Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Một số kinh nghiệm ôn tập môn lịch sử hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.36 KB, 12 trang )

Một số kinh nghiệm ôn tập môn Lịch sử hiệu
quả
Bộ Giáo dục và Đào tạo vừa công bố 6 môn thi tốt nghiệp THPT
năm 2012, trong đó có môn Lịch sử. Đây là môn học được nhiều
học sinh cho là “khó nuốt” nhất trong kì thi tốt nghiệp năm nay.
Làm sao để ôn tập môn Lịch sử có hiệu quả vẫn là một câu hỏi
khó đối với các bạn học sinh lớp 12. Dưới đây, tôi xin nêu ra
một số kinh nghiệm nhỏ với mong muốn giúp các bạn học sinh
ôn tập có hiệu quả hơn môn Lịch sử.
1. Nắm tổng thể nội dung của chương trình trước khi học các nội dung cụ thể
Để không bị lạc vào trong khối sự kiện quá lớn của chương trình Lịch sử lớp 12,
trước khi ôn tập từng nội dung cụ thể, các bạn cần phải nắm một cách khái quát
về tiến trình lịch sử:
Phần Lịch sử Việt Nam từ 1919 đến 2000 được trình bày theo tiến trình lịch sử:
Giai đoạn 1919 – 1930 (gồm 2 giai đoạn nhỏ: 1919 – 1935 và 1925 - 1930); Giai
đoạn 1930 – 1945 (gồm 4 giai đoạn nhỏ: 1930 – 1931, 1931 – 1935, 1936 –
1939 và 1939 – 1945); Giai đoạn 1945 – 1954 (gồm 4 giai đoạn nhỏ: 02/9/1945 19/12/1946, 1946 – 1950, 1951 - 1953 và 1953 – 1954); Giai đoạn 1954 - 1975
(gồm 5 giai đoạn nhỏ: 1954 – 1960, 1961 – 1965, 1965 – 1968, 1968 – 1973 và
1973 – 1975) và Giai đoạn 1975 đến 2000 (gồm 3 giai đoạn nhỏ: 1975 – 1976,
1976 – 1986 và 1986 - 2000). Dựa vào phân kì lịch sử này, các bạn tiến hành
xác định những sự kiện lịch sử chính (chưa cần đi vào nội dung chi tiết) gắn liền
với từng giai đoạn lịch sử cụ thể.
Phần Lịch sử thế giới từ 1945 đến 2000 được trình bày theo 6 chủ đề: 1/ Sự
hình thành trật tự thế giới mới sau chiến tranh thế giới thứ hai; 2/ Liên Xô và các
nước Đông Âu (1945 - 1991) và Liên bang Nga (1991 - 2000); 3/ Các nước Á,
Phi và Mĩ Latinh (1945 - 2000); 4/ Mĩ, Tây Âu, Nhật Bản (1945 – 2000); 5/ Quan
hệ quốc tế (1945 - 2000); 6/ Cách mạng khoa học công nghệ và xu thế toàn cầu
hóa.
2. Học theo từng chủ đề lịch sử cụ thể
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam”; “Các hiệp định trong giai đoạn từ 1945 đến
1975: Hiệp định Sơ bộ, Hiệp định Giơ-ne-vơ và Hiệp định Pa-ri”; Phong trào yêu


nước theo xu hướng dân chủ từ 1919 đến 1930. sự xuất hiện của 3 tổ chức
cộng sản  truyền bá chủ nghĩa Mác – Lê nin vào Việt Nam Việc nhóm các vấn
đề lịch sử cùng đặc điểm, liên quan với nhau thành một chủ đề là một cách giúp
học sinh ôn tập hiệu quả hơn, có thể kể đến một số chủ đề như sau: “Quá trình
thành lập Đảng: Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước


