Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Trí tuệ của Người do thái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.93 MB, 39 trang )

Vì sao ng ười Do Thái thông minh nh ất th ế
gi ớ
i?
Từ ngàn xưa, người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể
sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được.

Trong lịch sử, người Do Thái được biết đến là một sắc tộc tôn giáo có nguồn gốc
từ Israel. Dù hiện nay người Do Thái sống rải rác tại nhiều quốc gia khác nhau,
nhưng chỉ có Israel là quốc gia Do Thái duy nhất trên thế giới, người dân đa phần
là người Do Thái và quốc đạo là Đạo Do Thái.
Dân số người gốc Do Thái trên thế giới hiện nay vào khoảng gần 13,8 triệu người
(khoảng hơn 0,19% dân số thế giới – số liệu năm 2013), tức là cứ khoảng 517
người thì có 1 người Do Thái. Thế nhưng, vào khoảng giữa thế kỷ 19, 1/4 các nhà
khoa học trên thế giới là người Do Thái, và tính đến năm 1978, hơn một nửa giải
Nobel rơi vào tay người Do Thái. Như vậy, có đến 50% đóng góp cho sự tiến bộ
của loài người chỉ do 0,19% dân số đảm nhiệm. Những tên tuổi lớn của thế kỷ
20 có thể kể đến như bộ óc thế kỷ Albert Einstein, Sigmund Freud, Otto Frisch…
đều là người Do Thái.
Vậy tại sao các thế hệ người Do Thái lại có được trí tuệ như vậy (chỉ số IQ trung
bình của người Do Thái là 110 so với chỉ số trung bình 100 của thế giới)? Trong
cuốn “Bí mật người Do Thái dạy con làm giàu” có đưa ra lời giải thích cụ thể cho
vấn đề này.

Vai trò của bà mẹ Do Thái
Bà mẹ Do Thái dạy con từ khi mang thai. Các bà mẹ thường nghe nhạc, chơi đàn,
hát và… làm toán cho đến khi sinh con ra. Các thai phụ làm vậy vì tin rằng cách
đó sẽ làm đứa bé sau này trở nên thông minh. Người mẹ chọn ăn hạnh nhân, chà
là, uống dầu cá và ăn cá nhưng tránh ăn đầu cá vì tin rằng tất cả điều đó sẽ giúp
cho con trở nên thông thái.
Từ lúc còn ẵm ngửa đứa bé, bà mẹ đã tạo cho con thói quen thích sách bằng cách
dùng mẹo nhỏ vài giọt mật lên cuốn sách và cho bé liếm. Khi đó, trong nhận thức


non nớt của đứa trẻ, sách là cái gì đó rất ngọt ngào, hấp dẫn.


Ủy ban công nghiệp thành phố New York (Mỹ) có cuộc điều tra nguồn nhân lực
vào năm 1950 và nhận thấy có sự khác biệt lớn về việc đi làm công nhân giữa phụ
nữ Ý với phụ nữ Do Thái. Phụ nữ Ý thường phải đi làm và còn bắt con nghỉ học
để đi làm phụ cha mẹ, các bà mẹ Do Thái thì ngược lại. Dù kinh tế khó khăn, họ
vẫn ở nhà để nuôi dạy con, dồn hết trách nhiệm kiếm sống cho chồng - người ban
ngày đi làm nhưng tối về có nghĩa vụ học và dạy cho con học.
Nhờ sự chăm sóc, động viên của cha mẹ mà học sinh Do Thái nổi tiếng trong
trường về thành tích học tập và tính chuyên cần, khác hẳn với học sinh nhiều dân
tộc khác. Vào năm 1954, hệ thống trường công của thành phố New York thống kê
được 28 học sinh có chỉ số IQ cực cao lên tới 170 điểm, thì trong đó 24 là học sinh
Do Thái. Ngoài ra, những người này còn quan niệm điểm không quan trọng bằng
cách học, mà đã học thì phải hỏi. Chính vì vậy, học sinh Do Thái được khuyến
khích đặt thật nhiều câu hỏi cho giáo viên.
Cũng theo các nhà khoa học Do Thái, sự rung động của âm nhạc sẽ kích thích bộ
não và đó là lý do vì sao có rất nhiều thiên tài người Do Thái…

Hệ thống giáo dục phổ thông
Từ lớp 1 đến lớp 6, những môn học ưu tiên trẻ em gồm kinh doanh, toán học, khoa
học. Tất cả trẻ Do Thái đều tham gia vào các môn thể thao như bắn cung, bắn
súng, chạy bộ vì họ tin rằng bắn cung và bắn súng sẽ rèn luyện cho bộ não trở nên
tập trung vào cách quyết định và sự chính xác.
Ở trường trung học, học sinh sẽ giảm dần việc học khoa học mà sẽ học cách tạo ra
sản phẩm, đi sâu vào những kiểu bài tập thực tế như vậy. Dù một số dự án/bài tập
có vẻ nực cười và vô dụng, nhưng tất cả đều đòi hỏi sự tập trung nghiêm túc đặc
biệt nếu đó là những môn thuộc về vũ khí, y học, kỹ sư, ý tưởng sẽ được giới thiệu
lên các viện khoa học hoặc trường đại học.
Khoa kinh doanh cũng được chú trọng ưu tiên. Trong năm cuối ở trường đại học,

sinh viên sẽ được giao một dự án và thực hành. Họ sẽ hoàn thành nếu nhóm của
họ (khoảng 10 người/nhóm) có thể tạo ra lợi nhuận 1 triệu USD. Đừng ngạc nhiên,
đây là thực tế và đó là lý do vì sao một nửa hoạt động kinh doanh trên thế giới là
của người Do Thái.

Xã hội Do Thái từ rất sớm đã coi trọng việc xóa mù chữ, sách và
người có học thức
Dân tộc Do Thái là dân tộc đầu tiên trên thế giới - từ năm 64 đầu Công nguyên mà nhà thờ quy định tất cả nam giới phải biết đọc viết và tính toán; sang thế kỷ
thứ 2 thì bắt buộc mọi đàn ông phải có nghĩa vụ dạy con trai mình đọc, viết, tính
toán. Như vậy họ đã thực hiện phổ cập giáo dục cho nam giới trước các dân tộc
khác mười mấy thế kỷ.
Israel cũng là nước đứng đầu thế giới về dân số từ 14 tuổi đọc sách, đứng đầu về
số đầu sách xuất bản theo đầu dân. Không một người Do Thái thành đạt nào lại
không tranh thủ thời gian để đọc, để học, để làm giàu hiểu biết.
Như vậy, từ ngàn xưa người Do Thái đã xem tri thức là loại vốn đặc biệt vì có thể
sinh ra vốn và của cải, lại không bị cướp đoạt được. Và đây nhân tố quan trọng


giúp người Do Thái đạt được trí thông minh vượt bậc so với phần còn lại của thế
giới.

Bí mật nào phía sau đỉnh núi thành công của người
Do Thái?
Người Do Thái thừa nhận rằng: Tất cả mọi người đều thất bại tại một vài
điểm nào đó trong cuộc đời của họ là sự thật không thể chối bỏ.

Mặc dù chỉ chiếm 0,02% dân số nhưng người Do Thái lại đại diện cho hơn 10%
người trong danh sách Fobes 400 người giàu nhất thế giới, hơn 10% danh sánh
CEO của 500 hãng lớn nhất thế giới theo bình chọn của Fortune và khoảng 30%
người dành giải Nobel.

