện linh hoạt, hiệu quả quan điểm cách mạng giải phóng dân tộc phải
được thực hiện bằng con đường bạo lực cách mạng, kết hợp với khởi nghĩa vũ trang
để xoá bỏ chế độ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân dân. Trong đó,
Người cũng nhấn mạnh đến việc xây dựng, tập hợp lực lượng, chọn thời cơ để giành
chính quyền cách mạng.
Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về cách mạng bạo lực, kết hợp lực lượng
chính trị của quần chúng với lực lượng vũ trang nhân dân là một quan điểm sáng tạo
mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến vào sự phát triển lý luận của chủ nghĩa MácLênin về cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa. Người cũng đã cùng với Đảng đề
13
ra và giải quyết đúng đắn nhiều vấn đề về chiến lược và sách lược, dẫn đến thắng lợi
lịch sử của cách mạng Tháng Tám.
Trên đây là những luận điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng
giải phóng dân tộc. Ngoài ra còn có các luận điểm như về vị trí của cách mạng thuộc
địa, về vấn đề liên minh quốc tế.
2.2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn dề dân tộc trong công cuộc đổi
mới.
Nội dung vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc
trong công cuộc đổi mới đất nước ta hiện nay tập trung vào các vấn đề chủ yếu sau:
2.2.1. Khơi dậy chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn lực mạnh mẽ
nhất để xây dựng và bảo vệ tổ quốc:
Lịch sử dân tộc đã chứng minh rằng chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc là
sợi chỉ đỏ xuyên suốt thắt chặt khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong công cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Vì vậy, trong công cuộc đổi mới
chúng ta cần phải khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc.
Con người Việt Nam từ những ngày đầu lập nước cho đến những năm tháng
khốc liệt nhất của chiến tranh, mặc dù hy sinh biết bao xương máu tuy nhiên truyền
thống yêu nước không bao giờ phai nhạt, tinh thần cố kết cộng đồng, ý chí kiên
cường, bất khuất luôn được phát huy và phát triển. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nhấn
mạnh: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là truyền thống quý báu của ta”.
Nhiệm vụ của chúng ta là phải ra sức phát triển tinh thần yêu nước ấy, làm cho nó
được thực hành vào công việc yêu nước, công việc kháng chiến. Trong hai cuộc
kháng chiến của dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tinh
thần yêu nước ấy đã được phát huy cao độ, biến thành chủ nghĩa anh hùng đưa đến
chiến thắng lịch sử Điện Biên phủ lẩy lừng năm châu, đại thắng mùa Xuân năm 1975,
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, đưa đất nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý báu ấy cần được tiếp
tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước vượt
qua mọi nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên. Trong đó cần phát huy tối đa nguồn
nội lực, nhất là nguồn lực con người (trí tuệ, truyền thống dân tộc, vốn, tài nguyên)
kiên quyết không chịu nghèo hèn, thấp kém, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
vững bước tiến lên CNXH.
14
2.2.2. Nhận thức và giải quyết vấn đề dân tộc trên quan điểm của giai cấp công
nhân:
Hồ Chí Minh rất coi trọng vấn đề dân tộc, đề cao chủ nghĩa yêu nước nhưng luôn
vững vàng trên lập trường của giai cấp công nhân trong giải quyết vấn đề dân tộc.
Đảng ta luôn khẳng định: Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp độc quyền lãnh
đạo cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng . Đại đoàn kết nhưng phải trên nền tảng liên
minh công nông trí thức do giai cấp công nhân lãnh đạo. Luôn luôn khẳng định vai trò
lịch sử của giai cấp công nhân, vai trò lãnh đạo duy nhất của đảng của giai cấp công
nhân trong quá trình cách mạng Việt Nam từ giải phóng dân tộc đi tới chủ nghĩa xã
hội - một đảng phụng sự nhân dân, phụng sự dân tộc, phụng sự Tổ quốc.
Thực tiễn cách mạng thế giới đã từng diễn ra nhiều khuynh hướng khác nhau, có
lúc diễn ra khuynh hướng chỉ nhấn mạnh đến quan điểm giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân
tộc và ngược lại. Hai khuynh hướng này tất yếu đều dẫn đến những kết cục không có
lợi cho phong trào cách mạng thế giới. Nếu trong xã hội có giai cấp, còn đấu tranh
giai cấp mà bỏ rơi vấn đề giai cấp, nhấn mạnh đến vấn đề dân tộc sẽ làm suy yếu
phong trào cách mang thế giới, dẫn đến sự tan ra của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Hoặc
ngược lại, nếu chỉ nhấn mạnh đến lợi ích dân tộc, từ bỏ vấn đề giai cấp, từ bỏ chủ
nghĩa quốc tế chân chính sẽ dân đến sự bùng phát chủ nghĩa sô vanh, để cho các thế
lực lợi dụng kích động, làm mất ổn định tình hình chính trị - kinh tế - xã hội ở các
quốc gia, vùng lãnh thổ, làm cho các cuộc chiến tranh sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp
chủ quyền lãnh thổ... diễn ra liên miên.