3. Học một nhóm các sự kiện lịch sử có liên hệ với nhau
Đặc điểm của lịch sử là diễn ra liên tục, kết quả của sự kiện trước có liên hệ đến
sự kiện sau. Do đó, nếu các bạn học cả một chuỗi sự kiện có liên hệ với nhau
trong cùng một giai đoạn lịch sử, thì sẽ thấy hấp dẫn, thú vị và nhớ có hệ thống
hơn, cụ thể như:
Thứ nhất, diễn biến của cách mạng Việt Nam từ 1939 đến 1945 xoay quanh 4
sự kiện lớn là: Hội nghị Trung ương 6 (11/1939), Hội nghị Trung ương 8
(5/1941), Hội nghị Ban thường vụ TW Đảng 12/3/1945 (ra chỉ thị Nhật – Pháp
bắn nhau và hành động của chúng ta) và cuối cùng là Hội nghị toàn quốc của
Đảng (13-15/8/1945).
Nếu nhóm cả 4 sự kiện này lại (từ bối cảnh đến nhận định tình hình, xác định kẻ
thù, đề ra chủ trương của Đảng và quá trình triển khai các chủ trương đó), thì
các bạn sẽ thấy được quá trình phát triển liên tục của Cách mạng Việt Nam từ
1939 đến 1945: từ chỗ bảo toàn được lực lượng vừa mới phục hồi (chủ trương
của Hội nghị Trung ương 6) đến chuẩn bị lực lượng (chủ trương của Hội nghị
Trung ương 8), rồi khởi nghĩa từng phần, chuẩn bị cho tổng khởi nghĩa (quyết
định của Hội nghị Ban thường vụ TW Đảng 12/3/1945) và cuối cùng là tiến lên
tổng khởi nghĩa thắng lợi (quyết định của Hội nghị toàn quốc của Đảng).
Thứ hai, trong giai đoạn từ 1946 đến 1954, các bạn cần chú ý đến 4 kế hoạch
của thực dân Pháp: Bôlae (1947), Rơ-ve (1949), Đờ-lát-đơ Tát-xi-nhi (1950) và
Nava (1953). Nếu nhóm 4 kế hoạch trên và quá trình ta đánh bại từng kế hoạch
của địch bằng những sự kiện lịch sử cụ thể, các bạn sẽ thấy được một thực
trạng thú vị là các kế hoạch của Pháp đề ra theo kiểu “thua keo này, bày keo

khác”, sau một lần thất bại của kế hoạch trước, thực dân Pháp thay tướng và
đưa ra một kế hoạch mới, nhưng cuối cùng đều bị quân và dân ta đánh bại, buộc
phải kí hiệp định Giơ-ne-vơ rút quân về nước.
Thứ ba, trong giai đoạn 1954 – 1973, ở miền Nam Việt Nam, các bạn cần chú ý
đến giai đoạn 1954 – 1960 (trước đây gọi là chiến tranh đơn phương) và 3 chiến
lược: chiến tranh đặc biệt, chiến tranh cục bộ và Việt Nam hóa chiến tranh.
Nếu lập bảng tổng hợp tất cả các chiến lược trên với các nội dung: “Âm mưu,
thủ đoạn”, “quá trình triển khai” và “quá trình nhân dân ta đánh bại các chiến
lược của Mĩ”, các bạn sẽ thấy được một đặc điểm thú vị là sau mỗi lần thất bại,
Mĩ lại can dự sâu hơn vào cuộc chiến tranh ở Việt Nam: từ chỗ chỉ viện trợ kinh
tế, quân sự cho chính quyền Sài Gòn (1954 - 1960), tiến đến đưa cố vấn quân
sự vào chỉ huy, phong tỏa miềm Bắc,… (1961 - 1965), đưa quân đội trực tiếp
tham chiến, ném bom hậu phương miền Bắc (1965 - 1968) và cuối cùng Mĩ đành
phải chấp nhận rút quân đội ra khỏi Việt Nam bằng cách tăng cường sức mạnh
cho quân đội Sài Gòn song song với việc mở rộng chiến tranh ra toàn Đông
Dương, thương lượng với Liên Xô và Trung Quốc giảm viện trợ, làm cho cách


mạng miền Nam suy yếu dần (1969 - 1973). Và đừng quên những thắng của ta
trong từng chiến lược qua những sự kiện lịch sử và số liệu cụ thể.
Thứ tư, đối với các chiến dịch: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng, Hồ Chí Minh, các
bạn bắt đầu từ chủ trương và kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam. Lúc
đầu, Đảng ta đề ra kế hoạch giải phóng hoàn toàn miền Nam trong 2 năm,
nhưng sau khi chiến dịch Tây Nguyên diễn ra, Đảng ta đã liên tục điều chỉnh rút
ngắn kế hoạch giải phóng miền Nam. Cuối cùng, trong chưa đầy 3 tháng, ta đã
giải phóng hoàn toàn miền Nam. Vấn đề còn lại chỉ là nhớ những sự kiện cơ bản
của 3 chiến dịch này.
4. Một số lưu ý khác
Thứ nhất, đối với giai đoạn 1930 – 1931 và giai đoạn 1936 – 1939, các bạn chú
ý đến cấu trúc: bối cảnh, chủ trương của Đảng, diễn biến, ý nghĩa và kết quả.