Nhắc đến người Do Thái là nhắc đến sự thành công, vậy họ đối mặt với sự thất bại
như thế nào? Người Do Thái thừa nhận rằng: Tất cả mọi người đều thất bại tại một
vài điểm nào đó trong cuộc đời của họ là sự thật không thể chối bỏ. Kinh Torah
cũng cho rằng, không có con người nào được kỳ vọng trở nên hoàn hảo.
Thậm chí nhà lãnh đạo Moses của người Do Thái cũng bị cho là mắc sai lầm khi
ông đánh vào tảng đá cùng đoàn người của mình để tìm ra nguồn nước thay vì nói
chuyện với nó như lời Chúa yêu cầu ông thực hiện. Thông điệp ở đây là: Thất bại
chỉ là một phần trong cuộc đời của con người và không có lý do gì để sợ hãi khi
nó xảy ra. Điều thử thách đối với mỗi người là cách họ đáp trả lại thất bại: Nó có
thể dẫn tới nhiều thất bại hơn hoặc đỉnh cao vĩ đại hơn của sự thành công.
Có 2 điểm cốt lõi trong quan điểm của người Do Thái về sự thất bại gồm:
Tránh đổ lỗi và sửa chữa nó. Chính vì xem là một phần cuộc sống nên người Do
Thái khuyến khích việc đối mặt với thất bại, không đổ lỗi cho mọi thứ hay người
khác thay vì chính bản thân bạn. Bằng cách đổ lỗi chongười khác, bạn sẽ tiếp tục
mắc phải những sai lầm tương tự và sau đó lại tự hỏi tại sao mình không bao giờ
tiến bộ lên được.


Vậy người Do Thái sửa chữa sai lầm bằng cách nào? Họ có một quá trình 4 bước
được thực hiện hàng ngày hoặc ít nhất là 2 lần một tuần có tên h’eshbon
ha’nefesh giúp nhìn sâu vào nội tâm và nhận ra những điểm mạnh, điểm yếu của
bản thân:

Nhận ra lỗi lầm và chịu trách nhiệm về nó

"Càng nhiều khôn
ngoan càng đi qua nhiều
nỗi đau"

Bước đầu tiên trong hành trình soi xét lại nội tâm là

(Trích Kinh Ecclesiastes
nhận ra và chịu trách nhiệm với lỗi lầm và từ đó
1:18 )
nhận ra những tổn thất tiềm ẩn mà nó tạo ra đối với
việc kinh doanh hay cuộc sống của chúng ta. Điều này có ý nghĩa sâu xa về mặt
nhận thức.

Ví dụ, một sai lầm lặp lại phổ biến chính là sự trì hoãn. Đây chính là trở ngại lớn
nhất đối với thành công thực sự. Không kể mức độ quan trọng của nhiệm vụ ra
sao, nhiều người dường như không bao giờ tự họ đứng dậy để đủ thời gian hoàn
thành công việc một cách hợp lý. Họ chần chừ, trì hoãn cho đến khi buộc phải
đuổi theo thời gian và chịu áp lực thời hạn công việc. Chính điều này cũng làm gia
tăng tình trạng căng thẳng và tức giận.
Nếu mọi người trung thực với bản thân mình, họ sẽ nhận ra rằng mình đang có vấn
đề. Nhưng khắc phục vấn đề lại là điều khó. Để giải quyết được nó, bạn cần hiểu
trọn vẹn những tổn thất do việc trì hoãn đang gây ra trên mọi cấp độ. Ngoài ra,
hãy xem thói quen chần chừ là một kẻ thù đứng giữa bạn và thành công. Từ đó
bạn sẽ có động lực chiến đấu với nó trong lần xuất hiện tiếp để gặp được thành
công. Quá trình này có thể áp dụng tương tự đối với những thói quen khác như tức
giận, thiếu tập trung hay bi quan.

Nhận ra điểm lỗi trong suy nghĩ
Một khi bạn nhận ra thất bại cũng như tác động tiêu cực của nó đến cuộc sống,
bạn có thể tiến đến bước thứ 2 là nhận ra điểm lỗi trong tư duy đã gây ra lỗi
lầm.
Hãy xem xét về sự kiêu ngạo. Chính điều này dẫn dắt bởi những ý nghĩ sai lầm từ
việc bạn cho rằng mình có giá trị cao hơn những người khác. Từ đó, bạn sẽ có
những hành động dẫn tới thất bại khi đánh giá thấp đối thủ. Bằng cách phân tích
kỹ lưỡng quá trình suy nghĩ dẫn tới sự kiêu căng hay bất kỳ thói xấu nào gây ra
thất bại, bạn có thể phát hiện ra đâu là điểm logic bị lỗi và bắt đầu sửa chữa nó.



Xem thêm: Nên làm gì mỗi ngày để thông minh hơn?

Thừa nhận sai lầm của bản thân và người khác
Bước thứ 3 cũng quan trọng không kém chính là thừa nhận lỗi lầm của bản thân và
những người khác. Đây là quan điểm ẩn chứa nhiều sự khôn ngoan phía sau.
Một huấn luyện viên nổi tiếng về thói quen sống từng cho biết, có một thực tế là
những khách hàng của ông hiểu rằng ông sẽ gọi và kiểm tra họ, thúc đẩy họ thực
hiện những nhiệm vụ một cách hiệu quả. Ý tưởng đặt ra ở đây là khi những
người khác nhận thức được các vấn đề và lỗi lầm của bạn, họ có thể thúc đẩy
bạn tránh mắc lại chúng. Vì vậy nếu bạn thừa nhận các vấn đề của mình với
những người xung quanh, bạn sẽ thấy rằng khó tiếp tục mắc lại chúng.
Trở lại ví dụ về sự trì hoãn, một khi bạn thừa nhận vấn đề này với những đồng
nghiệp của mình, bạn sẽ thấy khó để tiếp tục duy trì thói quen này. Bạn hiểu rằng
mọi người biết đâu là lý do thực sự khiến mọi người chậm trễ trong dự án. Chính
điều này sẽ thúc đẩy bạn không chần chừ nữa. Bạn cũng có thể áp dụng tương tự
với các thói quen dẫn tới thất bại khác trong cuộc sống của mình.

Tự hứa rằng sẽ không chịu thua nữa
Bước thứ tư này chính là một giao ước nhằm giúp bạn kiên trì với việc không đi
theo những con đường suy nghĩ sai lầm. Tuy nhiên dễ dàng để bạn hứa miệng
với chính mình nhưng càng dễ hơn khi phá vỡ chúng. Vì vậy hãy viết ra một lời
cam kết cá nhân với chính mình, với vợ hoặc chồng mình, với người bạn thân,
huấn luyện viên của bạn hay thậm chí là với Chúa để thay đổi suy nghĩ và thói
quen của bạn.


Chúng ta h ọc đượ c gì t ừ nh ững ng ười nông
dân Do Thái?

Israel là một nước nhỏ ở Trung Đông có điều kiện tự nhiên vô cùng khắc
nghiệt, có một lịch sử đau thương, nhưng đã vươn mình lên để trở
thành một trong những quốc gia hùng mạnh nhất Thế giới.

Một đất nước không có "rừng vàng, biển bạc"
Đất nước Israel được hình thành từ tập hợp của hàng vạn người Do Thái lưu vong
trên khắp Thế giới. Một đất nước bị cô lập, bị coi là kẻ thù số một của nhiều nước
Ả Rập không chỉ vì lý do chính trị mà còn từ những thù hận sâu xa của lịch sử.
Dân tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, lang thang suốt 2000 năm qua
trên khắp Thế giới, đi tới đâu cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi, tước đoạt,
thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man...

Israel nằm "kẹp" giữa các quốc gia Ả Rập
Israel, một đất nước Do Thái nhỏ bé, phải hứng chịu điều kiện tự nhiên vô cùng
khắc nghiệt, 70% diện tích lãnh thổ là sa mạc, còn lại là đồi núi đá trọc, trong khi
khí hậu nơi đây cực kỳ khô hạn. Một đất nước không hề có "rừng vàng, biển
bạc" nhưng lại có một nền kinh tế phát triển, hùng mạnh nhất Thế giới.


Theo số liệu của IMF năm 2013, thu nhập bình quân đầu người tính theo sức mua
của Israel đạt 37.000USD, GDP đạt khoảng 291 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng đạt
3,33%.
Israel có diện tích rất nhỏ, trên 20.000 km2, chỉ bằng 1/16 diện tích của Việt Nam.
Tuy nhiên Israel lại được mệnh danh là “thung lũng Silicon” của thế giới trong
lĩnh vực nông nghiệp và công nghệ nước. Chỉ có 1,7% dân số làm nông nghiệp
nhưng mỗi năm Israel xuất khẩu trên dưới 3,5 tỷ USD nông sản, là một trong
những nước xuất khẩu nông sản hàng đầu Thế giới.
Người Israel luôn bày tỏ sự tự hào khi nói về đất nước mình rằng: Tuy có khí hậu
và địa lý vô cùng khắc nghiệt, nhưng chúng tôi vẫn có nền nông nghiệp tiên
tiến nhất Thế giới. Điều gì đã giúp cho đất nước này tạo nên được một kỳ tích

như vậy?
Trong một lần phỏng vấn và được đặt câu hỏi như vậy, ông Ali Yhia - một quan
chức của Bộ Ngoại giao Israel cho biết: “Bí quyết để Israel phát triển là trí tuệ
cộng với sự đoàn kết. Israel thật sự coi trọng đầu tư phát triển giáo dục đào tạo
và phát triển nghiên cứu khoa học công nghệ”.

