Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Biến động tỷ giá ở việt nam và những tác động đến sự tăng trưởng kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (168.37 KB, 21 trang )

PHẦN 1
LỜI MỞ ĐẦU
Từ ngàn đời xưa, cha ông ta có nghĩ ra các phương thức để trao đổi hàng hoá
lấy hàng hoá thay vì sử dụng tiền làm vật trung gian như ngày nay. Nhưng theo
thời gian, phương thức trao đổi thông thường đó không còn phổ biến nữa mà dần
được quy đổi ra một vật trung gian gọi là tìên. Tất cả mọi hoạt động buôn bán đều
được quy đổi theo tỷ giá của tiền và cho đến nay cũng chưa có phương thức nào có
thể thay thế được. Trong thời đại công nghiệp hoá hiện đại hoá ngày nay, các quốc
gia trao đổi thông thương buôn bán với nhau, và tỷ giá là một biến số kinh tế vĩ mô
quan trọng có tác động tới nhiều mặt hoạt động của nền kinh tế. Nó ra đời từ hoạt
động ngoại thương và quy trở lại tác động lên hoạt động xuất nhập khẩu và cán cân
thương mại của mỗi quốc gia. Xây dựng thành công một chính sách điều hành tỷ
giá thích hợp là một vấn đề vô cùng khó khăn và phức tạp.
Là những học viên học và nghiên cứu về quản trị nên chúng ta cần có những
hiểu biết nhất định về tỷ giá, luôn luôn theo sát diễn biến của tỷ giá cũng chính là
việc theo dõi sự phát triển của nền kinh tế. Tỷ giá tăng lên thì có những ảnh hưởng
như thế là và tại sao, ngược lại khi giảm thì sẽ xảy ra những gì nguyên nhân…để có
thể đưa ra những dự báo cho bản thân hoặc xa hơn là cho kinh tế của nước nhà.
Chính vì em đã tìm hiểu và nghiên cứu về đề tài “ Biến động tỷ giá ở Việt
Nam và những tác động đến sự tăng trưởng kinh tế”.
Kết cấu bài tiểu luận gồm 3 phần :
Phần 1 : Lời mở đầu.
Phần 2 : Thực trạng những biến động tỷ giá ở Việt Nam và những tác động
đến sự tăng trưởng kinh tế.
Phần 3 : Kết luận.


PHẦN 2 :THỰC TRẠNG NHỮNG BIẾN ĐỘNG TỶ GIÁ Ở
VIỆT NAM VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG ĐẾN TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ.
1. Khái niệm tỷ giá.


1.1 Khái niệm.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế thế giới, vai trò của thương mại quốc tế
ngày càng được nâng cao, nhất là trong giai đoạn hiện nay khi mà phân công lao
động quốc tế đã đạt đến giai đoạn cao và mang tính toàn cầu, thương mại quốc tế
trở thành vấn đề mang tính chất sống còn đối với mỗi quốc gia và là mối quan tâm
hàng đầu của mọi tổ chức kinh tế trên thế giới. Các quan hệ thương mại , tín dụng ,
đầu tư, khoa học kỹ thuật ... đều có giá cả , biểu hiện bằng những đồng tiền khác
nhau của những nước khác nhau. Do hệ thống tiền tệ và chính sách giá cả mỗi nước
một khác, nên việc thanh toán giữa các nước đòi hỏi phải so sánh giá trị , sức mua
của các đồng tiền khác nhau, và thanh toán với nhau không theo giá cả của từng
nước mà theo giá cả quốc tế( còn gọi là giá ngoại thương). Từ đó xuất hiện khái
niệm tỷ giá hối đoái.
Như vậy : Tỷ giá hồi đoái là sự so sánh về mặt giá cả giữa hai đồng tiền của
hai nước khác nhau. Cũng có thể gọi tỷ giá hồi đoái là giá của một đồng tiền này
tính bằng giá của một đồng tiền khác.
Trên phương diện kinh tế, tỷ giá hối đoái là một phạm trù kinh tế vốn có cuả
nền sản xuất hàng hoá, nã cho thấy sức mua đối ngoại thực tế của một đồng tiền
trên thị trường quốc tế.
Tuy nhiên, không phải đồng tiền quốc gia nào cũng được nhận để thanh toán
bên ngoài quê hương của nó. Để chuyển đổi ra nội tệ của nước nào đó, nó phải
được ngân hàng nước đó thu mua. Trên thế giới hiện nay có mét sè ngoại tệ mạnh
được sử dụng rộng rãi, phổ biến như: USD(Mỹ), JPY(Nhật), Bảng (Anh)...
1.2 Lịch sử hình thành và phát triển của tỷ giá hối đoái có 4 thời kỳ :


1. Thời kỳ lưu thông tiền vàng và tiền đúc .
2. Chế độ bản vị vàng và vàng - hối đoái .
3. Chế độ tỷ giá cố định - chế độ bản vị USD.
4. Chế độ bản vị SDR (Special Drawing Right).


2. Thực trạng về vấn đề tỷ giá ở Việt Nam
Số liệu thống kê cho thấy, từ tháng 6/2008 đến nay, Ngân hàng nhà nước đã 6
lần điều chỉnh tỷ giá bình quân lên ngân hàng, song mức độ điều chỉnh không lớn
như năm 2011, cụ thể các lần điều chỉnh như sau:
Ngày 11/6/2008 điều chỉnh lên 16.461VNĐ/USD (+1,99%)
Ngày 25/12/2008, điều chỉnh lên 16.989 VNĐ/USD (+3%)
Ngày 26/12/2009, điều chỉnh lên 17.961 VNĐ/USD (+5,44%)
Ngày 11/2/2010, điều chỉnh lên 18.544 VNĐ/USD (+3,36%)
Ngày 18/8/2010, điều chỉnh lên 18.932 VNĐ/USD (+2.09%)
Ngày 11/1/2011, điều chỉnh lên 20.693 VNĐ/USD (+9.3%)
Ngày 7/6/2012, điều chỉnh lên 20.828 VNĐ/USD (+0,65%)
Ngày 20/12/2012, điều chỉnh lên 20.840 VNĐ/USD ( +0,58%)
Ngày 28/06/2013, điều chỉnh lên 21.036 VNĐ/USD ( +0,94%)
Gần đây nhất là ngày 15/10/2014 , điều chỉnh lên 21.270 VNĐ/USD (+1,11%)
Việc điều chỉnh tỷ giá các năm cho thấy nền kinh tế trong giai đoạn những
năm 2008-2013 có nhiều biến động. Tuy nhiên ta có thể nhận đấy ở đây đã có
nhiều tác động tích cực đến nền kinh tế, cụ thể nó có thể đưa tỷ giá chính thức sát
với tỷ giá thị trường, tổ chức kinh tế và cá nhân sẽ bán ngoại tệ cho ngân hàng
nhiều hơn, giao dịch ngoại tệ sẽ dễ dáng hơn, tính minh bạch của thị trường cao