Thứ hai, đối với bài Việt Nam trong năm đầu tiên sau khi giành được độc lập
(1946), các bạn cần lập một sơ đồ có cấu trúc gồm 2 vế: thứ nhất là tình thế
“ngàn cân treo sợi tóc” của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa trong năm 1946
(bối cảnh, những khó khăn về đối nội, đối ngoại), thứ hai là quá trình giải quyết
những khó khăn về đối nội và đối ngoại tương ứng.
Thứ ba, trong những năm gần đây, nhiều đề thi thường hỏi về mối quan hệ giữa
lịch sử thế giới và lịch sử Việt Nam (chủ yếu rơi vào giai đoạn từ 1919 đến
1945). Chính vì vậy, các bạn cần chú ý đến mối liên hệ giữa lịch sử Việt Nam với
các kiến thức lịch sử thế giới có liên quan trong sách giáo khoa.
Thứ tư, đối với phần lịch sử thế giới và các nội dung còn lại chưa được đề cập ở
trên, có lẽ các bạn phải tự tìm cho mình một phương pháp học thích hợp.
Không thể có một phương pháp học tập phù hợp cho tất cả mọi đối tượng học
sinh, hy vọng rằng những kinh nghiệm nhỏ trên đây sẽ giúp ích ít nhiều cho các
bạn học sinh trong kì thi sắp tới. Chúc các bạn đạt kết quả cao nhất trong kì thi
tốt nghiệp và kì thi tuyển sinh năm 2012.

Tư vấn ôn thi môn Lịch sử 2015
Cô Trần Thị Thanh Hương- Giáo viên trường THPT Nguyễn Trãi
(Ba Đình - Hà Nội) chia sẻ phương pháp để ôn thi môn Lịch sử
tại kì thi THPT quốc gia năm nay.
Trong kì thi tốt nghiệp THPT quốc gia năm nay, mỗi phần thi đều lồng ghép các
câu hỏi mở, khuyến khích tư duy và vận dụng thực tế ở học sinh.


Với những môn xã hội, vốn bị định kiến là các môn học thuộc như các môn Lịch
sử hay Địa lý thì đây là một sự thay đổi lớn. Suy nghĩ, cũng như những băn
khoăn của các em học sinh về đề thi và những vấn đề cần lưu ý trong quá trình
ôn tập bộ môn Lịch sử đã được đề cập trong phóng sự trên.
Với những thay đổi trong cách ra đề thi và tiêu chí chấm thi trong cuộc thi tốt
nghiệp THPT quốc gia 2015, các em cần lưu ý:

Nên:
- Hệ thống kiến thức.
- Phân bổ thời gian hợp lý.
- Liên hệ thực tiễn với các sự kiện trong và ngoài nước.
- Lập đề cương.
Không nên:
- Sáng tác lịch sử, sự kiện.
- Trình bày sơ sài.
- Trả lời quá tỉ mỉ cho một câu hỏi.
- Diễn đạt chung chung.
- Lạm dụng diễn đạt các từ ngữ văn học để minh họa cho nội dung lịch sử dễ bị
lan man và lạc đề.

Bí quyết khai mở tư duy học sinh giỏi Lịch
sử
Dạy Lịch sử, bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch sử, giáo viên cần coi
trọng việc hướng dẫn, gợi mở để học sinh tự đặt vấn đề suy
nghĩ, trao đổi và nghiên cứu; phải nắm được những nguyên tắc
và con đường phát triển tư duy học sinh.
7 biện pháp giúp học sinh phát triển tư duy
Để thực hiện tốt vấn đề này, giáo viên Hà Trọng Thái (Trường THPT chuyên Lào
Cai) cho rằng, cần thực hiện đồng bộ các biện pháp sau đây.
Thứ nhất: Thông báo cho học sinh toàn bộ kế hoạch, nội dung chương trình học


tập trong năm học và cả khóa học; đánh dấu những phần kiến thức khó, trọng
tâm để các em dành nhiều thời gian suy nghĩ, nhất là kế hoạch ôn luyện trong
giai đoạn thi học sinh giỏi tỉnh, khu vực và cấp quốc gia.
Thứ 2: Giới thiệu, hướng dẫn tư liệu đọc thêm cho học sinh, để làm sao học sinh
có một bộ sách tham khảo hoàn chỉnh. Quan trọng nhất là các tài liệu có liên