Xây dựng đất nước từ nông nghiệp
Trong phát triển nông nghiệp, họ xây dựng những chính sách đồng bộ, gắn kết
chặt chẽ nghiên cứu với triển khai ứng dụng thực tế. Từ cấp lãnh đạo đến doanh
nghiệp đều có tầm nhìn và tư duy chiến lược toàn cầu. Ngay cả các chủ trang trại
đôi khi cũng chính là các nhà khoa học.
Vì điều kiện tự nhiên khắc nghiệt là thế, nên nước ngọt ở Israel được coi như
"vàng trắng" và được quản lý một cách chặt chẽ hơn bất kỳ nơi nào trên Thế giới.
Chính phủ nước này xây dựng riêng một bộ luật để đo lường mức tiêu thụ nước,
kiểm soát việc khai thác nước ngầm, ngăn chặn ô nhiễm nước. Công nghệ xử lý
nước của Israel thuộc hàng hiện đại nhất thế giới với tỉ lệ tái chế tới 75%.


Hệ thống tưới nước nhỏ giọt
Không có sự phân biệt, dù ở những thành phố lớn hay những vùng nông thôn,
hoang mạc, hệ thống tưới nước hoàn hảo đến mức gần như không để bỏ phí một
giọt nước nào.
Tất cả cây trồng ở đây đều được ứng dụng công nghệ tưới nhỏ giọt. Chất dinh
dưỡng theo các ống dẫn nước tới từng gốc cây, gốc rau và được tưới bón nhỏ giọt
tùy theo từng loại cây củ quả bởi một phần mềm điều khiển tự động sau khi đã nạp
đủ thông tin về độ ẩm không khí, đất đai, tuổi và nhu cầu tăng trưởng của từng loại
cây.

[Xem thêm: Làm nông nghiệp kiểu Israel]
Không chỉ cây trồng, toàn bộ cây cối, thảm cỏ, vười hoa tại Israel cũng đều được

tưới theo công nghệ nhỏ giọt. Trẻ em Israel được dạy tiết kiệm nước từ bé, 75%
nước thải sinh hoạt được tái tạo sử dụng lại, nước qua hệ thống lọc trở thành nước
tinh khiết có thể uống được ngay.
Ngoài trồng trọt, nền nông nghiệp Israel nổi tiếng với chăn nuôi bò sữa cho năng
suất cao nhất Thế giới, đạt 12.000 lít/con/năm, trong khi đó ở New Zealand là
4.000 lít, ở Hà Lan 8.000 lít và ở Mỹ là 9.000 lít. Chất lượng sữa cũng vào loại tốt
nhất, lượng đạm và lượng mỡ cao hơn hẳn các loại sữa ở các quốc gia khác.


Công nghệ nuôi bò lấy sữa của Israel
Nếu có dịp đến Israel, hãy tới thăm thung lũng Arava - niềm tự hào của mọi người
dân Israel, nơi mà vị Tổng thống đương nhiệm của Israel, Shimon Peres đã phải
thốt lên khi đến thăm nơi này vào năm 2009: “Hãy đến để thấy rằng, chính con
người cũng có thể tạo nên vườn địa đàng".

Trang trại tại sa mạc Arava
Arava là một trong những vùng đất khô cằn nhất Thế giới, nằm ở khu vực khô hạn
nhất của hoang mạc Negev. Nhiệt độ mùa hè bình quân lên tới 40 độ C và ban
đêm là 25 độ C. Còn mùa đông lại có nhiệt độ ban ngày là 21 độ và ban đêm chỉ
trên dưới 3 độ C.


Nông dân Arava đang kiểm tra sản phẩm
Thiên nhiên khắc nghiệt, nhưng có đến 90% dân số tại Arava là những người làm
nông nghiệp. Trải dài khắp thung lũng là những cánh đồng ô liu, cam, lựu, vải
thiều, nho, chuối… xanh tươi mơn mởn, những khu nhà kính ngập tràn hoa, rau
sạch, cà chua bi, cà chua nhót, dưa chuột, cà tím… Tất cả đều được áp dụng công
nghệ hiện đại nhất để đảm bảo chất lượng tốt nhất cho sản phẩm.

Nông sản tại Desertech, triển lãm nông nghiệp được tổ chức hàng năm tại Arava

Không chỉ sản xuất lương thực cho riêng mình, người nông dân Arava còn đem
sản phẩm của mình xuất khẩu ra khắp Thế giới. Không thể ngờ rằng, một trong
những nơi khô cằn nhất thế giới lại chiếm tới trên 60% tổng sản lượng rau và 10%
tổng sản lượng hoa xuất khẩu của Israel.

Bài học cho đất nước Việt Nam
Câu chuyện ở đất nước Israel là như thế, từ số không xây dựng thành một cường
quốc có nền nông nghiệp phát triển nhất Thế giới. Nếu mang những điều kiện tự
nhiên, địa lý thuận lợi của Việt Nam, đặt vào vị trí của Israel thì không biết họ còn
phát triển đến mức nào nữa?


Dưới đây là bảng so sánh thú vị giữa 2 nước được lập bởi một chuyên gia người
Việt Nam, sau chuyến công tác của người này tới đất nước Israel:

Việt Nam mang danh là một nước có truyền thống nông nghiệp, nhưng công nghệ
sản xuất, chế biến và bảo quản nông sản gần như là không có gì, người nông dân
vẫn phải tự mình xoay sở. Các máy móc đơn giản trong sản xuất nông nghiệp và
bảo quản nông nghiệp hầu như phải nhập từ nước ngoài.
Người nông dân dường như phải tự tạo cơ hội cho riêng mình, ví như ông Nguyễn
Văn Xự ( An Giang ), Đức Trọng (Lâm Đồng), Bùi Sĩ Tới (Yên Bái)... tự sáng chế
ra máy móc để phục vụ sản xuất cho bà con nông dân.
Có nên chăng Việt Nam nên nhìn vào đất nước Israel để học tập và thay đổi? So
với đất nước họ, Việt Nam hiện đang có trong tay rất nhiều thuận lợi về vị trí địa
lý, nguồn nhân lực, và là một đất nước có truyền thống nông nghiệp lâu đời.
Một nền nông nghiệp vững bền sẽ là một nền móng vững chắc để xây dựng một
nền kinh tế phát triển. Trước khi nghĩ đến việc tính xem sẽ xây nhà cao bao nhiêu
tầng, mỗi năm cao thêm được mấy tầng thì việc cần làm là tạo nên một nền móng



thật vững chắc.
Nền tảng công nghệ tuy không có, nhưng chúng ta hoàn toàn có thể học hỏi từ các
nước phát triển. Sao chép thành công của người khác để đem đến thành công cho
riêng mình là phương thức đã được Thế giới áp dụng từ lâu và luôn hiệu quả trong
mọi lĩnh vực.

M ột l ần n ữa, FED l ại n ằm trong tay ng ười Do
Thái
20 năm đầu tiên sau khi FED ra đời và 34 năm trở lại đây, FED do một
người gốc Do Thái lãnh đạo.