hơn, sẽ không còn cảnh tổ chức kinh tế và ngân hàng mua bán chui ngoại tệ, gây ra
nhiều hệ quả xấu cho cả các ngân hàng và khách hàng.
Mặc dù động thái của ngân hàng nhà nước được nhiều chuyên gia đánh giá
cao. Tuy nhiên, việc duy trì và giữ tỷ giá chính thức sát với tỷ giá thị trường là vấn
đề rất khó cho cơ quan quản lý, khi mà tỷ giá biến động do nhiều nguyên nhân như
lạm phát cao, thâm hụt cán cân thương mại lớn, lãi suất thay đổi liên tục và đặc biệt
là việc các tổ chức kinh tế, cá nhân đầu cơ nắm giữ ngoại tệ, làm cho cân đối cung
cầu ngoại tệ bị mất cân đối nghiêm trọng, gây áp lực lớn lên tỷ giá.


3. Tác động của tỷ giá đến nền kinh tế:
3.1.Diễn biến của tỷ giá đối với lạm phát.
Trên lý thuyết, khi một nước lạm phát, sức mua đồng nội tệ giảm, tỷ giá hồi
đoái không đổi, hàng hóa dịch vụ trong nước đắt hơn trên thị trường nước ngoài.
Theo quy luật cung cầu, người dân trong nước sẽ chuyển sang dùng hàng ngoại
nhiều hơn vì giá rẻ hơn. Điều tất yếu xảy ra là nhập khẩu sẽ tăng, kéo theo cầu
ngoại tệ tăng, làm cho tỷ giá hồi đoái cũng tăng. Tương tự vì tăng giá, cư dân nước
ngoài sẽ ít dùng hàng nhập khẩu hơn. Hoạt động xuất khẩu giảm sút, làm cho cung
ngoại tệ trên thị trường giảm, đây cũng là nguyên nhân làm cho tỷ giá hối đoái
tăng. Như vậy lạm phát ảnh hưởng đến cả cung và cầu ngoại tệ theo hướng tăng giá
ngoại tệ, lạm phát làm đồng tiền mất giá, người dân sẽ chuyển sang nắm giữ các tài
ản nước ngoài nhiều hơn, cầu ngoại tệ gia tăng, tỷ giá hồi đoái tăng. Trong trường
hợp các quốc gia đều có lạm phát thì những tác động trên sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ
lạm phát tương đối giữa các quốc gia. Quốc gia nào có tỷ lệ lạm phát cao hơn, đồng
nội tệ quốc gia đó sẽ mất giá một cách tương đối và tỷ gia hối đoái tăng.
Theo số liệu Tổng cục Thống kê trong giai đoạn từ 2008 - 2013 lạm phát tại
Việt Nam diễn biến tăng, giảm thất thường không theo một quy luật nhất định. Lý
thuyết và thực tế đều đã chứng minh giữa lạm phát và tỷ giá có mối quan hệ chặt
chẽ với nhau. Do đó, song hành cùng sự biến động bất thường của lạm phát luôn là
sự thay đổi của tỷ giá hối đoái.


( Bảng 1 : Bảng diễn biến tình hình lạm phát giai đoạn 2008- 2013)
Năm
Tăng trưởng
Lạm phát
M2
Tín dụng
2008
6,31

19,9
20,31
25,43
2009
5,32
6,5
28,99
37,53
2010
6,78
11,75
33,3
31,19
2011
5,9
21,3
12,4
14
2012
5,03
6,81
20
7
2013
5,4
6,04
Năm 2010, mức lạm phát 2 con số của Việt Nam chính thức được lặp lại kể từ
năm 2008. Con số 11,75% tuy không quá bất ngờ nhưng vẫn vượt so với chỉ tiêu
được Quốc hội đề ra hồi đầu năm gần 5%. Một vài lý do dẫn đến việc lạm phát tăng
năm 2010 thứ nhất do việc điều chỉnh giá điện, thứ 2 do xu hướng giá các loại hàng

hóa cơ bản trên thế giới thay đổi, thứ 3 do tốc độ cung ứng tiền và việc điều chỉnh
nền kinh tế vĩ mô.
Giai đoạn 2010-2011 cho thấy, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ động
hơn so với những năm trước. Cụ thể, NHNN đã tiến trước một bước (tháng 8/2010)
khi các áp lực thị trường còn tương đối thấp. Tiếp đó, tiến hành phá giá một lần với
mức độ lớn hơn vào tháng 2/2011. Những động thái này cho thấy NHNN đã bớt
cứng nhắc và đã linh hoạt hơn trong điều hành. Tuy nhiên, để tiến được những
bước đó, NHNN vẫn sử dụng rất nhiều biện pháp hành chính thay vì tạo môi trường
cho thị trường tự vận hành.
Đầu năm 2012, NHNN đã phát đi tín hiệu, tỷ giá VND/USD sẽ không biến
động quá 3% trong cả năm. Ngay lập tức các ngân hàng thương mại (NHTM) đã
bán USD cho NHNN để thu về VND, vì lúc đó lãi suất VND đang cao hơn lãi suất
USD rất nhiều. Tiếp theo đó, NHNN cũng đã chỉ đạo hạ lãi suất huy động đối với
VND, các NHTM đã vay VND trên thị trường liên ngân hàng nhằm tránh rủi ro về
tỷ giá trong dịp cuối năm khi nhu cầu về ngoại tệ tăng. Đến thời điểm cuối năm
2012, tỷ giá không có biến động bất thường và được giữ ở mức ổn định.
Do tổng phương tiện thanh toán trong năm 2013 được kiểm soát chặt chẽ, lạm
phát phần nào được giữ ổn định. Đây cũng là cơ sở níu tỷ giá hối đoái giữa
VND/USD trong 10 tháng đầu năm 2013, chỉ tăng 1,32% so với thời điểm cuối


năm 2013. Dự kiến, nếu NHNN không phá giá Việt Nam đồng trong dịp cuối năm
thì mức tăng của USD so với VND trong cả năm 2013 cũng chỉ ở mức 1,5%.
Về tỷ giá, từ năm 2011, NHNN đã cố gắng giữ tỷ giá cơ bản ổn định trong bối
cảnh nhập siêu giảm mạnh, xuất khẩu tăng mạnh. Điều này cho thấy, không chỉ phá
giá đồng nội tệ mới khuyến khích được xuất khẩu. Trong năm 2012-2013, NHNN
đã chủ động phá giá 1% nhằm khuyến khích xuất khẩu, phần còn lại để thị trường
điều tiết (chuyển dần sang cơ chế linh động). Cán cân thanh toán, cán cân vãng lai
của Việt Nam tiếp tục thặng dư; Luồng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt
Nam ổn định; Lượng kiều hối tiếp tục tăng chính là những điều kiện rất thuận lợi

để NHNN tiếp tục duy trì chính sách ổn định tỷ giá, khuyến khích sản xuất trong
nước cũng như duy trì lòng tin của người dân vào VND.