quan đến kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, những công trình vừa được công bố có
những quan điểm mới tiến bộ.
Thứ 3: Thường xuyên kiểm tra, đánh giá ý thức, kết quả học tập của học sinh.
Bổ sung vào đội tuyển những học sinh thực sự có năng lực, trình độ và loại
những học sinh không đủ năng lực. Giáo viên cần nắm bắt được thế mạnh và
điểm yếu của từng học sinh, trên cơ sở đó đưa ra phương pháp dạy học, thời
gian bồi dưỡng thích hợp.
Thứ 4: Chú ý phát hiện những học sinh có năng khiếu vượt trội để có kế hoạch
đào tạo, bồi dưỡng riêng. Thực tế, đối với học sinh trường chuyên, học sinh chủ
yếu là khá, giỏi, nhưng trong số đó sẽ có những học sinh thực sự xuất sắc.
Những học sinh này cần phải được tạo điều kiện tốt nhất để phát huy hết năng
lực học tập.
Thứ 5: Tất cả học sinh giỏi đều phải được giao nghiên cứu và viết chuyên đề
hẹp (đảm bảo tính vừa sức, thiết thực...). Đề tài nghiên cứu, học sinh có thể làm
theo nhóm, cá nhân. Một số học sinh xuất sắc có thể tham gia vào các công trình
nghiên cứu của giáo viên. Đồng thời, tổ chuyên môn, trường sẽ tổ chức hội thảo
để các em báo cáo kết quả nghiên cứu.
Thứ 6: Trước khi lên lớp, giáo viên cần gửi chuyên đề sẽ dạy cho học sinh ít
nhất trước 1 tuần kèm theo tên tài liệu tham khảo phục vụ chuyên đề đó để học
sinh có thời gian chuẩn bị và tìm hiểu trước. Lưu ý, cả một chuyên đề hoàn
chỉnh chứ không phải là tên chuyên đề, hay một số câu hỏi nằm trong chuyên đề
đó.
Thứ 7: Trong quá trình lên lớp, giáo viên có thể sử dụng rất nhiều phương pháp
dạy học, bởi các phương pháp này đều có những mặt mạnh và hạn chế. Vấn đề
ở chỗ giáo viên biết khai thác, vận dụng một cách phù hợp, làm sao hướng tới
mục đích thúc đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong việc tiếp
thu, khám phá tri thức.
Một trong những phương pháp hiệu quả nhất trong bồi dưỡng học sinh giỏi Lịch
sử quốc gia là phương pháp dạy học nêu vấn đề.
Theo đó, giáo viên dẫn dắt học sinh vào một tình huống có vấn đề, một tình

huống mâu thuẫn. Tình huống này cần rõ ràng. Sau đó, tổ chức hướng dẫn và
tạo điều kiện gợi mở, cung cấp một số sự kiện làm nảy sinh và giải quyết vấn đề.


Ví dụ: Khi trình bày công lao của Nguyễn Ái Quốc với phong trào cách mạng Việt
Nam 30 năm đầu thế kỷ XX, giáo viên có thể nêu vấn đề:
”Theo các em, dân tộc Việt Nam đã chọn con đường cách mạng theo khuynh
hướng vô sản, hay Nguyễn Ái Quốc đã chọn cho?”
Học sinh phải tìm tài liệu để làm sáng tỏ vấn đề, và các em phải thấy được đâu
là những điều kiện khách quan và chủ quan tác động đến sự lựa chọn ấy.
Kết quả, các em phải hiểu được, chính dân tộc Việt Nam đã lựa chọn con đường
cách mạng theo khuynh hướng vô sản.
Giáo viên đặt tình huống có vấn đề tiếp: “Vậy, vai trò của Nguyễn Ái Quốc là
gì?”. Học sinh một lần nữa lại phải tìm tài liệu, sự kiện lịch sử để trả lời: Nguyễn
Ái Quốc đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho cách mạng Việt Nam...
Phát triển khả năng thực hành lịch sử
Theo giáo viên Hà Trọng Thái, phát triển khả năng thực hành, hoạt động thực
tiễn của học sinh, không đơn giản chỉ dừng lại ở chỗ giúp học sinh cụ thể hóa
các sự kiện lịch sử, làm và sử dụng các loại đồ dùng trực quan, khả năng vẽ
bảng biểu và bản đồ, lược đồ, mà phải giúp học sinh liên hệ, so sánh, đối chiếu,
phân tích các sự kiện lịch sử đã qua với những sự kiện đang diễn ra hàng ngày
để thấy được chiều hướng phát triển của lịch sử.
Từ đó, giúp học sinh thấy được những bài học lịch sử, quy luật phát triển của xã
hội loài người, giáo viên phải đặt học sinh vào một tình huống lịch sử cố định để
xem các em giải quyết ra sao.
Ví dụ, khi dạy bài 17, sách giáo khoa Lịch sử lớp 12: “Nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa từ sau ngày 2/9/1945 đến trước ngày 19/12/1946”, giáo viên có thể đặt
học sinh vào tình huống sau:
“Nếu em là một thành viên trong Chính phủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đứng
trước tình thế “ngàn cân treo sợ tóc” của đất nước em sẽ làm gì?” Cụ thể hơn,

có thể hỏi: “Đứng trước nạn đói năm 1945 em sẽ làm gì?”
Hoặc khi dạy học sinh tìm hiểu Chiến dịch Việt Bắc thu đông năm 1947, giáo
viên cung cấp cho học sinh âm mưu, thủ đoạn, hành động của thực dân Pháp
khi tiến hành tấn công Việt Bắc và hỏi: “Em sẽ làm gì để phá tan cuộc tấn công
mùa đông của giặc Pháp, nếu như được Đảng, Chính phủ giao nhiệm vụ Tổng
chỉ huy quân đội?”.
Với những tình huống này, học sinh có thể sẽ trả lời “ngô nghê”, nhưng nhiều lần
như vậy, các em sẽ như được sống trong thời kỳ lịch sử đó. Từ đó, tránh được


lối học nhồi nhét, áp đặt những cái sẵn có trong lịch sử, tăng cường khả năng
thực hành, hoạt động thực tiễn, tính chủ động, sáng tạo của học sinh