Hôm qua, Tổng thống Mỹ Obama chính thức đề cử bà Janet Yellen vào vị trí Chủ
tịch Cục dự trữ Liên bang Mỹ (FED) tại Nhà trắng.
Bà Yellen sẽ kế nhiệm sau khi ông Ben Bernanke sẽ kết thúc nhiệm kỳ vào
31/1/2014. Bà Yellen sinh ngày 13/8/1946 tại New York, là Giáo sư Kinh tế Đại
học California-Berkeley, bà từng là Cố vấn Kinh tế của ông Clinton, và hiện đang
giữ chức Phó Chủ tịch FED.
Là nữ Chủ tịch FED đầu tiên trong lịch sử, tuy nhiên bà Yellen không phải người
Do Thái đầu tiên đứng đầu Ngân hàng Trung ương hùng mạnh nhất thế giới. Trái
lại, từ lâu người Do Thái đã nắm quyền điều hành tổ chức tài chính có sức ảnh
hưởng lớn tới kinh tế toàn thế giới.
Chủ tịch đương nhiệm của FED, Ben Bernanke cũng là người Do Thái. Người tiền
nhiệm ông Bernanke, Alan Greenspan từng 17 năm liền được 4 đời Tổng thống
Mỹ tín nhiệm làm chủ tịch FED, cũng là người Do Thái
20 năm đầu tiên sau khi FED ra đời và 34 năm trở lại đây, FED do một người gốc
Do Thái lãnh đạo. Tính ra trong 99 năm tồn tại của FED (kể từ năm 1914), ngân
hàng trung ương của nước Mỹ có người đứng đầu là gốc Do Thái trong vòng 62
năm, tức là gần 2/3.



Tính tổng cộng 15 đời chủ tịch FED (bao gồm cả bà Yellen), có tới 11 người là
người gốc Do Thái. 6 đời chủ tịch đầu tiên của cơ quan này đều là người Do Thái.
Ngay trong lần tìm người thay thế ông Bernanke này, người ta đã biết trước chiếc
ghế chủ tịch FED sẽ không thoát khỏi tay người Do Thái khi những ứng cử viên
trước đó như Larry Summers, Stan Fisher cũng đều có gốc Do Thái.
Những đời chủ tịch FED có gốc Do Thái:
Chủ tịch thứ nhất (1914 - 1916): Charles Summer Halim
Chủ tịch thứ hai (1916 - 1922): William Proctor Grould Harding
Chủ tịch thứ ba (1923 - 1927): Daniel Richard Crissinger
Chủ tịch thứ tư (1927 - 1930): Roy Archibald Young
Chủ tịch thứ năm (1930 - 1933): Eugene Isaac Meyer đồng chủ tịch
World Bank.
Chủ tịch thứ sáu (1933 - 1934): Eugene Robert Black
Chủ tịch thứ mười (1970 - 1978): Arthur Frank Burns
Chủ tịch thứ mười hai (1979 - 1987): Paul Adolph Volcker.
Chủ tịch thứ mười ba (1987 - 2006): Alan Greenspan
Chủ tịch thứ mười bốn (hiện thời) (2006 - 2013): Ben Bernanke
Chủ tịch thứ mười lăm (nhiệm kỳ tới) (dự kiến 2014 - ): Janet Yellen

Ngh ệ thu ật th ương thuy ết Do Thái: 'Nh ường'
đối th ủ chui vào b ẫy
Đàm phán là một yếu tố tất yếu trong kinh doanh. Một trong những bậc
thầy của nghệ thuật đám phán là người Do Thái. Trong hầu hết các
cuộc đàm phán, người Do Thái luôn ở trạng thái làm chủ cuộc chơi.

Nội dung nổi bật:


- Những chiêu thức đàm phán của người Do Thái luôn khiến giới doanh nhân
khâm phục bởi tính trí tuệ, sự nhạy bén.

- Qua câu chuyện "Trophay đại chiến Công ty Sanyo", chúng ta thêm một lẫn nữa
khâm phục trí tuệ trong đàm phán của dân tộc này, nghệ thuật đặt cạm bẫy, và dụ
đối thủ tự nguyện chui vào bằng kế "lùi một bước, nhường đối thủ đi trước".
- Mấu chốt: Một nhà cung cấp đồng hồ Hà Lan yêu cầu Sanyo sẽ giải quyết tranh
chấp nếu có giữa 2 bên tại tòa án Osaka Nhật Bản. Lý do là, phán quyết của tòa
án Nhật dù thế nào đi nữa thì phán quyết đó cũng không có hiệu lực ở Hà Lan. Họ
không thể buộc phía Hà Lan thi hành những điều khoản đó.

"Tính xa" một chút luôn có lợi
Trophay là một nhà phân phối đồng hồ ở Hà Lan. Công ty này dự định nhập khẩu
một lô hàng đồng hồ từ công ty điện tử Sanyo Nhật Bản. Trước khi tiến hành đàm
phán, Trophay đã mời một công ty luật Nhật làm cố vấn cho mình, đồng thời yêu
cầu luật sư thu thập thông tin tình báo về Sanyo.
Từ thông tin nhận được, ông được biết bên Sanyo không những đang gặp khó
khăn về tài chính mà mẫu đồng hồ phía Sanyo định cung cấp cho Trophay
trong lần giao dịch này cũng được cung cấp cho một công ty thứ ba khác.
Dựa theo tình hình này thì nếu giao dịch tiếp tục biết đâu sẽ xảy ra một số tranh
chấp về thương hiệu sản phẩm sau này, nhưng nếu bỏ qua giao dịch này Trophay
có thể mất một cơ hội kiếm tiền béo bở.
Biện pháp tốt nhất hiện giờ là tìm cách giải quyết tranh chấp nếu có trong tương
lai. Trong bản hợp đồng phía Sanyo gửi cho Trophay trước cuộc đàm phán, bên
Sanyo đề nghị giải quyết tranh chấp tại trọng tài thương mại Osaka Nhật Bản.
Như thế, nhiều khả năng, trọng tài Nhật có thể thiên vị doanh nghiệp nước mình,
nhưng nếu đề xuất giải quyết ở Hà Lan thì chắc chắn Sanyo không đồng ý.
Cuối cùng, Trophy nảy ra sáng kiến: giải quyết tranh chấp tại tòa án Osaka
Nhật Bản. Lý do là, phán quyết của tòa án Nhật dù thế nào đi nữa thì phán quyết
đó cũng không có hiệu lực ở Hà Lan. Họ không thể buộc ông thi hành những điều
khoản đó.
Như vậy, nếu nảy sinh tranh chấp, ông hoàn toàn có quyền không xuất hiện
trước tòa. Đến cả phí tố tụng cũng không phải bỏ ra đồng nào.

Nhiệm vụ bây giờ là phải tìm cách để Sanyo đồng ý với điều khoản này mà không
nghi ngờ gì. Trophay chủ trương bố trí cạm bẫy để Sanyo tự động chui vào.
“Nhường” đối thủ chui vào bẫy


Tiến hành kế hoạch, lúc bắt đầu đàm phán, ông cố ý tạo ra một không khí thoải
mái. Các hạng mục như chủng loại đồng hồ, đại lý khu vực, kỳ hạn hợp đồng …
hai bên hầu như tìm được tiếng nói chung.
Tiếp đó, Sanyo đưa ra ý kiến họ không chịu trách nhiệm nếu đồng hồ do họ sản
xuất gặp phải tranh chấp về kiểu dáng thiết kế và thương hiệu từ một bên thứ ba.
Tức là, trong trường hợp đó thì phía Trophay phải một mình gánh vác chi phí tố
tụng và tổn thất do không bán được sản phẩm.
Đã đến lúc cài bẫy cho Sanyo tự chui vào. Trophay cương quyết phản đối,
nhất quyết không chịu nhượng bộ. Ông cố tình kéo sự tranh cãi lên mức cao
trào, kịch liệt nhất có thể.
Bên Sanyo cũng không hề dao động, kiên quyết bác bỏ. Mãi một lúc sau, Trophay
mới tỏ vẻ nhường một bước, đề xuất phương án phía Trophay sẽ gánh vác chi phí
tố tụng, riêng khoản chi phí bồi thường sẽ do Sanyo trả.
Phía Nhật Bản lập tức phản bác và đưa ra ý kiến: “Không, như thế mỗi bên sẽ
gánh chịu một nửa tổn thất. Không”
Trophay tiếp tục thương lượng: “Nếu như vậy phần hạn chế gánh vác trách nhiệm
của quý công ty sẽ được hạn chế ở con số 50 triệu yên.” Đại biểu của Sanyo vẫn
nhất quyết cự tuyệt.
Ông lại nhượng thêm một bước: “Phía chúng tôi sẽ đảm bảo lượng tiêu thụ thấp
nhất mỗi năm là 100 triệu yên. Phần gánh vác trách nhiệm của phía các ngài sẽ
giảm xuống còn 40 triệu yên.”
Thái độ của đại diện Sanyo bắt đầu có sự dao động, nhưng đáp án cuối cùng vẫn là
không.
Không khí cuộc đàm phán trở nên căng thẳng, lúc tưởng chừng vụ thương
lượng có thể chấm dứt tại đây thì Trophay mới miễn cưỡng đồng ý, bên