Đối với Việt Nam, trong công cuộc đổi mới, quan điểm xem xét vấn đề dân tộc
tách rời vấn đề giai cấp cũng được bộc lộ dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau.
Điều quan trọng hơn cả, chúng ta cần khắc phục những quan điểm sơ cứng, giáo điều
trong việc nhìn nhận vấn đề giai cấp trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta. Phải thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh” vì mục tiêu đó vừa đảm bảo tính giai cấp, vừa mang tính dân tộc sâu
sắc.
Trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay, đi đôi với việc tăng cường giáo dục
chủ nghĩa Mác-Lênin, chúng ta cần quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp
đúng đắn vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trong
15
toàn Đảng, toàn dân ta, lấy đó làm định hướng cho việc nhận thức và giải quyết các
vấn đề của dân tộc và thời đại ngày nay.
2.2.3. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội: Đây là nguyên
tắc bất biến cần vận dụng mọi hoàn cảnh.
Cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Kiên định tư tưởng đó, cách mạng Việt Nam đã vững bước tiến lên, giành được
những thắng lợi lịch sử có tầm thời đại. Trong báo cáo chính trị của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng khoá IX, đã nhấn mạnh: “Trong quá trình đổi mới, phải kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác -Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Thế giới ngày nay có nhiều thay đổi, song cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội vẫn đang diễn ra gay gắt. Sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và Đông Âu đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào cách mạng thế giới, cục
diện thế giới có nhiều biến đổi, niềm tin vào chủ nghĩa xã hội lung lay, tuy nhiên mô
hình xã hội xã hội chủ nghĩa với bản chất tốt đẹp của nó vẫn được nhiều đất nước lựa
chọn, định hướng phát triển như các nước Mỹ La tinh.
Bên cạnh đó, các thế lực đế quốc, thù địch phản cách mạng khai thác những mâu
thuẫn tôn giáo, sắc tộc nhằm kích động sự thù hằn giữa các dân tộc, đẩy các dân tộc
vào những tranh chấp, xung đột về biên giới, lãnh thổ và quyền lợi quốc gia. Đối với
Việt Nam, bằng chiêu bài “diễn biến hoà bình”, các lực lượng phản động toan tính
thực hiện những mưu đồ thâm độc nhằm lật đổ nhà nước, lật đổ chế độ, xoá bỏ vai trò
quản lý của Nhà nước... Vì vậy, cuộc đấu tranh để bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền
quốc gia vẫn là nhiệm vụ phải luôn được coi trọng. Ngọn cờ độc lập dân tộc gắn với
chủ nghĩa xã hội mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và các thế hệ cách mạng trước đã trao
chúng ta phải có nhiệm vụ hiện thực hoá sự nghiệp cách mạng đó.
2.2.4. Chăm lo xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, giải quyết tốt mối quan hệ
giữa các dân tộc anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam:
Đảng ta khẳng định xây dựng chủ nghĩa xã hội vì mục tiêu "dân giàu, nước
mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh" không chỉ là vấn đề giai cấp mà còn là
vấn đề dân tộc, ở Việt Nam chỉ có Đảng Cộng sảnViệt Nam mới là đại biểu cho lợi
ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc, mới xây dựng được khối đại
16
đoàn kết thực hiện mục tiêu nêu trên những lệch lạc tư tưởng tả hoặc hữu đều trái với
tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong đổi mới, Đảng ta lấy mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh làm điểm tương đồng, đồng thời cũng chấp nhận những điểm khác
nhưng không trái với lợi ích dân tộc (5 ngón tay có ngón dài ngón vắn, nhưng dù dài
vắn đều hợp lại nơi lòng bàn tay), giương cao ngọn cờ đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí
Minh để hoàn thành mục tiêu trên.
Đại đoàn kết dân tộc rộng rãi với nhiều hình thức tổ chức và phương thức hoạt
động đa dạng dựa trên nền tảng liên minh công - nông và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh
đạo của Đảng.
Trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, phải huy động được sức người, sức
của của đồng bào ở trong nước và kiều bào ở nước ngoài góp sức cho sự thành công
của công cuộc đổi mới. Phải chăm lo giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa các dân tộc
anh em trong đại gia đình dân tộc Việt Nam vi đại đoàn kết các dân tộc anh em trên
lãnh thổ Việt Nam là một nhân tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp dựng nước và
giữ nước. Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Đảng ta khẳng định:
“Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp
cách mạng”.