Nên ôn thi theo sách giáo khoa
Thời điểm này, hầu hết các trường THPT đều tăng tốc ôn tập
cho học sinh lớp 12. Trao đổi với Tuổi Trẻ về định hướng ôn tập
cho học sinh, ông Vũ Đình Chuẩn, vụ trưởng Vụ Giáo dục trung
học Bộ GD-ĐT, cho biết:
- Năm nay, Bộ GD-ĐT yêu cầu các trường THPT chỉ đạo các tổ chuyên môn,
giáo viên dạy môn thi tốt nghiệp THPT chủ động xây dựng tốt kế hoạch, nội dung
ôn tập; biên soạn hệ thống câu hỏi và bài tập phù hợp; có hướng dẫn, gợi ý trả
lời. Bên cạnh việc ôn tập trong quá trình dạy học, thực hiện chương trình, sách
giáo khoa theo hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ năm học của bộ, nhà trường và
giáo viên cần tổ chức tốt việc ôn tập cho học sinh theo từng chủ đề: nội dung
trong mỗi chủ đề có thể bao gồm kiến thức, kỹ năng của các chương, bài khác
nhau; đồng thời ôn tập tổng hợp kiến thức, kỹ năng của chương trình giáo dục
phổ thông cấp THPT, chủ yếu là chương trình lớp 12: nội dung tổng hợp của tất
cả chủ đề đã được ôn tập.
Bên cạnh đó, giáo viên bộ môn chú trọng hướng dẫn học sinh biết cách phân
tích đề thi, cách trình bày bài thi theo đặc thù từng môn thi, hình thức thi; chuẩn

bị cho các em tâm lý tự tin trước khi bước vào kỳ thi.

Biết tổng hợp kiến thức
- Để chuẩn bị tốt nhất cho kỳ thi tốt nghiệp THPT sắp tới, bên cạnh việc nắm
vững chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương trình và biết vận dụng những kiến
thức đó khi làm bài thi, các em học sinh cần chuẩn bị một số kỹ năng quan trọng:
biết tổng hợp kiến thức của các phần, các chương và của toàn bộ chương trình
THPT, đặc biệt là chương trình lớp 12; biết tự tổ chức thảo luận theo nhóm, trao
đổi, tranh luận để hiểu sâu hơn về kiến thức, tự trau dồi kiến thức một cách chủ
động; có các kỹ năng phân tích để hiểu đề thi, trình bày bài thi.
Một vấn đề quan trọng không thể bỏ qua đối với mỗi học sinh trước khi bước vào
kỳ thi tốt nghiệp THPT là các em cần nắm được quy chế thi, thực hiện đúng quy
chế để tránh những điều sơ suất hoặc vi phạm trong khi thi, ảnh hưởng đến kết
quả thi. Bên cạnh đó, các em cần tự tin vào kiến thức của mình, chuẩn bị tâm
thế vững vàng, chủ động khi bước vào kỳ thi, bởi yếu tố tâm lý đóng một vai trò
không nhỏ trong kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT nói riêng và các kỳ thi quan trọng
khác.(Ông VŨ ĐÌNH CHUẨN)
* Hiện có nhiều loại sách hướng dẫn ôn tập thi tốt nghiệp THPT trên thị trường,


thậm chí các nhà xuất bản còn tiếp thị đến tận các trường học vận động học sinh
mua. Ông có ý kiến gì về việc này? Theo ông, học sinh nên ôn thi theo tài liệu
nào để có hiệu quả tốt nhất?
- Bộ không có giới hạn chương trình ôn tập mà khẳng định rõ: nội dung đề thi tốt
nghiệp THPT năm 2012 dựa theo yêu cầu chuẩn kiến thức, kỹ năng của chương
trình giáo dục cấp THPT, chủ yếu nằm trong chương trình lớp 12. Nếu học sinh
ôn tập theo cách học tủ, học lệch thì kết quả kỳ thi tốt nghiệp THPT sẽ phụ thuộc
rất nhiều vào yếu tố may rủi. Điều này cũng tạo cho học sinh tâm lý lo lắng,
không yên tâm khi ôn tập cũng như làm bài thi bởi không có nền tảng kiến thức
vững vàng.