Trophay sẽ chịu hoàn toàn tổn thất nếu việc này xảy ra.
Đến lúc này, Trophay chủ động chuyển sang điều khoản về nơi giải quyết tranh
chấp rồi nói:


“Bản thân tôi xưa nay không có thiện cảm với phương thức nhờ đến trọng tài.
Theo hiểu biết của tôi, tòa án Nhật Bản hết sức công minh, vì vậy tôi đề nghị từ
nay về sau nếu có tranh chấp, mọi phán quyết sẽ do tòa án Nhật Bản thực hiện.”
Vừa mới ép được đối thủ xong nên đại diện Sanyo vui vẻ chấp nhận, phần cũng vì
nghĩ, việc kiện tụng trên chính nước mình sẽ là một lợi thế. Thế là Sanyo đã tự
động chui vào bẫy do chính Trophay sắp đặt ra.

Thoát hiểm nhờ tính xa
3 năm sau kể từ ngày ký kết hợp đồng, công việc đôi bên hết sức thuận lợi. Nhưng
đột nhiên xảy ra cuộc tranh chấp ngoài ý muốn. Một công ty S của Mỹ cáo buộc
Trophay vi phạm quy định về thương hiệu sản phẩm. Đồng hồ của Trophay nhập
của Sanyo có kiểu dáng tương tự với sản phẩm của công ty họ, và yêu cầu được
bồi thường.
Trophay nhanh chóng điều tra, phát hiện phía Sanyo đã bán hai dòng sản phẩm
gần như giống nhau hoàn toàn cho hai công ty tiêu thụ khác nhau. Vì thế ông từ
chối thanh toán 200 triệu yên của tiền hàng còn thiếu.
Sanyo ngay lập tức phái người đến găp Trophay đòi nợ. Sau một hồi đàm phán,
đôi bên vẫn không thể tìm ra điểm chung nào, cuối cùng Sanyo quyết định đưa sự
việc lên tòa án Osaka. Những lúc bấy giờ mới ngã ngửa ra, vì tòa án là cơ quan
đại diện Pháp luật quốc gia, nên các phán quyết không mang tính chất quốc
tế, một công ty nước ngoài không có nghĩa vụ phải tuân theo phán quyết tòa
án của một nước.
Mà muốn chuyển sang tòa án Hà Lan cũng không được, vì trong hợp đồng đã quy
định rõ là xử lý tranh chấp ở tòa án Osaka Nhật Bản nên kể cả mang đến Hà Lan
thì tòa án Hà Lan cũng không chịu thụ lý.

Luật sư của Trophay còn cắt đứt hy vọng của Sanyo khi nói:
“Giả như các phán quyết của tòa án Nhật có hiệu lực tương tự như ở Hà Lan, quý
công ty vẫn không thể lấy được 1 đồng nào từ tay của Trophay. Ngài cũng biết
rằng, khoản thuế thu nhập của hầu hết các quốc gia Châu Âu đều nặng nề.
Vì vậy rất nhiều người đã đến Hà Lan thành lập công ty vì đây là nơi có thuế suất
tương đối thấp. Mọi thứ của công ty đều nằm trong ví tiền của ông chủ, không hề
có một tài sản thực tế nào. Công ty của Trophay cũng như vậy, tiền của công ty
nằm ở đâu chỉ có một mình Trophay biết.”
Chiêu bài cuối cùng này đã thực sự đánh bại Tổng giám đốc Sanyo. Không còn
biện pháp nào, ông ta đành phải bãi tố Trophay. Cuối cùng đôi bên đi tới thỏa
thuận, Trophay trả lại Sanyo 40 triệu yên, 160 triệu yên còn lại được dùng bồi
thường cho công ty S của Mỹ.

Bí quy ết làm giàu c ủa ng ười Do Thái
Người Do Thái xem kiếm tiền là một trò chơi mà bản thân người chơi phải
không ngừng học hỏi, trau dồi kỹ năng để đưa ra được chiến lược
giành chiến thắng.


Tuy nhiên trò chơi này đòi hỏi rất nhiều trí tuệ, họ chơi với niềm tin rằng trí tuệ sẽ
thắng lợi.

1. Trí tuệ là tài sản vô giá
Có một câu chuyện kể rằng: Cô bé Anna và mẹ trong một lần đi ra ngoài và trở về
nhà phát hiện nhà bị cháy, cô bé đứng nhìn một hồi lâu mà không biết phải làm gì,
mẹ cô bé đến bên hỏi: “Nếu thấy nhà bị cháy thì con sẽ làm điều gì trước tiên?”,
cô bé hồn nhiên trả lời: “Con sẽ gom tiền, những đồ dùng có giá trị trước mẹ ạ”.
Mẹ cô bé từ tốn giải thích: “Những vật con mang đi không quan trọng bằng trí tuệ
con có được. Nhà bị cháy chúng ta sẽ xây nhà mới, nhưng nếu con là người chẳng
có chút trí tuệ nào, con chỉ là một người vô ích trong xã hội này. Cái quan trọng

là con phải hiểu được trí tuệ quan trọng thế nào”. Cô bé bẽn lẽn nói với mẹ: “Dạ
thưa mẹ, con hiểu rồi”.
Người Do Thái xem trí tuệ là thứ quý giá nhất của con người. Tài sản có thể
mất, chỉ có tri thức và trí tuệ mãi mãi không biến mất được. Kiếm tiền bằng trí
tuệ là con đường bền vững nhất, người ta hơn nhau là bởi cái đầu.

2. Làm chủ đồng tiền
Nhiều người chìm đắm trong việc kiếm tiền mà quên mất bổn phận người mẹ,
người cha trong gia đình. Nhưng đối với người Do Thái thì không, chỉ có con
người mới điều khiển được đồng tiền, nếu để nó điều khiển ta chỉ là kẻ tay sai,
suốt đời làm nô lệ cho nó.
Mỗi đồng bạc được ví như một tên nô lệ làm việc chăm chỉ cho bạn. Những thế
hệ con cháu của nô lệ cũng sẽ làm việc cho bạn, khiến tiền bạc của bạn không
ngừng tăng lên, tài sản gia tăng theo năm tháng.


Người Do Thái không bao giờ để bản thân lệ thuộc vào tiền bạc, không cúi đầu
phục tùng trước thái độ ngạo mạn của chúng. Nếu bạn không có khả năng kiểm
soát tiền thì chính nó sẽ giết chết linh hồn của bạn.

3. Không coi trọng xuất xứ của tiền
Người Do Thái có quan điểm: “Tiền không tên, không tuổi, không màu sắc, không
mùi vị, dù nó trải qua nhiều hoàn cảnh thì giá trị của nó vẫn không đổi”.
Sự thành công của một người Do Thái là tài sản và tiền bạc họ có được, chứ không
phải địa vị chức tước, vị trí trong xã hội. Dưới mắt người bình thường, tiền là
phương tiện trung gian, nhưng dưới mắt thương nhân Do Thái, tiền là mục tiêu
cuối cùng thể hiện sự thành bại của một con người.
Người Do Thái không có thói quen chê bai công việc, cái họ quan tâm là kết
quả công việc. Họ xem kiếm tiền là một trò chơi mà bản thân người chơi không
ngừng học hỏi, trau dồi kỹ năng để đưa ra được chiến lược giành chiến thắng. Tuy

nhiên trò chơi này đòi hỏi rất nhiều trí tuệ, họ chơi với niềm tin nhờ trí tuệ sẽ
thắng lợi.

Xem thêm: Vì sao Israel có tỷ lệ doanh nhân thành công cao nhất thế giới?