3.2. Tỷ giá với cán cân thương mại.
Cán cân thương mại của một nước là chênh lệch giữa kim ngạch xuất khẩu và
kim ngạch nhập khẩu. Một nền kinh tế khi xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sẽ thu
được ngoại tệ. Để tiếp tục công việc kinh doanh, các nhà xuất khẩu phải bán ngoại
tệ lấy nội tệ, mua hàng hóa dịch vụ xuất khẩu ra nước ngoài. Trên thị trường cung
ngoại tệ sẽ tăng, làm tỷ giá hồi đoái giảm. Ngược lại khi nhập khẩu hàng hóa dịch
vụ, các nhà nhập khẩu cần ngoại tệ để thanh toán cho đối tác và đi mua ngoại tệ
trên thị trường. Hành động này làm cho cầu ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái tăng. Tác
động của hai hiện tượng trên là ngược chiều trong việc hình thành tỷ giá hối đoái.
Tỷ giá hối đoái cuối cùng sẽ tăng hay giảm phụ thuộc vào mức độ thặng dư thương
mại, cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, tỷ giá hồi đoái giảm, đồng nội tệ lên giá.
Khi thâm hụt thương mại, tỷ giá hối đoái sẽ tăng, đồng nội tệ giảm giá và đây là
trường hợp của nước ta hiện nay.

(Bảng 2: Diến biến năm 2008-2012 / Nguồn IMF country Report VietNam)
2008
2009
2010
2011
2012
Cán cân vãng lai ( tỷ USD)
-10,79
-6,1
-4,3
-0,7
2,84
Cán cân vốn ( tỷ USD)

12,34
6,76
5,63
8,6
9,34


Cán cân tổng thể ( tỷ USD)
0,47
-8,88
-1,77
1,6
7,54
Tỷ giá ( cuối năm VNĐ)
16,977 17,941 18,932 21,043 21,300
Trước đây cán cân tổng thể đạt kỷ lục thặng dư vào năm 2007, năm đầu tiên
Việt Nam ra nhập WTO( Tổ chức thương mại thế giới ). Nhưng sau đó thặng dư
cán cân thanh toán giảm mạnh vào năm 2008, khi CPI lên cao nhất kể từ năm
1992cộng với khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế thế giới. Cán cân tổng thể
thâm hụt vào năm 2009 đến năm 2011 cán cân tổng thể mới thặng dư trở lại với 2,5
tỷ USD. Mức thặng dư ở năm 2012 cao hơn nhiều so với những dự báo từ đầu năm.
Việc tăng giá với tỷ lệ khá cao gần là 2,102 đồng tương ứng 11,2% vào tháng
2/2011 có thể là một quyết định vô cùng khó khăn và ảnh hưởng không út đến nền
kinh tế, song điều này là cần thiết và bất khả kháng trong tình hình hiện nay nhằm
làm cho nhập khẩu trở nên đắt đỏ hơn. Quá trình xuất khẩu có thể thuận lợi hơn và
qua đó, có thể giảm nhập siêu ở mức nhất định. Xuất khẩu có lợi nếu tỷ lệ giá trị
gia tăng của sản phẩm cao (như gạo, hải sản) trong khi tác động thúc đẩy hạn chế
hơn đối với các sản phẩm lắp ráp điện tử vì tỷ lệ hàng nhập lên đến 90% giá thành.
Tuy nhiên những hệ lụy đối với mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô thì cần phải bàn
thêm.

Bảng 3 : Bảng xét về cán cân thương mại năm 2008- 2012
( Theo số liệu từ tổng cục Hải Quan – đơn vị tỷ USD )
Năm
Tổng kim ngách XNK
Xuất khẩu
Nhập khẩu
2008
143,4
62,69
80,71
2009
127,05
2010
157
72,19
84,8
2011
203,66
96,91
106,75
2012
228,37
114,57
113,79
Nhận xét qua các năm :
Năm 2008, cán cân thương mại hóa thâm hụt 12,85 tỷ USD.
Năm 2009, nhập siêu là 12,61 tỷ USD, bằng 10,2% tổng kim ngạch xuất khẩu
ở Việt Nam.
Năm 2011, cán cân thương mại thâm hụt 9,84 tỷ USD, bằng 10,2 tổng kim
ngạch xuất khẩu ở Việt Nam.

Năm 2012, cán cân thương mại hóa cả nước xuất siêu 780 triệu USD ( trong
khi năm 2011 nhập siêu 9,84 tỷ USD ).


Tính từ đầu năm đến hết tháng 9 năm 2013 tổng trị giá xuất khẩu hàng hóa
của Việt Nam đạt 192,53 tỷ USD, tăng 15,3% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó
xuất khẩu đạt 96,27 tỷ USD tăng 15,5% và nhập khẩu 96,26 tỷ USD tăng 15,1%.
Kết của là cán cân thương mại hàng hóa của Việt Nam khá cân bằng tính trong 3
quý năm 2013.
Vào năm 2010, mức nhập khẩu lên đến 84,8 tỷ USD trên GDP 102 tỷ chiếm
82%GDP, trong đó chỉ có 10% hàng tiêu dùng, 20% là trang thiết bị, máy móc, còn
lại 70% là đầu vào cho các hoạt động kinh tế như xăng dầu, sắt thép, bông sợi,…,
nền kinh tế nước ta quá phụ thuộc vào nhập khẩu và việc điều chỉnh tỷ giá mạnh
như lần này sẽ dẫn đến tăng giá đáng kể các mặt hàng nhập khẩu thiết yếu trên và
qua đó tác động tới giá thành sản phẩm và giá mua của người tiêu dùng. Những mặt
hàng không thuộc loại thiết yếu như mỹ phẩm, ô tô sang trọng có thể giảm nhập
khẩu ở mức độ nhất định, song tỷ lệ các mặt hàng này không quá lớn, trong khi các
nguyên vật liệu cơ bản của nền kinh tế vẫn phải tiếp tục nhập với mức giá nhập
khẩu cao hơn. Người tiêu dùng sẽ phải gánh chịu mức tăng giá, ước tính khoảng
3% từ sự điều chỉnh tỷ giá này. Giá một số mặt hàng đã tăng lập tức như ga, ô tô,
và khó tránh khỏi việc tăng giá các mặt hàng khác trong thời gian tới do giá đầu
vào nhập khẩu tăng lên đến khoảng 10%. Cho nên, tác động của tỷ giá tới cán cân
thương mại không đến mức như nhiều người kỳ vọng.
Ngoài ra việc tăng tỷ giá cũng có những tác động không tốt như: Tạo ra sự đắt
đỏ hơn cho những hàng hóa nhập khẩu và những mặt hàng nhập khẩu này sản xuất
và bán trong nước, nếu sản xuất và bán trong nước nhiều. Về nguyên tắc, các doanh
nghiệp hay cộng tăng tỷ giá vào giá bán như vậy sẽ tạo ra một cái giá mới của mặt
hàng nhập khẩu. Nếu mặt hàng nhập khẩu mà tỷ trọng lớn trong mặt bằng giá xã
hội thì sẽ tạo ra mặt bằng giá mới. Điều này thì chưa ai dám chắc chắn nhưng nó
tác động là điều đương nhiên. Nhưng nó cũng có những tác động tích cực nếu như