Về tài liệu ôn thi, khi học sinh đã học đầy đủ chương trình theo yêu cầu chuẩn
kiến thức, kỹ năng các môn học, thì theo tôi, tài liệu để ôn thi tốt nghiệp THPT tốt
nhất vẫn là sách giáo khoa, kết hợp sử dụng sách bài tập theo quy định của Bộ
GD-ĐT và vở ghi của học sinh. Điều quan trọng nhất là giáo viên cần phải
hướng dẫn học sinh cách thức sử dụng sách giáo khoa để học tập thế nào cho
phù hợp, có thể thông hiểu và biết vận dụng nhuần nhuyễn kiến thức trong sách
giáo khoa khi làm bài thi.
* Vào thời điểm này nhiều trường đã cho học sinh tăng tốc ôn thi, giảm thời
lượng các môn học phụ, tăng thời lượng các môn học chính. Việc này có đúng
tinh thần chỉ đạo của Bộ GD-ĐT? Theo ông, tổ chức thi thử nhiều lần có giúp học
sinh đạt kết quả cao trong kỳ thi tới?
- Không phải chờ đến lúc gần thi tốt nghiệp THPT mới “tăng tốc” ôn thi, học ngày
học đêm, mà việc ôn tập phải tổ chức ngay trong quá trình dạy học. Trong chỉ
đạo, Bộ GD-ĐT yêu cầu các sở GD-ĐT chỉ đạo các trường THPT hoàn thành
chương trình lớp 12 THPT theo đúng kế hoạch của các sở GD-ĐT, phù hợp với
hướng dẫn khung kế hoạch thời gian năm học 2011-2012 và hướng dẫn thực
hiện điều chỉnh nội dung dạy học của bộ; tuyệt đối không được cắt xén chương
trình đã quy định. Việc giảm thời lượng học một số môn được cho là môn phụ là
trái với chủ trương của bộ.
Về việc thi thử, trong quá trình dạy học và ôn tập cho học sinh, nhà trường, giáo
viên chủ nhiệm, các giáo viên bộ môn cần chú trọng khâu thu nhận thông tin
phản hồi về những thuận lợi, khó khăn và kết quả ôn tập của học sinh. Việc tổ
chức kiểm tra với những yêu cầu về đề và cách thức coi, chấm bài giống như
một kỳ thi thử tốt nghiệp cũng có thể giúp nhà trường và giáo viên biết mức độ
kiến thức, kỹ năng học sinh đã đạt được sau một thời gian ôn tập, đồng thời giúp
học sinh làm quen với cách phân tích đề thi, cách làm bài thi và tâm lý thi cử.
Tuy nhiên, chỉ nên tổ chức một lần, tránh gây tâm lý nặng nề, tốn kém thời gian,
sức lực giáo viên và học sinh.



Thi tốt nghiệp THPT môn Lịch Sử: Hỏi gì trả
lời đó
Khi nhận được đề thi thì các em phải đọc kỹ, phân tích xem đề
thi hỏi cái gì để tránh lạc đề, nhầm đề. Đặc biệt đề thi hỏi gì các
em trả lời đó, không lan man, dài dòng sẽ không được điểm.
Học theo từng mảng sự kiện
Theo cô Dung, cách học Lịch sử dễ hiểu và nhớ nhất là học sinh phải học theo
hệ thống và làm đề cương chi tiết, không học vẹt, học tủ. Khi ôn các em học phải
theo dàn ý từng vấn đề, chứ không học rải rác vào vấn đề ngay. Mỗi mảng vấn
đề, các em học theo các ý lớn và từ ý lớn các em phát triển ra.
Ví dụ: Phần Lịch sử Việt Nam, các em chia phần riêng ra để học như phần
Nguyễn Ái Quốc; Đảng Cộng sản, Thành lập Đảng; Cách mạng tháng Tám;
Kháng chiến chống Pháp; Kháng chiến chống Mỹ.
Cụ thể, trong Kháng chiến chống Pháp, các em lại chia nhỏ các chiến lược ra để
học, trong các chiến lược đó, các em lại tiếp tục chia các ý nhỏ để học... Các em
nên học theo cách đó vì khi đọc đề thi, các em sẽ biết ngay phần này nằm chỗ
nào trong chương trình Lịch sử.
Với phần Kháng chiến chống Pháp, phần đầu tiên là toàn quốc kháng chiến, các
em nên chia phần để học như chiến dịch lớn Việt Bắc Thu - Đông (1947), Chiến
dịch biên giới 1950, sau đó chiến dịch Đông - Xuân 1953 - 1954 và đỉnh cao là
chiến thắng Điện Biên Phủ..., sau chiến thắng Điện Biên Phủ là ký Hiệp Định
Giơnevơ và kết thúc cuộc kháng chiến.
Hỏi gì trả lời đó
Để đạt điểm cao môn thi Lịch sử, khi nhận đề, các em đọc kỹ câu hỏi và trả lời
thẳng vào vấn đề, để tránh lạc đề, nhầm đề, không tràn lan giới thiệu nhiều, dài
dòng, mất rất nhiều thời gian lại không có điểm.
Ví dụ: Đề bài hỏi về Chiến dịch Việt Bắc Thu - Đông 1947 thì học sinh phải nhớ
trong chiến dịch này thì âm mưu của Pháp là gì? Ta đối phó thế nào, chủ trương
của Đảng ra làm sao? Rồi diễn biến cuộc tiến công của nó và phản công lại của
ta..., kết quả, ý nghĩa.