4. Khai thác triệt để vốn tri thức sẵn có
Phương châm của người Do Thái là “Học đi đôi với hành”. Một người dù học
rộng hiểu cao nhưng không vận dụng vào thực tiễn chỉ là “con lừa thồ sách”.
Người Do Thái luôn biến vận may thành cơ hội của mình, biến kiến thức thu nhặt
được ở nhà trường thành những thành tựu trong cuộc sống. Cho nên ta có thể nói
“kiếm tiền không giới hạn độ tuổi” là vậy.


Một em bé có thể phụ giúp mẹ kiếm tiền, một học sinh cũng sẽ vận dụng những
kiến thức học được vào các công việc để kiếm tiền, một người trưởng thành vận
dụng kiến thức sẵn có để kinh doanh. Tóm lại, người Do Thái đã khai thác triệt để
tri thức vốn có để mang lại một kết quả, một tương lai tốt đẹp.

5. Đầu tư đúng sẽ mang lại lợi nhuận cao
Người Do Thái sử dụng quy tắc 22/78 nghĩa là 78% tài sản nằm trong 22% dân số.
Ngày nay, người Do Thái vẫn lựa chọn hướng đầu tư bất động sản, trái phiếu,
chứng khoán hoặc sản xuất các mặt hàng công nghệ cao như máy tính. Nói chung
là bất kỳ ngành nghề nào tạo ra giá trị lợi nhuận cao đều được dân Do Thái chú
trọng.
Người Do Thái quan niệm để tiền trong ngân hàng là tiền chết, giống như
người có tài năng mà không phát huy thì chính họ đang hủy hoại bản thân
mình. Vì thế, việc tìm trăm phương ngàn kế để thực hiện công cuộc làm giàu đã
được người Do Thái áp dụng thành công.

6. Chỉ có học mới hoàn thiện được bản thân

Người Do Thái không nhìn con đường bạn đi, chỉ nhìn kết quả bạn làm. Đơn giản
là xã hội có rất nhiều cơ hội cho mỗi người, cơ hội không đến với bạn thì hãy
nhanh chân mà tìm nó, đó là lời khuyên “nhanh thì còn, chậm chân thì mất”.
Muốn tồn tại ở một xã hội văn minh và phát triển như ngày nay, nếu không đầu tư
vào giáo dục, học hành thì chắc chắn ra đời bạn sẽ bị thua thiệt.
Nhờ giữ được tinh thần ham học của người xưa mà dân tộc Israel đã có những
bước đột phá mạnh trong nền kinh tế. Họ luôn tìm tòi, sáng tạo, biến vận may
thành cơ hội, lên những kế hoạch rõ ràng, mục tiêu cụ thể và dùng trí tuệ của mình
để thực hiện..

Bí quy ết thành công c ủa ng ười Do Thái: 'Tôi
đâu còn l ựa ch ọn nào khác'
Nhìn lại lịch sử, những quốc gia với xuất phát điểm thấp nhưng biết cách
“lựa chọn” thái độ trước thời cuộc đều đã thành công.

Nội dung nổi bật:
- Nghèo khổ, lang bạt, bị đối xử khinh thường, cuộc sống đầy rẫy bất ổn… nhưng
cũng nhờ đó, người Do Thái học được bài học về sự sáng tạo, về lòng quả cảm, trí
tưởng tượng phong phú và nỗ lực khẳng định vị thế dân tộc mình. Cho tới nay, khi
những cống hiến của người Do Thái dần được công nhận, người ta mới nhìn họ
với một con mắt khác.


- Ví dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ
về sau gọi là hệ thống ngân hàng. Lịch sử cũng một lần nữa chứng minh tài năng
của người Do Thái trong kinh doanh, với những cái tên như vua dầu mỏ John
Rockefeller, trùm tài chính George Soros, huyền thoại thời trangRalph Lauren…
- Nhìn lại lịch sử, những quốc gia với xuất phát điểm thấp nhưng biết cách “lựa
chọn” thái độ trước thời cuộc đều đã thành công.


Tôi cứ nghĩ mãi về điều gì khơi nguồn cho sự tỏa sáng của người Do Thái trong
hầu hết khía cạnh cuộc sống, cho tới khi đọc lại Eran Katz:“Có lần, tôi gặp một
người mù. Ông ấy có một trí nhớ phi thường. Ông ấy thuộc lòng số điện thoại,
những cuộc hẹn của mình từ hàng tháng trước hoặc sẽ có trong hàng tháng sau
đó, mà không hề cần sổ ghi chép hay sắp xếp các cuộc hẹn. Khi tôi hỏi ông ấy làm
thế nào mà nhớ được, ông ấy có vẻ hơi ngạc nhiên và câu trả lời của ông ấy đến
giờ vẫn văng vẳng trong tâm trí tôi: ‘Tôi đâu còn lựa chọn nào khác chứ?’ ”.
Và tôi tự hỏi, liệu có phải lý do của người Do Thái cũng bắt nguồn từ việc họ từng
là một dân tộc “đâu còn sự lựa chọn nào khác”?
Từ 2000 năm lưu vong
Điều 1 của Tuyên ngôn Quốc tế Nhân quyền năm 1948 tại Pháp ghi: “Mọi người
đều được sinh ra tự do và bình đẳng”. Thế nhưng đó là câu chuyện của 1948.
2000 năm trước, có một dân tộc mà nhiều người từ khi sinh ra đã là một đứa trẻ
mất nước, đi tới đâu cũng bị xua đuổi, tàn sát, người dân bị cấm sở hữu bất cứ tài
sản nào… Họ chính là dân tộc Do Thái. Ngay từ những giai đoạn đầu tiên, người
Do Thái đã phải sống lưu vong, bị cướp bóc tài sản do những quan niệm trái
ngược về tôn giáo. Vào thời đại di chuyển khá hạn chế, người Do Thái trở thành
những người tị nạn đầu tiên. Ngày xưa cũng như bây giờ, dân di cư luôn bị đối xử
với sự nghi ngờ.
Tới Thế chiến II, khi Adolf Hitler với thuyết “người Đức là một dân tộc thượng
đẳng”, vì sợ sự vượt trội của người Do Thái đã bắt họ phải sống trong các trại tập
trung với ý đồ để họ chết dần chết mòn. Kết quả, không dưới sáu triệu người bao
gồm cả phụ nữ, trẻ em đã bị sát hại dã man.
Nghèo khổ, lang bạt, bị đối xử khinh thường, cuộc sống đầy rẫy bất ổn… nhưng
cũng nhờ đó, người Do Thái học được bài học về sự sáng tạo, về lòng quả cảm, trí
tưởng tượng phong phú và nỗ lực khẳng định vị thế dân tộc mình. Cho tới nay, khi
những cống hiến của người Do Thái dần được công nhận, người ta mới nhìn họ
với một con mắt khác.
[Một giả thuyết thú vị], phải chăng quá trình chọn lọc tự nhiên quá dài và khắc
nghiệt đã khiến chỉ những cá nhân xuất sắc nhất mới có thể tồn tại để tạo nên

một dân tộc tinh hoa như vậy?
Kinh Talmud, tri thức và tiền


Đã có không ít nghiên cứu về công thức thành công của người Do Thái: Từ việc
mang thai của người mẹ, việc đào tạo thanh niên trong quân đội, việc chính phủ
cởi mở trước ý tưởng sáng tạo cho tới truyền thống của một dân tộc thông thái...
Nhưng khởi điểm căn bản, không ai có thể phủ nhận tầm quan trọng của Kinh
Talmud. Kinh Talmud là một văn bản trung tâm của giáo sĩ Do Thái giáo gồm 63
bài luận với độ dài hơn 6.200 trang thể hiện những ý kiến của hàng ngàn giáo sĩ
Do Thái trong nhiều chủ đề như pháp luật, đạo đức, triết học, phong tục, lịch sử,
thần học, truyền thuyết và nhiều chủ đề khác.