mặt hàng đó có giá trị cao, người tiêu dùng sẽ từ chối mua. Lúc đó các doanh
nghiệp sẽ phải chuyển sang sản xuất các mặt hàng khác, các mặt hàng tiêu dùng
trong nước.
Ví dụ như ô tô nhập khẩu, các doanh nghiệp nhập khẩu cộng dồn đẩy giá lên
cao, khách hàng sẽ từ chối và sử dụng ô tô sản xuất trong nước. Điều này tác động


đến việc giảm nhập siêu, thực tế đã chứng minh khi giá xăng dầu tăng cao và thiếu
ngoại tệ nhập khẩu, nhà náy lọc đầu Dung Quất là lựa chọn của khách hàng trong
nước và đến giờ không có hàng để bán. Đợt điều chỉnh lần này hướng đến kích cầu
sản xuất trong nước như một mục tiêu, đây là điểm mới. trong bất kỳ doanh nghiệp
nhập khẩu nào cũng có những dự phòng rủi ro về tỷ giá. Doanh nghiệp nào lơ là
cũng phải dự phòng đến 50% thì mức tăng 9,3% nằm trong mức đó.

3.3. Tỷ giá đối với đầu tư nước ngoài.
Trong quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới, trên nền tảng cơ chế tỷ giá
đã lựa chọn, việc điều hành chính sách tỷ giá theo hướng ngày càng linh hoạt hơn
đã giúp Việt Nam khơi thông các dòng vốn đầu tư. Dòng vốn vào Việt Nam có tác
động thúc đẩy tăng trưởng, nhưng dòng vốn vào quá lớn cũng gây áp lực làm biến
đồng tỷ giá, bất chấp sự can thiệp của NHTW các nhà hoạch định chính sách gặp
khó khăn trong việc cân bằng nhu cầu giữa dòng vốn lớn nhất là vốn FDI với việc
đảm bảo tính cạnh tranh, ổn định tài chính và duy trì lạm phát thấp. Quá trình chu
chuyển các luồng vốn vào Việt Nam tăng mạnh cả về quy mô và tôc độ, cần xác
định rõ liều lượng, lộ trình và thời điểm áp dụng chính sách. Trước hết cần dựa trên
mục tieu kinh tế, cơ chế tỷ giá, các quy định về thể chế, cần xác định được động cơ
và nguyên nhân của luồng vốn vào, cơ cấu luồng vốn, tác động của nó đến nền kinh
tế và hệ thống tài chính quốc gia.
Quá trình này được bắt đầu bằng tự do hóa luồng vốn FDI, đồng thời phải
lành mạnh hóa hệ thống tài chính, xây dựng cơ sở hạ tầng tài chính và giám sát chặt
chẽ thị trường tài chính.

Để xây dựng lộ trình tự do hóa, Việt Nam đã thực hiện mở cửa có giới hạn các
giao dịch vốn, thẩm định kỹ lưỡng các dự án sử dụng vốn nước ngoài, giám sát chặt
chẽ sự chu chuyển của các dòng vốn ngắn hạn và các giao dịch vốn trên thị trường
chứng khoán, đồng thời duy trì một số hạn chế đối với việc chuyển vốn ra nước
ngoài, các khoản vay nước ngoài ngắn hạn được quản lý theo hạn mục số dư chịu
sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý và phải thực hiện chế độ thông tin báo
cáo.


Theo thống đốc ngân hàng nhà nước, tháng 2/2011 là thời điểm thích hợp và
thuận lợi để điều chỉnh tỷ giá do nguồn ngoại hối dồi dào, các khoản vốn đầu tư
trực tiếp, gián tiếp, ODA cũng đang giải ngân tốt,… qua đó, sẽ giúp thị trường
ngoại hối ổn định, không bị xáo trộn.
Thế nhưng, cũng tồn tại một thực tế khác. Đó là từ hơn nửa năm nay, tỷ giá
trên thị trường phi chính thức luôn luôn vượt trần, có khi lên đến 10%. Bên cạnh đó
dòng vốn nước ngoài (FDI,ODA và kiểu hối) tuy lớn nhưng không đủ bù đắp thâm
hụt thương mại cũng như khoản sai số và thiếu sót mà nguyên nhân là do người dân
và doanh nghiệp chuyển danh mục tiền tệ sang vàng và đô la. Kết quả là cán cân
thanh toán luôn bị thâm hụt và dự trữ ngoại hối tụt xuống mức thấp nhất kể từ năm
2005 dù tính theo con số tuyệt đối hay tính theo số tuần nhập khẩu. Như vậy, áp lực
giảm giá đồng tiền tích tụ suốt nhiều tháng qua đã buộc ngân hàng nhà nước phải
buông tỷ giá.
Phá giá giúp giảm gánh nặng chi tiêu cho người nghèo trong cơn bão này, đầu
tư thêm vào các cơ sở giáo dục, y tế công cộng, dịch vụ công,.. là cần thiết song
song với cắt giảm chi tiêu công không hiệu quả.
Mối liên hệ này khá phức tạp. Về nguyên tắc nếu phá giá để đưa tỷ giá về mức
bền vững thì nền kinh tế sẽ ổn định hơn dù trong ngắn hạn hoặc tốc độ tăng trưởng
có thể bị ảnh hưởng. Trong trường hợp này thì đầu tư nước ngoài sẽ tăng vì các nhà
đầu tư được giải tỏa rủi ro tỷ giá trong tương lai. Tuy nhiên nếu phá giá không đủ
mạnh và uy tín của ngân hàng trung ương không cao thì các nhà đầu tư vẫn ngần

ngại.
Trong hoàn cảnh thiếu thốn số liệu và các nghiên cứu nghiêm túc như ở Việt
Nam, việc phá giá chỉ có ý nghĩa đánh tiếng với các nhà đầu tư. Trong lần phá giá
vừa rồi, ngân hàng nhà nước đã đưa ra hai tín hiệu rõ ràng: Phá giá khá mạnh
(9,3%) và chuyển sang chính sách điều hành tỷ giá mèm dẻo hơn. Cả hai tín hiệu
này đánh tiếng cho các nhà đầu tư rằng ổn định vĩ mô sẽ được coi trọng. Một đợt
thắt chặt tiền tệ mới bằng chính sách lãi suất hoặc phi lãi suất sẽ càng củng cố tín
hiệu này.