Ngày nay, mặc dù đất nước đã hòa bình thống nhất, tình hình kinh tế xã hội đi
vào thời kì ổn định, tuy nhiên các thế lực thù địch vẫn tăng cường khai thác, lợi dụng
những vấn đề về dân tộc, tôn giáo để chống phá Đảng, Nhà nước ta, chia rẽ khối đại
đoàn kết dân tộc, làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước... Trước
nguy cơ đó, chúng ta phải thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX của Đảng đề ra. Phải xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát
triển sản xuất hàng hóa, xóa đói giảm nghèo; giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân
tộc; đặc biệt quan tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ địa cách
mạng và kháng chiến; tích cực thực hiện chính sách ưu tiên trong đào tạo bồi dưỡng
cán bộ dân tộc thiểu số; chống kì thị chia rẽ dân tộc, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân
tộc hẹp hòi, dân tộc cực đoan, khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 70 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Chủ
tịch Hồ Chí Minh - Người đã giương cao ngọn cờ đoàn kết, đã khơi dậy và phát huy
17
được tiềm năng cách mạng của toàn dân tộc, đã đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước đến thắng lợi vẻ vang.
2.2.5. Cần phải dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng:
Trong đấu tranh giành và giữ vững chính quyền, cần thiết phải biết sử dụng bạo
lực cách mạng của quần chúng bằng phương pháp khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh
nhân dân để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù.
Hiện nay, có những thế lực thù địch lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ hiểu
biết của các dân tộc thiểu số, dân tộc ở vùng sâu, vùng xa, miền núi để nhằm kích
động dân chúng chống lại Đảng và Nhà nước ta. Trong trường hợp đó thì chúng ta
kiên quyết chống lại, nếu cần thiết thì sử dụng bạo lực cách mạnh để chống lại những
thế lực thù địch, thế lục phản động nhằm bảo vệ nền độc lập, tự chủ của dân tộc.
Cả nước ta đang thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội nhằm mục tiêu "dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh", nhân dân được hưởng cuộc sống
tự do, ấm no, hạnh phúc.
18
KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh - nhà lý luận thiên tài, người thầy của cách mạng
Việt Nam. Người đã nêu một tấm gương sáng trong việc tiếp thu và vận dụng chủ
nghĩa Mác-Lênin trên tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo. Tính khoa học, cách mạng
và sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc
và cách mạng giải phóng dân tộc nói riêng đã được lịch sử kiểm chứng. Trải qua
những thăng trầm của lịch sử, tư tưởng của Người ngày càng chứng tỏ được giá trị,
sức sống mãnh liệt và trường tồn trước những yêu cầu của thực tiễn cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc chứa đựng trong đó
những quan điểm sáng tạo, những giá trị lý luận và thực tiễn mang tính thời đại.
Người đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta
trong sự kết hợp biện chứng vấn đề giai cấp, vấn đề dân tộc và vấn đề nhân loại. Đồng
thời, chỉ rõ cách mạng giải phóng dân tộc phải gắn chặt với sự nghiệp giải phóng giai
cấp. Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới; lý tưởng độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng
Việt Nam... Những quan điểm sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong vấn đề dân
tộc và cách mạng giải phóng dân tộc tiếp tục soi sáng quá trình nhận thức và giải
quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của Người giúp
chúng ta nhận thức và hành động đúng trong việc đề ra các mục tiêu chiến lược của
cách mạng; huy động tối đa nguồn nội lực của nhân dân, phát huy sức mạnh khối đại
đoàn kết dân tộc trước những khó khăn thử thách trong công cuộc đổi mới đất nước.
Ngày nay, khi sự nghiệp đổi mới ở nước ta ngày càng đi vào chiều sâu, những
biến chuyển trên thế giới ngày càng lớn, những vấn đề mới đặt ra trong đời sống xã
hội ngày càng nhiều, đòi hỏi phải làm sáng tỏ, thì việc nghiên cứu, học tập, vận dụng
và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tế cuộc sống trở thành nhiệm vụ quan
19
trọng, cấp bách trong công tác chính trị, tư tưởng, lý luận của toàn Đảng, toàn dân ta
vì tư tưởng Hồ Chí Minh là tinh hoa của dân tộc Việt Nam, là niềm tự hào của Đảng
và nhân dân ta. Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
toàn Đảng, toàn dân càng vững tin vào thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ
quốc trong thời kỳ đổi mới
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng văn hóa Trung ương (2003), Tài liệu hướng dẫn nghiên cứu và
học tập tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2. Bộ giáo dục - đào tạo (8 – 2003), Đề cương môn học Tư Tưởng Hồ Chí Minh,
theo công văn 23/QĐ của Bộ giáo dục và Đào tạo.
3. Bộ giáo dục và đào tạo (2005), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
4. Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội
5. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa
học Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2003), Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh,
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20