Kinh Talmud
Kinh Talmud viết: “Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi
không mất đi đâu được”. Với phương châm đó, người Do Thái đặc biệt coi trọng
giáo dục, dù khó khăn đến đâu cũng tìm cách cho con học hành. Nhìn toàn cục,
đạo Do Thái coi trọng học vấn và phân tích. Họ không chấp nhận những giá trị bề
ngoài, mà luôn đi sâu tìm hiểu “tại sao”, “như thế nào”. Với lịch sử, bộ óc thế
kỷ Albert Einstein, nhà tâm lý họcSigmund Freud, cha
đẻ Chủ nghĩa Cộng sản Karl Marx…hay thậm chí
“Chẳng con dê nào
chúa Jesus, tất cả đã chứng minh đóng góp tri thức vĩ không có râu, chẳng
đại của người Do Thái với nhân loại.
người Do Thái nào
không có tiền để dành”.
Một điểm đặc biệt của Kinh Tadmud, khác với những
Ngạn ngữ Đức
tôn giáo khác như Phật giáo, Thiên chúa giáo là ở chỗ
coi trọng giá trị của tiền bạc. Với người Do Thái: “Vàng ở xứ này rất quý”. Rõ

ràng, không có tiền thì làm sao có thể tồn tại ở những quốc gia nơi người Do Thái
sống nhờ ở đợ, chịu mọi chèn ép, khó khăn? Cũng chính trong hoàn cảnh đó, họ
đã sáng tạo ra nhiều ý tưởng kinh doanh rất khôn ngoan.
Ví dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ về
sau gọi là hệ thống ngân hàng. Lịch sử cũng một lần nữa chứng minh tài năng của


người Do Thái trong kinh doanh, với những cái tên như vua dầu mỏ John
Rockefeller, trùm tài chínhGeorge Soros, huyền thoại thời trang Ralph Lauren…
Tới hồi kết nở hoa
Nhìn lại lịch sử, những quốc gia với xuất phát điểm thấp nhưng biết cách “lựa
chọn” thái độ trước thời cuộc đều đã thành công. Hoa Kỳ, sau cuộc nội chiến vươn
lên trở thành một cường quốc quyền lực. Nhật Bản, dù hứng chịu không ít bom
nguyên tử, động đất, sóng thần vẫn là nơi mặt trời luôn mọc. Singapore, từ một
mảnh đất bé xíu thuộc về Malaysia, ô nhiễm, pha tạp, trở thành một đất nước xanh
và năng động bậc nhất không chỉ tại châu Á.
Và tất nhiên, không thể không nhắc tới Israel, quê hương của những người con Do
Thái, nơi đã viết nên câu chuyện rằng bất kể quá khứ của một dân tộc ra sao, với
sự sáng tạo, cầu tiến của mình, họ đều có thể viết nên tương lai mới.
Hoa đã nở trên những cao nguyên cằn khô tại “quốc gia khởi nghiệp”, nơi mà toàn
bộ diện tích bao phủ bởi sỏi đá, chỉ gần 1% là nước. Israel- quốc gia nhỏ bé chỉ
gồm hơn 7 triệu dân, mỗi ngày trôi qua là một ngày đối diện với hàng trăm thế lực
thù địch xung quanh, vẫn vươn mình phát triển trên hầu hết các lĩnh vực, nông
nghiệp, kinh tế, khoa học... Như một tất yếu, người dân Israel rất giàu, GDP đầu
người năm 2013 vào khoảng 34.900 USD(*)- xếp thứ 40 thế giới.
Hitler (nếu còn sống) hẳn sẽ buồn vì sức sống của người Do Thái sau chừng ấy
thử thách, quả không thể nào dập tắt!
(*) Theo The World Factbook

Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế ?


Cựu chủ tịch FED Alan Greenspan là người Do Thái.


Karl Marx, Alan Greenspan, Paul Krugman, George Soros, Michael
Bloomberg...đều là những người gốc Do Thái rất thành công.
Cả một dân tộc giỏi làm kinh tế
Chúng ta đều biết người Do Thái (thời cổ gọi là Hebrew) là dân tộc thành công
nhất trên nhiều lĩnh vực trí tuệ, nhưng có lẽ ít ai biết họ thực ra còn cực kỳ xuất
sắc trên mặt kinh tế, tài chính, thương mại.
Họ đạt được những thành tựu đó trong hoàn cảnh cực kỳ khó khăn: toàn bộ dân
tộc Do Thái buộc phải sống lưu vong phân tán, “ăn nhờ ở đợ” suốt 2000 năm qua
trên khắp thế giới, đi tới đâu (trừ ở Mỹ) cũng bị xa lánh hoặc hắt hủi, xua đuổi,
tước đoạt, thậm chí hãm hại, tàn sát vô cùng dã man, bị cấm được sở hữu bất cứ
tài sản cố định nào như nhà đất, tài nguyên thiên nhiên ....
Chỉ cần lướt các mạng tìm kiếm là ta có thể sưu tầm được ngay một số thành tựu
cực kỳ gây ấn tượng của người Do Thái trên lĩnh vực kinh tế, dù là về mặt lý
thuyết hay thực tiễn. Hãy xem một số số liệu sau đây:
Rất nhiều nhà lý thuyết kinh tế hàng đầu thế giới là người Do Thái, các lý thuyết
họ xây dựng nên đã ảnh hưởng vô cùng to lớn nếu không nói là quyết định tới quá
trình trình tiến hóa của nhân loại:
- Karl Marx (Các Mác) người khám phá ra “giá trị thặng dư” và xây dựng học
thuyết kinh tế chủ nghĩa cộng sản sẽ thay thế cho chủ nghĩa tư bản, được gọi là
một trong hai người Do Thái làm đảo lộn cả thế giới (người kia là Jesus Christ);
- Alan Greenspan 17 năm liền được 4 đời Tổng thống Mỹ tín nhiệm cử làm Chủ
tịch Cơ quan Dự trữ Liên bang (FED, tức Cục Dự trữ liên bang Mỹ) nắm quyền
sinh sát lớn nhất trong giới tài chính Mỹ, thống trị lĩnh vực tài chính tiền tệ toàn
cầu;
- Paul Wolfowitz cùng người tiền nhiệm James Wolfensohn, hai cựu chủ tịch
Ngân hàng Thế giới, tổ chức tài chính có tác dụng rất lớn đối với các nước đang

phát triển;
- 41% chủ nhân giải Nobel kinh tế thời gian 1901-2007 là người Do Thái (cộng 13
người), chẳng hạn Paul Samuelson (1970), Milton Friedman (1976) và Paul
Krugman (2008) … là những tên tuổi quen thuộc trong giới kinh tế thế giới hiện
nay, các lý thuyết của họ được cả thế giới thừa nhận và học tập, áp dụng...
Nhiều nhà giàu nổi tiếng thế giới từng tác động không nhỏ tới chính trị, kinh tế
nước Mỹ và thế giới là người Do Thái. Đơn cử vài người :
- Jacob Schiff, chủ nhà băng ở Đức, sau sang Mỹ định cư; đầu thế kỷ XX do căm
ghét chính quyền Sa Hoàng giết hại hàng trăm nghìn dân Do Thái ở Nga, ông đã
cho chính phủ Nhật Bản vay 200 triệu USD (một số tiền cực kỳ lớn hồi ấy) để xây
dựng hải quân, nhờ đó Nhật thắng Nga trong trận hải chiến Nhật-Nga năm 1905.
Nhớ ơn này, trong đại chiến II Nhật đã không giết hại người Do Thái sống ở
Trung Quốc tuy đồng minh số Một của Nhật là phát xít Đức Hitler có nhờ Nhật
“làm hộ” chuyện ấy.
- Sheldon Adelson, người giàu thứ 3 nước Mỹ năm 2007, với tài sản cá nhân lên
tới 26,5 tỷ USD.