Cần lưu ý rằng tỷ giá chỉ là một trong những nhân tố gây thiếu hụt thương mại
cao ở Việt Nam. Yếu tố chính vẫn là các dòng tiền từ bên ngoài đổ vào Việt Nam
như FDI,FPI, ODA, kiểu hối và các chính sách thương mại khác. Đợt điều chỉnh tỷ
giá này sẽ thúc đẩy thu hút thêm các dòng vốn đầu tư gián tiếp và giúp khối các nhà
đầu tư nước ngoài tự tin hơn trong việc giải ngân, nhờ sự ổn định tỷ giá và có thể
tiên đoán được trong thời gian tới.
Đối với đầu tư ra nước ngoài, người dân trong nước dùng tiền mua tài sản ở
nước ngoài, có thể là đầu tư trực tiếp (xây dựng nhà máy, thành lập các doanh
nghiệp) hay đầu tư gián tiếp (mua cổ phiếu, trái phiếu,…) Những nhà đầu tư này
muốn thực hiện hoạt động kinh doanh trên cần phải có ngoại tệ. Họ mua ngoại tệ
trên thị trường, luồng vốn ngoại tệ chảy ra nước ngoài, tỷ giá hối đoái sẽ tăng.
Ngược lại một nước nhận đầu tư từ nước ngoài, nguồn vốn ngoại tệ chảy vào trong
nước làm cho cung ngoại tệ tăng, tỷ giá hối đoái giảm. Đầu tư ra nước ngoài ròng
là hiệu số giữa luồng vốn chảy ra và luồng vốn chảy vào một nước. Khi đầu tư ra
nước ngoài ròng dương, luồng vốn chảy vào trong nước nhỏ hơn dòng vốn chảy ra
nước ngoài, tỷ giá hối đoái tăng. Tỷ giá hối đoái sẽ giảm trong trường hợp ngược
lại, đầu tư ra nước ngoài ròng âm. Theo quy luật tối ưu hóa, luồng vốn sẽ chảy tới
nơi nào có lợi nhất, tức là hiệu suất sinh lời cao nhất. Một nền kinh tế sẽ thu hút
được các luồng vốn đến đầu tư nhiều hơn khi nó có môi trường đầu tư thuận lợi,
nền chính trị ổn định, các đầu vào sẵn có với giá rẻ, nguồn lao động dồi dào có tay

nghề, thị trường tiêu thụ rộng lớn, lãi suất cao và sự thông thoáng trong chính sách
thu hít đầu tư nước ngoài của Chính Phủ.
Điều chỉnh tỷ giá lần này là một bước nhằm lành mạnh hóa thị trường ngoại
tệ, giúp tăng tính thanh toán, cân bằng cung cầu ngoại tệ từ đó hỗ trợ việc thực thi
chính sách tiền tệ. Tuy nhiên, kèm theo đó phải là một biện pháp mạnh mẽ, kiên
quyết hạn chế đầ tư công, cơ cấu lại kinh tế theo hướng hiệu quả hơn từ đó tăng
năng suất, giảm chỉ số ICOR hơn nữa,… Những biện pháp như vậy mới làm tăng
giá trị nội tệ nhờ tăng trưởng kinh tế một cách chắc chắn, thực chất. Đó là cách lâu
dài ổn định tỷ giá, ổn định giá trị đồng tiền Việt Nam.
3.4. Lãi suất.


Lãi suất và tỷ giá là hai yếu tố nhạy cảm trong nền kinh tế và là các công cụ
hữu hiệu của chính sách tiền tệ. Lãi suất và tỷ giá luôn có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau, ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động lên các hoạch định của nền kinh tế. Sự
khập khểnh giữa chính sách lãi suất và tỷ giá có thể gây ra những hậu quả bất lợi
như: nội tệ bị mất giá gây nguy cơ lạm phát “chảy máu” ngoại tệ, đầu cơ tiền tệ,
hạn chế nguồn vốn đầu tư nước ngoài…Vì vậy, trong quản lý vĩ mô chính sách lãi
suất và tỷ giá phải được xử lý một cách đồng bộ và phù hợp với thực trạng của nền
kinh tế trong từng thời kỳ nhất định. Điều hành và xử lý mối quan hệ giữa lãi suất
và tỷ giá là một kỹ thuật vi diệu, vì rằng hai biến số này bị tác động bởi nhiều yếu
tố như tình hình xuất, nhập khẩu, lạm phát, đầu tư nước ngoài, chính sách, kinh tế,
tài chính của chính phủ, các yếu tố tâm lý… Trong quá trình vận hành hai biến số
này tác động ngược lại nhằm thúc đẩy hoặc kiềm chế sự phát triển của các yếu tố
trên các yếu tố tác động đến quá trình hình thành và lãi suất và tỷ giá là kết quả
hàng loạt quá trình tương tác khác nhau. Vai trò, phương thức, cường độ của từng
yếu tố lại phụ thuộc vào môi trường, hoàn cảnh cụ thể của mỗi nước và thay đổi
theo từng giai đoạn phát triển. Như vậy, sự thay đổi của lãi suất và tỷ giá tùy thuộc
rất nhiều yếu tố, các yếu tố lại thường đan xen vào nhau và tùy thuộc lẫn nhau ở
một thời điểm cụ thể, tình hình cụ thể, sẽ có yếu tố nổi bật là nguyên nhân làm thay