Ngoài ra, các em nên tham khảo các đề thi và đáp án cho điểm các năm trước
hình dung ra được đề thi ra như thế nào và xem barem điểm cho ra sao để rút
kinh nghiệm.


Tuy nhiên, để đạt điểm cao việc đầu tiên các em phải có kiến thức, phải học
thuộc bài. Đề thi tốt nghiệp không bao giờ ra kiểu lắt léo, đánh đố học sinh. Nên
đề thi yêu cầu các em trình bày thì các em trình bày, yêu cầu phân tích thì các
em phân tích, không được nhầm lẫn câu hỏi sẽ không được điểm.

Cuối cùng
Để
Làm bài tốt các môn thi tốt nghiệp 2014
Các giáo viên đã đưa ra những lời khuyên cần thiết cho các thí
sinh khi chỉ còn vài hôm nữa kỳ thi tốt nghiệp THPT với nhiều
điểm mới sẽ diễn ra.
Toán: Không nên có lời giải quá vắn tắt

Trong quá trình làm bài, phải kiểm soát được những gì mình viết ra, hết sức tập
trung để tính toán và biến đổi cho đúng, phải lập luận và giải thích trong từng
bước làm. Không nên có lời giải quá vắn tắt vì có thể không phù hợp với đáp án.
Nên trình bày các bước trung gian thật cụ thể để khi dư giờ có thể dò lại dễ dàng
hơn. Đặt điều kiện (nếu có) để bài toán tồn tại. Cuối mỗi bài toán phải nêu kết
luận.
Thí sinh cần tránh một số sai sót như: Không đọc kỹ đề và thay thế sai dữ liệu,
hiểu lạc đề nên đặt vấn đề sai. Sử dụng không đúng hoặc tùy tiện các ký hiệu,
khái niệm toán học. Khi giải phương trình quên đặt điều kiện để phép biến đổi là
tương đương.
Trần Văn Toàn (Tổ trưởng Tổ toán Trường THPT Marie Curie, Q.3, TP.HCM)
Ngữ văn: Tránh dài dòng, lan man

Ở phần đọc hiểu, học sinh sẽ phải trả lời một số câu hỏi như xác định nội dung,
thông tin chính, ý nghĩa văn bản, chi tiết, tên văn bản; ý nghĩa của từ ngữ, cú
pháp; các biện pháp nghệ thuật tiêu biểu và tác dụng của chúng... Với văn bản
văn học, đặc biệt là văn bản có tính chất hư cấu, học sinh cần phân biệt nội dung
cụ thể của văn bản với ý nghĩa toát ra từ nội dung đó... Một điểm mới trong yêu
cầu ở phần đọc hiểu năm nay là tích hợp kiểm tra kiến thức tiếng Việt vào việc
đọc hiểu văn bản. Với mỗi câu hỏi, học sinh cần chú ý trả lời ngắn gọn, rõ ràng,
tránh dài dòng, lan man.
Để làm tốt phần làm văn với cả hai dạng bài nghị luận xã hội và nghị luận văn
học, thí sinh cần biết cách viết ngắn gọn, chặt chẽ mà thuyết phục để đảm bảo
được yêu cầu. Học sinh phải xác định một lập luận chặt chẽ thuyết phục với hệ
thống ý: vài hiểu biết về tác giả, tác phẩm - xuất xứ nhân vật, những đặc điểm


nổi bật ở nhân vật, nghệ thuật xây dựng nhân vật, đánh giá ý nghĩa của nhân vật
trong việc thể hiện chủ đề tác phẩm; ý nghĩa của nhân vật đối với bản thân...
Thạc sĩ Triệu Thị Huệ (Tổ trưởng Tổ ngữ văn Trường THPT Lê Hồng Phong,
TP.HCM)
Vật lý: Đọc thật kỹ từng câu hỏi
Khi làm bài, thí sinh cần lưu ý: Đọc kỹ câu hỏi, không bỏ sót từ nào của phần
dẫn để nắm thật chắc nội dung mà đề bài yêu cầu trả lời. Cân nhắc để chọn
đúng phương án trả lời. Chú ý tới các từ phủ định như “không”, “không đúng”,
“sai”... Phải đọc và xem xét hết cả 4 phương án trình bày a, b, c, d trong phần
lựa chọn, tránh những trường hợp vừa đọc được một phương án đã cảm thấy
đúng ngay và không đọc các phương án tiếp theo. Tạm bỏ qua những câu khó
để chuyển sang làm những câu khác “dễ hơn”, rồi quay lại làm những câu đó
sau. Không bỏ sót hoặc để trống bất kỳ câu nào.
Võ Lý Văn Long (Trường THPT Vĩnh Viễn, Q.Tân Phú, TP.HCM)
Hóa học: Bám sát nội dung trong sách giáo khoa cơ bản
Trước ngày thi, thí sinh cần bám sát nội dung trong sách giáo khoa cơ bản,