- George Soros giàu thứ 28 ở Mỹ (7 tỷ USD) nổi tiếng thế giới hiện nay về ý
tưởng đầu tư và làm từ thiện quy mô lớn.
- Michael Bloomberg có tài sản riêng 5,1 tỷ USD, làm thị trưởng thành phố New
York đã 8 năm nay với mức lương tượng trưng mỗi năm 1 USD và là chủ kênh
truyền hình Bloomberg nổi tiếng trong giới kinh tế, đang được mong đợi sẽ là ứng
cử viên Tổng thống Mỹ khóa tới...
Cộng đồng Do Thái ở Mỹ chiếm một nửa tổng số người Do Thái trên toàn thế giới
là quần thể thiểu số thành công nhất ở Mỹ dù chỉ chiếm 2,5% số dân. Khoảng một
nửa số doanh nhân giàu nhất Mỹ, 21 trong số 40 nhà giàu đứng đầu bảng xếp hạng
của tạp chí Forbes là người Do Thái, và cộng đồng Do Thái có mức sống bình
quân cao hơn mức trung bình của nước này.
Họ nắm giữ phần lớn nền kinh tế tài chính Mỹ, tới mức người Mỹ có câu nói

“Tiền nước Mỹ nằm trong túi người Do Thái”. Nhờ thế trên vấn đề Trung Đông
chính phủ Mỹ xưa nay luôn bênh vực và viện trợ Israel.
Nước Israel nhỏ bé với hơn 5 triệu người Do Thái tuy ở trên vùng sa mạc khô cằn
nhưng nông nghiệp và các lĩnh vực kinh tế, khoa học kỹ thuật đều rất phát triển,
dân rất giàu, GDP đầu người năm 2003 bằng 19.000 USD. Nhờ sức mạnh mọi mặt
ấy, quốc gia nhỏ xíu này đã đứng vững được trong làn sóng hằn thù và công kích
của cả trăm triệu người A Rập xung quanh ...
Nguyên nhân do đâu?
Vì sao người Do Thái giỏi làm kinh tế trên cả hai mặt lý thuyết và thực hành như
vậy? Lịch sử đã chứng minh, yếu tố quyết định thành công của một dân tộc bắt
nguồn từ truyền thống văn hóa của dân tộc ấy.
Để tìm hiểu truyền thống văn hóa của dân tộc này có lẽ ta cần tìm hiểu các nguyên
tắc chính của đạo Do Thái (Judaism), tôn giáo lâu đời nhất thế giới còn tồn tại tới
ngày nay và là chất keo bền chắc gắn bó cộng đồng, khiến dân tộc này giữ gìn
được nguyên vẹn nòi giống, ngôn ngữ, truyền thống văn hóa mặc dù phải sống
phân tán, lưu vong và bị kỳ thị, xua đuổi, hãm hại, tàn sát dã man suốt 2000 năm
qua.
Có thể nói, nếu không có chất keo ấy thì từ lâu dân tộc Do Thái đã bị tiêu diệt
hoặc đồng hóa và biến mất khỏi lịch sử. Đạo Do Thái là tôn giáo duy nhất thành
công trên cả hai mặt: giữ được sự tồn tại của dân tộc và hơn nữa đưa họ vươn lên
hàng đầu thế giới trên hầu hết các lĩnh vực trí tuệ.
Muốn vậy, ta thử điểm qua vài nét về Kinh thánh của người Do Thái (Hebrew
Bible) – kinh điển này hơn 10 thế kỷ sau được đạo Ki-tô lấy nguyên văn làm phần
đầu Kinh Thánh của họ và gọi là Cựu Ước, nhằm phân biệt với Tân Ước do các
nhà sáng lập Ki-tô giáo viết. Ta cũng cần xem xét một kinh điển nữa của đạo Do
Thái gọi là Kinh Talmud, quan trọng hơn cả Cựu Ước, có đưa ra nhiều nguyên tắc
cụ thể cho tới thời nay vẫn còn giá trị về kinh doanh, buôn bán.
Trước hết người Do Thái có truyền thống coi kiến thức trí tuệ là thứ quý nhất của
con người.
Kinh Talmud viết: Tài sản có thể bị mất, chỉ có tri thức và trí tuệ thì mãi mãi

không mất đi đâu được. Các ông bố bà mẹ Do Thái dạy con: Của cải, tiền bạc của


chúng ta đều có thể bị kẻ khác tước đoạt nhưng kiến thức, trí tuệ trong đầu óc ta
thì không ai có thể cướp nổi.
Với phương châm đó, họ đặc biệt coi trọng việc giáo dục, dù khó khăn đến đâu
cũng tìm cách cho con học hành; ngoài ra họ chú trọng truyền đạt cho nhau các
kinh nghiệm làm ăn, không bao giờ giấu nghề. Người Do Thái có trình độ giáo
dục tốt nhất trong các cộng đồng thiểu số ở Mỹ, thể hiện ở chỗ họ chiếm tỷ lệ cao
nhất trong sinh viên các trường đại học hàng đầu cũng như trong giới khoa học kỹ
thuật và văn hóa nghệ thuật.
Thứ hai, đạo Do Thái đặc biệt coi trọng tài sản và tiền bạc. Đây là một điểm độc
đáo khác hẳn đạo Ki-tô, đạo Phật, đạo Nho, ta cần phân tích thêm.
Có lẽ sở hữu tài sản là một trong các vấn đề quan trọng nhất của đời sống loài
người, là nguyên nhân của cuộc đấu tranh giữa con người với nhau (đấu tranh giai
cấp) và chiến tranh giữa các quốc gia. Heghel, đại diện nổi tiếng nhất của triết học
cổ điển Đức từng nói: “Nhân quyền nói cho tới cùng là quyền (sở hữu) về tài sản.”
Chính Marx cũng nói: Chủ nghĩa cộng sản “là sự phục hồi chế độ sở hữu của cá
nhân trên một hình thức cao hơn”.
Rõ ràng, chỉ khi nào mọi người đều có tài sản, đều giàu có thì khi ấy mới có sự
bình đẳng đích thực, người người mới có nhân quyền. Một xã hội có phân hóa
giàu nghèo thì chưa thể có bình đẳng thực sự. Đạo Do Thái rất chú trọng nguyên
tắc làm cho mọi người cùng có tài sản, tiền bạc, cùng giàu có.
Triết gia Max Weber viết: “Đạo Ki-tô không làm tốt bằng đạo Do Thái, vì họ kết
tội sự giàu có.” Quả vậy, Chúa Jesus từng nói: “Lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn
người giàu vào nước Chúa” (Tân Ước, Mathew 19:24), ý nói ai giàu thì khó lên
thiên đường, ai nghèo thì dễ lên thiên đường hơn – qua đó có thể suy ra đạo Ki-tô
thân cận với người nghèo khổ. Nho giáo và đạo Phật lại càng khinh thường tài sản,
tiền bạc, coi nghèo là trong sạch, giàu là bẩn thỉu.
Ngược lại Cựu Ước ngay từ đầu đã viết: “Vàng ở xứ này rất quý” (Genesis 2:12).

Ý tưởng quý vàng bạc, coi trọng tài sản vật chất đã ảnh hưởng lớn tới người Do
Thái, họ đều muốn giàu có.
Khái niệm tài sản xuất hiện ngay từ cách đây hơn 3000 năm khi vua Ai Cập bồi
thường cho vị tổ phụ của bộ lạc Do Thái là Abraham, khiến ông này “có rất nhiều
súc vật, vàng bạc” (Genesis 13:2). Thượng Đế Jehovah yêu cầu Abraham phải
giàu để có cái mà thờ cúng Ngài. Thượng Đế cho rằng sự giàu có sẽ giúp chấm dứt
nạn chém giết nhau. Khi Moses dẫn dân Do Thái đi khỏi Ai Cập cũng mang theo
rất nhiều súc vật.
Những người xuất thân gia đình giàu có hồi ấy như Jacob, Saul, David ... đều được
Cựu Ước ca ngợi là có nhiều phẩm chất tốt, lắm tài năng, lập được công trạng lớn
cho cộng đồng dân tộc và đều trở thành lãnh đạo, vua chúa. Ngược lại, văn hóa
phương Đông thường ca ngợi phẩm chất của những người nghèo.
Trọng tiền bạc là đặc điểm nổi bật ở người Do Thái.
Họ coi đó là phương tiện tốt nhất để bảo vệ mình và bảo vệ dân tộc họ. Quả vậy,
không có tiền thì họ làm sao tồn tại nổi ở những quốc gia và địa phương họ sống
nhờ ở đợ, nơi chính quyền và dân bản địa luôn chèn ép, gây khó khăn.
Hoàn cảnh ấy khiến họ sáng tạo ra nhiều biện pháp làm giàu rất khôn ngoan. Thí
dụ cửa hiệu cầm đồ và cho vay lãi là sáng tạo độc đáo của người Do Thái cổ đại –


×