đổi lãi suất và tỷ giá và cũng có yếu tố trở thành hệ quả của sự thay đổi lãi suất và
tỷ giá. Chính mối quan hệ biện chứng này làm cho việc điều hành và xử lý mối
quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá trở nên khó khăn, phức tạp. Vai trò của lãi suất và tỷ
giá như là những công cụ tích cực trong phát triển kinh tế, đồng thời là những công
cụ kềm hãm của chính sự phát triển ấy, tùy thuộc vào sự khôn ngoan hay vụng về
trong việc sử dụng chúng.
Xét trường hợp VNĐ và USD (các yếu tố khác không đổi):
Khi lựa chọn nắm giữ đồng tiền nội tệ và ngoại tệ, người ta sẽ xem xét mức lãi
suất thực tế của 2 đồng tiền này:
Khi lãi suất của VNĐ cao hơn lãi suất USD người ta sẽ có xu hướng chuyển
từ nắm giữ USD sang nắm giữ VNĐ. Điều này làm cho nhu cầu VNĐ tăng lên, cầu
về USD giảm đi, từ đó đồng USD sẽ giảm đi so với VNĐ, hay tỷ giá giảm tới một


mức mà cung cầu USD-VNĐ trở nên cân bằng. Khi đó lãi suất thực tế của VNĐ và
USD tương đương nhau (điều kiện ngang bằng lãi suất và không tính tới lạm phát)
Khi có ảnh hưởng của lạm phát, mặc dù lãi suất danh nghĩa tăng, nhưng lãi
suất thực tế giảm, lúc này ngược lại, VNĐ sẽ giảm giá so với USD, dẫn tới tỷ giá
tăng. Ngược lại khi đồng USD tăng giá, để tạo cân bằng trên thị trường ngoại hối,
ngân hàng trung ương sẽ chủ động tăng lãi suất VNĐ thông qua đẩy mạnh lượng
cung ngoại tệ ra nền kinh tế đồng thời rút bớt đồng nội tệ về. Điều này làm cho
cung cầu ngoại hối trở nên cân bằng.
Ở nước ta hiện nay, lãi suất huy động bằng VNĐ khó có thể giảm xuống do
tác động của việc tăng giá VNĐ/USD và lãi suất tiền gửi USD do tác động của các
hành vi và lực đẩy đưa đến ngang bằng lãi suất giữa lãi suất VNĐ và lãi suất USD
trong nền kinh tế Việt Nam đang bị đo la hóa trầm trọng:
Lãi suất VNĐ = lãi suất USD + độ điều chỉnh kỳ vọng (%) của tỷ giá
VNĐ/USD.
Từ năm 2008, trước tình hình suy thoái kinh tế quốc tế ảnh hưởng mạnh đến
Việt Nam , các dòng vốn vào VIệt Nam bị hạn chế, ngân hàng nhà nước đã chủ

động điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng để tăng tình thanh khoản trên thị trường
ngoại tệ . Tính đến ngày 26/12/2008 ngân hàng nhà nước Việt Nam đã điều chỉnh
biên độ tỷ giá từ 2% lên 5%, điều chỉnh tỷ giá ngoại tệ liên ngân hàng 5,16%.
Ngày 26/11/2009, ngân hàng nhà nước hạ biên độ tỷ giá từ mức 5% xuống 3%
dồng thời nâng tỷ giá liên ngân hàng thêm 5,44% lên đến 17.961 VND/USD.
Ngày 10/02/2010, ngân hàng nhà nước quyết định điều chỉnh tỷ giá liên ngân
hàng từ mức 17.941 VND/USD lên mức 18.544 VND/USD, đồng thời ấn định lãi
suất tiền gửi tối đa bằng đôla Mỹ của các tổ chức kinh tế tại ngân hàng ở mức 1%.
Các quyết định này là nhằm mục đích cân đối cung cầu ngoại tệ, tạo điều kiện kiểm
soát cung lên khuyến khích xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu góp phần ổn định kinh tế
vĩ mô.


Ngày 11/02/2011, lấy ví dụ việc điều chỉnh tỷ giá 9.3% của NHNN ngày
11/2/2011 (thay đổi tỷ giá liên ngân hàng từ 18.932 đồng đổi một đô la lên 20.693
đồng) ta có thể thấy công thức trên dự đoán khá chính xác mức thay đổi của tỷ giá
từ vài tháng qua:
Lãi suất huy động VNĐ (14%) = lãi suất USD (4-5%)+ điều chỉnh tỷ giá xảy
ra (9.3%).
Một cách gián tiếp ta cũng có thể hiểu rằng lãi suất VNĐ phụ thuộc lãi suất
USD và kỳ vọng về mức lạm phát vì khi lạm phát cao hơn có nghĩa là VNĐ sẽ phải
mất giá và USD tăng giá. Lạm phát ở mức 11.75% ở Việt Nam năm 2010 cao hơn
lạm phát ở Mỹ khoảng 10% và điều chỉnh tỷ giá 9.3% là suýt soát mức khác nhau
về lạm phát.
Lãi suất đang được ngân hàng nhà nước định hướng giảm, nhằm khuyến khích
các doanh nghiệp vay với mức lãi suất thấp hơn để đảm bảo tăng trưởng kinh tế.
Tuy nhiên lãi suất huy động VNĐ khó có thể giảm xuống do tác động của việc tăng
tỷ giá VNĐ/USD và lãi suất tiền gửi USD, do luật ngang bằng lãi suất giữa lãi suất
cho VNĐ và lãi suất cho USD. Khi NHNN muốn tăng cung tiền và tín dụng nhanh
chóng như mấy tháng vừa qua để làm giảm lãi suất VNĐ, tác dụng thực tế lại

ngược lại, vì tăng tiền lại làm tăng kỳ vọng lạm phát cũng như gây thêm áp lực lên
tỷ giá trên thị trường tự do. Ngoài ra, lãi suất huy động trên USD lại tăng trong
những tháng đầu năm 2011 do nhu cầu ngoại tệ của nền kinh tế, đo la hóa đang rất
cao, kết quả là lãi suất huy động trên VNĐ vẫn khó giảm xuống ở hiện tại.
Ngoài ra, việc sử dụng vốn không hiệu quả và các khó khăn tài chính của các
tập đoàn lớn trong thời gian qua làm suy giảm lòng tin của nhà đầu tư trong nước
và ngoài nước. Điều này cũng làm cho lãi suất trái phiếu khó điểu chỉnh giảm.
Nói chung nếu áp lực lên tỷ giá không được ngăn chặn bởi sự giảm bớt tăng
cung tiền và tín dụng sẽ khó lòng giải quyết được các bế tắc hiện tại của thị trường
tín dụng và hệ thống lãi suất để khai thông cho các thị trường chứng khoán và nhà
đất cũng như của cả nền kinh tế năm 2011. Chưa kể là tỷ giá của VNĐ nếu lại vượt
quá xa mức tâm lý 21.000 đồng/USD có thể làm niềm tin của dân cư, nhất là giới