chuẩn kiến thức và kỹ năng; đặc biệt lưu ý phần tên gọi và công thức các chất,
các phản ứng cơ bản, các câu in chữ màu xanh trong sách giáo khoa. Các em
giỏi hơn muốn đạt điểm tối đa phải đọc kỹ phần cấu tạo, lý tính, ứng dụng vì đây
là những câu thường dễ mất điểm.
Vào phòng thi, thí sinh để giấy tờ cần thiết, bút chì 2B (không nên dùng bút chì
kim), gôm, máy tính, đồng hồ lên bàn để xem giờ làm bài... Khi nhận giấy làm bài
trắc nghiệm, điền đầy đủ thông tin cần thiết; lưu ý tất cả phần viết đều bằng bút
mực và phần tô bằng bút chì. Kiểm thật kỹ từng chữ số trong số báo danh (chú ý
nếu có số 0 đầu tiên cũng phải tô vì thí sinh hay tô nhầm số 1 vào vị trí số 0).
Cần chú ý tới câu hỏi có ý phủ định như “không”, “sai”..., kiểm tra lại các câu có
nội dung tổng hợp.
Trần Đình Hương (Tổ trưởng Tổ hóa học Trường THPT Bùi Thị Xuân, Q.1,
TP.HCM)
Lịch sử: Làm đề cương chi tiết
Khi tiếp xúc với đề thi, thí sinh phải đọc thật kỹ, hiểu yêu cầu cụ thể của đề, tránh
tình trạng lạc đề, đảm bảo bài làm cân đối, đầy đủ, tránh tình trạng lúc đầu làm
quá nhiều chi tiết không cần thiết, càng về sau càng ngắn vì không còn đủ thời
gian.
Viết ra giấy nháp nội dung cơ bản của đề thi dưới dạng đề cương chi tiết, trên cơ


sở đó, vận dụng kiến thức để làm bài. Ðề cương trả lời câu hỏi nên làm ngắn
gọn và sắp xếp hợp lý theo một cấu trúc rõ ràng có luận đề, luận điểm, luận cứ,
luận chứng...
Thạc sĩ Nguyễn Văn Tiến (Trường THPT Vĩnh Viễn, Q.Tân Phú, TP.HCM)
Địa lý: Lưu ý khi vẽ biểu đồ
Khi nhận đề thi, thấy câu hỏi có một trong các từ “tỷ lệ”, “tỷ trọng”, “cơ cấu”, “kết
cấu” (nếu bảng số liệu là số thường thì thí sinh chuyển sang đơn vị %) dưới
hoặc bằng 3 năm thì vẽ biểu đồ tròn; trên 3 năm vẽ biểu đồ miền. Khi câu hỏi có
1 trong 3 từ “tăng trưởng”, “phát triển”, “biến động” thì vẽ đồ thị. Bảng số liệu có

2 đơn vị, trên 3 năm thì vẽ biểu đồ kết hợp (2 trục tung). Sau khi vẽ xong cần ghi
đầy đủ các yếu tố trên biểu đồ, chú thích, ký hiệu, đơn vị.
Lưu ý phần mục lục ở trang 31 trong Atlat sẽ giúp thí sinh tìm nhanh vấn đề cần
trả lời theo câu hỏi.
Châu Thị Nguyệt (nguyên Tổ trưởng Tổ địa lý Trường THPT chuyên Lê Hồng
Phong, TP.HCM)
Môn Sinh: Dùng phương pháp loại suy chọn đáp án
Trong đề thi thường có khoảng 20% câu hỏi nhằm phát huy khả năng vận dụng
kiến thức tổng hợp, đòi hỏi khả năng tư duy và linh động sáng tạo để hạn chế
giải quyết vấn đề máy móc, rập khuôn... Đây là những câu hỏi khó.
Với hình thức thi trắc nghiệm, học sinh vẫn có nhiều cơ hội để kiếm điểm trên
trung bình so với hình thức thi tự luận. Ví dụ các em có thể dùng phương pháp
suy để loại trừ những đáp án sai, còn lại là đáp án đúng.
Phạm Thu Hằng (Trường THPT Tân Bình, Q.Tân Phú, TP.HCM)
Tiếng Anh: Đảm bảo tốt phần trắc nghiệm trước
Đề thi có 80% câu hỏi trắc nghiệm như các năm trước và 20% là tự luận. Trước
tiên, thí sinh phải đảm bảo làm tốt các câu trắc nghiệm sau đó mới làm các phần
khác. Khi viết luận, không phải tiếng Việt nghĩ sao thì viết tiếng Anh như vậy mà
phải đảm bảo đúng ngữ pháp.
Thông thường, học sinh không đạt điểm cao do làm không tốt phần điền từ vào
đoạn văn và đoạn văn đọc hiểu. Đây là 2 nội dung mất nhiều thời gian nhất trong
đề thi. Vì vậy, học sinh phải chuẩn bị vốn từ vựng phong phú.



×