đầu tư, sa sút và có thể tạo ra các thiệt hại tài chính lớn hơn nhiều do dòng xoáy
lạm phát tỷ giá gây ra.
Việc thay đổi tỷ giá cũng có tác động tới lãi suất USD. Nhìn lại lần tăng giá
ngày 18/8/2010. sau khi tỷ giá USD/VNĐ liên ngân hàng tăng thêm 2.09%, tỷ giá
ngoại tệ các NH tăng hết biên độ cho phép 3% cán mức 19.500 đồng/USD, lập tức
lãi suất USD của một số NH bắt đầu tăng theo tỷ giá. Tình hình tương tự khi tỷ giá
mới được công bố (2/2011), tuy nhiên điều này làm cho thị trường sẽ dần ổn định,
nguồn cung USD sẽ thông thoáng hơn. Thực tế khi tăng lãi suất đã là hỗ trợ giá trị
tiền đồng, trong khi lượng ngoại tệ đang được nắm giữ trong người dân và doanh
nghiệp được cho là khá lớn, việc thu hút ngoại tệ này đưa vào lưu thông trên thị
trường sẽ giải tỏa lớn căng thẳng ngoại tệ như hiện nay. Chính vì vậy, khi giá trị
tiền đồng được ổn định, lãi suất tiền gửi hấp dẫn thì lượng lớn ngoại tệ trên sẽ được
cung ra thị trường để nắm giữ tiền đồng, mục tiêu ổn định tỷ giá, thỏa mãn nguồn
ngoại tệ phục vụ thanh toán quốc tế. Doanh nghiệp sẽ mạnh tay bán USD rồi gửi
tiết kiệm bởi lãi suất tiền gửi VNĐ lên đến 14%/năm, cao hơn lãi suất USD 8%
năm (hiện tại lãi suất tiết kiệm USD cao nhất 6% năm). Từ đó nguồn cung USD lẫn

huy động vốn bằng VNĐ của các NH sẽ tăng lên. Mặt khác tỷ giá được điều chỉnh
phù hợp với diễn biến thị trường kích thích vốn đầu tư nước ngoài đổ vào Việt
Nam, tăng thêm nguồn vốn USD.
Có thể thấy rằng lãi suất là công cụ giúp nhà quản trị tài chính dự đoán và xác
định tỷ giá trong tương lai để hoạch định chiến lược phòng chống rủi ro và chiến
lược kinh doanh hiệu quả. Lãi suất đóng vai trò quan trọng trên thị trường hối đoái
bởi vì các khoản tiền gửi lớn được buôn bán tại đó đều được trả lãi, mỗi khoản có
một lãi suất, tùy theo đồng tiền mà nó được định danh.
Lợi tức của các khoản tiền gửi được mua bán trên thị trường hối đoái phụ
thuộc vào lãi suất và các thay đổi dự kiến của tỷ giá hối đoái. Sự cân bằng thị
trường hối đoái đòi hỏi sự ngang bằng về về tiền lãi, điều kiện mà theo đó lợi tức
dự kiến của các khoản tiền gửi của hai loại tiền bất kỳ là tương đương thì được đo
bằng một loại tiền (nghĩa là đo bằng các đơn vị có thể so sánh với nhau được). Chỉ
khi tất cả các tỷ suất lợi tức dự kiến đều bằng nhau, tức là khi đó điều kiện ngang


bằng tiền lãi, thì sẽ không có tính trạng dư cung về một số dạng tiền gửi nào đó và
cũng không có tính trạng dư cầu về một số loại tiền gởi khác. Thị trường hối đoái
sẽ cân bằng khi một loại tiền gửi nào đó ở trong tình trạng dư cầu hoặc dư cung. Do
vậy, có thể nói rằng thị trường hối đoái sẽ cân bằng khi có điều kiện ngang bằng về
tiền lãi.
3.5 Tỷ giá với tính trạng đô la hóa:
Đô la hóa là tình trạng mà tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ chiếm trên 30%
trong tổng khối tiền tệ mở rộng bao gồm: tiền mặt trong lưu thông, tiền gửi không
kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi ngoại tệ.
Đô la hóa tác động đến việc hoạch định và thực thi chính sách tỷ giá. Đô la
hoá có thể thực thi chính sách tỷ giá. Đô la hoá có thể làm cho cầu tiền trong nước
không ổn định, do người dân có xu hướng chuyển từ đồng nội tệ sang đô la Mỹ,
làm cho cầu của đồng đô la Mỹ tăng mạnh gây sức ép đến tỷ giá. Khi các đối thủ
cạnh tranh trên thị trường thế giới thực hiện phá giá đồng tiền, thì quốc gia bị đô la

hoá sẽ không còn khả năng để bảo vệ sức cạnh tranh của khu vực xuất khẩu thông
qua việc điều chỉnh lại tỷ giá hối đoái.
Việc biến động tỷ giá hối đoái có nhiều nguyên nhân, một trong những
nguyên nhân ấy gắn với tính trạng đô la hóa ở nước ta hiện nay. Mặc dù chính phủ
theo đuổi chính sách quản lý ngoại hối theo định hướng nhất quán: Trên thị trường
Việt Nam chỉ giao dịch bằng đồng Việt Nam. Nhưng thực tế, ngoại tệ và vàng được
sử dụng khá phổ biến như các phương tiện thanh toán trong giao dịch mua bất động
sản, hàng háo đắt tiền, va, trở nợ, cất trữ. Những hàng hóa này thường là những
hàng hóa mà doanh nghiệp Việt Nam phải nhập khẩu toàn bộ hoặc nhập khẩu từng
linh kiện nên giá của chúng hoàn toàn phụ thuộc vào USD, để tránh rủi ro tỷ giá
cho mình, các doanh nghiệp buộc phải niêm yết bằng USD. Mỗi khi có biến động
về tỷ giá thì các ngoại tệ, nhất là USD gia tăng vai trò trên thị trường.
Ngày 11/2/2011 vừa qua, ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tỷ giá bình quân
liên ngân hàng lên mức 20.693VNĐ/USD và thu hẹp biên độ giao dịch giao động


3% xuống 1%. Đồng thời, Ngân hàng nhà nước đang điều hành tỷ giá bình quân
liên ngân hàng tương đối trong thời gian gần đây.
Việc điều chỉnh tỷ giá này lập tức có hiệu ứng với thị trường tự do, nâng giá
bán USD lên mức 21.350 – 21.500VNĐ/USD (11/2/2011). Sự điều chỉnh tỷ giá
cũng ít nhiều tạo xung lực tăng giá vàng trong nước.. Cùng với sự biến động USD,
giá vàng tăng gần 200.000 đồng mỗi lượng, tuy vậy thời gian sau đó giá vàng trong
nước giảm nhẹ theo xu hướng giá vàng thế giới.
Quá trình kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá thành công là một tiền đề
cần thiết để Việt Nam có được một cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt hơn. Với sự mở
cửa của khu vực tài chính trong những năm tới. và sự tự do hoá giao dịch tài khoản
vốn, việc đạt được mục tiêu kiềm chế và đẩy lùi tình trạng đô la hoá là việc làm rất
khó khăn. Muốn làm được cần phải có thời gian và có quyết tâm cao. Điều quan
trọng là những mặt tích cực mang lại lợi ích của hiện tượng đô la hoá trên thị
trường Việt Nam không bị xoá bỏ, nó tồn tại đan xen trong cơ chế thị trường mở

cửa và hội nhập, được sử dụng như một giải pháp bổ sung trong chính sách tiền tệ
tích cực của đất nước trong giai đoạn mới, còn những mặt tiêu cực của đô la hoá thì
cần phải được kiềm chế, đẩy lùi và xoá bỏ. Ngoại tệ có vai trò rất lớn trong ổn định
và phát triển nền kinh tế, tuy nhiên ngoài những tác động tích cực thì nó còn có
những tác động xấu tới nền kinh tế. Chính vì thế cần có các giải pháp kiềm chế và
đẩy lùi tình trạng đô la hoá để có thể tận dụng được mặt tích cực và hạn chế những
tiêu cực. Để làm được điều đó cần phải có chiến lược phát huy sức mạnh đồng nội
tệ nhất la trong thời kỳ hội nhập quốc tế.
3.6. Tỷ giá với tâm lý số đông.
Nhân tố cuối cùng và cũng là nhân tố quan trọng nhất tác động đến tỷ giá hối
đoái là tâm lý số đông. Người dân, các nhà đầu cơ, các ngân hàng và các tổ chức
kinh doanh ngoại tệ là các nhân tố trực tiếp giao dịch trên thị trường ngoại hối.
Hoạt động mua bán của họ tạo nên cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Các hoạt động
đó lại bị chi phối bởi yếu tố tâm lý, các tin đồn cũng như các kỳ vọng về tương lai.
Điều này giải thích tại sao, giá ngoại tệ hiện tại lại phản ánh các kỳ vọng của dân


chúng trong tương lai. Nếu mọi người kỳ vọng rằng tỷ giá hối đoái sẽ tăng trong
tương lai, mọi người đổ xô đi mua ngoại tệ thì tỷ giá sẽ tăng ngay trong hiện tại.
Mặt khác giá ngoại tệ rất nhạy cảm với những thông tin cũng như các chính sách
của chính phủ. Nếu có tin đồn rằng chính phủ sẽ hỗ trợ xuất khẩu, hạn chế nhập
khẩu để giảm thâm hụt thương mại mọi người sẽ đồng loạt bán ngoại tệ và tỷ giá
hối đoái sẽ giảm nhanh chóng. (Khi thâm hụt thương mại giảm, thì cầu về USD
giảm, giá USD sẽ giảm trong tương lai).
Việc điều chỉnh giá vào tháng 2/2011 về sát với thị trường tự do sẽ khiến
người dân và doanh nghiệp có ngoại tệ sẽ mạnh tay bán ngoại tệ cho ngân hàng.
Trước đây bán 100USD cho ngân hàng thiệt hơn vì tỷ giá thấp hơn thị trường tự do,
nay chênh lệch chỉ còn vài chục ngàn đồng nên người có ngoại tệ đỡ thiệt hơn. Nếu
có thể hi vọng ngân hàng sẽ mua được nhiều ngoại tệ hơn. Bằng việc kéo tỷ giá sát
với thị trường, tâm lý kỳ vọng đồng nội tệ mất giá sẽ được giải quyết, từ đó nhu cầu

ảo mua để găm giữ ngoại tệ sẽ giảm bớt làm giảm sức ép lên quan hệ cung cầu
ngoại tệ. Cung cầu cân bằng hơn, tính thanh khoản ngoại tệ tăng lên, thị trường
ngoại hối sẽ ổn định hơn. Trong quý 4/2010, do chênh lệch tỷ giá chính thức và thị
trường tự do tới 10% đã phát sinh tình trạng 2 tỷ giá trong các ngân hàng thương
mại. Doanh nghiệp có nhu cầu mau ngoại tệ đã không thể mua được theo tỷ giá
chính thức mà phải nhận thêm chi phí để có được ngoại tệ. Tính ra cũng sát với thị
trường tự do nhưng khoản chi phí phát sinh lại không được hạch toán vào đâu. Việc
kéo tỷ giá chính thức sát với thị trường lần này đã giúp cho việc mua bán ngoại tệ ở
ngân hàng minh bạch hơn, lành mạnh hơn. Với việc điều chỉnh lần này, ít nhất tỷ
giá USD/VNĐ sẽ ổn định trong một thời gian.
Hơn nữa, việc thay đổi tỷ giá theo hướng giá trị đồng nội tệ hạ thấp sẽ khuyến
khích dòng vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp đổ vào Việt Nam, giúp cải
thiện trước mắt cán cân thanh toán quốc gia. Khi cán cân thương mại được cải thiện
do tỷ giá ngoại tệ cao hơn hỗ trợ xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, cùng với cán cân
thanh toán vững lên sẽ củng cố dự trữ ngoại tệ quốc gia, từ đó tạo nên yếu tố tâm lý
cũng như kỹ thuật ổn định giá trị đồng nội tệ của Việt Nam.



PHẦN BA:

KẾT LUẬN
Trong bối cảnh nền kinh tế có rất nhiều thay đổi, biến động liên tục thì tỷ
giá luôn thay đổi và bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố và ngược lại tỷ giá cũng tác
động lên nhiều yếu tố kinh tế. Việc ổn định và duy trì tỷ giá là một việc chính
phủ ưu tiên hàng đầu cho ổn định kinh tế vĩ mô.
Việc biến động tỷ giá đã có nhũng tác động trực tiếp đên lãi suất, lạm phát,
ảnh hưởng đến cán cân thương mại, tình hình đầu tư nước ngoài, tâm lý số đông
và cuối cùng là tình trạng đô la hóa. Sự ảnh hưởng này một phần có những tác
dụng và ưu điểm nhằm kích thích sự phát triển khi ở mức vừa phải. Tuy nhiên,

khi tỷ giá tác động tốt lên lãi suất thì sẽ ảnh hưởng đến ngược lại về lạm
phát….chính vì thế để kinh tế phát triển thì việc kịp thời trong mỗi thời điểm
đưa ra quyết dịnh có tác động vô cùng to lớn.
Do thời gian nghiên cứu có giới hạn cũng như kiến thức và kinh nghiệm còn
nhiều hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình làm bài,
nên rất mong nhận được sự góp ý của T.S Bùi Thị Minh Tiệp giảng dạy bộ môn.

Em xin chân thành cảm ơn!
HỌC VIÊN


Danh mục tài liệu tham khảo.
www.tapchingaanhang.com
www.tinkinhte.com
www.vef.com
www.tapchitaichinh.vn
www.saga.vn
Giáo trình nguyên lý kinh tế học vi mô – Đại học kinh tế quốc dân
Giáo trình nguyên lý kinh tế học vĩ mô – Đại học kinh tế quốc dân.
Giáo trình nghiệp vụ ngân hàng Trung Ương – Đại học kinh tế quốc dân.
Sách các phương pháp phân tích và dự báo trong kinh tế - Nhà xuất bản
khoa học và kỹ thuật.



×